Borges: Sách Cát
28/07/2024 11:05
Đã có về Borges no. 1 & về Borges no.2 mà mãi vẫn chưa thấy Borges đâu, nên no.3 sẽ là bốn Borges rút ra từ Sách Cát (El libro de arena). Bốn truyện này được dịch từ bản tiếng Pháp (Le Livre de sable) của Françoise Rousset, sau này được Barnès chỉnh sửa, đối chiếu từng câu với bản tiếng Anh (The Book of Sand) của Norman Thomas di Giovanni (hai bản này có nhiều chỗ chênh nhau, một số chỗ thậm chí còn khác nhau khá lớn).
Kẻ khác
Chuyện xảy ra vào tháng Hai năm 1969, tại Cambridge, phía Bắc Boston. Tôi đã không chép nó lại ngay bởi vì lúc đầu tôi chỉ mong quên phứt nó đi để khỏi bị mất trí. Giờ đây, vào năm 1972, tôi nghĩ rằng nếu tôi chép lại nó, người ta sẽ nghĩ nó là truyện và theo thời gian, rất có thể, với tôi nó cũng sẽ trở thành truyện.
Tôi biết rằng khi xảy ra nó thật đáng sợ, còn đáng sợ hơn nữa trong những đêm mất ngủ tiếp theo đó. Nhưng như thế không có nghĩa cái truyện tôi sắp viết ra đây sẽ làm bất kỳ ai khác thấy xúc động.
Lúc ấy là khoảng mười giờ sáng. Tôi ngồi trên một cái ghế băng nhìn ra sông Charles. Cách tôi chừng năm trăm mét về phía tay phải có một tòa nhà cao mà tôi chưa bao giờ biết tên. Lập lờ giữa làn nước xám xịt là những mảng băng lớn. Không thể tránh khỏi, dòng sông khiến tôi nghĩ đến thời gian. Cái hình ảnh nghìn năm tuổi của Héraclite. Đêm trước tôi ngủ ngon và giờ giảng bài buổi chiều trước đó chắc là đã thu hút đám sinh viên của tôi. Xung quanh không có lấy một bóng người.
Đột nhiên tôi có cảm giác (theo các nhà tâm lý học đây là do mệt mỏi) mình đã sống qua khoảnh khắc này.
Có một người đang ngồi cùng tôi trên ghế băng, ở đầu bên kia. Tôi muốn được ở một mình, nhưng lại không muốn đứng lên ngay vì sợ tỏ ra bất lịch sự. Người kia bắt đầu huýt sáo. Chính vào lúc đó xuất hiện nỗi hoang mang đầu tiên của buổi sáng hôm ấy. Anh ta đang huýt sáo, đang cố huýt sáo (tôi chưa bao giờ có tài thẩm âm) điệu nhạc créole La Tapera của Elías Regules.
Điệu nhạc này đưa tôi về một patio giờ đã không còn, và kỷ niệm về người ông họ Álvaro Melián Lafinur, đã chết từ lâu. Rồi tiếng hát cất lên. Câu mở đầu. Giọng thì không phải của Álvaro, nhưng nó cố làm sao cho giống giọng của Álvaro. Tôi kinh hoàng nhận ra giọng nói ấy.
Tôi xích lại gần anh ta, hỏi:
“Thưa anh, anh là người Uruguay hay Argentina?”
“Tôi là người Argentina, nhưng từ năm 1914 tôi sống ở Genève.”
Đó là câu trả lời của anh ta.
Một quãng im lặng. Rồi tôi lại lên tiếng:
“Ở số 17 phố Malagnou, đối diện với nhà thờ Nga phải không?”
Anh ta bảo là đúng thế.
“Nếu vậy,” tôi cả quyết nói với anh ta, “anh tên là Jorge Luis Borges. Tôi cũng là Jorge Luis Borges. Ta đang ở thành phố Cambridge, vào năm 1969.”
“Không phải,” anh ta đáp bằng giọng của chính tôi nhưng nghe hơi xa xôi.
Ngừng một lúc, anh ta trở nên cương quyết:
“Tôi đang ở Genève, ngồi trên một cái ghế băng, cách sông Rhône vài bước chân. Thật kỳ quặc vì chúng ta rất giống nhau, nhưng ông già hơn tôi nhiều, tóc ông bạc hết cả rồi.”
Tôi đáp:
“Tôi có thể cho anh thấy là tôi không nói dối. Tôi sẽ nói cho anh những điều mà một người lạ không thể biết. Ở nhà có một cốc uống maté bằng bạc có chân uốn hình rắn mà cụ chúng ta đã mang từ Peru về. Có cả cái bồn rửa treo tòng teng ở yên ngựa của cụ nữa. Trong tủ phòng ngủ của anh có hai hàng sách. Ba tập Nghìn lẻ một đêm bản dịch của Lane, có hình trang trí kiểu khắc đồng và có những ghi chú chữ nhỏ ở cuối các chương, cuốn từ điển Latinh của Quicherat, Germania của Tacite bằng tiếng Latinh và có bản dịch tiếng Anh của Gordon, một cuốn Don Quichotte do nhà Garnier xuất bản, có Tablas de Sangre của Rivera Indarte với lời đề tặng của tác giả, Sartor Resartus của Thomas Carlyle, một cuốn tiểu sử Amiel và, giấu đằng sau những quyển khác, một quyển sách bìa mềm về tập tục tình dục của các tộc người sống ở Balkan. Tôi cũng còn chưa quên cái lần vào cuối một buổi chiều trên tầng hai một ngôi nhà ở quảng trường Dubourg.”
“Dufour,” anh ta chữa lại.
“Đúng rồi, Dufour. Anh thấy như thế đã đủ chưa?”
“Chưa,” anh ta đáp. “Những bằng chứng đó không chứng tỏ được điều gì. Nếu tôi đang mơ thấy ông thì cũng là tự nhiên nếu ông biết những gì tôi biết. Bảng kiểm kê của ông có dài đến đâu thì cũng vậy thôi.”
Lời phản đối hữu lý. Tôi nói:
“Nếu buổi sáng hôm nay và cuộc gặp này là mơ, thì cả hai chúng ta đều nghĩ mình là người đang mơ. Có thể chúng ta sẽ ngừng mơ, cũng có thể không. Trong lúc đó, chúng ta buộc phải chấp nhận giấc mơ giống như chúng ta đã chấp nhận thế giới, chấp nhận mình được sinh ra, biết nhìn và biết thở.”
“Thế nếu giấc mơ cứ kéo dài mãi?” anh ta lo lắng hỏi.
Để trấn an anh ta và cũng để tự trấn an mình, tôi vờ tỏ ra mình rất chắc chắn mặc dù không hề cảm thấy thế. Tôi bảo anh ta:
“Giấc mơ của tôi đã kéo dài bảy mươi năm rồi. Xét cho cùng, khi nhớ lại, con người ta chỉ có thể thấy lại mình với chính mình. Đây chính là chuyện đang xảy đến với chúng ta, trừ mỗi việc là chúng ta có hai người. Anh không muốn biết vài thứ trong quá khứ của tôi, tức là trong cái tương lai đang đợi sẵn anh à?”
Anh ta lẳng lặng gật đầu. Tôi nói tiếp, hơi có chút hoang mang:
“Mẹ vẫn sống khỏe mạnh ở nhà mẹ, nơi góc phố Charcas và Maipú bên Buenos Aires ấy, nhưng bố thì mất ba mươi năm rồi. Bố mất vì bệnh tim. Bố bị liệt nửa người, tay trái của bố đặt lên tay phải trông giống như tay một đứa bé đặt lên tay một người khổng lồ. Bố đã rất mong được chết cho nhanh nhưng không hề than thở một lời. Bà qua đời trong cùng căn nhà ấy. Vài hôm trước khi mất, bà gọi mọi người lại bên và bảo: “Ta đã là một bà lão, giờ ta đang chết đi, rất chậm chạp. Đừng có ai thấy đau lòng vì một chuyện thông thường và tầm phào như thế đấy nhé.” Norah, em gái của anh, đã lấy chồng và có hai con trai. À nhân tiện, ở nhà mọi người thế nào?”
“Ổn. Bố vẫn suốt ngày nghĩ ra những lời đùa bôi bác tôn giáo. Tối qua bố bảo Jesus giống như tụi gaucho không bao giờ chịu để liên lụy đến mình, thế nên ông ấy rao giảng bằng các dụ ngôn.”
Anh ta ngập ngừng rồi hỏi:
“Thế còn ông?”
“Tôi không biết anh sẽ viết bao nhiêu cuốn sách, nhưng tôi biết là quá nhiều. Anh sẽ viết những bài thơ, chúng khiến anh vô cùng sung sướng nhưng người khác thì không thấy vậy, rồi những truyện có tính chất huyền ảo nữa. Giống bố và nhiều người khác trong nhà, anh sẽ dạy học.”
Tôi mừng vì anh ta không hỏi gì về thất bại hay thành công của những cuốn sách đó. Tôi nói tiếp, giọng đổi đi một chút:
“Còn về lịch sử thì… Có thêm một cuộc chiến tranh nữa, gần như vẫn là giữa những nhân vật chính cũ. Nước Pháp sẽ sớm đầu hàng; Anh và Mỹ nhảy vào đánh nhau với một tay độc tài người Đức tên là Hitler, trận Waterloo long trời lở đất [tôi thấy rất khó hiểu cụm từ này: la bataille cyclique de Waterloo/the cyclical battle of Waterloo]. Quãng 1946, Buenos Aires sinh ra một độc tài Rosas mới, khá giống với người họ hàng của chúng ta. Năm 1955, tỉnh Córdoba cứu chúng ta, như tỉnh Entre Ríos đã làm hồi xưa. Hiện tại mọi chuyện đều tồi tệ. Nước Nga đang chiếm lấy toàn thế giới; nước Mỹ không thể quyết định trở thành một đế chế được vì mắc bệnh mê tín dân chủ. Càng ngày đất nước của chúng ta càng đậm chất tỉnh lẻ hơn. Tỉnh lẻ hơn và kiêu ngạo hơn, cứ như tự bịt mắt không chịu nhìn ngó ấy. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thấy người ta đưa tiếng Guaraní vào dạy ở nhà trường thay cho tiếng Latinh.”
Tôi để ý thấy anh ta không mấy chú tâm lắng nghe. Nỗi sợ căn bản về sự bất khả tuy thế lại đầy vẻ chắc chắn đang làm anh ta hoảng sợ. Tôi, vốn dĩ chưa từng làm bố, chợt cảm thấy tràn đầy yêu thương với anh chàng tội nghiệp này, anh ta còn thân thiết với tôi hơn cả nếu như anh ta là máu thịt của máu thịt tôi. Tôi thấy anh ta đang cầm một quyển sách trên tay. Tôi hỏi đó là quyển gì.
“Lũ người quỷ ám, hay theo tôi đúng hơn phải là Lũ quỷ, của Fedor Dostoievski,” anh ta trả lời, thoáng chút vênh váo.
“Tôi gần như quên mất nó rồi. Nó thế nào nhỉ?”
Vừa hỏi xong tôi đã hiểu câu nói của mình là một sự báng bổ.
“Bậc thầy Nga,” anh ta gằn giọng, “đã tiến sâu hơn bất kỳ ai khác vào mê cung tâm hồn Xlavơ.”
Cách nói hoa mỹ này khiến tôi nghĩ anh ta đã hoàn hồn.
Tôi hỏi anh ta đã đọc những cuốn sách nào khác của bậc thầy này.
Anh ta kể ra dăm cái tên, trong đó có Là bóng hay là hình.
Tôi bèn hỏi đọc chúng như thế anh ta có phân biệt rõ ràng được các nhân vật hay không, giống như khi đọc Joseph Conrad, và anh ta có định đọc hết các tác phẩm khác của Dostoievski không.
“Thật ra là không,” anh ta đáp, hơi ngạc nhiên.
Tôi hỏi anh ta đang viết gì, anh ta đáp đang chuẩn bị in một tập thơ, chắc anh ta sẽ đặt tên là Khúc đỏ. Anh ta cũng đã nghĩ đến chuyện gọi nó là Nhịp đỏ.
“Tại sao lại không nhỉ?” tôi nói với anh ta. “Anh có thể viện dẫn những tập thơ hay trước đây. Thơ xanh của Rubén Darío và khúc nhạc xám của Verlaine.
Chẳng buồn nghe tôi nói, anh ta giải thích rằng tập thơ của anh ta ca ngợi tình anh em giữa mọi con người. Là thi sĩ vào thời này thì không thể quay lưng với thời cuộc.
Tôi trở nên tư lự mất một lúc, rồi tôi hỏi anh ta có thực sự cảm thấy mình là người anh em của tất cả. Chẳng hạn như anh em của tụi chủ nhà đám, bưu tá hay thợ lặn, của mọi kẻ sống ở các số nhà chẵn, của mọi kẻ không có khả năng nói, vân vân. Anh ta bảo tập thơ của anh ta hướng tới đông đảo những người bị áp bức và những người khốn cùng.
“Đông đảo những người bị áp bức và những người khốn cùng của anh,” tôi đáp, “chỉ là một sự trừu tượng. Chỉ các cá nhân mới tồn tại, nếu quả thật có ai đó tồn tại. Người của hôm qua không phải người của hôm nay, một tay Hy Lạp nào đó từng nói vậy. Hai chúng ta, trên cái ghế băng Genève hoặc Cambridge này, chính là bằng chứng cho điều đó.”
Trừ ở những trang nghiêm trọng của lịch sử, các sự kiện đáng nhớ đâu cần đến những câu văn đáng nhớ. Một người sắp chết cố nhớ lại một bức tranh hồi bé mình từng ngắm; đám lính sắp xung trận nói về bùn hoặc tay chỉ huy. Tình huống chúng ta ở vào là duy nhất và, nói cho đúng, chúng ta không hề được chuẩn bị cho nó. Cứ như số phận muốn vậy ấy, chúng tôi đã nói về văn chương; tôi e là đã nói không khác những gì tôi vẫn nói với cánh nhà báo. Alter ego của tôi tin vào sự bịa ra hay phát hiện những ẩn dụ mới; còn tôi thì tin vào những ẩn dụ tương ứng với các liên quan gần gũi và hiển nhiên mà trí tưởng tượng của chúng ta đã chấp nhận. Tuổi già của con người và hoàng hôn, những giấc mơ và cuộc đời, thời gian trôi và nước. Tôi trình bày ý kiến của mình với anh ta để nhiều năm sau này anh ta sẽ trình bày nó trong một cuốn sách.
Anh ta chẳng mấy lắng nghe. Đột nhiên, anh ta nói:
“Nếu ông là tôi thì ông giải thích thế nào về việc ông đã quên mất cuộc gặp với một ông già từng bảo với ông rằng ông ta cũng là Borges, vào năm 1918?”
Tôi chưa hề nghĩ đến điểm trớ trêu này. Tôi đáp, không mấy tin tưởng:
“Có thể chuyện ấy quá mức kỳ quặc nên tôi đã cố quên nó đi.”
Anh ta ngập ngừng hỏi một câu rụt rè:
“Trí nhớ của ông thế nào rồi?”
Tôi hiểu ra rằng với một cậu con trai chưa tròn hai mươi tuổi, một ông già trên bảy mươi giống như là đã chết. Tôi đáp:
“Phần lớn thời gian nó giống như sự quên lãng ấy, nhưng nó vẫn tìm ra được những gì mà nó được yêu cầu đi tìm. Tôi đang học tiếng Anh cổ và không bị đội sổ trong lớp đâu nhé.”
Cuộc trò chuyện của chúng tôi đã kéo quá dài, không giống một giấc mơ nữa.
Đột nhiên tôi nảy ra một ý.
“Tôi có thể chứng minh ngay lập tức,” tôi bảo anh ta, “rằng không phải là anh đang mơ thấy tôi. Nghe cho kỹ câu thơ này nhé, anh chưa bao giờ đọc nó đâu, nhưng tôi thì biết.”
Tôi chậm rãi đọc câu thơ nổi tiếng:
L’hydre-univers tordant son corps écaillé d’astres
Tôi cảm nhận được sự sững sờ gần như hoảng sợ của anh ta. Anh ta nhỏ giọng nhắc lại nó, ngâm nga từng từ rực rỡ.
“Đúng vậy,” anh ta thì thầm. “Tôi sẽ chẳng bao giờ viết nổi một câu thơ như thế này.”
Victor Hugo đã kết hợp chúng tôi với nhau.
Trước đó, giờ thì tôi đã nhớ lại, anh ta say sưa đọc đi đọc lại bài thơ ngắn của Walt Whitman trong đó nhà thơ nhớ đến một đêm vô cùng hạnh phúc bên bờ biển.
“Whitman ca ngợi cái đêm đó,” tôi nêu nhận xét, “là bởi ông ấy mong mỏi nó nhưng nó chưa từng diễn ra. Bài thơ đẹp hơn nếu ta đoán định được nó diễn đạt một ham muốn chứ không kể lại một câu chuyện.”
Anh ta nhìn tôi một lúc lâu.
“Ông không biết rõ ông ấy rồi,” anh ta kêu lên. “Whitman không bao giờ nói dối.”
Nửa thế kỷ trôi qua đã không phí hoài. Qua cuộc trò chuyện giữa những người có sự đọc trộn lẫn và gu thẩm mỹ khác nhau này, tôi hiểu ra là chúng tôi chẳng bao giờ hiểu được nhau. Chúng tôi quá khác nhau và quá giống nhau. Chúng tôi không thể bắt lỗi lẫn nhau, điều đó khiến cho sự đối thoại trở nên khó khăn. Chúng tôi là bản sao đầy tính chất biếm họa của nhau. Tình huống quá mức bất thường nên không thể kéo thật dài được. Khuyên nhủ hay tranh luận đều là vô ích, bởi vì số phận không thể tránh khỏi của anh ta là sẽ phải trở thành tôi.
Bỗng tôi nhớ đến một câu chuyện của Coleridge. Một người nằm mơ anh ta đi ngang qua thiên đường và được tặng một bông hoa làm bằng chứng. Lúc anh ta tỉnh dậy, bông hoa vẫn ở đó.
Tôi nảy ra ý định làm một việc tương tự.
“Nghe này,” tôi nói với anh ta, “anh có tiền trên người không?”
“Có,” anh ta đáp. “Tôi có khoảng hai mươi franc. Tối nay tôi sẽ mời Simon Jichlinski đến quán Crocodile.”
“Bảo Simon là cậu ấy sẽ làm nghề bác sĩ ở Carouge, và cậu ấy sẽ làm rất nhiều việc tốt… Giờ thì đưa tôi một đồng xu đi.”
Anh ta lấy ra ba đồng bạc và một ít xu lẻ. Mặc dù không hiểu gì, anh ta vẫn đưa cho tôi một đồng bạc lớn.
Tôi đưa lại cho anh ta một tờ tiền Mỹ không mấy hữu lý, chúng bằng nhau chằn chặn cho dù mang mệnh giá bao nhiêu. Anh ta chăm chú săm soi nó.
“Không thể nào,” anh ta kêu lên. “Đây là tiền năm 1964!”
Mấy tháng sau, tôi được nói cho biết là tiền giấy không bao giờ ghi năm.
“Thật là kỳ diệu,” anh ta thốt lên, “mà những điều kỳ diệu thì gây sợ hãi. Những người chứng kiến Lazare sống lại chắc phải kinh hãi với kỷ niệm ấy lắm.”
Bọn ta chẳng hề thay đổi gì cả, tôi nghĩ. Lúc nào cũng là trò viện dẫn sách vở ấy.
Anh ta xé nhỏ tờ tiền của tôi và nhét đồng tiền của mình trở lại túi.
Tôi những muốn ném nó xuống sông. Đường bay của đồng xu bạc cắm xuống mặt nước bạc hẳn sẽ mang lại cho câu chuyện của tôi một hình ảnh sống động, nhưng số phận đã quyết định khác hẳn về nó.
Tôi đáp lại rằng chuyện siêu nhiên sẽ không còn đáng sợ nếu xảy ra hai lần.
Tôi đề nghị ngày hôm sau chúng tôi sẽ gặp lại nhau trên cùng cái ghế tồn tại cùng lúc ở hai thời điểm và hai địa điểm này.
Anh ta nhận lời ngay và bảo tôi rằng anh ta đã bị muộn giờ, mà không nhìn đồng hồ đeo tay. Cả hai chúng tôi đều đang nói dối và đều biết người kia đang nói dối. Tôi bảo anh ta là sắp có người đến tìm tôi rồi.
“Đến tìm ông à?”
“Phải. Khi nào bằng tuổi tôi, anh sẽ gần như bị mù. Anh sẽ chỉ còn nhìn thấy màu vàng, ánh sáng và bóng tối. Đừng lo. Mù lòa dần dần không phải là chuyện gì bi thảm đâu. Giống như một buổi tối mùa hè chầm chậm buông xuống thôi.”
Chúng tôi tạm biệt nhau, không hề chạm vào người nhau chút nào. Hôm sau tôi không đến chỗ hẹn. Anh ta chắc cũng không đến.
Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc gặp ấy, mà tôi chưa từng kể cho một ai. Tôi tin mình đã tìm được lời giải cho nó. Cuộc gặp là thực, nhưng kẻ khác đã nói chuyện với tôi trong mơ và bởi vậy nên đã có thể quên tôi đi; còn tôi, tôi nói chuyện với anh ta trong trạng thái tỉnh và ký ức về anh ta vẫn còn khuynh đảo tôi.
Kẻ khác mơ về tôi, nhưng cũng không chính xác là vậy. Anh ta, giờ thì tôi đã hiểu, mơ thấy cái năm bất khả ghi trên tờ đô la.
Nhị Linh dịch
Cõi phi lai của một người mệt mỏi
Ông ta gọi nó là Cõi phi lai, cái từ có nguồn gốc Hy Lạp này muốn nói rằng một nơi như thế không tồn tại.
Quevedo
Không ngọn đồi nào giống ngọn đồi nào nhưng khắp nơi trên trái đất đồng bằng đều y hệt nhau. Tôi bước đi trên một con đường đồng bằng. Tôi tự hỏi, nhưng không thấy điều này có gì quan trọng, đây là Oklahoma, Texas hay cái vùng của Argentina mà trong văn chương người ta vẫn hay gọi là pampa. Cả bên phải lẫn bên trái đều không thấy có hàng giậu nào. Thêm một lần tôi chậm rãi ngâm mấy câu thơ của Emilio Oribe:
Ở giữa dải đồng bằng bất tận đáng sợ
Nơi ấy, gần Braxin,
Chúng cứ không ngừng to lớn và mở rộng thêm.
Con đường gập ghềnh. Mưa bắt đầu rơi. Cách chừng vài trăm mét tôi nhìn thấy ánh đèn một ngôi nhà. Đó là một ngôi nhà thấp hình chữ nhật, cây cối vây xung quanh. Người đàn ông mở cửa cho tôi cao lớn đến mức gần như khiến tôi sợ hãi. Ông ta vận đồ màu xám. Tôi có cảm giác ông ta đang đợi một ai đấy. Trên cửa không có ổ khóa.
Chúng tôi bước vào một căn phòng rộng bốn bề là tường gỗ. Một ngọn đèn trần tỏa xuống thứ ánh sáng vàng lợt. Không hiểu sao tôi thấy cái bàn có vẻ gì đó kỳ quặc. Trên bàn đặt một cái đồng hồ cát, tôi mới chỉ từng nhìn thấy những cái đồng hồ tương tự trên một bức tranh khắc cổ xưa nào đó. Người đàn ông chỉ cho tôi một cái ghế.
Tôi thử nói nhiều thứ tiếng khác nhau nhưng chúng tôi không sao hiểu được nhau. Khi cất tiếng, hóa ra ông ta dùng tiếng Latinh. Tôi đành gom góp những gì còn nhớ được từ hồi xa xưa khi còn đi học để chuẩn bị bước vào cuộc đối thoại.
“Căn cứ vào trang phục của anh,” ông ta nói với tôi, “tôi thấy là anh từ một thế kỷ khác đến. Sự đa dạng ngôn ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng tộc người và cho cả chiến tranh nữa; thế giới đã quay trở về với tiếng Latinh rồi. Nhiều người sợ rằng tiếng Latinh rồi sẽ lại biến chất để trở thành tiếng Pháp, tiếng Limousin hay tiếng Papiamento, nhưng đó không phải là một nguy cơ nhãn tiền. Dẫu có thế thì tôi cũng không quan tâm đến quá khứ hay tương lai.”
Tôi không nói gì, thế là ông ta tiếp tục:
“Nếu không thấy khó chịu khi nhìn người khác ăn, anh có muốn ăn cùng tôi không?”
Tôi hiểu rằng ông ta đã nhận ra sự bối rối của tôi và nhận lời mời của ông ta.
Chúng tôi đi qua một hành lang cả hai bên đều có những cánh cửa, nó dẫn tới một căn bếp hoàn toàn làm bằng kim loại. Chúng tôi quay trở lại, tay cầm khay đựng đồ ăn: những bát ngũ cốc, một chùm nho, một thứ quả lạ có hương vị khiến tôi nghĩ đến sung, và một bình to đựng nước. Tôi nghĩ là không có bánh mì. Đường nét khuôn mặt ông chủ nhà sắc nhọn và trong ánh mắt ông ta có một vẻ gì đó rất lạ. Tôi sẽ không quên nổi khuôn mặt khắc khổ nhợt nhạt ấy, mà sau này tôi sẽ không gặp lại. Trong lúc nói ông ta không làm một cử chỉ nào.
Tôi ngại ngần vì phải nói chuyện bằng tiếng Latinh, nhưng vẫn nói được với ông ta:
“Tôi xuất hiện đột ngột thế này mà ông không thấy ngạc nhiên à?”
“Không,” ông ta đáp. “Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác chúng tôi thỉnh thoảng vẫn có những chuyến viếng thăm như thế này. Những chuyến thăm ấy không kéo dài lắm đâu; chậm nhất là ngày mai anh sẽ về nhà thôi.”
Giọng nói cả quyết của ông ta khiến tôi trấn tĩnh. Tôi thấy cần tự giới thiệu:
“Tôi tên là Eudoro Acevedo. Tôi sinh năm 1897 ở thành phố Buenos Aires. Tôi đã hơn bảy mươi tuổi. Tôi là giáo sư văn chương Anh-Mỹ, tôi viết truyện huyền ảo.”
“Tôi nhớ là đã đọc,” ông ta đáp, “hai truyện huyền ảo, tôi thấy cũng hay. Những cuộc du hành của thuyền trưởng Lemuel Gulliver, được nhiều người nghĩ là chuyện thực, và Summa Theologiae. Nhưng ta đừng nói về những điều cụ thể. Giờ đây chẳng còn ai quan tâm đến các sự kiện nữa đâu. Đó chỉ là những điểm khởi đầu cho sáng chế và suy luận mà thôi. Ở trường, chúng tôi được học nghi ngờ và nghệ thuật quên. Trước tiên là quên những gì thuộc về cá nhân và địa phương. Chúng ta sống trong thời gian, nó là thứ tiếp diễn, nhưng chúng tôi thử sống sub specie aeternitatis [theo kiểu vĩnh viễn]. Từ quá khứ chúng tôi chỉ giữ lại vài cái tên mà ngôn ngữ tìm cách quên đi. Chúng tôi tránh những điều cụ thể vô ích. Không còn ngày tháng cũng chẳng còn lịch sử. Cũng không còn thống kê nữa. Anh bảo anh tên là Eudoro; nhưng tôi thì không nói được tôi tên là gì, vì tôi chỉ được gọi là một ai đó.”
“Thế bố ông tên là gì?”
“Ông ấy không có tên.”
Trên một bức tường tôi thấy một giá sách. Tôi cầm đại một quyển mở ra xem; các chữ trong đó được viết bằng tay, sắc nét và không hiểu nổi. Kiểu chữ góc cạnh khiến tôi nghĩ đến bảng chữ cái Runes, thế nhưng loại chữ này thường chỉ được dùng để viết mộ chí. Tôi tự nhủ người tương lai không chỉ cao lớn hơn chúng ta mà còn khéo léo hơn. Theo bản năng, tôi liếc nhìn những ngón tay thon dài của người đàn ông.
Ông ta bảo tôi:
“Giờ tôi sẽ cho anh xem một thứ mà anh chưa bao giờ nhìn thấy.”
Ông ta cẩn trọng chìa cho tôi một bản Utopia của More, in ở Basel vào năm 1518, quyển sách không có các trang và các minh họa.
Tôi đáp, hơi có chút bần thần:
“Đây là một quyển sách in. Ở nhà tôi có hơn hai nghìn quyển, nhưng dĩ nhiên chúng đều không cổ và không quý bằng quyển này.”
Tôi đọc to nhan đề cuốn sách.
Ông ta phá lên cười.
“Chẳng có ai đọc được hai nghìn cuốn sách đâu. Trong vòng bốn thế kỷ đã sống qua chắc tôi đọc không đến nửa chục cuốn. Vả lại, điều quan trọng không phải là đọc, mà là đọc lại. Sự in ấn giờ đây đã bị hủy bỏ, nó từng là một trong những thảm họa tồi tệ nhất của loài người, vì nó có xu hướng sản xuất ra những văn bản vô tích sự nhiều đến chóng cả mặt.”
“Thời của tôi, mới vừa đây thôi,” tôi đáp, “có một sự mê tín rằng từ hôm nay đến ngày mai sẽ xảy ra những sự kiện mà nếu không biết thì thật là đáng xấu hổ. Hành tinh này đầy rẫy những bóng ma tập thể: Canada, Braxin, Congo thuộc Thụy Sĩ và Thị trường chung. Gần như chẳng có ai biết gì về lịch sử trước đó của những thực thể Platon này, nhưng ngược lại họ biết tất tật về hội nghị mới nhất của ngành sư phạm, những đoạn tuyệt về quan hệ ngoại giao sắp xảy ra, rồi những thông báo được viết bởi tay thư ký của tay thư ký, bằng cái thứ văn phong rất thiếu chính xác đặc trưng ấy. Người ta đọc những thứ đó để rồi quên ngay, vì chỉ vài tiếng đồng hồ sau lại có thêm những chuyện vớ vẩn khác xóa nhòa chúng đi. Trong số mọi nghề ngỗng trên đời, nghề chính trị gia chắc hẳn là nghề nổi nhất. Một đại sứ hay một bộ trưởng giống như kẻ tàn tật cần được chuyển từ chỗ này sang nơi khác trên những loại xe dài và ồn ĩ, vây quanh là đám xe máy và lũ cận vệ, bị tụi nhiếp ảnh gia hau háu rình mò. Như thể bọn họ bị chặt mất chân ấy, mẹ tôi vẫn hay nói thế. Hình ảnh và chữ in còn thực hơn bản thân mọi thứ. Chỉ những gì in ra là có thực. Esse est percipi (ta chỉ tồn tại nếu được chụp ảnh), đó là khởi đầu, trung tâm và kết thúc của thế giới quan đặc thù của chúng tôi. Trong quá khứ của tôi, người ta ngây thơ lắm; họ tin một thứ hàng hóa là tốt bởi vì kẻ sản xuất ra nó khẳng định điều đó rồi cứ thế nhắc đi nhắc lại. Cũng hay có trộm cắp, mặc dù chẳng ai không biết rằng sở hữu tiền bạc chẳng hề làm người ta hạnh phúc hay thanh thản hơn.”
“Tiền à?” người đàn ông nhắc lại. “Giờ thì chẳng ai còn phải chịu cảnh nghèo khó nữa, chắc hẳn đó là thứ không thể chịu đựng nổi, cũng không phải chịu cảnh giàu có, hẳn đó là hình thức thô lậu đáng bực mình hơn cả. Ai cũng có một phận sự.”
“Giống như các rabbi,” tôi nói.
Ông ta có vẻ không hiểu, vẫn nói tiếp:
“Cũng không còn các thành phố nữa. Nếu căn cứ vào đống đổ nát của Bahia Blanca, mà tôi từng thăm thú vì tò mò, thì chúng tôi đã không mất đi nhiều nhặn gì. Vì không còn sở hữu nên cũng không có thừa kế nữa. Ở tuổi một trăm, khi đã trưởng thành, con người đã sẵn sàng đối diện với chính mình, đối mặt với sự cô đơn. Ở tuổi ấy anh ta cũng đã sinh một đứa con trai.”
“Chỉ một thôi à?” tôi hỏi.
“Đúng. Chỉ một thôi. Chẳng có lý do gì để phát triển giống người. Một số người nghĩ rằng con người là một cơ quan của thần linh, cơ quan ấy giúp hắn nhận thức được vũ trụ, nhưng chẳng ai biết chắc được rằng một thần linh như thế có tồn tại hay không. Tôi nghĩ giờ đây chúng tôi đã đến giai đoạn thảo luận về ưu và nhược của tự sát dần dần hay ngay lập tức đối với toàn thể cư dân hành tinh. Nhưng thôi, ta hãy quay trở về với những điều đang bàn đã.”
Tôi gật đầu đồng ý.
“Đến tuổi một trăm, con người có thể không cần đến tình yêu và tình bạn nữa. Những bất trắc và cái chết bất như nguyện không còn là một mối đe dọa đối với anh ta. Anh ta thực hành một nghệ thuật nào đó, lao vào triết học, toán học hoặc chơi cờ một mình. Khi nào muốn, anh ta tự sát. Con người trở thành người chủ cuộc sống và cả cái chết của mình.”
“Nghe như một câu trích dẫn nhỉ?” tôi hỏi.
“Đúng rồi. Giờ chúng tôi chỉ còn các trích dẫn thôi. Ngôn ngữ là một hệ thống các trích dẫn.”
“Thế còn cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời tôi, những chuyến bay vào vũ trụ, thì sao?” tôi hỏi.
“Chúng tôi đã từ bỏ những chuyến du hành đó từ nhiều thế kỷ rồi. Chắc chắn là chúng rất đáng ngưỡng mộ, nhưng ta đâu có thể thoát khỏi nơi đây và lúc này.”
Và với một nụ cười ông ta nói thêm:
“Vả lại, tất cả các chuyến đi ấy đều diễn ra trong không gian. Đi từ hành tinh này sang hành tinh khác thì đâu có khác gì đi từ đây sang nông trại trước mặt. Khi anh bước vào căn phòng này thì cũng có nghĩa anh đang thực hiện một chuyến đi trong không gian.”
“Đúng thế,” tôi đáp. “Người ta cũng hay nói về các chất hóa học và các loài thú.”
Giờ đây người đàn ông quay lưng về phía tôi và nhìn ra cửa sổ. Bên ngoài, đồng bằng trắng xóa tuyết và ánh trăng.
Tôi đánh liều hỏi:
“Còn có các viện bảo tàng và thư viện không?”
“Không. Chúng tôi muốn quên đi quá khứ, trừ khi viết những bài ca tụng. Không còn các lễ tưởng niệm, kỷ niệm hay tượng người chết nữa. Mỗi người chúng tôi phải tự chế tác ra khoa học và nghệ thuật mà mình cần.”
“Vậy thì ai cũng phải trở thành Bernard Shaw, Đấng Ki-tô và Archimède của chính mình.”
Ông ta gật đầu.
“Các chính phủ thì thế nào?” tôi hỏi.
“Theo truyền thống, chúng dần dà trở nên lạc hậu. Chúng tổ chức bầu cử, tuyên bố chiến tranh, thu thuế, tịch thu các tài sản, bắt người, tìm cách kiểm duyệt nhưng có ai trên đời thèm quan tâm đâu. Báo chí đã ngừng đăng các bài diễn văn và ảnh của họ. Đám chính trị gia phải tự tìm những nghề nghiệp lành mạnh; một số trở thành diễn viên giỏi hoặc người chữa bệnh giỏi. Thực tế từng diễn ra hẳn là phức tạp hơn những gì tôi vừa mới tóm tắt sơ lược.”
Ông ta nói tiếp, giọng đã thay đổi:
“Tôi đã dựng ngôi nhà này, nó giống hệt mọi ngôi nhà khác. Tôi tự làm đồ đạc và các thứ dụng cụ. Tôi cày bừa trên mảnh ruộng kia, nó sẽ được những người mà tôi không quen biết cải thiện thêm. Tôi có nhiều thứ cho anh xem lắm.”
Tôi theo ông ta vào một phòng bên cạnh. Ông ta bật một ngọn đèn cũng treo trên trần nhà. Trong một góc, tôi nhìn thấy một cây đàn hạc chỉ có vài dây. Trên tường treo những bức tranh hình chữ nhật, màu chủ đạo là vàng. Có vẻ như chúng không được cùng một bàn tay vẽ ra.
“Tác phẩm của tôi đấy,” ông ta tuyên bố.
Tôi xem các bức tranh và dừng lại trước bức nhỏ nhất, nó vẽ hay gợi lên cảnh hoàng hôn, ở nó có điều gì đó như vô tận.
“Nếu thích thì anh có thể lấy nó, coi như kỷ niệm về một người bạn tương lai,” ông ta nói với tôi, giọng bình thản.
Tôi cảm ơn ông ta, nhưng có những bức tranh khiến tôi cảm thấy khó ở. Tôi sẽ không nói chúng gần như có màu trắng, nhưng cũng gần như vậy.
“Chúng được vẽ bằng những màu mà mắt quá khứ của anh không nhìn thấy được đâu.”
Một lúc sau, hai bàn tay thanh nhã của ông ta gảy các sợi dây đàn hạc, tôi chỉ nghe thấy vài âm thanh mơ hồ.
Đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa.
Một người đàn bà cao lớn cùng ba hay bốn người đàn ông bước vào. Có thể nói họ là anh chị em ruột, hoặc giả rốt cuộc thời gian đã làm họ trở nên giống nhau. Ông chủ nhà của tôi nói chuyện với người đàn bà trước.
“Tôi đã biết là kiểu gì tối nay cô cũng sẽ đến mà. Cô có gặp Nils không?”
“Thỉnh thoảng. Anh ấy vẫn vẽ hăng lắm.”
“Mong sao cho anh ấy còn thành công hơn bố.”
Công việc tháo dỡ bắt đầu. Các cảo bản, tranh, đồ đạc, dụng cụ, chúng tôi không để lại thứ gì trong nhà.
Người đàn bà cũng làm việc cùng cánh đàn ông. Tôi thấy ngượng vì mình quá ốm yếu không giúp được gì nhiều. Không ai đóng cửa và chúng tôi đi ra, mang theo đống đồ. Tôi nhận thấy ngôi nhà có mái dốc.
Đi được mười lăm phút, chúng tôi rẽ sang trái. Tôi nhìn thấy từ xa một ngôi nhà như tòa tháp mái tròn.
“Đây là lò hỏa thiêu,” một người cất tiếng. “Trong đó có căn phòng chết. Người ta bảo nó là phát minh của một nhà nhân đạo, hình như tên là Adolf Hitler.”
Người gác, mang thân hình to lớn giờ đây không còn làm tôi kinh ngạc nữa, mở cổng cho chúng tôi.
Ông chủ nhà của tôi lẩm bẩm vài câu. Trước khi bước vào đó, ông ta vẫy tay chào tạm biệt chúng tôi.
“Chắc tuyết còn rơi nữa,” người đàn bà nói.
Trong phòng làm việc ở phố Mexico tôi vẫn giữ bức tranh mà ai đó sẽ vẽ, hàng nghìn năm nữa, bằng những chất liệu giờ đây đang rải rác đâu đó trên hành tinh.
Nhị Linh dịch
Avelino Arredondo
Sự việc xảy ra ở Montevideo vào năm 1897.
Thứ Bảy nào nhóm bạn cũng ngồi quanh cái bàn dài ở quán cà phê Globo, đám người da trắng nghèo biết mình không thể mời khách về nhà hoặc muốn trốn chạy khỏi nhà mình. Tất cả đều là người gốc Montevideo; thoạt đầu họ dè dặt đón nhận Arredondo, vốn xuất thân từ vùng nội địa, vô cùng rụt rè, không bao giờ hỏi câu gì. Anh mới đôi mươi; gầy gò với làn da sạm, anh khá bé nhỏ và mang dáng dấp hơi vụng về. Khuôn mặt anh hẳn sẽ nhạt nhòa lắm nếu bù lại anh không có ánh mắt ấy, vừa cương nghị vừa như buồn ngủ. Anh làm cho một tiệm bán vải vóc trên phố Buenos Aires và học luật vào những lúc hoang vắng. Khi mọi người phản đối cuộc chiến tranh đang tàn phá đất nước, cái cuộc chiến đang được ông tổng thống ra sức kéo dài vì những lý do đáng ghê tởm, Arredondo chỉ nín lặng. Anh cũng nín lặng khi bị chọc là kẻ keo kiệt.
Không lâu sau trận Gerros Blancos, Arredondo bảo các bạn họ sẽ không gặp anh một thời gian vì anh phải quay về Mercedes. Tin này không làm rộn một ai. Có người khuyên anh nên cẩn thận với lũ gaucho của Aparicio Savaria; Arredondo mỉm cười đáp rằng anh không sợ tụi da trắng. Người kia, một tay da trắng, không nói gì nữa.
Chia tay với vợ chưa cưới Clara thì nặng nề hơn. Anh nói với cô gần như giống hệt khi nói với những người khác. Anh bảo cô đừng đợi thư vì anh sẽ rất bận. Clara chấp nhận lời giải thích không phản đối, vốn dĩ cô viết không thạo. Họ rất yêu nhau.
Arredondo sống ở ngoại ô. Phục vụ anh là một phụ nữ mulatto cùng họ với anh vì tổ tiên bà từng là nô lệ cho gia đình anh mãi từ hồi Cuộc Chiến Lớn thời Rosas. Có thể hoàn toàn tin cậy Clementina; anh lệnh cho bà nói với tất cả những ai tới kiếm anh là anh đang ở nông thôn. Anh đã lĩnh kỳ lương cuối cùng chỗ tiệm buôn.
Anh vào ở trong căn phòng cuối nhà, nó nhìn ra cái sân đất nện. Đây là một biện pháp thừa nhưng nó giúp anh khởi sự cuộc nhốt mình tự nguyện.
Từ cái giường sắt hẹp anh dùng để quay lại với thói quen ngủ trưa, anh thoáng buồn bã nhìn lên một giá sách trống không.
Anh đã bán tất cả sách, kể cả đống giáo trình luật. Anh chỉ còn một quyển Kinh Thánh mà anh chưa từng đọc và sẽ không đọc hết.
Anh giở từng trang ra đọc, lúc thì say sưa, lúc thì thấy chán, và anh tự bắt mình phải học thuộc lòng một chương nào đó trong Sách Xuất Hành và đoạn cuối Sách Giảng Viên. Anh không cố hiểu những gì mình đọc. Anh là người có tư tưởng thoáng đạt nhưng không đêm nào anh không đọc kinh Lạy Cha như đã hứa với mẹ khi chia tay bà lên Montevideo. Anh nghĩ hứa với mẹ rồi không giữ lời chắc sẽ gặp bất hạnh.
Anh biết mình sẽ phải đợi đến buổi sáng 25 tháng Tám. Anh biết chính xác còn bao nhiêu lâu nữa mới tới ngày đó. Chừng nào đã đạt được mục đích, thời gian có thể ngừng, hoặc, chính xác hơn, sau đó có xảy ra chuyện gì thì cũng chẳng quan trọng nữa. Anh đợi ngày ấy như người ta đợi một niềm hạnh phúc hoặc một sự giải thoát. Anh đã để đồng hồ của mình chết ngõ hầu không mất thời gian ngó nó nữa, nhưng đêm nào khi nghe bên ngoài chuông điểm mười hai giờ, anh cũng xé một tờ lịch và tự nhủ: thế là bớt được một ngày.
Thoạt tiên anh muốn dựng ra một thói lệ: uống maté, hút thuốc lá Thổ tự tay anh vấn, đọc và đọc lại một số trang sách nhất định, thử nói chuyện với Clementina khi bà mang khay đồ ăn đến cho anh, lẩm nhẩm vài lời trước khi thổi nến. Nói chuyện với Clementina, một phụ nữ đã rất già, không phải chuyện dễ vì ký ức bà đã chôn chân ở vùng nông thôn xa xôi và ở cuộc sống thường nhật nơi đó.
Anh cũng bày bàn cờ ra và chơi lung tung những ván không kết thúc được. Bộ cờ thiếu mất một quân xe, anh thay bằng một viên đoạn hoặc một đồng hai mươi xu chơi tạm.
Để thời gian trôi qua nhanh hơn, sáng sáng Arredondo lấy giẻ và chổi dọn dẹp, lau chùi căn phòng, và tiêu diệt lũ nhện. Người phụ nữ mulatto không ưng nhìn anh hạ mình làm cái loại công việc thuộc phận sự của bà, thêm nữa anh lại còn làm việc ấy rất tệ.
Anh những muốn thức dậy khi mặt trời đã lên cao nhưng thói quen dậy thật sớm mạnh hơn ý chí. Anh rất nhớ bạn bè mặc dù, với một chút cay đắng trong lòng, anh biết họ sẽ chẳng tiếc nuối gì khi anh vắng mặt, bởi vì anh cứ khăng khăng tỏ ra rụt rè. Một chiều có người đến hỏi tin tức của anh và bị mời về ngay ở cửa. Clementina không quen người đó, thế nên Arredondo không bao giờ biết đó là ai. Vốn là người ghiền đọc báo, giờ anh thấy thật nặng nề khi phải dứt bỏ những viện bảo tàng trưng bày những thứ vụn vặt phù du ấy. Anh không phải người có thiên hướng suy tư hay thích ngẫm nghĩ.
Ngày và đêm cứ thế giống hệt nhau, nhưng các Chủ nhật với anh đặc biệt nặng nề.
Đến quãng giữa tháng Bảy, anh nghĩ mình đã sai lầm khi chia nhỏ thời gian ra, vì dù cho ta có làm gì, thời gian vẫn cuốn ta đi.
Thế là anh bèn mặc cho trí tưởng tượng phiêu bạt trên những khoảng rộng lớn của đất nước, giờ đây đang đẫm máu, trong ý nghĩ anh nhìn lại những cánh đồng Santa Irena chập chùng, nơi ấy anh từng thả diều, rồi một con ngựa chắc đã chết, bụi tung mù phía sau những đàn gia súc bị đám thợ chăn quất roi dẫn đi, chiếc xe đẩy hằng tháng từ Fray Bentos đến, chất đầy đủ thứ hàng hóa lặt vặt, vịnh La Agraciada nơi Ba Mươi Ba Anh Hùng đổ bộ, Hervidero, những dãy đồi, rừng và sông, rồi núi Cerro mà anh đã leo đến tận ngọn hải đăng trên đỉnh, tin rằng ở cả hai bên bờ dòng Plata không còn có nơi nào có thể ngắm được quang cảnh đẹp hơn. Từ ngọn núi ở vịnh anh nghĩ sang hình ngọn núi trên tấm quốc huy và ngủ thiếp đi.
Đêm đêm gió Nam mang tới sự dịu mát ru đằm giấc ngủ. Anh không bao giờ mất ngủ.
Anh yêu sâu sắc vợ chưa cưới của mình nhưng anh tự nhủ một người đàn ông không được nghĩ đến phụ nữ, nhất là khi những phụ nữ ấy không ở bên cạnh. Cuộc sống nông thôn đã dạy anh quen với nếp sống thanh đạm. Còn chuyện kia thì… anh cố sao càng ít nghĩ đến kẻ mà anh căm ghét càng tốt.
Tiếng mưa rơi gõ lên mái nhà bầu bạn với anh.
Với một tù nhân hay một người mù, thời gian trôi chảy như nước trên sườn dốc.
Đến quãng giữa đợt tự nhốt mình, Arredondo đã hơn một lần được trải nghiệm cái thời gian gần như nằm bên ngoài thời gian ấy. Ở chỗ căn thứ nhất của khu nhà có một cái giếng, dưới đáy có một con cóc; chưa bao giờ anh nảy ra ý nghĩ thời gian của con cóc, rất gần với vĩnh cửu, chính là loại thời gian mà anh mong mỏi.
Sắp đến ngày ấy, anh lại thấy sốt ruột. Đêm nọ, không chịu nổi nữa, anh đi ra phố. Mọi thứ như thể mới mẻ và to lớn hơn. Rẽ ở một góc phố, thấy có ánh đèn, anh bước vào một quán cà phê. Vào đến đây mà không làm gì cũng dở, nên anh gọi một cốc rượu. Tụi lính đứng trước quầy tán chuyện với nhau. Một tên nói:
“Các cậu cũng biết là đã có lệnh cấm ngặt nhắc đến các trận đánh. Chiều qua bên bọn tớ xảy ra một chuyện chết cười. Bọn tớ đi qua trước trụ sở tờ La Razón thì nghe bên trong có tiếng kẻ nào đang vi phạm lệnh này. Không chần chừ, bọn tớ bèn đi vào. Phòng biên tập tối om, nhưng bọn tớ cứ thế nã đạn vào cái kẻ vẫn tiếp tục nói. Khi rốt cuộc hắn cũng đã im mồm, bọn tớ mò mẫm tìm để lôi hắn ra ngoài, nhưng lúc ấy bọn tớ mới nhận ra đó là một cái đài phát thanh, nó cứ thế mà tự nói thôi.”
Cả bọn rũ ra cười. Arredondo vẫn im lặng. Tên lính hỏi anh:
“Chuyện hay phải không, aparcero?”
Arredondo không nói lời nào, thế là tên lính mặc quân phục tiến lại gần nói với anh:
“Hét to câu này ngay lập tức: Tổng thống Juan Idiarte Borda muôn năm!”
Arredondo không chịu làm theo. Trong những tiếng vỗ tay chế giễu, anh đi ra đến cửa. Một câu chửi cuối cùng vẳng ra theo khi anh đã ngoài phố:
“Nỗi sợ thì không thù oán và không ngốc.”
Anh đã hành động như một kẻ hèn nhát, nhưng anh biết mình không phải kẻ hèn nhát. Anh chậm rãi đi về nhà.
Ngày 25 tháng Tám, Avelino Arredondo thức giấc khi đã hơn chín giờ. Trước tiên anh nghĩ đến Clara rồi sau đó mới nghĩ đến ngày hôm nay. Anh nhẹ nhõm tự nhủ: Kết thúc cực hình chờ đợi rồi. Cuối cùng cũng đã tới ngày huy hoàng!
Anh thong thả cạo râu, cái gương phản chiếu khuôn mặt thường ngày của anh. Anh chọn một cái cà vạt màu đỏ và mặc lên người bộ quần áo đẹp nhất. Anh ăn trưa muộn. Bầu trời xám xịt báo hiệu cơn mưa; anh thì lại vẫn hình dung bầu trời sẽ rạng rỡ. Tim anh thắt lại khi anh vĩnh viễn rời khỏi căn phòng ẩm ướt. Ngoài sảnh, anh gặp Clementina, anh đưa bà những đồng xu cuối cùng còn lại trong túi. Trên tấm biển của cửa hiệu kim khí anh nhìn thấy hình những viên kim cương nhiều màu sắc và anh tự nhủ đã hai tháng nay anh quên biến chúng. Anh đi về phía phố Sarandi. Đó là một ngày lễ, ngoài phố rất vắng người.
Anh đến quảng trường Matriz thì vẫn chưa tới ba giờ. Vừa xong bài Te Deum; một nhóm chức sắc, sĩ quan quân đội và giáo sĩ đang chầm chậm bước xuống các bậc thang nhà thờ. Thoạt nhìn, những chiếc mũ cao mà vài người còn cầm trên tay, những bộ quân phục, quân hàm, vũ khí và áo chùng khiến ta có cảm giác là đông người lắm; trên thực tế tổng cộng chỉ có khoảng ba mươi người. Arredondo, không hề cảm thấy chút sợ hãi nào, thấy lòng mình ngập tràn sự kính trọng. Anh hỏi xem ai là tổng thống. Người ta trả lời anh:
“Người kia kìa, đang đi bên cạnh đức tổng giám mục đội mũ tế và cầm trượng ấy.”
Anh rút súng ra và bắn.
Idiarte Borda tiến lên vài bước, ngã sấp mặt xuống đất và thốt ra vài từ nghe rất rõ: Tôi chết đây.
Arredondo tự nộp mạng cho nhà chức trách. Sau này anh sẽ tuyên bố:
“Tôi là thành viên Đảng Đỏ và tôi tự hào nói điều đó. Tôi đã giết Tổng thống, hắn phản bội và làm dơ bẩn đảng chúng tôi. Tôi đã cắt đứt liên hệ với bạn bè và vợ chưa cưới của tôi, để không làm liên lụy đến họ; tôi đã không đọc tờ báo nào để không ai có thể nói rằng tôi chịu một ảnh hưởng nào đó. Chỉ mình tôi chịu trách nhiệm với hành động trừng phạt này. Giờ thì cứ việc xử tôi đi.”
Hẳn mọi việc đã xảy ra như thế, tuy rằng phức tạp hơn; tôi mơ là mọi việc đã xảy ra như thế.
* Câu chuyện này có thực: Juan Idiarte Borda (1844-1897), tổng thống Uruguay từ 1894, bị sát hại trên cầu thang nhà thờ lớn Montevideo sau một buổi lễ. Arredondo đã được bào chữa bởi luật sư Luis Melian Lafinur, ông họ của Borges.
Nhị Linh dịch
Sách cát
… thy rope of sands…
George Herbert (1593-1633)
Đường thẳng do vô số điểm tạo nên, mặt phẳng do vô số đường thẳng tạo nên, khối do vô số mặt phẳng tạo nên, siêu khối do vô số khối tạo nên… Không, nhất định, more geometrico, đây không phải là cách hay nhất để bắt đầu truyện. Ngày nay có quy ước phải khẳng định mọi câu chuyện huyền ảo là có thực; tuy nhiên, truyện của tôi là thực.
Tôi sống một mình ở tầng năm một tòa nhà trên phố Belgrano. Cách đây vài tháng, cuối buổi chiều, tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và một người lạ mặt bước vào. Đó là một người đàn ông cao lớn, đường nét khuôn mặt khó miêu tả. Cũng có thể do cận thị mà tôi nhìn ra như vậy. Toàn bộ dáng vẻ của anh ta toát lên sự nghèo nàn thanh nhã. Anh ta mặc đồ màu xám, tay xách một cái va li. Tôi nhận ngay ra anh ta là người nước ngoài.
Thoạt tiên, tôi cứ nghĩ anh ta nhiều tuổi; sau đó thì tôi nhận ra mình đã nhầm khi căn cứ vào mái tóc vàng thưa thớt gần như ngả sang màu trắng, kiểu Bắc Âu. Trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, kéo dài không quá một tiếng đồng hồ, tôi được biết anh ta là người Orkney.
Tôi mời anh ta ngồi xuống ghế. Mất một lúc anh ta mới cất tiếng. Từ anh ta toát lên vẻ buồn bã, giống hệt như tôi hiện giờ.
“Tôi bán sách Kinh Thánh,” anh ta bảo tôi.
Với chút hợm, tôi đáp:
“Ở nhà tôi có nhiều bản Kinh Thánh tiếng Anh, có cả bản đầu tiên, của Jean Wiclef. Tôi cũng có bản của Cipriano de Valera, bản của Luther, xét từ khía cạnh văn chương thì đó là bản tệ nhất, và một bản Vulgate tiếng Latinh. Anh cũng thấy đấy, tôi không có thiếu Kinh Thánh.”
Anh ta im lặng một lúc rồi nói với tôi:
“Tôi không chỉ bán Kinh Thánh. Tôi có thể cho ông xem một quyển sách linh thiêng chắc sẽ khiến ông quan tâm. Tôi đã mua nó ở biên giới Bikaner.”
Anh ta mở va li và đặt vật đó lên bàn. Một quyển sách khổ octavo, bìa bọc vải. Hẳn nó từng qua tay nhiều người. Tôi xem nó; tôi kinh ngạc trước trọng lượng bất thường của nó. Trên gáy tôi đọc được Holy Writ, phía dưới là Bombay.
“Chắc là sách thế kỷ mười chín, tôi nêu nhận xét.”
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ biết,” đó là câu trả lời của anh ta.
Tôi mở hú họa. Tôi không nhận ra quyển sách viết bằng tiếng gì. Các trang có vẻ đã khá sờn rách và chữ thì xấu, được trình bày thành hai cột giống như Kinh Thánh. Các dòng in rất sít và được bố trí thành các khổ. Góc trên các trang có các chữ số Arập. Tôi nhận thấy một trang chẵn được đánh số (chẳng hạn thế) 40514 và trang lẻ ngay sau đó đánh số 999. Tôi lật qua trang này, đến một trang mang tám chữ số. Trang này có một hình minh họa nhỏ, như ta hay thấy trong các từ điển: một cái mỏ neo vẽ bằng bút, trông vụng về như do tay một đứa trẻ.
Người lạ mặt nói:
“Ông nhìn nó cho kỹ đi. Sẽ không bao giờ ông nhìn thấy lại nữa đâu.”
Trong câu nói này có điều gì đó như đe dọa, nhưng không phải ở giọng nói. Tôi bèn đánh dấu chỗ chính xác rồi gập quyển sách lại. Tôi giở lại nó. Tìm thế nào, dù cho lật từng trang, cũng không thấy cái mỏ neo đâu nữa. Để che giấu nỗi kinh ngạc, tôi bảo anh ta:
“Đây là một phiên bản của Sách Thánh bằng một thứ ngôn ngữ Hindu, có phải không?”
“Không,” anh ta đáp.
Rồi, hạ thấp giọng như muốn nói một bí mật, anh ta nói:
“Tôi đã mua quyển sách này tại một ngôi làng vùng đồng bằng, với vài rupi và một quyển Kinh Thánh. Người chủ cũ của nó không biết đọc. Tôi ngờ rằng anh ta coi quyển Sách Của Các Sách là một tấm bùa. Anh ta thuộc đẳng cấp thấp nhất, giẫm lên bóng của anh ta là bị lây bệnh đấy. Anh ta bảo tôi quyển sách của anh ta tên là Sách Cát, vì quyển sách này giống như cát, không có khởi đầu cũng không có kết thúc.”
Tôi đặt tay trái lên bìa sách, ngón cái ép sát vào ngón trỏ rồi mở quyển sách ra. Có cố đến đâu cũng công cốc: lúc nào cũng có ít trang giữa bìa và ngón tay cái của tôi. Cứ như thể chúng mọc ra từ quyển sách vậy.
“Giờ ông thử tìm trang cuối đi.”
Mọi cố gắng của tôi cũng đều thất bại; tôi chỉ đủ sức ấp úng bằng cái giọng không còn là giọng của tôi nữa:
“Không thể nào.”
Vẫn thì thầm, người bán Kinh Thánh bảo tôi:
“Không thể nào, nhưng mà lại có đấy. Chính xác là quyển sách này có số trang bất tận. Không trang nào là trang đầu, không trang nào là trang cuối. Tôi chẳng biết tại sao chúng lại được đánh số kiểu võ đoán như vậy nữa. Có thể là để ta hiểu rằng các thành tố của một chuỗi vô tận có thể được đánh số theo một cách thức tuyệt đối ngẫu nhiên.”
Rồi, như thể buột miệng nói ra suy nghĩ của mình, anh ta thêm:
“Nếu không gian là vô tận thì chúng ta ở vào bất kỳ điểm nào của không gian. Nếu thời gian là vô tận thì chúng ta ở vào bất kỳ điểm nào của thời gian.”
Câu nói của anh ta làm tôi bực bội.
“Anh có theo đạo, phải không?” tôi hỏi.
“Vâng, tôi theo dòng Tin Lành Calvin. Lương tâm tôi thanh thản. Tôi chắc chắn là mình đã không lừa đảo anh chàng bản xứ kia, đem Lời Chúa đổi lấy quyển sách quỷ quái của anh ta.”
Tôi trấn an anh ta, bảo anh ta không có gì để tự chê trách, rồi hỏi có phải anh ta chỉ đi ngang qua đây. Anh ta đáp rằng sắp tới đây chắc anh ta sẽ về nước. Khi ấy tôi mới được biết anh ta là người Xcôtlen, quê anh ta ở quần đảo Orkney. Tôi bảo anh ta rằng cá nhân tôi rất yêu mến xứ Xcôtlen, vì tôi rất hâm mộ Stevenson và cả Hume nữa.
“Và cả Robbie Burns nữa,” anh ta chỉnh tôi.
Tôi vẫn luôn tay giở quyển sách bất tận trong lúc chúng tôi nói chuyện.
“Anh có định tặng mẫu vật kỳ lạ này cho Bảo tàng Anh quốc không?” tôi hỏi anh ta, vờ tỏ ra hững hờ.
“Không. Tôi định dành nó cho ông đấy,” anh ta đáp, và nêu một cái giá rất cao.
Tôi thành thực trả lời rằng tôi không đáp ứng được số tiền này, và bắt đầu suy nghĩ. Sau vài phút, tôi nghĩ ra một kế hoạch.
“Tôi đề nghị ta trao đổi nhé,” tôi nói. “Anh đã có được quyển sách này chỉ với vài đồng rupi và một quyển Kinh Thánh; còn tôi sẽ đưa anh lương hưu của tôi mà tôi vừa mới lĩnh đây, kèm với quyển Kinh Thánh Wiclef viết bằng tuồng chữ gô tích. Của bố mẹ tôi để lại đấy.”
“A black letter Wiclef!” anh ta thì thầm.
Tôi vào buồng trong lấy tiền và quyển sách cho anh ta. Anh ta lật giở sách, săm soi trang nhan đề với vẻ say sưa của dân ghiền sách.
“Ta thỏa thuận vậy đi nhé,” anh ta bảo tôi.
Tôi thấy ngạc nhiên vì anh ta đã không mặc cả. Mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng anh ta đã đến nhà tôi cốt để bán cho tôi quyển sách. Thậm chí còn không đếm, anh ta nhét luôn xấp tiền vào túi.
Chúng tôi trò chuyện về Ấn Độ, về Orkney và các vua Na-uy từng cai quản quần đảo. Khi anh ta đi khỏi thì trời đã tối mịt. Tôi chưa từng gặp lại, cũng không biết tên anh ta.
Tôi tính xếp Sách Cát vào khoảng trống mà quyển Kinh Thánh Wiclef để lại, nhưng cuối cùng tôi quyết định giấu nó vào sau những tập Nghìn lẻ một đêm không cùng khổ sách với nhau.
Tôi đi nằm nhưng không ngủ nổi. Quãng ba hay bốn giờ sáng, tôi bật đèn lên. Tôi cầm lấy quyển sách bất khả và bắt đầu lật giở nó. Trên một trang, tôi thấy hình vẽ một cái mặt nạ. Phía trên trang giấy ghi một con số, mà tôi đã quên, lên đến lũy thừa bậc 9.
Tôi không cho ai xem kho báu của mình. Thêm vào niềm hạnh phúc được sở hữu quyển sách là nỗi sợ nó sẽ bị xoáy mất, rồi tới nỗi nghi ngờ rằng nó không thực sự bất tận. Hai nỗi lo lắng này càng làm tăng thêm tính ghét người cố hữu ở tôi. Tôi vẫn còn vài người bạn; giờ tôi ngừng gặp họ luôn. Trở thành tù nhân của quyển sách, gần như tôi tuyệt đối không đặt chân ra khỏi nhà nữa. Tôi dùng kính lúp săm soi gáy và các bìa sách cũ nát, kết quả là tôi loại trừ hoàn toàn khả năng đây là một món đồ lừa đảo. Tôi nhận ra rằng những hình minh họa nho nhỏ nằm trên hai nghìn trang khác nhau. Tôi chép chúng lại trong một bảng kê xếp theo bảng chữ cái, chẳng mấy chốc tôi đã viết đầy bảng. Chúng không bao giờ xuất hiện trở lại. Đêm đến, vào những quãng nghỉ hiếm hoi mà chứng mất ngủ tha không bắt tôi phải chịu, tôi mơ thấy quyển sách.
Sắp hết mùa hè thì tôi hiểu ra rằng quyển sách này thật gớm ghiếc. Chẳng ích lợi gì khi tôi nhận ra chính mình cũng thật gớm ghiếc, cứ dùng mắt mà nhìn và dùng mười đầu ngón tay mà mân mê nó. Tôi cảm nhận rằng đây là một thứ đồ vật ác mộng, một thứ dơ dáy phỉ nhổ và làm lụn bại hiện thực.
Tôi nghĩ đến lửa, nhưng lại e một quyển sách bất tận cũng sẽ cháy bất tận, rồi thì khói của nó sẽ làm ngộp thở toàn thế giới.
Tôi chợt nhớ từng đọc ở đâu đó rằng nơi tốt nhất để giấu một chiếc lá là một khu rừng. Trước khi về hưu, tôi làm việc ở Thư viện quốc gia, ở đó có chín trăm nghìn quyển sách; tôi biết rằng bên tay phải sảnh ngoài có một cầu thang xoáy trôn ốc dẫn xuống hầm lưu giữ tạp chí và bản đồ. Tôi lợi dụng lúc các nhân viên không để ý dúi quyển sách cát vào một ngăn ẩm ướt. Tôi cố không nhìn xem nó cao chừng nào và cách cửa bao xa.
Tôi thấy nhẹ nhõm một chút nhưng sau đó thậm chí tôi còn không muốn đi qua phố Mexico.
Tôi thấy nhẹ nhõm một chút nhưng sau đó thậm chí tôi còn không muốn đi qua phố Mexico.
Nhị Linh dịch