Các hình thức của kinh nghiệm tôn giáo
Năm 1901, William James giáo sư đại học Harvard đến giảng ở University of Edinburgh. Khóa giảng gồm 20 bài, sau đó được xuất bản thành sách dưới cái tên The Varieties of Religious Experience. Ở đây, James tìm cách nhìn nhận tôn giáo hoàn toàn từ quan điểm tồn tại, tức là từ kết quả chứ không phải gốc rễ (và James khẳng định gốc rễ là cái không thể nhìn trực tiếp, nói cách khác, chỉ có thể thấy cái được chiếu sáng chứ không bao giờ thấy được nguồn sáng). Kết quả ấy là sự tiến bộ trong thực hành - tính hợp lý về mặt triết học và sự hữu ích về mặt đạo đức.
Về cơ bản, William James muốn thực hiện, trong tôn giáo, một nghiên cứu tâm lý về hiện tượng thiên tài: câu hỏi mà những tinh thần lớn thời ấy, chẳng hạn ông em Henry James, đặt ra trong nghệ thuật.
Dưới đây là bài giảng đầu tiên.
Tôn giáo và thần kinh học
Với một niềm run sợ không nhỏ, tôi bước vào vị trí phía sau bàn này và đối diện với một hội trường học giả đáng kính. Đối với chúng tôi, những người Mỹ, việc được nhận sự chỉ dẫn từ các học giả châu Âu, không chỉ qua sách vở mà còn qua lời giảng trực tiếp, đã quá quen. Tại trường Đại học Harvard của tôi, không mùa đông nào trôi qua mà không có thu hoạch, phong phú hay sơ sài, những bài giảng từ các nhân vật khoa học hay văn chương đại diện cho Scotland, Anh, Pháp, Đức, những người mà chúng tôi hoặc mời qua đại dương để diễn thuyết hoặc nắm lấy cơ hội khi họ ghé thăm đất nước chúng tôi. Chúng tôi lắng nghe còn người châu Âu nói đã trở nên thật tự nhiên. Điều ngược lại - chúng tôi diễn thuyết còn người châu Âu lắng nghe, chúng tôi vẫn chưa thực sự quen; và đối với người đầu tiên mạo hiểm thử làm việc này, tôi thấy có lẽ một lời xin lỗi là cần thiết cho hành động táo gan như vậy. Điều này đặc biệt đúng trên vùng đất thiêng liêng trong hình dung của người Mỹ như Edinburgh. Sự kỳ vĩ của chiếc ghế giảng triết tại trường đại học này đã in sâu vào trí tưởng tượng của tôi từ thuở nhỏ. Những bài luận triết học của Giáo sư Fraser, lúc đó vừa được xuất bản, là cuốn sách triết học đầu tiên mà tôi được xem qua, và tôi vẫn nhớ cảm giác kinh ngạc của mình khi đọc về phòng giảng của Ngài William Hamilton trong đó. Chính các bài giảng của Hamilton là tác phẩm triết học đầu tiên tôi ép mình phải học, và sau đó tôi đã say mê Dugald Stewart và Thomas Brown. Những niềm tôn kính từ niên thiếu như thế không bao giờ phai mờ; và tôi thú nhận rằng việc từ vùng hoang dã quê nhà được thăng lên vị trí chính thức tại đây, được xem là đồng nghiệp tạm thời của những cái tên sáng chói ấy giống như lạc vào chốn thần tiên hơn là thực.
Nhưng từ khi nhận được vinh dự bổ nhiệm này, tôi cảm thấy việc từ chối là không thể chấp nhận. Học thuật cũng có những nghĩa vụ anh hùng của nó, vì vậy tôi đứng đây mà không cần thêm một câu tự hạ thấp nào. Tôi chỉ xin nói rằng từ khi dòng chảy bắt đầu xoay từ phương Tây sang phương Đông, ở đây và tại Aberdeen, tôi hy vọng nó sẽ tiếp tục. Theo năm tháng, tôi mong rằng sẽ có nhiều đồng hương của tôi được mời giảng dạy tại các trường đại học Scotland, đổi chỗ với người Scotland giảng dạy ở Hoa Kỳ; tôi hy vọng rằng trong những vấn đề cao quý này, chúng ta sẽ trở thành một dân tộc duy nhất; và rằng tính khí triết học đặc trưng cũng như tính khí chính trị đặc trưng gắn liền với ngôn ngữ Anh của chúng ta sẽ ngày càng lan rộng trên thế giới.
***
Về phương thức diễn giảng, tôi không phải là nhà thần học, cũng không phải là học giả uyên bác về lịch sử tôn giáo, cũng không phải là nhà nhân chủng học. Tâm lý học là lĩnh vực duy nhất tôi đặc biệt thông thạo. Đối với nhà tâm lý học, xu hướng tôn giáo của con người ít nhất phải gây hứng thú như bất kỳ sự kiện nào khác liên quan đến cấu tạo tinh thần của anh ta. Vì vậy, có vẻ như điều tự nhiên đối với tôi, với tư cách là một nhà tâm lý học, là mời các bạn tham gia một cuộc khảo sát mang tính mô tả về các khuynh hướng tôn giáo của con người.
Nếu cuộc nghiên cứu thuộc lĩnh vực tâm lý học, đối tượng cần quan tâm không phải là các thiết chế tôn giáo mà là các tình cảm và xung động tôn giáo, và tôi phải giới hạn mình trong những hiện tượng chủ quan phát triển đầy đủ được ghi nhận trong các tài liệu để lại bởi những người đã đạt được sự tự ý thức đầy đủ và sáng rõ, các tác phẩm của lòng mộ đạo và tự truyện. Dẫu điểm khởi đầu và các giai đoạn sơ khai trong sự phát triển của một chủ thể có hấp dẫn đến đâu, ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận ra ý nghĩa đầy đủ trong những hình thức cao hơn, hoàn hảo hơn của nó. Do đó, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu các tài liệu của những người đã đạt đến bậc tu luyện cao nhất trong đời sống tôn giáo và có khả năng trình bày sáng sủa hơn cả về các ý và động cơ của mình. Lẽ dĩ nhiên, những người này hoặc là những nhà văn tương đối hiện đại, hoặc là các tác giả của những công trình đã trở thành kinh điển về tôn giáo. Ta sẽ thấy, các documents humains[1] gợi mở nhất không nhất thiết chỉ có thể tìm thấy ở những nẻo vắng của sự uyên bác - chúng nằm rải rác dọc các con đường lớn đã nhiều người lại qua; và tình trạng này, hệ quả tất yếu của vấn đề chúng ta quan tâm, cũng hết sức phù hợp với sự thiếu thốn kiến thức thần học ở giảng viên của các bạn. Tôi có thể lấy các trích dẫn, các câu và trường đoạn bộc bạch từ những cuốn sách mà hầu hết các bạn từng đọc qua, nhưng điều này sẽ không ảnh hưởng gì đến giá trị kết luận của tôi. Đúng là sau này sẽ có những độc giả và những nhà thám hiểm táo bạo hơn diễn giảng ở đây, họ có thể khai quật được từ các kệ thư viện những tài liệu sẽ gây hứng thú và tò mò hơn những gì tôi sử dụng. Tuy nhiên, tôi không chắc rằng việc nắm được những tài liệu mới lạ sẽ nhất thiết đưa anh ta tới gần hơn cốt lõi của vấn đề.
Câu hỏi, Khuynh hướng tôn giáo là gì? và câu hỏi, Ý nghĩa triết học của chúng là gì? thuộc hai trật tự hoàn toàn khác nhau theo logic; và, vì việc không hiểu rõ điều này có thể gây nhầm lẫn, tôi muốn đào sâu điểm này một chút trước khi chúng ta đi vào các tài liệu mà tôi đã đề cập.
Trong những cuốn sách gần đây về logic, người ta phân biệt hai trật tự của mọi nghiên cứu. Các câu hỏi thuộc trật tự thứ nhất: yếu tính của nó là gì? nó xảy ra như thế nào? cấu tạo, nguồn gốc và lịch sử của nó là gì? Các câu hỏi thuộc trật tự thứ hai: tầm quan trọng, ý nghĩa, và vai trò của nó trong tồn tại là gì? Câu trả lời cho các câu hỏi thuộc trật tự thứ nhất được đưa ra trong một nhận định hoặc mệnh đề tồn tại. Câu trả lời cho câu hỏi thứ hai là một mệnh đề giá trị, mà người Đức gọi là Werthurtheil, hoặc nếu thích, chúng ta có thể gọi đó là một đánh giá thuộc tinh thần. Hai loại đánh giá này không thể được diễn dịch trực tiếp từ nhau. Chúng xuất phát từ những tiền đề tư duy khác nhau, và trí óc chỉ kết hợp chúng bằng cách tách riêng chúng trước rồi sau đó ghép chúng lại với nhau.
Trong vấn đề tôn giáo, phân biệt hai trật tự này đặc biệt dễ dàng. Hiện tượng tôn giáo nào cũng có lịch sử và quá trình phát triển từ tiền thân tự nhiên. Cái mà ngày nay người ta gọi là phê bình Kinh thánh bậc cao chỉ là việc nghiên cứu Kinh thánh từ quan điểm của tồn tại, công việc trước kia giáo hội đã lơ là. Các soạn giả Kinh thánh đã thực hiện những đóng góp của họ trong những điều kiện tiểu sử nào? Và chính xác thì trong đầu từng cá nhân, điều gì đã thực sự diễn ra khi họ phóng ra những lời đó? Đây rõ ràng là các câu hỏi về thực tế lịch sử, và thật khó tin rằng việc trả lời chúng có thể giúp xác quyết ngay một vấn đề phức tạp hơn: một văn bản với cách thức đi vào tồn tại cụ thể và xác định như vậy có thể soi sáng gì cho chúng ta về sự sống và về khải ngộ? Để trả lời vấn đề thứ hai này, chúng ta phải có sẵn trong đầu một dạng lý thuyết tổng quát về những điểm đặc thù có khả năng khiến điều gì đó có giá trị đối với mục đích khải ngộ, và tôi gọi lý thuyết này là đánh giá tinh thần. Kết hợp nó với đánh giá tồn tại, chúng ta có thể suy ra một đánh giá tinh thần khác về giá trị của Kinh thánh. Nếu lý thuyết của chúng ta định rằng để có giá trị khải ngộ, một cuốn sách nhất thiết phải được viết một cách tự động hoặc không có ý muốn tự do của người viết, hoặc không được có sai sót về mặt khoa học và lịch sử, không mang các dục vọng cá nhân hay cục bộ, giá trị của Kinh thánh hẳn sẽ không được đánh giá cao. Nhưng nếu, ngược lại, lý thuyết của chúng ta cho phép một cuốn sách vẫn có thể là khải ngộ bất chấp những sai sót và dục vọng cùng sự viết có chủ ý của con người, miễn rằng nó là một ghi chép chân thực các kinh nghiệm nội giới của những tinh thần lớn khi vật lộn với những khủng hoảng của số phần mình, khi đó đánh giá của chúng ta về Kinh thánh hẳn sẽ khả quan hơn. Các bạn có thể thấy, các dữ kiện thuộc về tồn tại tự chúng không đủ để xác định giá trị; và những người sáng suốt nhất trong lĩnh vực phê bình Kinh thánh bậc cao do đó không bao giờ lẫn lộn vấn đề thuộc về tồn tại và vấn đề thuộc về tinh thần. Cùng một kết luận về dữ kiện thực tế có thể đưa đến những quan điểm khác nhau về giá trị khải ngộ của Kinh thánh, tùy thuộc vào các đánh giá tinh thần khác nhau về những gì được coi là nền tảng của giá trị.
Tôi đưa ra những nhận xét chung này về hai loại đánh giá vì có nhiều người theo tôn giáo - có thể một số bạn ở đây cũng thuộc nhóm này - vẫn chưa thực sự quen sự phân biệt này và do đó hẳn sẽ cảm thấy ít nhiều bỡ ngỡ khi phải xem xét các hiện tượng của kinh nghiệm tôn giáo hoàn toàn từ quan điểm tồn tại như trong các bài giảng tiếp theo đây. Khi tôi xử lý chúng dưới góc độ sinh học và tâm lý học, như thể chúng chỉ là những sự kiện thú vị trong lịch sử cá nhân, một số bạn có thể nghĩ rằng điều này làm giảm giá trị của một chủ đề cao đến vậy, và thậm chí có thể nghi ngờ rằng tôi cố tình hạ thấp khía cạnh tôn giáo của đời sống, cho đến khi mục đích của tôi được trình bày rõ ràng hơn.
Điều này tất nhiên hoàn toàn khác xa ý định của tôi; và vì một định kiến như vậy từ phía các bạn sẽ cản trở nghiêm trọng tác động của phần lớn những gì tôi sẽ trình bày, tôi phải dành thêm vài lời cho vấn đề này.
Không thể phủ nhận rằng trên thực tế, sự truy cầu chuyên nhất đời sống tôn giáo có xu hướng khiến con người trở nên khác thường và lập dị. Ở đây tôi không nói đến các tín đồ tôn giáo thông thường, những người chỉ tuân theo thông lệ của nước mình, dẫu đó là Phật giáo, Cơ đốc giáo hay Hồi giáo. Tôn giáo của anh ta đã được xác lập từ trước bởi những người khác, được truyền lại cho anh ta nhờ truyền thống, được quy vào những hình thức cố định thông qua việc bắt chước và được giữ lại theo thói quen. Sẽ chẳng có ích gì nếu chúng ta nghiên cứu đời sống tôn giáo thứ cấp này. Chúng ta phải nghiên cứu những kinh nghiệm nguyên ủy đã tạo khuôn cho tất cả những tình cảm được gợi ý và những hành vi bắt chước ấy. Những kinh nghiệm như thế chỉ có thể tìm thấy ở những cá nhân mà tôn giáo không phải là một thói quen buồn tẻ mà là một cơn sốt cấp tính. Những người như vậy là "thiên tài" trong lĩnh vực tôn giáo; và như nhiều thiên tài khác - những kẻ đã đưa đến những thành quả có tác động đủ sâu rộng để được vinh danh trong nhiều trang tiểu sử, ở những thiên tài tôn giáo như vậy thường xuất hiện các triệu chứng thần kinh bất ổn. Thậm chí có lẽ nhiều hơn mọi loại thiên tài khác, các lãnh tụ tôn giáo thường có khuynh hướng kinh nghiệm các hiện tượng tâm lý bất thường. Họ là những tạo vật được phú cho cảm năng quá nhạy. Thường thì họ có một đời sống nội tâm nhiều mâu thuẫn và ít nhất trong một phần đời đã trải qua một giai đoạn u uất triền miên. Họ không biết chừng mực và luôn lao vào những ám ảnh cùng những ý ngoan cố vô biên; và thường xuyên họ rơi vào trạng thái xuất thần, nghe thấy các giọng, nhìn thấy các linh ảnh, và có đủ biểu hiện kỳ quái thường bị xếp vào triệu chứng bệnh lý. Thêm vào đó, thông thường, chính những đặc điểm có vẻ bệnh lý này lại góp phần mang đến cho họ uy quyền và ảnh hưởng tôn giáo.
Nếu cần một minh họa cụ thể, hẳn không ví dụ nào tốt hơn trường hợp George Fox. Quaker do ông thành lập là một tôn giáo không thể ca ngợi quá lời. Sinh ra giữa thời đại giả dối, đó là tôn giáo của sự chân xác bắt rễ từ nội tâm tinh thần và là sự trở về với điều gì đó giống với chân lý Phúc Âm nguyên thủy hơn bất kỳ điều gì con người từng biết ở nước Anh. Khi các giáo phái Cơ đốc giáo ngày nay dần đi tới sự khoan đại tự do, họ thực chất chỉ đang tìm về đúng những gì Fox cùng những người Quaker đầu tiên đã làm từ lâu. Không ai có thể vờ rằng Fox có bất cứ hạn chế gì về năng lực và sự sáng suốt. Tất cả những người từng tiếp xúc với ông, từ Oliver Cromwell cho đến các quan tòa hạt và quản ngục, dường như đều phải thừa nhận năng lực vượt trội của ông. Song, về cấu tạo thần kinh, Fox có thể được xếp vào dạng bệnh nhân tâm lý hoặc détraqué[2] dạng trầm trọng nhất. Nhật ký của ông ngập tràn những đoạn như sau:
“Khi đang đi dạo cùng vài người bạn, tôi ngẩng đầu lên và thấy ba đỉnh tháp nhà thờ. Chúng xuyên thẳng vào ruột gan tôi. Tôi hỏi họ đó là đâu? Họ nói, Lichfield. Tức thì lời của Chúa đến với tôi, tôi chỉ còn cách tuân theo đến đó. Tới ngôi nhà chúng tôi đã định đến thăm ngày hôm đó, tôi bảo những người bạn vào trong, không nói mình sẽ đi đâu. Ngay sau khi họ đi, tôi tiếp tục bước và thấy lướt qua trước mắt cơ man những hàng rào và kênh rạch cho tới khi chỉ còn cách Lichfield một dặm; ở đó, trên một cánh đồng bao la, những người chăn cừu đang giữ bầy chiên. Liền đó, Chúa lệnh cho tôi cởi giày. Tôi đứng lặng vì trời đã sang đông, nhưng lời Chúa bừng trong tôi như lửa đốt. Cuối cùng, tôi trút bỏ giày, để lại chúng cho những người chăn chiên, và những con người nghèo khổ ấy run lên vì kinh ngạc. Tôi tiếp tục đi bộ khoảng một dặm, và ngay khi vào đến thành phố, lời của Chúa lại đến với tôi, lệnh rằng: Hãy kêu lên, 'Ôi thành Lichfield đẫm máu! ' Vì vậy, tôi đi khắp các con phố, vừa đi vừa la to, Ôi thành Lichfield đẫm máu! Hôm đó là ngày họp chợ, tôi vào khu chợ, đi khắp các khu, đến đâu cũng dừng và tiếp tục la lên, Ôi thành Lichfield đẫm máu! Nhưng không ai tìm cách ngăn tôi lại. Khi tôi vừa đi vừa la khóc khắp các phố, dường như xuất hiện một dòng máu chảy suốt các đường ngang ngõ dọc, và khu chợ hiện ra là một vũng máu khổng lồ. Sau khi đã trút hết ruột gan và nhìn thấy mình một cách rõ ràng, tôi rời thành trong thanh thản; trở lại chỗ những người chăn cừu, tôi đưa cho họ ít tiền và lấy lại giày của tôi. Nhưng ngọn lửa của Chúa đã thiêu đốt chân tôi và khắp thân thể tôi, tới nỗi việc mang giày lại không còn quan trọng nữa; tôi chần chừ chưa biết có nên mang giày vào hay không cho đến khi tôi cảm thấy Chúa cho phép mình làm vậy: và như thế, sau khi rửa chân sạch sẽ, tôi đi lại giày. Sự việc này khiến tôi băn khoăn rất lâu vì sao mình lại được lệnh đi kêu khóc ở thành phố ấy và gọi nó là Tòa thành đẫm máu! Dù quốc hội nắm quyền một thời gian và nhà vua một thời gian khác, dù nhiều máu đã đổ ở thành này trong các cuộc chiến tranh giữa họ, ở đây mọi sự cũng không tệ hơn nhiều nơi. Nhưng sau đó tôi hiểu ra rằng dưới thời Hoàng đế Diocletian, một ngàn người Cơ đốc đã tử đạo ở Lichfield. Vì vậy, tôi phải đi chân không qua các con đường ngập máu của họ, đi vào vũng máu khổng lồ ở chợ để có thể tưởng niệm máu của những người tử đạo đã đổ ở đây trên ngàn năm trước, những người nằm lạnh lẽo trên từng con phố. Chính vì lẽ ấy, cảm giác về máu đã tràn đến với tôi và tôi tuân theo lời của Chúa đến đây.”
Với mục đích nghiên cứu các điều kiện thuộc về tồn tại của tôn giáo, chúng ta không thể bỏ qua những khía cạnh bệnh lý này. Chúng ta phải miêu tả và gọi tên chúng đúng như khi chúng xuất hiện ở người không tôn giáo. Đúng là theo bản năng, ta thường không muốn thấy trí năng xử lý một đối tượng mà ta đã dành nhiều tình cảm hệt như cách nó xử lý các đối tượng bất kỳ khác. Việc đầu tiên trí năng làm với một đối tượng là xếp loại nó, đặt nó trong tương quan với các đối tượng khác. Nhưng bất kỳ đối tượng nào có tầm quan trọng vô hạn đối với chúng ta và đã đánh thức được ở ta sự chú tâm tận tụy, ta đều thấy như thể nó là sui generis[3] và độc nhất. Có lẽ đến một con cua cũng sẽ thấy phẫn nộ nếu nó có thể nghe thấy ta xếp nó vào hàng động vật giáp xác và cho thế là xong - không buồn giải thích thêm. “Tôi không phải là như thế," nó hẳn sẽ nói; "Tôi là chính tôi, là một, là riêng, là duy nhất."
Việc tiếp theo trí năng làm là vạch trần các nguyên nhân phát sinh của đối tượng. Spinoza nói: “Tôi sẽ phân tích các hành động và ham muốn của con người như thể đó là các câu hỏi về đường thẳng, mặt phẳng và chất rắn.” Ở một chỗ khác, ông nói mình sẽ xem xét các dục vọng con người cùng các đặc tính của chúng bằng cùng con mắt ông dùng để xem xét các hiện tượng tự nhiên, vì các hệ quả của các tình cảm của chúng ta tuôn chảy từ bản tính của chúng với một sự tất yếu tương tự như việc, hoàn toàn từ bản tính của một tam giác mà ba góc của nó phải bằng hai góc vuông. Tương tự, M. Taine, trong giới thiệu về lịch sử văn chương Anh của mình, đã viết: “Dù là sự vị đạo đức hay sự vị vật chất thì cũng có nguyên nhân. Có nguyên nhân cho tham vọng, lòng dũng cảm, sự trung thực, cũng như có nguyên nhân cho sự tiêu hóa, vận động cơ bắp và nhiệt năng của động vật. Tội lỗi và đức hạnh, cũng như vitriol và đường, đều là sản phẩm của các nguyên nhân cụ thể.” Khi đọc những khẳng định này, trong đó trí năng khăng khăng chỉ ra các điều kiện tồn tại của mọi sự, tuyệt đối không chừa ngoại lệ nào, ta cảm thấy - không kể sự bực bội chính đáng trước sự huênh hoang có phần lố bịch của dự đồ này khi so sánh với những gì các tác giả nói trên thực sự làm được - bị đe dọa và bị phủ nhận trong tận nguồn sâu thẳm nhất của đời sống tinh thần. Ta thấy những phép đồng hóa máu lạnh như vậy đe dọa hủy hoại những bí mật cốt tủy của linh hồn mình, như thể cùng hơi thở giải thích ngọn nguồn của chúng sẽ đồng thời lấy đi ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng, và đối với chúng ta, chúng sẽ trở nên chẳng quý giá hơn những tạp phẩm hữu dụng mà ông M. Taine đã nói.
Có lẽ biểu hiện phổ biến nhất của giả định rằng các giá trị tinh thần sẽ bị hủy hoại nếu chúng bị quy về những nguyên nhân tầm thường có thể thấy ở nhận xét của những người không đa cảm về những người quen mẫn cảm hơn của họ. Alfred tin vào sự bất tử chỉ vì tính anh ta dễ xúc động. Sự tận tâm phi thường của Fanny hoàn toàn là do thần kinh bị kích thích quá mức. Nỗi u sầu của William về vũ trụ là kết quả của chứng khó tiêu - có lẽ vì suy gan. Niềm ham thích của Eliza đối với nhà thờ là triệu chứng của bệnh cuồng trí. Peter sẽ bớt băn khoăn về linh hồn mình nếu chịu khó ra ngoài tập thể dục, v.v. Một ví dụ được phát triển đầy đủ hơn về kiểu lý luận này đã trở thành mốt và ngày nay khá phổ biến ở một số nhà văn; đó là mốt chỉ trích các tình cảm tôn giáo bằng cách quy mọi thứ cho tình dục. Sự cải đạo chẳng là gì ngoài khủng hoảng của tuổi dậy thì và tuổi vị thành niên. Sự khổ hạnh của các thánh và lòng sùng kính của các nhà truyền giáo chỉ là những biểu hiện lệch hướng của bản năng hy sinh trong vai trò cha mẹ. Đối với một nữ tu cuồng loạn, khao khát một cuộc sống tự nhiên, Đức Chúa chỉ là một hình ảnh thay thế cho đối tượng tình yêu trần tục hơn. Và những điều tương tự thế.[4]
Tất cả chúng ta hẳn đều ít nhiều quen thuộc với dạng lý luận này - phương cách hữu hiệu để hạ giá những trạng thái tinh thần mà ta ác cảm. Tất cả chúng ta đều sử dụng nó ở một mức độ nào đó nhằm chỉ trích những người có tinh thần mà ta coi là bị kéo quá căng. Nhưng khi những người khác chỉ trích những cơn ngây ngất bất thường của ta bằng cách tuyên bố chúng "chẳng là gì ngoài" hiện tượng cơ thể, ta liền thấy bị xúc phạm và tổn thương, vì ta biết rằng, bất kể đặc điểm cơ thể của chúng ta ra sao, các trạng thái tinh thần của chúng ta vẫn có giá trị thực, độc lập, với tư cách các khải ngộ về một sự thật sống và ta ước gì toàn bộ thứ vật chất luận y khoa này câm ngay miệng lại.
Vật chất luận y khoa quả thực là một danh xưng thích hợp cho hệ thống tư tưởng đơn giản hóa quá mức mà chúng ta đang xem xét. Vật chất luận y khoa kết liễu Thánh Paul bằng cách gọi khải tượng của ngài trên đường đến Damascus chỉ là một tổn thương ở vỏ não chẩm do bị động kinh. Nó coi Thánh Teresa là người loạn trí, Thánh Francis thành Assisi là người bị thoái hóa do di truyền. Sự bất bình của George Fox đối với những giả dối của thời đại mình và lòng khát khao xác tín tinh thần của ông chỉ là triệu chứng của chứng rối loạn đại tràng. Niềm bi tráng vang động của Carlyle thì bị cho là do viêm tá tràng hành hạ. Theo đó, tất cả những căng thẳng quá độ về mặt tinh thần truy đến tận cùng gốc rễ chỉ là do cấu tạo cơ thể, do hoạt động biến thái của các tuyến khác nhau trên cơ thể mà sinh lý học rồi sẽ truy ra bằng hết.
Và vật chất luận y khoa tin rằng thẩm quyền tinh thần của tất cả những nhân vật này như thế là đã bị phá hủy thành công.[5]
Chúng ta hãy xem xét vấn đề này rộng nhất có thể. Tâm lý học hiện đại, phát hiện ra mối liên hệ keo sơn giữa tâm lý và vật lý, đã nêu ra giả thuyết thuận tiện rằng sự phụ thuộc của trạng thái tinh thần vào điều kiện cơ thể là một sự phụ thuộc triệt để và hoàn chỉnh. Nếu chấp nhận giả thuyết này, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng những gì vật chất luận y khoa khẳng định phải đúng một cách tổng quát, nếu không muốn nói là đúng đến từng chi tiết: Thánh Paul chắc chắn đã từng mắc một chứng bệnh gần giống động kinh nếu không phải đúng là động kinh; George Fox là một người bị thoái hóa di truyền; Carlyle rõ ràng bị tự nhiễm độc một cơ quan nào đó, cơ quan nào không quan trọng; cứ thế mà suy ra các trường hợp khác. Nhưng tôi xin hỏi bạn, làm sao một lý giải như thế về sự tồn tại của các hiện tượng tinh thần có thể soi sáng được giá trị tinh thần của chúng? Theo định đề tổng quát của tâm lý học vừa được đề cập, không có trạng thái tâm lý nào của chúng ta, cao hay thấp, khỏe mạnh hay bệnh tật, không dựa trên điều kiện là một quá trình hữu cơ. Các lý thuyết khoa học, cũng như các tình cảm tôn giáo, đều dựa trên điều kiện hữu cơ và nếu biết đủ sâu các sự vị, ta chắc chắn sẽ thấy trạng thái tinh thần của cả người vô thần cứng rắn và tín đồ Giám lý đau đáu băn khoăn về linh hồn mình được xác định dứt khoát bởi lá gan của họ. Lá gan làm biến đổi dòng máu được lọc qua nó theo các cách khác nhau, từ đó làm nảy sinh hai hình thức tinh thần không giống nhau - người vô thần và tín đồ Giám lý. Theo cùng cách ấy, tất cả những ngây ngất và khô khan, những khao khát và hổn hển, những tra vấn và niềm tin của chúng ta đều được xác lập một cách hữu cơ dẫu chúng thuộc về tôn giáo hay phi tôn giáo.
Theo đó, sẽ thật phi lý và độc đoán khi cứ khăng khăng bám vào nguyên nhân hữu cơ của một trạng thái tâm lý tôn giáo để phủ định giá trị tinh thần của nó, trừ khi trước đó ta đã có sẵn một số lý thuyết tâm lý-vật lý xếp hạng các giá trị tinh thần nói chung theo các dạng biến đổi sinh lý nhất định. Nếu không, sẽ không một suy nghĩ và tình cảm nào của chúng ta, kể cả các học thuyết khoa học, thậm chí cả sự phủ nhận lòng tin [dis-belief] có thể giữ lại chút nào giá trị với tư cách các khải ngộ về sự thật, vì tất cả chúng, không ngoại lệ, đều bắt nguồn từ trạng thái cơ thể của người sở hữu chúng vào thời điểm đó.
Không cần phải nói rằng vật chất luận y khoa thực tế không khăng khăng một kết luận tuyệt đối hoài nghi như vậy. Nó tin chắc, cũng như tất cả những người đầu óc giản đơn tin chắc rằng một số trạng thái tâm lý vượt trội hơn, tiết lộ cho chúng ta nhiều sự thật hơn những trạng thái khác và ở điểm này, nó chỉ đơn giản sử dụng một đánh giá tinh thần thông thường. Nó không có lý thuyết sinh lý học về việc tạo ra những trạng thái nó ưa chuộng, thứ lý thuyết có thể được sử dụng để nâng uy tín những trạng thái ấy; và các cố gắng tìm cách hạ giá những trạng thái mà nó ác cảm bằng cách viện dẫn liên hệ mơ hồ giữa chúng với hệ thống gan phổi và thần kinh, gán cho chúng những cái tên chỉ sự khổ sở về thể xác là hoàn toàn phi lý và thiếu nhất quán.
Chúng ta hãy đánh giá công bằng toàn bộ việc này và trung thực với bản thân cùng các sự vị. Những khi chúng ta thấy rằng một trạng thái tâm lý nào đó vượt trội so với trạng thái khác, liệu có bao giờ nhận định đó dựa trên những gì chúng ta biết về nguyên nhân hữu cơ của chúng hay không? Không! Nhận định của chúng ta luôn dựa trên những lý do khác hẳn: hoặc chúng tức thì cuốn hút chúng ta, hoặc ta tin rằng chúng sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp cho cuộc sống. Khi ta dè bỉu "những huyễn tưởng trong cơn sốt nóng," chắc chắn việc cơ thể lên cơn sốt tự nó không phải là lý do cho sự khinh bỉ của ta - ta biết rõ mọi chuyện có thể hoàn toàn trái ngược: đối với sự nảy mầm của sự thật, khoảng 103, 104 độ Fahrenheit [39 - 40 độ C] có thể là điều kiện thuận lợi hơn nhiều khoảng 97, 98 độ [36 - 37 độ C]. Sự ngờ vực và ác cảm của ta sinh ra hoặc từ sự khó chịu của các huyễn tưởng này hoặc từ việc chúng không trụ nổi trước các phê phán của thời kỳ hồi phục. Khi ta tán dương những suy nghĩ mà trạng thái khỏe mạnh mang lại, các chuyển hóa hóa học đặc thù của trạng thái khỏe mạnh chẳng tác động gì đến đánh giá của ta. Trên thực tế, ta hầu như không biết gì về các chuyển hóa này. Đánh giá tích cực của ta bắt nguồn hoặc từ vẻ hạnh phúc thể hiện trong các suy nghĩ khi khỏe mạnh, hoặc từ sự tương hợp của chúng với quan điểm của chúng ta, việc chúng có thể phục vụ các nhu cầu của chúng ta: chính những điều này khiến ta xem chúng là sự thật.
Nhưng các tiêu chí gần nhất và xa nhất trong số này không phải lúc nào cũng đi đôi với nhau. Hạnh phúc bên trong và sự hữu ích không phải lúc nào cũng tương hợp. Những gì ta thấy là “tốt” nhất một cách tức thì và trực tiếp không phải lúc nào cũng là “đúng” nhất khi được đánh giá dựa trên phần còn lại của kinh nghiệm. Sự khác biệt giữa Philip say và Philip tỉnh là một ví dụ kinh điển của hiện tượng này. Nếu có thể đánh giá hoàn toàn dựa trên việc “cảm thấy tốt” thì say rượu hẳn sẽ là một kinh nghiệm con người chính đáng. Nhưng những khải thị trong trạng thái say, dẫu thỏa mãn nhất thời, lại được đưa vào một hoàn cảnh chỉ dung thứ chúng trong một quãng ngắn ngủi. Hệ quả của khác biệt giữa hai tiêu chí là sự bất định dai dẳng trong mọi đánh giá tinh thần của chúng ta. Có những khoảnh khắc của kinh nghiệm tình cảm và thần bí - sau đây chúng ta sẽ bàn nhiều về chúng - mang đến cảm giác lớn lao về uy quyền và sự soi sáng bên trong. Nhưng không phải ai chúng cũng ghé thăm; thành thử phần còn lại của cuộc sống không có liên hệ nào với chúng hoặc có xu hướng mâu thuẫn nhiều hơn là xác nhận chúng. Trong những trường hợp chúng xảy ra, một số người tuân theo giọng nói của khoảnh khắc, số khác chỉ muốn được các kết quả bình quân dẫn lối. Điều này dẫn đến mâu thuẫn đáng buồn giữa vô vàn các đánh giá tinh thần của con người; chúng ta sẽ xem xét hiện tượng ấy trước khi chuỗi bài giảng kết thúc.
***
Tuy nhiên, dạng mâu thuẫn này không bao giờ có thể được giải quyết bằng các phương thức đánh giá thuần y học. Một ví dụ điển hình về việc đó là giả thuyết về nguyên nhân bệnh lý của thiên tài mà một số tác giả đã đưa ra gần đây. Tiến sĩ Moreau tuyên bố: “Thiên tài chỉ là một trong nhiều nhánh của một cái cây là bệnh thần kinh.” “Thiên tài,” Tiến sĩ Lombroso nói, “là một triệu chứng của sự thoái hóa di truyền dạng động kinh và liên quan mật thiết đến sự thiếu lành mạnh về luân lý”. Ông Nisbet viết: “Khi cuộc đời một con người vừa đủ vinh quang vừa được biết đủ nhiều để trở thành chủ đề cho nghiên cứu thì việc anh ta thuộc một dạng bệnh lý là không tránh khỏi. Có thể đúc kết quy luật rằng càng lắm tài, càng nhiều tật.”[6]
Song các tác giả này, sau khi đã thành công trong việc xác lập một cách thỏa mãn rằng các tác phẩm của thiên tài là kết quả của bệnh tật, có từ đó tiếp tục công kích giá trị của các thành quả này một cách nhất quán không? Họ có, từ lý thuyết mới của mình về các điều kiện tồn tại, thiết lập được một đánh giá tinh thần mới hay không? Họ có quyết liệt cấm chúng ta chiêm ngưỡng những tác phẩm của thiên tài và thẳng thừng tuyên bố rằng không bệnh nhân thần kinh nào có thể là sứ giả của khải ngộ mới hay không?
Không! Ở điểm này, trực giác tinh thần tức thời của họ chợt bùng lên và khiến họ cự lại chính những suy luận mà, dẫu chỉ để tuân theo sự nhất quán logic, vật chất luận y khoa hẳn sẽ không ngại ngần đẩy họ vào. Đúng là một môn đệ của trường phái này đã cố thử phủ nhận sạch trơn giá trị các tác phẩm của thiên tài (cụ thể là các tác phẩm nghệ thuật đương thời vượt quá khả năng thẩm mỹ của anh ta, và có vô số tác phẩm như thế) bằng cách sử dụng lập luận y học.[7] Tuy nhiên, anh ta để yên, không mảy may thách thức hầu hết các kiệt tác; và phương thức tấn công dựa vào y học hoặc tự giới hạn mình trong những sản phẩm thế tục mà về cơ bản ai cũng coi là lập dị hoặc chỉ nhắm vào các biểu hiện tôn giáo. Sự tấn công các biểu hiện tôn giáo dựa vào nguyên nhân y học chỉ diễn ra sau khi bản thân nhà phê bình đã lên án chúng vì lý do tinh thần hoặc vì ác cảm cá nhân.
Trong khoa học tự nhiên và nghệ thuật công nghiệp, không bao giờ có chuyện bác bỏ quan điểm của một tác giả bằng cách công kích tình trạng thần kinh của anh ta. Trong các ngành này, quan điểm luôn được kiểm chứng bằng logic và thực nghiệm, bất kể tình trạng thần kinh của tác giả ra sao. Các quan điểm tôn giáo cũng cần được đánh giá theo cùng cách. Giá trị của chúng chỉ có thể được xác định dựa trên những đánh giá tinh thần trực tiếp sinh ra từ chúng, trước hết theo cảm nhận trực tiếp của chúng ta và sau nữa theo những gì ta có thể xác quyết về mối liên hệ khả nghiệm giữa chúng và các nhu cầu đạo đức của chúng ta cùng tất cả những gì chúng ta coi là sự thật.
Sự sáng rõ tức thì, tức là, nói ngắn gọn, tính hợp lý về mặt triết học và sự hữu ích về mặt đạo đức là những tiêu chí duy nhất ta có thể dựa vào. Kể cả nếu Thánh Teresa có thần kinh của một con bò lành thì điều đó cũng sẽ chẳng cứu nổi thần học của bà nếu cuộc thử thách thông qua các tiêu chí khác cho thấy đó là một quan điểm tôn giáo vô giá trị. Ngược lại, nếu thần học của bà đứng vững trước thử thách của các đánh giá thuộc loại khác thì việc Thánh Teresa từng cuồng trí hay mất thăng bằng về thần kinh khi còn tại thế cũng chẳng có gì quan trọng.
***
Bạn thấy đấy, rốt cuộc chúng ta lại quay về với những nguyên tắc chung mà triết học kinh nghiệm từ lâu vẫn khẳng định rằng ta phải dựa vào để tìm kiếm chân lý. Các hệ thống triết học giáo điều đã từng cố công đi tìm những tiêu chuẩn của chân lý sao cho con người có thể khỏi cần trông cậy vào tương lai: một dấu hiệu trực tiếp nào đó, mà chỉ cần nắm bắt là ta có thể được bảo vệ ngay lập tức và tuyệt đối - bây giờ và mãi mãi - khỏi mọi sai lầm - đó là giấc mơ mọi triết gia giáo điều ôm ấp. Nguồn gốc của chân lý hẳn sẽ là một tiêu chí tuyệt hảo thuộc kiểu đó - nếu như ta có thể phân biệt được các nguồn gốc khác nhau từ chính góc độ này. Lịch sử của các quan điểm giáo điều cho thấy rằng nguồn gốc luôn là một tiêu chuẩn ưa thích: nguồn gốc từ trực giác tức thì; nguồn gốc từ quyền uy giáo hoàng; nguồn gốc từ mặc khải siêu nhiên qua thị kiến, thính giác, hay những ấn tượng không thể giải thích được; nguồn gốc từ sự chiếm hữu trực tiếp của một linh hồn cao hơn thể hiện qua lời tiên tri hay lời cảnh báo; nguồn gốc từ những phát ngôn tự động nói chung - tất cả những nguồn gốc đó đã từng được dùng như những bảo chứng quen thuộc cho chân lý của hết thảy các quan điểm trong lịch sử tôn giáo. Vì thế, những nhà vật chất luận y khoa hiện nay cũng chỉ là những giáo điều gia đến muộn, khéo léo đảo ngược tình thế bằng cách sử dụng tiêu chí nguồn gốc theo hướng phá bỏ thay vì xác lập giá trị.
Những lập luận về nguồn gốc bệnh lý chỉ hiệu quả chừng nào đối phương còn viện dẫn đến nguồn gốc siêu nhiên và cuộc tranh luận chỉ xoay quanh lập luận dựa vào nguồn gốc. Nhưng lập luận nguồn gốc hiếm khi được dùng đơn độc, vì nó quá hiển nhiên là không đủ. Bác sĩ Maudsley có lẽ là người sắc sảo nhất trong số những người phản bác tôn giáo siêu nhiên dựa trên căn cứ nguồn gốc. Thế nhưng, ông vẫn buộc phải viết rằng:
“Chúng ta có quyền gì mà tin rằng Tự nhiên có nghĩa vụ phải thực hiện công việc của mình chỉ thông qua những trí óc hoàn bị? Có thể bà ta lại thấy một trí óc không hoàn bị phù hợp hơn cho một mục đích nào đó. Điều duy nhất quan trọng là công việc được hoàn thành và phẩm chất của người hoàn thành nó; còn từ góc nhìn vũ trụ, có lẽ cũng chẳng phải chuyện lớn lao gì nếu người ấy lại cực kỳ khiếm khuyết ở những mặt khác, nếu chẳng hạn anh ta là kẻ đạo đức giả, ngoại tình, lập dị hay điên loạn... Rốt cuộc, ta lại quay về với chốn nương náu xưa cũ và cuối cùng của xác tín - tức là sự đồng thuận chung của nhân loại, hoặc của những người có năng lực nhờ được dẫn đạo và rèn luyện trong nhân loại.”[8]
Nói cách khác, không phải nguồn gốc, mà là cách một lòng tin vận hành trong tổng thể, mới là tiêu chí sau cùng của bác sĩ Maudsley để đánh giá lòng tin ấy. Đó cũng chính là tiêu chuẩn thực nghiệm mà chúng tôi theo đuổi; và ngay cả những người kiên quyết nhất trong việc khẳng định nguồn gốc siêu nhiên cuối cùng cũng buộc phải viện đến tiêu chuẩn này. Trong số những thị kiến và thông điệp từng được báo mộng, vẫn luôn có những cái quá rõ ràng là ngớ ngẩn; trong số những cơn xuất thần và những cơn co giật, vẫn luôn có những kinh nghiệm quá vô ích cho đời sống đạo đức và hành xử đến mức không thể được xem là có ý nghĩa, chứ đừng nói là thần thánh.
Trong lịch sử của thần bí Cơ đốc, việc làm sao phân biệt những lời phán truyền và kinh nghiệm thực sự là phép màu thần thánh với những thứ giả mạo do quỷ dựng nên, khiến tín đồ chìm sâu gấp đôi vào địa ngục luôn là một vấn đề nan giải, đòi hỏi toàn bộ sự thông thái và kinh nghiệm của những nhà dẫn đạo chân chính. Cuối cùng, mọi chuyện lại quy về tiêu chuẩn kinh nghiệm: Ta biết chúng nhờ quả chứ không nhờ rễ, Chuyên luận về Tình cảm Tôn giáo của Jonathan Edwards là một triển khai công phu của luận điểm này. Gốc rễ của đức hạnh nơi con người là điều không thể chạm tới. Không biểu hiện nào có thể coi là bằng chứng tuyệt đối của ân sủng thần thánh. Thực hành của chúng ta là bằng chứng chắc chắn duy nhất, ngay cả đối với bản thân chúng ta, rằng chúng ta là những Cơ đốc nhân chân chính.
“Trong việc hình thành một đánh giá,“ Edwards viết, chúng ta nhất thiết phải sử dụng bằng chứng mà Thẩm phán tối cao của chúng ta sẽ sử dụng khi đưa mình đến trước Người vào ngày phán quyết... Không có một ân sủng nào của Thánh Linh ở bất kỳ ai xưng mình là tín hữu mà lại không được minh chứng một cách dứt khoát nhất qua thực hành Kitô giáo. Mức độ sản sinh thực hành của kinh nghiệm biểu thị mức độ tinh thần tính và thánh tính của kinh nghiệm ấy.”
Các nhà trứ thuật Công giáo cũng nhấn mạnh chính điểm này. Những chuyển biến tốt đẹp mà một viễn tượng, một giọng nói, hoặc những hiện tượng có vẻ là ân sủng thần thánh để lại nơi ta là dấu hiệu duy nhất ta có thể dựa vào để chắc chắn rằng chúng không phải trò trá ngụy của quỷ. Thánh Teresa nói:
“Giống như giấc ngủ không ngon, thay vì làm đầu óc thêm minh mẫn, chỉ khiến nó mụ mị đi, kết quả của huyễn hoặc hoàn toàn là sản phẩm của tưởng tượng là làm suy yếu linh hồn. Thay vì dưỡng chất và năng lượng, nó chỉ gặt hái được sự chán nản và ghê tởm: ngược lại, một thị kiến thần thánh đích thực mang lại cho nó vụ thu hoạch dồi dào những của cải tinh thần không sao tả xiết và một sự hồi phục sức lực thể xác thật đáng kinh ngạc. Đây là lập luận tôi dùng để đáp lại những người thường xuyên buộc tội các thị kiến của tôi là tác phẩm của kẻ thù nhân loại và là sự tự huyễn của cá nhân tôi... Tôi cho họ xem những món trang sức mà bàn tay thần thánh đã để lại cho tôi: chúng là các chuyển biến thật diễn ra trong tâm tính tôi. Tất cả những người biết tôi đều thấy rằng tôi đã thay đổi; nhân chứng của thực tế này chính là giáo sĩ nghe xưng tội của tôi; sự chuyển biến của tôi, rõ rệt trên mọi phương diện, hoàn toàn không hề bị che giấu, mà hiển hiện rực rỡ trước mắt mọi người. Về phần mình, tôi tuyệt đối không thể tin rằng nếu quỷ là tác giả của chuyển biến này, nhằm khiến tôi sa ngã và dẫn dụ tôi xuống địa ngục, hắn lại sử dụng một thủ đoạn trái ngược đến vậy với lợi ích của hắn, rằng hắn lại muốn nhổ bật rễ các tội lỗi của tôi và lấp đầy tôi bằng lòng can đảm cương nghị cùng đức hạnh - bởi tôi thấy rõ chỉ cần một thị kiến thôi cũng đủ làm tôi trở nên giàu có với tất cả kho tàng ấy.[9]
Tôi sợ rằng phần ngoại đề của mình đã dài hơn cần thiết và sự e ngại nảy sinh trong một số bạn khi tôi thông báo dự đồ nghiên cứu bệnh lý học của mình có thể bị xua tan mà không cần dài lời đến thế. Bất luận thế nào, hiện tại, chúng ta hẳn đã sẵn sàng để đánh giá đời sống tôn giáo chỉ căn cứ vào kết quả của nó, và tôi tin rằng con ngáo ộp bugaboo mang tên nguồn gốc bệnh tật [của thị kiến tôn giáo] sẽ không còn khả năng làm chùn nản lòng mộ đạo của bạn.
Tuy thế, bạn vẫn có thể hỏi tôi, nếu kết quả của hiện tượng tôn giáo là căn cứ để xác định mức độ tinh thần tính của nó thì tại sao còn phải đem cả một chương trình khảo sát các điều kiện tồn tại của nó ra dọa dẫm chúng tôi? Tại sao không đơn giản gạt đi các vấn đề bệnh lý, không bàn tới?
Câu hỏi này, tôi trả lời như sau. Thứ nhất, tôi khẳng định, sự tò mò không thể kìm nén luôn áp chế và dẫn dắt chúng ta; thứ hai, nó luôn dẫn chúng ta tới việc hiểu sâu hơn tầm quan trọng của một đối tượng bằng cách ép ta xem xét những trường hợp quá đà và biến thái của nó, những tương đương và thay thế cùng các họ hàng gần nhất của nó. Điều này không có nghĩa là chúng ta có thể nhận chìm đối tượng được xét trong sự bài trừ chung các anh em kém cỏi của nó; ngược lại, chúng ta có thể xác định một cách chính xác hơn giá trị của nó bằng cách đồng thời tìm hiểu những khả thể tha hóa cụ thể và đa dạng của nó.
Các tình trạng thiếu lành mạnh có một lợi thế: chúng tách biệt được những yếu tố đặc thù trong đời sống tâm thần và cho phép chúng ta kiểm tra chúng mà không bị môi trường bình thường gây nhiễu. Đối với giải phẫu tâm lý, vai trò của chúng cũng trọng yếu như dao mổ và kính hiển vi đối với giải phẫu cơ thể. Để hiểu đúng một đối tượng, chúng ta cần quan sát nó cả trong và ngoài môi trường quen thuộc và làm quen với tất tật các biến thể của nó. Theo cách này, việc nghiên cứu ảo giác đối với các nhà tâm lý học là chìa khóa để hiểu cảm giác thông thường, còn ảo tượng là chìa khóa để hiểu đúng về nhận thức. Những xung động bệnh hoạn và những khái niệm mang tính áp chế, hay được gọi là "các ý cố định", đã rọi một luồng sáng mạnh vào tâm lý học về ý lực, và những ám ảnh cùng hoang tưởng cũng soi sáng tâm lý học về năng lực tin của con người trong trạng thái bình thường.
Tương tự, bản tính của thiên tài đã được soi sáng bởi những cố gắng xếp nó vào cùng nhóm với các hiện tượng tâm lý bệnh mà tôi đã đề cập. Những trạng thái nằm ở ranh giới điên loạn, sự lập dị, khí chất bất ổn, mất cân bằng tinh thần, hay thoái hóa tâm thần (đó chỉ là vài trong số nhiều từ đồng nghĩa đã được dùng để gọi tên hiện tượng này), đều mang những đặc điểm và khuynh hướng đặc thù mà, khi kết hợp với một trí tuệ vượt trội trong cùng một cá nhân, khiến cho khả năng người ấy để lại dấu ấn và ảnh hưởng đến thời đại của mình trở nên cao hơn nhiều so với trường hợp người ấy có một thần kinh ổn định hơn. Tất nhiên, bản thân sự lập dị không có mối tương quan đặc biệt nào với trí tuệ siêu việt[10], bởi phần lớn những người mắc bệnh lý tâm thần đều có trí tuệ yếu kém, và đa số những người có trí tuệ xuất sắc lại sở hữu hệ thần kinh bình thường. Nhưng khí chất bệnh lý, dẫu kết hợp với trí tuệ ra sao, thường dẫn đến tính cách nồng nhiệt và dễ bị kích động. Người lập dị thường mẫn cảm phi thường. Nhược điểm của anh ta là đặc biệt dễ hút vào các ám ảnh và các ý cố định. Các khái niệm của anh ta có xu hướng lập tức chuyển hóa thành niềm tin và hành động; và khi một ý mới nảy ra với anh ta, anh ta sẽ không được ngơi nghỉ phút nào cho tới khi có thể trình bày nó rành rọt hoặc “giải quyết” nó theo một cách nào đó. “Mình nên nghĩ gì về chuyện này đây?” một người bình thường sẽ tự hỏi như vậy trước một vấn đề nan giải; nhưng với một đầu óc “lập dị” thì câu hỏi thường là “Mình phải làm gì với nó?". Trong hồi ký của người phụ nữ đầy lý tưởng Annie Besant, tôi đọc được đoạn sau: “Rất nhiều người có thiện ý đối với một lý tưởng nào đó, nhưng rất ít người chịu ra sức giúp đỡ nó, và lại càng ít người dám vì nó mà hy sinh tất cả. ‘Ai đó nên làm [điều này], nhưng tại sao phải là tôi?’ là điệp khúc bất tận của thiện tâm dễ nhũn lòng. ‘Ai đó phải làm, vậy thì tại sao không phải là tôi?’ là tiếng kêu tha thiết của người đầy tớ tận tụy đối với nhân loại, kẻ hăng hái bật dậy để đảm nhận nghĩa vụ hiểm nguy. Giữa hai câu hỏi này là hàng thế kỷ tiến hóa đạo đức.” Đúng như vậy! và giữa hai câu hỏi ấy cũng là số phận hết sức khác nhau của người đờ đẫn bình thường và người tâm thần. Do đó, khi trí tuệ siêu việt và tâm lý bất ổn hợp nhất trong một cá nhân - như đôi khi vẫn xảy ra trong những hoán vị và kết hợp vô tận của các năng lực con người - chúng ta đạt được điều kiện lý tưởng cho sự sinh ra dạng thiên tài hoạt tác được ghi nhận trong các từ điển tiểu sử. Những người như thế không bao giờ có thể dùng trí năng của họ chỉ để hiểu và phê phán. Các ý chiếm lấy họ, và họ cưỡng ép chúng - dù là tốt hay xấu - lên những người đồng hành hoặc thời đại của mình. Đây chính là dạng người được tính đến trong các thống kê mà Messrs Lombroso hay Nisbet viện dẫn để bảo vệ nghịch lý của mình.
Giờ, chuyển qua các hiện tượng tôn giáo, thử xem xét nỗi sầu muộn mà, như chúng ta sẽ thấy, đánh dấu một thời điểm cốt yếu trong mọi tiến hóa tôn giáo hoàn chỉnh. Hãy xét đến niềm hân hoan tỏa ra từ lòng tin tôn giáo được tựu thành. Hãy xét đến những trạng thái tựa xuất thần của khải ngộ chân lý được thuật lại bởi tất cả các nhà thần bí tôn giáo. Đây đều là những trường hợp đặc biệt nằm trong những phạm trù kinh nghiệm con người có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Nỗi sầu muộn tôn giáo, mặc cho các đặc thù tôn giáo của nó, cơ bản vẫn là sầu muộn. Hân hoan tôn giáo là hân hoan. Xuất thần tôn giáo là xuất thần.
Và khoảnh khắc chúng ta từ bỏ ý niệm vô lý rằng một đối tượng sẽ bị hủy hoại ngay khi nó được xếp loại cùng những thứ khác hoặc khi nguồn gốc của nó bị phát hiện, thời điểm chúng ta đồng ý sẽ chỉ căn cứ vào các kết quả thực nghiệm và phẩm chất nội tại để đánh giá giá trị, ai mà không thấy rằng ta sẽ có nhiều khả năng hơn để nhận ra ý nghĩa đặc thù của sầu muộn và hân hoan tôn giáo, hay của trạng thái xuất thần tôn giáo, nếu ta tận tâm đối chiếu những hiện tượng ấy với các dạng khác của sầu muộn, hân hoan, và xuất thần - thay vì khăng khăng từ chối đặt chúng vào bất kỳ chuỗi hiện tượng phổ quát nào và làm như thể chúng hoàn toàn nằm ngoài trật tự tự nhiên?
Tôi hy vọng rằng mạch diễn tiến của các bài giảng này sẽ củng cố cho chúng ta giả thuyết ấy. Về vấn đề nguồn gốc bệnh của rất nhiều hiện tượng tôn giáo, thì ngay cả khi những hiện tượng ấy được xác nhận từ trời cao là những kinh nghiệm quý báu nhất của con người, điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên hay bối rối. Không một cá thể sinh học nào có thể ban tặng cho chủ thể của nó toàn bộ chân lý. Phần lớn chúng ta, ít nhiều đều có khiếm khuyết nào đó, thậm chí là bệnh tật; và chính những khiếm khuyết ấy lại giúp ta một cách bất ngờ. Trong khí chất bệnh, ta có sự giàu xúc cảm - một điều kiện không thể thiếu cho khả năng cảm nhận đạo đức; ta có cường độ và khuynh hướng nhấn mạnh - đó chính là tinh túy của sinh lực đạo đức thực hành; và ta có tình yêu siêu hình học cùng thần bí - thứ đưa mối quan tâm của con người vượt lên trên bề mặt của thế giới cảm giác. Vậy thì, còn gì tự nhiên hơn việc khí chất này dẫn con người đến những miền chân lý tôn giáo, những ngóc ngách của vũ trụ mà kiểu thần kinh thuộc về hạng philistine khỏe mạnh - kẻ lúc nào cũng chìa bắp tay ra để người khác sờ, đập ngực khoe khoang, và tạ ơn trời vì không có lấy một sợi thần kinh bệnh hoạn trong người - sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ nhìn thấy, bị chính sự tự mãn che lấp?
Nếu quả thật có cái gọi là mặc khải từ một cõi cao hơn, thì rất có thể khí chất thần kinh ấy lại chính là điều kiện tiên quyết cho khả năng tiếp nhận. Và khi đã nói đến đây, tôi nghĩ mình có thể tạm gác lại vấn đề về tôn giáo và bệnh lý thần kinh.
***
Khối các hiện tượng phụ trợ - dù bệnh lý hay lành mạnh - mà các hiện tượng tôn giáo khác nhau cần được đem so sánh cùng để hiểu rõ hơn tạo thành cái mà trong biệt ngữ sư phạm gọi là “khối tri nhận” (apperceiving mass) nhờ đó ta lĩnh hội được chúng. Điểm mới mẻ duy nhất mà tôi có thể hình dung về khóa giảng nằm ở độ rộng của khối tri nhận ấy. Có thể tôi sẽ thành công trong việc thảo luận các kinh nghiệm tôn giáo trong một bối cảnh rộng hơn thường thấy ở các lớp đại học.
Anh Hoa dịch
[1] Tiếng Pháp trong nguyên bản: các tài liệu con người.
[2] Tiếng Pháp: rối loạn tâm thần.
[3] Đặc biệt.
[4] Giống như nhiều ý trôi nổi thời nay, hình dung này rụt khỏi các tuyên bố giáo điều tuyệt đối và chỉ biểu hiện một cách gián tiếp và nửa vời. Tôi thấy hiếm tư tưởng nào kém mở mang hơn việc diễn giải lại tôn giáo như một dạng lệch lạc tình dục. Sự thô sơ của cách lý giải này gợi nhớ lời đả kích nổi tiếng của Công giáo rằng phong trào Cải cách chỉ có thể hiểu được nếu nhớ rằng nguồn cơn của nó là khao khát cưới một nữ tu của Luther: hiệu quả của phong trào đã vượt xa nguyên nhân được viện dẫn, và phần lớn có tính chất ngược lại. Đúng là trong tập hợp phong phú các hiện tượng tôn giáo, có những trường hợp thể hiện yếu tố ái tình rõ rệt - ví dụ, các thần tình dục và các nghi lễ dung tục trong đa thần giáo, hoặc cảm giác ngây ngất trong cuộc thông giao với Đấng Cứu Thế trong một số trường hợp thần bí Kitô giáo. Nhưng thế thì tại sao không bảo tôn giáo là sự lệch lạc của chức năng tiêu hóa và chứng minh điều này qua sự thờ cúng thần Bacchus và thần Ceres, hoặc qua cảm giác xuất thần của một số vị thánh về Thánh Thể? Ngôn ngữ tôn giáo thường dùng những biểu tượng nghèo nàn nhất mà đời sống cung cấp, và toàn bộ cơ thể tạo nên các hòa âm phụ bất cứ khi nào tâm trí bị kích động mạnh. Thực tế, ngôn ngữ về việc ăn uống có lẽ phổ biến trong văn chương tôn giáo không kém ngôn ngữ về đời sống tình dục. Chúng ta “đói khát” công lý; chúng ta “tìm thấy nơi Chúa hương vị ngọt ngào”; chúng ta “nếm và thấy Ngài thật tốt lành.”
Thánh François de Sales mô tả trạng thái “cầu nguyện tĩnh lặng” như sau: “Trong trạng thái này, linh hồn như một đứa trẻ còn bú mẹ, được mẹ yêu thương âu yếm trong vòng tay, sữa tràn vào miệng không cần môi cử động.” Và trong cuốn Chemin de la Perfection ngài viết: “Hãy nghĩ về những đứa trẻ áp sát vào ngực mẹ khi được thỏa mãn bởi dòng sữa. Cũng vậy, trong khi cầu nguyện, trái tim gắn liền với Chúa thường tìm cách gắn bó hơn qua những động tác, thúc đẩy bởi dòng sữa ngọt ngào của sự gần gũi thần thánh.”
Thực tế, gần như còn có thể cho rằng tôn giáo là một dạng lệch lạc của chức năng hô hấp. Kinh Thánh đầy rẫy những ngôn từ mô tả hô hấp khó khăn: “Xin đừng giấu tai khi khi con thở dài; những than vãn của con không giấu được trước mặt Ngài; trái tim con đập mạnh, sức lực cạn kiệt; xương con nóng bỏng rên xiết suốt đêm dài, như con nai khao khát dòng suối, linh hồn con cũng khao khát Ngài, ôi Thượng Đế của con.”
Thuyết này ít nhất giá trị ngang với “thuyết tình dục”. Nhưng những người ủng hộ lý thuyết này sẽ nói rằng lý luận chủ yếu của họ không có điểm tương đồng nào ở các thuyết khác. Hai hiện tượng chính của tôn giáo - sầu muộn và cải đạo - là hiện tượng chủ yếu của tuổi dậy thì và do đó đồng thời với sự phát triển của đời sống tình dục. Phản bác điều này cũng không khó. Ngay cả khi tính đồng thời được khẳng định là sự thật (mà thực tế không phải vậy), vẫn có thể chỉ ra rằng không chỉ đời sống tình dục mà toàn bộ đời sống tinh thần cao hơn đều thức dậy trong giai đoạn dậy thì. Ta có thể nói rằng sự quan tâm đến cơ học, vật lý, hóa học, logic, triết học và xã hội học, nảy sinh cùng thơ ca và tôn giáo trong những năm tháng thanh xuân cũng là một dạng lệch lạc của bản năng tình dục - nhưng điều đó quả thực quá phi lý. Hơn nữa, nếu tính đồng thời là đủ để kết luận thì phải xử lý thế nào với thực tế rằng độ tuổi tôn giáo điển hình nhất là tuổi già, khi đời sống tình dục không còn sôi nổi?
Sự thật hiển nhiên là để giải thích tôn giáo, cuối cùng ta vẫn phải nhìn vào nội dung tức thời của ý thức tôn giáo. Ngay khi làm điều này, ta sẽ thấy rằng nó không liên quan về cốt yếu đến nội dung của ý thức tình dục. Mọi thứ về chúng đều khác nhau: đối tượng, tâm trạng, năng lực liên quan và xung lực thúc đẩy. Bất kỳ sự đồng hóa mang tính khái quát nào cũng là bất khả: điều thường thấy nhất là sự đối nghịch hoàn toàn và mâu thuẫn. Nếu những người bảo vệ thuyết tình dục vẫn khăng khăng rằng điều này không ảnh hưởng đến luận đề của họ - rằng nếu không có sự đóng góp hóa học từ các cơ quan sinh dục vào dòng máu, bộ não sẽ không được nuôi dưỡng đủ để duy trì các hoạt động tôn giáo - thì có thể đáp lại rằng điều họ vừa nói có thể đúng hoặc không, nhưng dù thế nào nó cũng đã trở thành một luận điểm chẳng soi sáng điều gì: không hệ quả nào từ nó có thể giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa hay giá trị của tôn giáo.
[5] Để có một ví dụ điển hình về lối lập luận duy vật y khoa, xin xem bài viết “Les Variétés du Type dévot” của Dr. Binet-Sanglé, trong Revue de l'Hypnotisme, xiv. 161.
[6] J. F. Nisbet, The Insanity of Genius, London, 1893, xvi, xxiv.
[7] Max Nordau, Degeneration.
[8] H. Maudsley, Natural Causes and Supernatural Seemings, 1886, pp. 257, 256.
[9] Autobiography, xxviii.
[10] Trí tuệ vượt trội, như Giáo sư Bain đã chỉ ra một cách xuất sắc, dường như chủ yếu nằm ở sự phát triển mạnh của năng lực liên tưởng theo lối tương đồng.
người Mỹ lý luận
Thorstein Veblen, Lý thuyết tầng lớp nhàn rỗi