favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Ba truyện ngắn của Edna O’Brien

03/08/2025 10:10

Edna O’Brien là một trong những nhà văn lớn của Ireland hiện đại, người mở đường cho văn chương viết về nữ giới Ireland thời kỳ nội chiến. Bà là bạn lâu năm của Philip Roth. Trong một phỏng vấn, Philip Roth đã nhận xét văn xuôi của Edna như “tấm lưới dệt tỉ mỉ” - cụm từ về sau xuất hiện trong một cuốn sách nghiên cứu: Fine Meshwork: Philip Roth, Edna O'Brien, and Jewish‑Irish Literature.

Ba truyện dưới đây, rút từ tuyển tập The Love Object (2013) đề tặng Roth, là tiền âm và mở rộng của The Country Girls Trilogy: bộ tiểu thuyết đánh dấu chuyển động đầu tiên của văn chương Edna O’Brien. Sinh ra từ những kinh nghiệm của rất nhiều thế giới, văn chương ấy là cuộc tìm đường bền bỉ giữa những đan cài vi tế của các vùng đối lập, sẵn sàng buông mình để từ dục vọng hỗn độn đạt tới hình thức thuần khiết nhất.

 

Tiệc kiểu Ireland

- Edna O’Brien

Mary chỉ mong cái lốp trước vốn đã mục không nổ tung. Thật ra ruột xe bị thủng và cô phải dừng lại hai lần để bơm, phát điên vì cái bơm không có đầu gắn, phải chèn tạm một góc khăn tay mới dùng được. Từ khi có ký ức, cô đã quen với việc bơm xe đạp, vác than bùn, dọn nhà, làm những  việc của đàn ông. Bố và hai anh trai cô đều làm trong ngành lâm nghiệp, tất tật việc vặt nhà dồn cả lên hai mẹ con cô; ba đứa nhỏ thì phải chăm gà lợn và quay bơ. Trang trại nhà họ nằm trên vùng núi cao Ireland, cuộc sống rất cực nhọc.

Nhưng chiều lạnh đầu tháng Mười Một ấy, cô được thảnh thơi. Cô đạp xe trên con đường núi, hai bên là hàng rào gai trơ trụi, háo hức nghĩ đến bữa tiệc. Dù đã mười bảy tuổi, đây là bữa tiệc đầu tiên trong đời cô. Sáng nay thiệp mời mới đến - từ Mrs. Rodgers ở khách sạn Commercial. Người đưa thư chuyển lời nhắn của bà rằng tối nay cô nhất định phải xuống đó. Ban đầu mẹ không muốn cho Mary đi vì việc nhà còn bề bộn - phải nấu cháo, rồi một trong hai đứa sinh đôi bị đau tai nên đêm nay chắc sẽ lại khóc. Mary ngủ chung với chúng, nhiều lúc lo mình nằm đè lên hoặc làm chúng ngạt thở vì cái giường quá chật. Cô nài nỉ được đi.

“Đi để làm gì?” mẹ cô nói. Với mẹ cô, mọi cuộc đi chơi đều chỉ gây xáo trộn, bởi chúng cho người ta nếm những thứ chẳng thể sở hữu. Nhưng cuối cùng bà cũng xiêu lòng, phần lớn là vì bà Rodgers chủ khách sạn Commercial là người quan trọng, không thể thất lễ.

Con đi đi, miễn sáng mai về kịp giờ vắt sữa; nhớ đừng có để đầu óc mụ mị đấy,” mẹ cô dặn. Mary định ngủ qua đêm trong làng, ở nhà Mrs. Rodgers. Cô tết tóc, rồi lại chải tóc ra, tóc xõa xuống vai thành những lọn tối màu xoăn nhẹ. Cô mặc chiếc váy ren đen chẳng thuộc về ai trong nhà, được gửi từ Mỹ về nhiều năm trước. Mẹ cô vẩy nước thánh lên người cô, đưa cô ra đầu ngõ và dặn đi dặn lại là tuyệt đối không được đụng đến rượu.

Mary thấy lòng rộn ràng khi đạp xe chầm chậm, tránh những ổ gà phủ lớp băng mỏng. Sương giá suốt ngày hôm ấy chưa tan. Mặt đất cứng đanh. Nếu cứ thế mãi thì sẽ phải đưa mấy con bò vào chuồng và cho chúng ăn cỏ khô.

Con đường ngoằn ngoèo rồi lên dốc; cô cũng lượn theo, khi leo lên những đồi thấp, khi lại buông theo sườn dốc. Đến chân Đồi Lớn, cô xuống xe - phanh xe chập chờn - và theo thói quen cô ngoái lại nhìn ngôi nhà của mình. Đó là ngôi nhà duy nhất nằm khuất sau lưng cô trên sườn núi, nhỏ bé, quét vôi trắng, xung quanh mọc lưa thưa vài cái cây, phía sau có một khoảnh đất gọi là bếp vườn. Trong đó có một luống đại hoàng, vài bụi cây nơi họ thường đổ bã trà và một khoảng cỏ xanh nơi vào mùa hè họ thường quây chuồng gà, cứ hai ngày lại dời sang chỗ khác. Cô ngoảnh mặt đi, Bây giờ cô được tự do nghĩ đến John Roland. Anh đến cùng này cách đây hai năm, cưỡi mô-tô phóng như bay khiến bụi tung mù ám vào những tấm vải phủ sữa đang phơi trên hàng rào. Anh dừng lại hỏi đường. Khi đó anh đang thuê phòng ở khách sạn Commercial của Mrs. Rodgers và lên núi để xem cái hồ nổi tiếng vì sắc nước biến ảo. Nước hồ đổi màu rất nhanh - từ xanh lam, xanh lục, đến đen thẫm - chỉ trong vỏn vẹn một giờ. Vào hoàng hôn, mặt hồ thường chuyển sang sắc đỏ kỳ lạ, trông không còn giống hồ mà giống một bể rượu vang.

“Dưới kia.” cô nói với người lạ mặt, tay chỉ xuống dưới, nơi có một hòn đảo nhỏ giữa lòng nước. Anh đã rẽ nhầm đường.

Những đồi và ruộng ngô đổ dốc gắt về phía hồ. Sự khô cằn của vùng đồi hiện rõ qua những tảng đá lổn nhổn. Ruộng ngô đang ngả màu, bây giờ là giữa hè; các bờ mương rực lên sắc đỏ như máu của hoa vân anh; sữa chua sau năm tiếng phải đưa vào bồn chứa. Anh nói cảnh vật ở đây thật lạ và quyến rũ. Cô thì chẳng hứng thú với phong cảnh. Cô chỉ ngước nhìn bầu trời và thấy một con diều hâu đang lơ lửng trên đầu hai người. Một khoảng lặng: con chim đứng yên giữa không trung. Và ngay lúc đó mẹ cô bước ra xem người lạ là ai. Anh bỏ mũ bảo hiểm ra và nói “Xin chào” rất lịch sự. Anh tự giới thiệu mình là John Roland, một họa sĩ người Anh sống ở Ý.

Cô không nhớ rõ chuyện xảy ra thế nào, chỉ biết rằng một lúc sau anh đã cùng họ vào bếp uống trà.

Đã hai năm kể từ đó; cô chưa bao giờ thôi hy vọng, có thể là tối nay. Người đưa thư bảo rằng có ai đó đặc biệt ở khách sạn Commercial đang chờ cô. Cô thấy lòng hân hoan khôn tả. Cô thì thầm với chiếc xe đạp và có cảm giác như niềm hạnh phúc của mình đang ngời lên đâu đó trong sắc ngọc trai của bầu trời lạnh, trong những cánh đồng phủ sương đang dần chuyển xanh lúc chạng vạng, trong những ô cửa sáng đèn của những căn nhà nhỏ ven đường. Bố mẹ cô bỗng giàu có và vui vẻ hơn; hai đứa sinh đôi thì hết đau tai; lửa trong bếp không còn hầm hập khói. Thỉnh thoảng cô khẽ cười khi nghĩ đến lúc gặp lại anh - giờ cô đã cao hơn, ngực nảy nở hơn và đang mặc một cái váy rất diện. Cô quên khuấy cái lốp xe mục, ngồi lên và đạp tiếp.

Năm ngọn đèn đường đã sáng khi cô đạp xe vào làng. Hôm nay có phiên chợ gia súc nên đường chính đầy phân. Dân làng che chắn cửa sổ bằng những tấm gỗ và những tấm chắn tạm bợ làm từ ván và thùng. Vài người đang cọ đoạn vỉa hè trước nhà, tay xách xô, tay cầm bàn chải. Bò đi lờ lững kêu moo moo - lũ bò vẫn thường làm thế khi lạc vào con phố lạ. Những nông dân say xỉn tay khua gậy đang cố nhận diện gia súc nhà mình trong nhập nhoạng.

Từ ngoài cửa kính hiệu tạp hóa của khách sạn Commercial, Mary nghe thấy tiếng trò chuyện ồn ào và giọng đàn ông hát hò. Kính mờ nên cô không nhìn rõ ai mà chỉ thấy những cái đầu chuyển động mơ hồ bên trong. Khách sạn trông xập xệ, những bức tường vàng ố đã lâu không được sơn lại, từ hồi De Valera ghé qua làng trong kỳ tranh cử năm năm trước. Ông ấy đã lên lầu, ngồi trong phòng khách, ký tên bằng bút mực rẻ tiền vào một cuốn sổ lưu niệm và chia buồn với Mrs. Rodgers về cái chết gần đây của chồng bà.

Mary định dựng xe vào mấy thùng bia đặt dưới cửa sổ rồi trèo lên ba bậc đá dẫn tới cửa chính, nhưng đúng lúc đó, then cửa tiệm kêu cách khiến cô hoảng hốt chạy vụt vào con hẻm bên hông, sợ đó là người quen của bố cô và sẽ về mách rằng đã thấy cô đi vào quán rượu. Cô dắt xe vào trong một cái lán rồi bước tới chỗ cửa sau. Cửa mở, nhưng cô vẫn gõ trước khi vào.

Hai cô gái thị trấn chạy ào ra cửa. Một trong hai là Doris O’Beirne, con gái ông thợ đóng yên cương. Cô là người duy nhất trong làng có tên Doris, và chính điều đó khiến cô nổi tiếng cùng với việc một bên mắt cô màu xanh lam trong khi bên kia màu nâu sẫm. Cô đang học tốc ký và đánh máy ở trường kỹ thuật địa phương và dự định sau này sẽ làm thư ký cho một ông lớn chính phủ nào đo ở Dublin.

“Chúa ơi, cứ tưởng ai quan trọng,” cô buột miệng khi thấy Mary đứng đó, mặt đỏ bừng ngượng ngập, tay cầm một chai kem. Lại một đứa con gái nữa! Con gái ở cái vùng này rẻ như bèo. Người ta đồn rằng vì nước vôi nên người ta mới đẻ nhiều con gái như vậy. Con gái có đứa da trắng hồng, cặp mắt đều nhau, lại có đứa như Mary - tóc dài lượn sóng, vóc dáng mê hồn.

“Vào hay đứng ngoài đấy,” Eithne Duggan - cô gái thứ hai - nói với Mary. Chỉ là câu đùa, nhưng cả hai cũng chẳng ưa gì cô. Họ ghét những người quê mùa nhút nhát từ miền núi xuống.

Mary bước vào, tay cầm chai kem mẹ cô gửi biếu Mrs. Rodgers. Cô đặt nó lên tủ chạn rồi cởi áo khoác. Hai cô gái liếc nhau khi thấy cái váy cô đang mặc. Trong bếp xộc lên mùi phân bò từ ngoài đường lẫn với mùi hành phi từ cái chảo đang sôi lăn tăn trên bếp.

“Mrs. Rodgers đâu rồi?” Mary hỏi.

“Phục vụ,” Doris đáp, giọng khinh khỉnh như thể chuyện ấy đứa ngốc nào cũng biết. Hai ông lão đang ngồi ăn ở bàn.

“Tôi không nhai được, tôi không có răng,” một ông nói với Doris. “Thịt này dai như da thuộc ấy,” ông vừa nói vừa chìa cái đĩa thịt bò cháy khét về phía cô. Đôi mắt ông lơ ngơ, nước mắt ậng lên, chớp chớp như trẻ con. Có phải không nhỉ, Mary tự hỏi, rằng đôi mắt người ta sẽ phai dần theo tuổi tác, như mấy bông chuông xanh cắm lâu trong lọ?

“Cô không định tính tiền món này đấy chứ,” ông lão đang nói với Doris. Ở khách sạn Commercial, trà và thịt hết năm shilling.

“Nhai thì tốt cho lão chứ sao,” Eithne Duggan trêu chọc.

“Còn mỗi lợi thì nhai thế nào được,” ông nói, và hai cô gái bắt đầu cười khúc khích. Ông lão trông có vẻ hài lòng vì đã khiến họ cười, rồi ông ngậm miệng day thử mấy miếng bánh mì tươi tắn mới mua ngoài tiệm. Eithne cười đến mức phải cắn vào một cái khăn lau bát cho đỡ bật thành tiếng. Mary treo áo khoác lên và đi vào trong tiệm.

Mrs. Rodgers từ quầy bước ra.

“Mary, mừng là cháu đến. Hai đứa kia chẳng được tích sự gì, suốt ngày chỉ cười rúc rích. Bây giờ việc đầu tiên là phải dọn lại phòng khách trên lầu. Phải dẹp hết mọi thứ, chỉ để lại cây đàn piano. Tối nay sẽ có khiêu vũ các thứ.”

Mary, nhận ra rằng mình vừa bị giao việc, đỏ bừng mặt vì bàng hoàng và thất vọng.

“Tống hết vào phòng ngủ phía sau đi,” Mrs. Rodgers nói, trong khi Mary nghĩ đến chiếc váy ren tuyệt đẹp mà mẹ cô còn chẳng cho phép mặc đi lễ Chủ nhật.

“Còn phải nhồi con ngỗng nữa, xong cho nó vào lò,” Mrs. Rodgers lại nói, tiếp tục giải thích rằng bữa tiệc này được tổ chức để mừng ông cán bộ Hải quan và Thuế địa phương nghỉ hưu - vì vợ ông ta vừa trúng xổ số. Hai ngàn bảng. Vợ ông ta sống cách đây ba mươi dặm, tận phía bên kia Limerick, còn ông ta thì thuê phòng ở khách sạn Commercial từ thứ Hai đến thứ Sáu, cuối tuần mới về nhà.

“Có người đang chờ cháu,” Mary nói, run lên vì sung sướng, tưởng như sắp được nghe ai đó gọi tên anh ấy. Cô tự hỏi không biết phòng anh ở đâu, liệu lúc này anh có đang ở trong đó không. Trong tưởng tượng, cô bước lên cầu thang ọp ẹp, gõ cửa và nghe tiếng động anh tạo ra bên trong.

“Chờ cháu à!” Mrs. Rodgers nói, thoáng nhíu mày vẻ bối rối. “À, có cậu trai làm ở mỏ đá phiến hỏi thăm cháu đấy, nói là từng thấy cháu ở một buổi khiêu vũ. Cậu ta thật lạ đời.”

“Cậu nào cơ?” Mary hỏi, niềm vui vừa dâng đã rút khỏi trái tim.

“Trời, tên là gì nhỉ,” Mrs. Rodgers lơ đãng nói, quay sang mấy ông khách đang giơ ly không hét gọi bà, “Ờ, được rồi, tới đây.”

Doris và Eithne giúp Mary chuyển mấy món đồ nặng trên lầu. Họ kéo cái tủ búp-phê qua chiếu nghỉ, và một trong những bánh xe đã làm rách lớp linoleum trải sàn. Mary đuối sức vì cô phải gánh đầu nặng hơn, hai người kia thì đứng cùng một phía. Cô có cảm giác họ cố tình làm thế: họ ăn kẹo mà không buồn mời cô một viên, và cô bắt gặp họ nhăn mặt chê bộ váy của mình. Chiếc váy cũng khiến cô lo lắng, lỡ có chuyện gì xảy ra với nó thì sao. Chỉ cần một sợi ren mắc vào mảnh gỗ xước hay góc một thùng bia bằng sắt thì sáng hôm sau cô sẽ chẳng còn mặt mũi nào mà về nhà. Họ khiêng ra một kệ tre đánh vecni, một chiếc bàn nhỏ, mấy món đồ trang trí lặt vặt và cả một cái bô vỡ quai, bên trong cắm mấy cành cẩm tú cầu đã héo rũ. Chúng bốc mùi khủng khiếp.

“Bao nhiêu tiền con cún trong cửa sổ ấy nhỉ, cái đuôi lúc lắc kia?” Doris O’Beirne ngân nga với một con chó bằng sứ trắng, rồi thề rằng cả quán nhậu lụp xụp này không đáng giá mười bảng tiền đồ.

“Mày định để nguyên đống lô ấy cho đến lúc bắt đầu à, Dot?” Eithne Duggan hỏi bạn.

“Chắc chắn rồi,” Doris đáp. Cô đang đội đủ loại lô cuốn tóc - dây thép uốn trắng, kẹp kim loại và mấy cái ống nhựa màu hồng. Eithne thì vừa mới tháo lô ra, mái tóc nhuộm vàng của cô xù lên, dựng đứng, trông phát hoảng. Trong mắt Mary, cô giống như con gà mái rụng lông lại sắp muốn bay. Chúa thương xót, cô đúng là một cô gái bất hạnh. Mắt lé, răng lộn xộn, gần như không có môi; cứ như thể ai đó vội vàng lắp ghép cho ra hình người. Đúng là số phận.

“Cầm lấy,” Doris nói, dúi vào tay Mary mấy bó hóa đơn đã ngả vàng được xiên chặt bằng que gỗ.

Làm cái này đi! Làm cái kia đi! Họ sai cô như người hầu. Mary lau bụi trên cây đàn piano, cả mặt trên, mặt bên và những phím đen phím trắng; rồi đến khung đàn và phần lamri ốp tường. Bụi phủ dày khắp nơi, kết thành một lớp cứng vì hơi ẩm trong phòng. Tiệc tùng gì chứ! Cô thà ở nhà, ít ra thì bụi bặm khi chăm lũ bê, lũ lợn còn là thứ bụi sạch sẽ.

Doris và Eithne thì phấn khởi, bấm loạn xạ mấy phím đàn và lượn từ cái gương này sang cái gương khác. Trong phòng khách có hai gương, và một mặt của tấm bình phong chắn lò sưởi cũng là gương loang lổ. Hai mặt còn lại vẽ hoa súng trên nền vải đen, nhưng cũ kỹ tàn tạ, giống như mọi thứ khác trong phòng.

“Gì đó?” Doris và Eithne hỏi nhau khi nghe tiếng ồn dưới lầu. Họ ùa ra xem chuyện gì, Mary cũng chạy theo. Từ cầu thang, họ thấy một con bê non đã xộc vào cửa chính, đang loạng choạng trượt trên sàn gạch men cố tìm đường thoát ra.

“Đừng kích động nó, đừng làm nó hoảng, tôi bảo rồi mà,” ông lão già không răng nói với chàng trai trẻ đang cố xua con bê đen ra ngoài. Hai chàng trai khác  đang cá cược xem liệu con bê có bĩnh ra sàn không thì Mrs. Rodgers bước ra và làm rơi ly bia đen. Con vật lùi lại theo đường cũ, ngúc ngắc đầu qua lại.

Eithne và Doris ôm nhau cười ngặt nghẽo, rồi Doris vội rút vào trong để mấy cậu con trai khỏi thấy cô đang đội lô và trêu cô. Mary lặng lẽ quay lại phòng, buồn rười rượi. Cô ủ rũ đẩy ghế vào sát tường và quét lớp linoleum nơi lát nữa họ sẽ khiêu vũ.

“Nó đang khóc lóc trong kia kìa,” Eithne Duggan thì thào với Doris. Hai đứa khóa mình trong phòng tắm cùng một chai rượu táo.

“Trời ơi, nó đúng là con ngốc trong cái váy đó,” Doris nói. “Dài thượt!”

“Của mẹ nó đấy,” Eithne bảo. Lúc nãy khi Doris ra ngoài, cô còn khen cái váy và hỏi Mary mua ở đâu.

“Sao nó khóc vậy?” Doris hững hờ hỏi.

“Nó tưởng sẽ có gã trai nào tới. Mày nhớ cái anh chàng từng ở đây hồi mùa hè năm kia, đi mô-tô không?”

“Người Do Thái,” Doris nói. “Nhìn mũi là biết. Trời ơi, nó mà lắc lư trước mặt anh ta trong cái váy đó thì anh ta tưởng nó là bù nhìn rơm mất.” Cô nặn một cái mụn cám ở cằm, xiết lại lô cuốn tóc vừa bung ra, rồi tiếp: “Tóc nó cũng không tự nhiên đâu, nhìn là biết đi uốn.”

“Tao ngứa mắt cái màu tóc đen đó, như bọn Di-gan ấy,” Eithne nói, tu nốt ngụm rượu táo cuối cùng. Họ giấu chai rượu dưới bồn tắm cọ sạch bóng.

“Ngậm viên cachou đi cho đỡ hôi miệng,” Doris nói, vừa hà hơi lên gương phòng tắm, vừa tự hỏi không biết mình có cặp được với anh chàng O’Toole làm ở mỏ đá phiến, người sắp đến dự tiệc hay không.

Mary đang lau ly trong phòng khách phía trước. Nước mắt chảy dài trên má nên cô không bật đèn. Cô đã hình dung ra buổi tiệc sẽ thế nào; mọi người đừng quanh và ăn con ngỗng đang sôi lục bục trên bếp than. Đám đàn ông sẽ say khướt, bọn con gái thì cười rúc rích. Ăn xong, họ sẽ nhảy nhót, hát hò, kể chuyện ma, và sáng hôm sau cô sẽ phải dậy sớm để kịp về nhà vắt sữa. Cô cầm một cái ly bước lại gần khung cửa sổ tối sẫm, nhìn ra con phố lấm lem và nhớ đến lần cùng John khiêu vũ trên con đường trên kia: không nhạc, chỉ có nhịp tim hai người và tiếng rì rào của hạnh phúc.

Anh ghé vào nhà họ uống trà vào một ngày hè, và theo gợi ý của bố cô, anh ở trọ lại bốn hôm giúp thu hoạch cỏ khô và tra dầu vào máy móc làm nông. Anh rành máy móc. Anh còn gắn lại mấy cái tay nắm cửa đã long ra. Ban ngày Mary dọn giường cho anh và mỗi tối lại xách một bình nước mưa từ thùng lên cho anh rửa mặt. Cô giặt chiếc sơ mi ca rô anh mặc, hôm ấy tấm lưng trần của anh bị rám nắng đến bong tróc. Cô bôi sữa tươi lên đó. Đó là ngày cuối cùng anh ở lại. Ăn tối xong, anh rủ mấy đứa con lớn đi một vòng xe máy. Cô được đi sau cùng; cô cảm thấy anh chủ động sắp đặt như thế, nhưng cũng có thể là do các anh trai cô nài nỉ. Cô sẽ không bao giờ quên chuyến đi đó. Nó nóng ran từ đầu xuống chân bởi vui sướng ngỡ ngàng. Anh khen cô giữ thăng bằng giỏi và có lúc bất chợt buông một tay khỏi lái để vỗ nhẹ lên hai bàn tay đan chặt của cô như an ủi. Mặt trời lặn, những bụi hoa kim tước rực vàng. Họ không nói với nhau lời nào suốt quãng đường dài; cô ôm ghì lấy bụng anh bằng cái siết vừa mong manh vừa cuống quýt của một cô gái đang yêu, và dẫu đi xa đến đâu, họ vẫn như đang lao vào một vùng sương vàng óng ánh.  Anh ngắm hồ nước lúc rực rỡ nhất. Họ dừng lại ở cây cầu cách đó năm dặm, ngồi lên bờ tường đá vôi phủ rêu và địa y. Cô bắt một con ve chó trên cổ anh, rồi chạm tay vào chỗ nó vừa cắn để lại một giọt máu; và chính khi ấy, họ bắt đầu khiêu vũ. Tiếng chim chiền chiện và nước suối róc rách vang bên tai. Cỏ phơi trên đồng vẫn còn xanh và chưa được gom, bầu không khí ngào ngạt mùi cỏ. Họ khiêu vũ.

“Mary ngọt ngào,” anh nói, nhìn sâu vào mắt cô. Đôi mắt cô ánh sắc xanh pha nâu. Anh thú nhận rằng anh không thể yêu cô, bởi anh còn vợ con, và dù sao đi nữa, anh nói: “Em còn quá trẻ và quá ngây thơ.”

Ngày hôm sau anh đi, anh hỏi liệu có thể gửi một thứ cho cô qua bưu điện hay không; mười một ngày sau món quà đến: một bức ký hoạ đen trắng chân dung cô, rất giống, chỉ trừ việc cô gái trong tranh xấu hơn cô ngoài đời.

“Thật vô ích,” mẹ cô nói, bà đã trông đợi một chiếc vòng vàng hay một cái trâm cài. “Thứ đó chẳng giúp được gì cho con.”

Họ treo nó lên một cái đinh trong bếp một thời gian, rồi một ngày nọ nó rơi xuống, và ai đó (có lẽ là mẹ cô) dùng nó để hót bụi; từ đó trở đi nó chỉ được dùng cho việc ấy. Mary đã muốn giữ lại, cất sâu vào rương, nhưng cô thấy xấu hổ. Gia đình cô là những người cứng rắn, và chỉ khi có ai mất thì họ mới cho phép mình yếu lòng hoặc rơi nước mắt.

“Mary ngọt ngào,” anh đã nói như thế. Nhưng anh không bao giờ viết thư. Hai mùa hè trôi qua, hoa đuốc đỏ đã nở hai mùa, hạt kế bay theo gió còn những hàng cây trong rừng đã cao thêm cả thước. Cô linh cảm rằng anh sẽ quay lại, cùng lúc lại cảm thấy có thể anh sẽ không bao giờ trở lại.

“Trời sẽ chẳng mưa nữa đâu, chẳng mưa nữa đâu, trời sẽ chẳng mưa nữa đâu. Mà sao những người già lại bảo là chẳng mưa nữa?”

Brogan, chủ nhân bữa tiệc, hát vang bài đó trong căn phòng trên lầu khách sạn Commercial. Cởi chiếc áo ghi-lê nâu, ông ngả người ra và khen bữa tiệc bày đẹp mắt. Họ đã bưng con ngỗng trên khay bạc lên đặt giữa cái bàn gỗ gụ; nhân khoai tây nhồi tràn ra từ bụng nó. Có cả xúc xích, những cái ly lau sáng bóng úp ngược cùng đĩa và nĩa cho tất cả mọi người.

“Tiệc nĩa” Mrs. Rodgers gọi thế. Bà đọc thấy trên báo một mốt mới ở những nhà Dublin sang trọng: đứng ăn và chỉ dùng nĩa thôi. Mary vẫn mang thêm dao phòng khi ai đó gặp khó khăn lúc cắt.

“Có khác gì nước Mỹ tại gia,” Hickey nói, bỏ thêm than bùn vào lửa đang nhả khói.

Cửa quán rượu tầng dưới đã cài then, các cửa sổ đóng kín, tám vị khách trên lầu chăm chú nhìn Mrs. Rodgers xẻ thịt con ngỗng rồi xé từng miếng. Thỉnh thoảng bà lại chùi tay vào một cái khăn lau bếp.

“Đây này Mary, mang phần này cho Mr. Brogan vì ông ấy là khách danh dự.”
 Mr. Brogan được dành nhiều phần ức kèm mấy miếng da sần sật.

“Đừng quên xúc xích nhé Mary,” Mrs. Rodgers nói. Mary phải cáng đáng hết: từ chuyền thức ăn, dọn nhân nhồi đến hỏi từng người là muốn dùng đĩa giấy hay đĩa sứ. Mrs. Rodgers đã mua cả đống đĩa giấy vì nghĩ như thế là sang trọng.

“Tôi đói đến nỗi có thể ăn được cả trẻ con đấy,” Hickey nói.

Mary ngạc nhiên vì người ở thị trấn lại thô lỗ và bạo miệng như thế. Khi ông ta bóp nhẹ ngón tay cô, cô không hề cười. Cô ước mình đang ở nhà - cô nghĩ giờ này mọi người đang làm gì: các anh trai đang học bài; mẹ cô đang nướng một ổ bánh mì nguyên cám vì ban ngày không bao giờ đủ thời gian để nướng bánh; bố cô thì vấn thuốc hút và lẩm bẩm. Chính John đã dạy ông cách vấn thuốc, và từ đó tối nào ông cũng vấn bốn điếu và hút hết bốn điếu. Ông là người tốt, bố cô ấy, nhưng trầm lặng. Chỉ còn một tiếng nữa thôi là cả nhà sẽ đọc kinh Mân Côi rồi đi ngủ; nhịp sống ở đó chẳng bao giờ thay đổi và sáng nào ổ bánh mì mới nướng cũng nguội ngắt.

“Mười giờ rồi,” Doris nói, lắng nghe tiếng chuông vẳng từ đồng hồ ngoài hành lang.

Buổi tiệc bắt đầu trễ; mấy người đàn ông về muộn vì còn đi xem đua chó ở Limerick. Trên đường về họ đâm chết một con lợn vì phóng vội. Con lợn đang lang thang trên đường thì xe của họ ôm cua và tông trúng, chết tại chỗ.

“Cả đời tôi chưa từng nghe tiếng kêu nào rợn gáy như vậy,” Hickey nói, tay với cái cánh ngỗng - phần ngon nhất.

“Lẽ phải mang theo,” O’Toole nói. O’Toole làm việc ở mỏ đá phiến, chẳng biết gì về lợn hay nghề nông; anh ta cao, gầy và thô kệch. Đôi mắt xanh lục sáng rực và khuôn mặt dài như chó săn; mái tóc vàng như nhuộm thực ra là bạc màu vì nắng gió. Không ai thèm mời anh ta dùng gì.

“Người ta đối đãi kiểu đó đấy,” anh ta làu bàu.

“Lạy Chúa tôi, Mary, cháu chưa tiếp gì cho Mr. O’Toole à?” Mrs. Rodgers nói rồi vỗ bốp vào lưng Mary. Mary bưng tới cho anh ta một phần lớn đựng trên đĩa giấy. Anh ta cảm ơn rồi bảo lát nữa họ sẽ cùng nhau nhảy. Trong mắt anh ta, cô xinh hơn hẳn mấy đứa con gái thị trấn vô tích sự; cô cũng cao và gầy như anh, tóc dài đen nhánh - mái tóc mà vài người có thể cho là lôi thôi nhưng anh thì không; anh thích tóc dài và những đứa con gái ngây ngô; biết đâu lát nữa anh sẽ kéo được cô vào một căn phòng để làm chuyện đó. Cô có đôi mắt kỳ lạ khi ta nhìn vào, nâu và sâu thẳm, như hố lầy đầy máu.

“Ước đi,” anh nói với cô trong khi giơ cái xương ước nguyện lên.

Cô ước mình được bay sang Mỹ trên một chiếc máy bay, rồi nghĩ lại, cô ước mình sẽ trúng một món tiền để có thể mua cho bố mẹ một căn nhà gần sát đường lớn.

“Đó là anh bà hả, ông giám mục ấy?” Eithne Duggan hỏi Mrs. Rodgers, dù đã  biết thừa, chỉ vào bức ảnh tu sĩ mặt mũi nhão nhoẹt treo trên lò sưởi. Chẳng hề hay biết, ban nãy Mary đã vẽ chữ “J” lên lớp bụi bám trên mặt kính và giờ dường như ai cũng đang nhìn vào đó, ai cũng hiểu vì sao nó lại ở đó.

“Đúng rồi, anh Charlie đó, tội nghiệp,” Mrs. Rodgers nói, giọng đầy tự hào, định kể thêm thì Brogan lại bất ngờ rống lên.

“Để người ta hát đi nào,” O’Toole nói, ra hiệu im lặng với hai cô gái đang ngồi chung ghế bành và cười rúc rích. Mấy cái lò xo dưới ghế lòi cả ra: họ đang đùa rằng cái ghế có thể sập bất cứ lúc nào.

Mary rùng mình trong chiếc váy ren. Không khí lạnh và ẩm dù Hickey đã nhóm được một ngọn lửa khá to. Căn phòng đã không có lửa sưởi kể từ cái ngày De Valera ký sổ lưu niệm. Hơi ẩm bốc lên từ mọi thứ.

O’Toole hỏi xem có quý cô nào muốn hát không. Tổng cộng có năm phụ nữ - Mrs. Rodgers, Mary, Doris, Eithne, và Crystal, thợ làm tóc trong làng, vừa nhuộm tóc bằng một loại thuốc xả màu đỏ mới và nhất quyết cho rằng đồ ăn hôm nay hơi nặng bụng. Con ngỗng mỡ mà lại chưa chín hẳn, cô không thích cái sắc hồng tái ấy. Cô thích những món thanh nhã như ức gà lạnh kèm dưa chua ngọt. Tên thật của cô là Carmel, nhưng từ khi mở tiệm làm tóc, cô đổi thành Crystal và nhuộm tóc nâu thành đỏ.

“Tôi cá là cô hát được đấy,” O’Toole nói với Mary.

“Ở chỗ nó sống, đến nói còn chẳng sõi nữa là hát,” Doris chen vào.

Mary thấy má nóng bừng. Cô sẽ không kể gì hết, nhưng thật ra tên bố cô từng được lên báo vì ông đã trông thấy một con chồn thông trong khu trồng rừng. Ở nhà họ cũng ăn bằng dao nĩa, bàn bếp trải tấm vải sáp và luôn luôn để sẵn một hộp cà phê phòng khi có khách lạ ghé qua. Cô sẽ chẳng kể với họ điều gì cả. Cô chỉ cúi đầu, cho thấy rõ rằng mình không định hát gì hết.

Để vinh danh ông giám mục, O’Toole bật đĩa Far Away in Australia trên cái máy cổ cò. Mrs. Rodgers đã đề nghị bài đó. Âm thanh phát ra loẹt xoẹt, lạo xạo tiếng xước, khiến Brogan buột miệng rằng ông hát còn hay hơn.

“Lạy Chúa, chúng ta quên mất món xúp!” Mrs. Rodgers bỗng kêu lên, vứt cái nĩa xuống rồi xăm xăm tiến ra cửa. Đáng lẽ món xúp phải được dọn ra từ đầu.

“Để tôi giúp bà,” Doris O’Beirne nói, lần đầu chịu động đậy, và cả hai cùng xuống bếp lấy nồi xúp lòng đen thẫm đã hầm cả ngày trời.

“Giờ thì mỗi người nộp hai bảng,” O’Toole tranh thủ lúc Mrs. Rodgers vắng mặt để nói chuyện tiền nong. Các ông đã thỏa thuận từ trước rằng mỗi người sẽ góp hai bảng để trả tiền rượu; phụ nữ thì không phải trả gì, nhưng được mời đến để góp vui và trang trí, tất nhiên cũng để giúp một tay.

O’Toole cầm mũ đi quanh để thu tiền. Brogan bảo đã là tiệc của ông thì ông nên góp hẳn năm bảng.

“Đáng ra tôi phải đưa năm bảng nhưng chắc mấy người chẳng đời nào chịu nhận đâu,” Brogan nói rồi đưa ra hai tờ bảng. Hickey cũng hai, cả O’Toole và Long John Salmon - người nãy giờ vẫn im lặng. O’Toole đưa số tiền cho Mrs. Rodgers khi bà quay lại và bảo bà cứ tính vào phần tổn thất.

“Trời ơi, thế là tử tế quá rồi,” Mrs. Rodgers nói rồi nhét tiền ra sau con cú nhồi bông trên bệ lò sưởi, ngay dưới ánh mắt dõi theo của ông giám mục.

Bà múc xúp vào mấy cái ly, và Mary lại được nhờ đi phát vòng quanh. Mỡ nổi lấp lánh trên mặt xúp như những giọt vàng chảy.

“Lát gặp nhé, cá sấu,” Hickey nói khi Mary đưa ly cho anh rồi bảo cô lấy giúp một miếng bánh mì vì anh không quen ăn súp mà không có bánh.

“Brogan,” Hickey quay sang hỏi người bạn giàu có, “giờ giàu rồi ông định làm gì?”

“Phải đó, kể đi,” Doris O’Beirne hùa theo.

“Ờ thì,” Brogan nói, ngẫm nghĩ một chút, “chúng tôi định sửa sang lại phòng khách. Rồi cũng sẽ thiết kế thêm mấy bồn hoa.”

Không ai trong số họ từng đến nhà Brogan vì nhà ông ta ở tận Adare, cách đây ba mươi dặm, phía bên kia Limerick. Chẳng ai từng thấy vợ ông ta - nghe đâu vẫn sống ở đó và nuôi ong.

“Còn gì nữa?” có người hỏi.

“Thì sửa phòng khách, trồng hoa,” Brogan đáp.

“Còn gì nữa nữa?” Crystal hỏi, nghĩ đến những bộ cánh tuyệt đẹp có thể mua từ số tiền ấy, trang sức nữa.

“Ờm,” Brogan lại ngẫm nghĩ, “có thể chúng tôi sẽ đi Lourdes. Cũng chưa chắc, còn tùy.”

“Tôi mà được đi Lourdes thì có mất hai con mắt cũng được,” Mrs. Rodgers nói.

“Rồi tới đó thế nào chả được nhận lại mắt,” Hickey đế vào nhưng chẳng ai buồn để ý.

O’Toole rót ra bốn ly rượu whiskey đầy nửa rồi lùi lại ngắm kỹ từng ly để chắc chắn rằng các ly đều bằng nhau. Đám đàn ông lúc nào cũng lo sao cho công bằng. Rồi O’Toole xếp các chai bia đen thành từng nhóm sáu chai và chỉ cho mỗi người biết nhóm của mình. Các quý cô thì được mời gin pha cam.

“Cho tôi cam thôi,” Mary nói, nhưng O’Toole bảo cô đừng làm ra vẻ ngoan ngoãn, rồi lúc cô quay đi, anh lén đổ gin vào ly cam của cô.

Họ nâng ly chúc mừng Brogan.

“Vì Lourdes,” Mrs. Rodgers nói.

“Vì Brogan,” O’Toole nói.

“Vì tôi,” Hickey chen vào.

“Cạn ly nào!” Doris O’Beirne nói, người đã bắt đầu chếnh choáng vì nốc rượu táo nãy giờ.

“Thật ra cũng chưa chắc vụ đi Lourdes,” Brogan nói. “Nhưng chúng tôi sẽ sửa lại phòng khách, trồng thêm bồn hoa, cái đấy thì chắc chắn.”

“Nhà tôi cũng có phòng khách,” Mrs. Rodgers nói, “mà chẳng bao giờ có ai vào.”

“Vào phòng khách đi, Doris,” O’Toole nói với Mary đang múc thạch từ cái thau men to tướng. Họ không có cái bát sứ nào để đựng nên đành dùng cái thau ấy. Thạch màu đỏ, bên trên là lòng trắng trứng đánh bông, nhưng có gì đó không đúng, món thạch không đông lại như dự định. Cô chia ra từng đĩa nhỏ và nghĩ thầm đây đúng là một bữa tiệc tạm bợ. Không có khăn trải bàn tử tế, chỉ có tấm nhựa phủ; không có khăn ăn; và cái thau đựng thạch kia có khi người ta vẫn dùng để rửa mặt dưới nhà.

“Thôi, ai kể chuyện cười đi,” Hickey nói, bắt đầu chán ngấy phòng khách với bồn hoa.

“Để tôi,” Long John Salmon đột nhiên lên tiếng, phá vỡ sự im lặng nãy giờ.

“Tốt,” Brogan nói, luân phiên nhấp rượu whiskey và nhấp bia đen. Theo ông, đó mới là cách uống thú vị nhất.

Thế nên khi vào quán rượu ông luôn luôn thấy dễ chịu hơn nếu có thể tự mua rượu cho mình chứ không phải trông chờ vào sự keo kiệt từ người khác.

“Chuyện buồn cười thật không?” Hickey hỏi Long John Salmon.

“Về anh trai tôi ấy mà,” Long John nói, “anh Patrick.”

“Trời ơi, đừng kể lại cái chuyện lan man cũ rích đó nữa,” Hickey và O’Toole đồng thanh.

“Ôi để anh ấy kể đi,” Mrs. Rodgers nói, bà chưa bao giờ được nghe câu chuyện ấy.

Long John Salmon bắt đầu: “Tôi có ông anh tên Patrick, anh ấy chết rồi: bị suy tim.”

“Lạy Chúa, lại cái chuyện đó,” Brogan nói, giờ mới nhớ ra.

Nhưng Long John Salmon cứ tiếp tục, kệ ba người kia.

“Một hôm tôi đang đứng trong nhà kho, chừng một tháng sau khi anh ấy được chôn cất, thì thấy anh ấy bước ra từ bức tường, băng qua sân.”

“Khiếp, gặp cảnh đó thì làm sao mà chịu nổi?” Doris thì thào với Eithne.

“Để anh ấy kể nốt đã,” Mrs. Rodgers nói. “Tiếp đi, Long John.”

“Thì lúc đó anh ấy đang đi về phía tôi. Tôi tự nhủ, ‘Phải làm sao đây?’ Mà hôm đó mưa to lắm nên tôi bảo anh Patrick: ‘Đi núp mưa đi, không ướt hết bây giờ.’”

“Rồi sao nữa?” một trong mấy cô gái hỏi, giọng hồi hộp.

“Rồi anh ấy biến mất,” Long John Salmon đáp.

“Trời ạ, thôi bật nhạc lên đi,” Hickey nói, người đã nghe đến chín mười lần. Chuyện không đầu, không giữa, cũng không cuối.

Họ bật một đĩa nhạc và O’Toole rủ Mary nhảy. Anh ta nhảy đủ kiểu, bước uốn éo, tay vung vẩy, thỉnh thoảng lại hét lên một tiếng “Yippee” điên cuồng. Brogan cũng đang nhảy với Mrs. Rodgers còn Crystal thì bảo rằng cô sẽ nhảy nếu có ai chịu rủ cô.

Come on, knees up, Mother Brown,” O’Toole hét lên với Mary khi anh ta nhảy vòng quanh căn phòng, đá văng chân ghế mỗi lần lướt qua. Mary thấy người lâng lâng: đầu cô lắc lư theo nhịp, bụng cồn cào, một cảm giác bồn chồn lạ lẫm khiến cô chỉ muốn lả người, duỗi thẳng chân ra. Một cảm giác mới làm cô sợ hãi.

“Vào phòng khách thôi, Doris,” anh ta nói, vừa nhảy vừa kéo cô ra khỏi phòng, ra hành lang lạnh ngắt - nơi anh hôn cô một cách vụng về.

Bên trong, Crystal O’Meara bắt đầu khóc. Rượu tác động lên cô theo hai cách: hoặc là cô khóc, hoặc là cô xổ một thứ giọng lơ lớ và tự hỏi: “Sao tôi lại nói tiếng nước ngoài thế này?” Lần này, cô khóc.

“Hickey, đời chẳng còn gì vui cả,” cô nói, đầu gục xuống bàn, hai tay che mặt, áo cánh trễ khỏi cạp váy.

“Vui gì cơ?” Hickey đáp - đã uống đủ rượu và lén rút một tờ một bảng từ sau con cú nhồi bông khi không ai để ý.

Doris và Eithne ngồi hai bên Long John Salmon, hỏi xem có thể tới chơi vào mùa mận đường chín chơi không. Long John Salmon sống một mình sâu trong vùng quê hẻo lánh và có một vườn cây lớn. Anh ta là người kỳ quặc và ít nói; ngày nào cũng tắm, bất kể đông hay hè, ở con sông sau nhà.

“Hai người già mới cưới ấy mà,” Brogan nói, vừa choàng tay ôm lấy Mrs. Rodgers, vừa giục bà ngồi xuống vì ông thở không nổi sau một hồi nhảy nhót. Ông bảo rằng sẽ đi khỏi nơi này với những kỷ niệm đẹp về tất cả mọi người, rồi ngồi xuống và kéo bà ngồi lên lòng mình. Bà là một người đàn bà đẫy đà, mái tóc nâu xỉn hồi trẻ từng có màu hạt dẻ.

“Đời chẳng còn gì vui nữa,” Crystal lại nức nở, trong khi chiếc máy hát lạo xạo tiếng xước, còn Mary thì chạy vụt vào từ hành lang, tránh xa O’Toole.

“Tôi nghiêm túc đó,” O’Toole nói, nháy mắt.

O’Toole là người đầu tiên bắt đầu cáu gắt.

“Nào, các quý cô quý ông, một trò vui đây, sẵn sàng chưa?” anh ta hỏi.

“Cứ làm đi,” Hickey bảo.

“Ờ thì, có ba gã, Paddy người Ireland, Paddy người Anh, và Paddy người Scotland, cả ba đều đang rất cần một…”

“Không tục tĩu đâu đấy nhé,” Mrs. Rodgers ngắt lời trước khi anh ta kịp nói ra điều gì vô phép.

“Tục tĩu cái gì?” O’Toole nổi cáu. Rồi anh yêu cầu bà giải thích cho rõ lời buộc tội.

“Phải nghĩ đến mấy cô gái chứ,” Mrs. Rodgers nói.

“Mấy cô gái,” O’Toole nhếch mép, cầm chai kem tươi - thứ mà họ quên không mang ra ăn cùng món thạch - rót thẳng vào xác con ngỗng đã bị moi hết thịt.

“Trời ơi,” Hickey nói, giật chai kem khỏi tay O’Toole.

Mrs. Rodgers tuyên bố đã đến giờ đi ngủ, tan tiệc rồi.

Khách sẽ ngủ lại khách sạn Commercial. Giờ này về nhà cũng chẳng kịp mà Mrs. Rodgers không muốn để ai trông thấy có người loạng choạng bước ra khỏi nhà giữa đêm. Đám cảnh sát lúc nào cũng rình bà như diều hâu, bà chẳng thích rước thêm rắc rối, ít nhất là cho đến hết Giáng Sinh. Chỗ ngủ đã được sắp xếp từ trước, có ba phòng trống. Một là phòng của Brogan. Ba đàn ông còn lại sẽ nằm chung ở phòng lớn thứ hai, còn mấy cô gái ngủ ở phòng sau với Mrs. Rodgers.

“Nào, ai về giường nấy đi, hết giờ rồi,” Mrs. Rodgers nói, vừa chắn bếp lò sắp tàn bằng một tấm chắn lửa, vừa lấy tiền cất sau con cú nhồi bông.

“Đồ ngọt ngào,” O’Toole lẩm bẩm, rót nốt bia đen vào xác con ngỗng, Long John Salmon thì ước gì mình chưa từng đến đây. Anh nghĩ đến ánh sáng ban ngày, đến dòng sông trên núi phía sau căn nhà đá xám vẫn bơi mỗi sáng.

“Thanh tẩy,” anh nói to, khoan khoái nghĩ về từ ấy lẫn cảm giác được nước lạnh chạm vào người. Anh sống chẳng cần ai. Người khác hoàn toàn thừa thãi. Anh nhớ mấy bông liễu non ngoài cửa sổ, vào tháng Hai, trắng như tuyết; ai cần con người làm gì?

“Crystal, tỉnh táo lên,” Hickey nói, vừa xỏ giày vào chân cô vừa vỗ nhẹ vào bắp chân.

Brogan hôn tạm biệt cả bốn cô gái rồi đưa họ băng qua hành lang về phòng ngủ. Mary mừng thầm vì thoát được trong khi O’Toole không kịp để ý, anh ta đang rất hung hăng và Hickey phải cố sức ghìm anh ta lại.

Vào đến phòng, cô thở dài; cô quên khuấy mất mấy món đồ đã bị tống hết vào đây. Mọi người rệu rã dỡ đống đồ lỉnh kỉnh. Căn phòng chật đến mức gần như không xoay xở nổi. Mary bỗng bừng tỉnh và lo lắng: ngoài hành lang, giọng O’Toole the thé ầm ĩ. Giờ cô mới biết trong ly cam pha của mình có rượu gin, cô thở sát vào lòng bàn tay và ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở. Cô đã phá vỡ lời hứa hôm làm lễ Tiếp sức, đã thất hứa với Chúa; chắc chắn điều đó sẽ mang điềm xấu.

Mrs. Rodgers bước vào và nói năm người nằm chung giường thì quá chật, nên đêm nay bà sẽ ra ngủ ghế sofa.

“Bốn đứa, hai nằm đầu giường, hai nằm chân giường,” bà dặn dò, rồi bảo đừng làm vỡ đồ trang trí và đừng buôn chuyện suốt đêm.

“Ngủ ngon và Chúa ban phước cho tất cả,” bà nói, khép cửa lại sau lưng.

“Thật quá đáng,” Doris O’Beirne làu bàu, “nhét cả lũ vào một phòng; không biết bà ta định chuồn đi đâu.”

“Cho mượn cái lô cuốn tóc,” Crystal nói. Với Crystal, mái tóc là thứ quan trọng nhất đời. Cô từng tuyên bố sẽ không lấy chồng vì lấy rồi thì chẳng được cuốn lô lúc ngủ nữa. Eithne Duggan bảo có trả năm triệu cô cũng không thèm cuốn lô lúc này, cô đang mệt rũ ra. Cô nằm vật xuống chăn bông, giang rộng hai tay. Cô là kiểu con gái ồn ào, đổ nhiều mồ hôi, nhưng Mary vẫn thích cô hơn hai người còn lại.

“Ái chà, mấy cục đường ngọt ngào của tôi đây rồi,” O’Toole nói, đẩy cửa phòng họ ra. Mấy cô gái hét lên bảo anh ta ra ngoài ngay lập tức vì họ đang chuẩn bị đi ngủ.

“Vào phòng khách đi, Doris,” anh ta ngoắc ngoắc ngón trỏ gọi Mary. Mắt anh ta không mở nổi nhưng vẫn biết cô đang đứng đâu đó gần đấy.

“Đi ngủ đi, anh say rồi,” Doris O’Beirne nói. O’Toole bỗng đứng thẳng dậy và gằn giọng bảo cô tự lo cho mình trước đi.

“Đi ngủ đi, Michael, anh mệt rồi,” Mary nói, cố giữ giọng bình tĩnh vì trông anh ta quá hoang dã.

“Vào phòng khách với tôi!” anh ta nói rồi túm cổ tay cô, lôi mạnh về phía cửa. Cô kêu lên và Eithne Duggan dọa sẽ đập vỡ đầu anh ta nếu không để cô yên.

“Đưa chậu hoa đây Doris!” Eithne Duggan hét lên, và Mary bắt đầu khóc, sợ rằng sẽ có một vụ ầm ĩ. Cô ghét những cảnh cãi vã. Có lần cô nghe thấy bố cãi nhau với một người hàng xóm về ranh giới đất sau buổi chợ; cả hai đều ngà ngà say và cô chưa bao giờ quên được.

“Mày bị điên hay sao mà khóc?” O’Toole quát khi thấy cô đang khóc.

“Tao đếm đến hai thôi,” Eithne gằn, giơ cao chậu hoa, sẵn sàng ném thẳng vào cái mặt đờ đẫn của O’Toole.

“Mấy con quạ mặt lạnh như đá,” anh ta nhổ toẹt. “Một cái ôm cũng bủn xỉn,” rồi anh ta quay đi, chửi từng người một. Họ lập tức đóng sầm cửa lại, kéo cái tủ ngăn ngay phía sau để phòng anh ta nổi điên phá cửa lúc họ đang ngủ.

Họ chui vào giường trong bộ đồ lót; Mary và Eithne nằm một đầu, Crystal nằm ngang, chân gác giữa hai mặt họ.

“Mày có mái tóc đẹp thật đấy,” Eithne thì thầm với Mary. Đó là điều tốt đẹp nhất cô nghĩ ra được lúc ấy. Cả hai đọc kinh, rồi bắt tay nhau dưới chăn và cố ngủ.

“Này,” vài giây sau Doris O’Beirne thì thào, “tao quên chưa đi vệ sinh.”

“Giờ mày không đi được đâu,” Eithne nói, “cái tủ kê ngay cửa rồi.”

“Tao sẽ chết mất,” Doris O’Beirne kêu lên.

“Cả tôi nữa, uống bao nhiêu nước cam như thế,” Crystal nói. Mary choáng váng khi thấy họ có thể nói thẳng như vậy. Ở nhà cô không ai nói đến chuyện đó; chỉ lặng lẽ ra sau bụi rào, xong thì thôi. Một lần có anh thợ bắt gặp cô đang ngồi xổm, và từ ngày đó cô không bao giờ nói chuyện với anh ta nữa, giả vờ như chẳng hề quen biết.

“Hay là dùng cái nồi cũ kia?” Doris O’Beirne nói, và Eithne Duggan ngồi bật dậy bảo rằng nếu có đứa nào dùng cái nồi đó thì cô sẽ không ngủ ở phòng này nữa.

“Thế dùng cái gì bây giờ,” Doris đáp. Lúc này cô bật dậy, bật đèn lên. Cô giơ cái nồi lên gần bóng đèn trần trơ trọi, thấy hình như có một vết nứt.

“Thử đi,” Crystal cười khúc khích.

Họ nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, rồi tiếng ho sặc sụa, sau đó là tiếng O’Toole chửi rủa, đấm thùm thụp vào tường. Mary rúc sâu vào chăn, thấy yên lòng vì có những cô gái ở bên cạnh. Tất cả im lặng.

“Mình vừa được dự một buổi tiệc đấy. Giờ mình biết tiệc tùng là thế nào rồi,” Mary nghĩ thầm, cố ru mình vào giấc ngủ. Cô nghe tiếng nước chảy, nhưng không có cảm giác trời mưa. Rồi cô chập chờn thiếp đi, nhưng rạng sáng nghe tiếng cửa chính sập mạnh, cô bật dậy. Cô phải về sớm để vắt sữa. Cô mặc đồ, xỏ giày cao gót, kéo cái tủ để mở một khe nhỏ rồi chui ra.

Trên sàn hành lang và trong nhà vệ sinh rải đầy báo cũ, không khí nồng mùi. Dưới nhà, bia đen tràn khỏi quầy lênh láng. Có lẽ O’Toole đã vặn vòi cả năm thùng bia porter; nền gạch lát trong quán và hành lang trũng phía ngoài ướt sũng thứ bia đen sóng sánh. Mrs. Rodgers mà thấy thì thể nào cũng giết ai đó mất. Mary bước cẩn thận qua phòng để ra cửa. Cô đi mà chẳng kịp pha một tách trà.

Cô dắt xe đạp ra khỏi ngõ và bước ra đường. Lốp trước xẹp lép. Cô bơm gần nửa tiếng mà nó vẫn không phồng lên.

Sương giá phủ lên con phố như bùa phép, lên những ô cửa sổ còn say ngủ và mái ngói đá xám ngắt của những ngôi nhà hẹp. Nó đã biến con đường lấm bùn thành ra trắng và sạch kỳ diệu. Cô không thấy mệt, chỉ thấy nhẹ lòng vì đã thoát được ra; đầu óc choáng váng vì thiếu ngủ, cô hít căng lồng ngực vẻ đẹp của buổi sáng. Cô bước nhanh, thỉnh thoảng quay lại nhìn dấu bánh xe và dấu chân mình hằn lên con đường trắng xóa.

Mrs. Rodgers tỉnh dậy lúc tám giờ và loạng choạng bước xuống khỏi chiếc giường ấm của Brogan trong cái áo ngủ rộng thùng thình. Mùi tai họa xộc vào mũi khiến bà lập tức lao xuống lầu và phát hiện bia porter đã tràn lênh láng khắp quầy và hành lang; bà liền chạy vào gọi mọi người dậy.

“Bia ở đâu thế này, Lạy Mẹ Maria, xin cứu con khỏi cơn khốn khổ! Dậy mau, dậy mau!” Bà gõ rầm rầm vào cửa phòng và gọi tên từng đứa con gái.

Bọn con gái dụi mắt ngái ngủ, ngáp ngắn ngáp dài ngồi dậy.

“Nó đi rồi,” Eithne nói, nhìn vào chỗ Mary đã nằm.

“Cái con nhà quê lủi mất rồi,” Doris lườm, vừa nói vừa xỏ cái váy taffeta và đi xuống xem trận lụt. “Phải lau chùi trong bộ đồ đẹp thế này thì tao chết mất,” cô làu bàu. Nhưng Mrs. Rodgers đã kịp mang xô chậu và chổi ra, bắt tay vào việc. Họ mở cửa quầy bar và bắt đầu tát bia ra đường. Lũ chó kéo đến liếm lấy liếm để. Hickey – lúc ấy đã xuống nhà – thì đứng nhìn và bảo thật là tội nghiệp, phí cả một đống bia ngon như thế. Bên ngoài, bia cuốn trôi một mảng sương giá và để lộ phân gia súc từ phiên chợ hôm qua. O’Toole, thủ phạm, đã cao chạy xa bay trong đêm; Long John Salmon thì đã đi bơi sớm; còn trên lầu, Brogan vẫn rúc vào chăn tìm chút ấm áp cuối cùng và nghĩ ngợi về những thú vui sắp phải mãi mãi bỏ lại ở Commercial.

“Thế tiểu thư váy ren của tôi đâu rồi?” Hickey hỏi, chẳng còn nhớ rõ mặt mũi Mary ra sao, chỉ nhớ mang máng ống tay ren đen của cô từng thõng xuống lấm vào đĩa thức ăn.

“Lủi mất rồi, trước lúc chúng tôi dậy,” Doris nói. Ai nấy đều đồng tình rằng Mary đúng là vô tích sự, lẽ ra không nên mời cô.

“Chính con nhỏ đó chọc O’Toole phát điên, dụ người ta lao đầu vào rồi lại làm người ta hụt hẫng,” Doris đế vào, còn Mrs. Rodgers thì thề rằng sẽ phải có người, dù là O’Toole hay bố Mary hay ai, phải trả giá đắt cho chỗ bia bị đổ.

“Tôi đoán giờ này nó về đến nhà rồi,” Hickey nói, tay lục túi tìm điếu thuốc hút dở. Anh ta có một bao mới, nhưng nếu lôi ra thì thể nào cả bọn cũng tranh nhau hút ké.

Lúc đó, Mary đang ngồi bên vệ đường, cách nhà nửa dặm.

Giá mà mình có người yêu, một điều gì đó để bấu víu, cô nghĩ, trong lúc dùng gót giày cao gót giẫm vỡ lớp băng mỏng, ngắm những đường nứt vỡ kỳ dị hiện ra như một hoa văn điên loạn. Lũ chim tội nghiệp chẳng có gì để ăn vì đất cứng đanh. Sương giá khắp nơi, phủ lên cành cây trụi lá khiến chúng trông như những đường khắc, làm cứng cả thảm cỏ và khiến cái cày bỏ quên giữa đồng hiện ra nhòe nhạt; nhưng trên hết, nó khiến cả thế giới như khoác lên mình một vẻ linh thiêng âm thầm.

Cô lại bước đi, tự hỏi không biết có nên kể chuyện với mẹ và các anh mình không - kể gì, kể thế nào - và có phải tất cả những bữa tiệc đều kinh hoàng như vậy hay không. Bây giờ cô đã lên đến đỉnh đồi và có thể nhìn thấy ngôi nhà của cô, trông như cái hộp trắng nhỏ bé tận cuối chân trời đang chờ đón cô trở về.

(6 tháng Mười năm 1962)

Sơ Imelda

Sơ Imelda không dạy học vào ngày đầu tiên trở lại tu viện nhưng chúng tôi bắt gặp sơ trong khuôn viên sau giờ lần hạt buổi tối. Sự háo hức và tò mò thôi thúc chúng tôi đi theo để cố nhìn cho rõ sơ trông như thế nào, nhưng sơ đã làm hỏng kế hoạch ấy bằng cách cúi đầu và khép hờ mi mắt trong lúc đi. Điều duy nhất chúng tôi có thể chắc chắn là sơ cao, dẻo dai và có thói quen vừa đi vừa cầu nguyện. Sơ không ngắm nghía thiên nhiên cũng chẳng mảy may ngó bảy mươi đứa học sinh nội trú trong bộ áo khoác gabardine, giày đen và tất đen. Chúng tôi chẳng khác nào một bầy quạ; sơ dửng dưng hoàn toàn trước ánh mắt soi mói và những lời “Chào Sơ” gượng gạo của chúng tôi.

Chúng tôi vừa trở về sau kỳ nghỉ hè dài và ai nấy đều u uất. Tu viện, với bức tường đá cao và cánh cổng sắt xanh một lần nữa khép chặt xung quanh, chẳng khác nào nhà tù - bởi sau quãng thời gian sống bên ngoài, chúng tôi thấy mình đã lớn và từng trải hơn, và tôi cùng cô bạn Baba đang mơ đến cuộc thoát thân cuối cùng sẽ diễn ra trong vòng một năm tới. Và thế là, vào buổi tối mùa thu ẩm ướt ấy, khi tôi nhìn thấy những đóa cúc và thấy nữ tu mới đang chuyên chú cầu nguyện, tôi bỗng thấy thương sơ và nghĩ đến nỗi cô độc của sơ - tách biệt khỏi bạn bè, khỏi các chuyện trò, chỉ còn Chúa như một người chồng vô hình không thể chạm tới.

Hôm sau sơ vào lớp chúng tôi để dạy môn Hình học. Khuôn mặt nhợt nhạt hơi dài khiến tôi e dè nhưng đôi mắt lại khác, đôi mắt xanh đen đầy ắp sinh khí. Môi sơ tím đậm như dùng bút chì màu mận tô lên. Đó có thể là đôi môi một người đàn bà hát ở phòng trà, và gần như vô thức, sơ quen mím chặt môi như thể chính sơ cũng biết đôi môi ấy quá khêu gợi. Sơ đã dành bốn năm qua - cũng là quãng Baba và tôi sống trong tu viện - để học ngoại ngữ tại đại học Dublin. Chúng tôi không hiểu bằng cách nào sơ cưỡng nổi những cám dỗ của thế giới rộn ràng và tự nguyện quay về chỗ này. Khoảng thời gian sống bên ngoài khiến sơ khác với các sơ khác: bước đi linh hoạt hơn, cách giảng dạy cũng hào hứng hơn, như thể nhắc chúng tôi rằng đây là việc hệ trọng nhất đời mỗi khi sơ cất câu: “Ngợi khen Ngôi Lời nhập thể.” Mỗi tiết học sơ đều bắt đầu bằng việc đọc một đoạn của Hồng y Newman, mà sơ yêu quý. Sơ đọc về việc Thiên Chúa ngự trong ánh sáng bất khả tiếp cận, và rằng nơi Người không có sự thay đổi hay bóng dáng của nó. Điều kỳ lạ là sắc diện của sơ thay đổi khôn lường. Có những ngày đôi mắt ánh lên rực rỡ gần như nhuốm màu tục lụy, và tôi tự hỏi điều gì trong tu viện khiến sơ đột ngột trở nên phấn khích đến vậy. Sơ có thể là một cô gái đang trên đường tới buổi dạ vũ nếu không vì chiếc áo dòng.

“Mắt sơ không phải rất đẹp à?” tôi nói với Baba. Hôm đó mắt sơ giống hệt trái mâm xôi - lớn, mềm, lấp lánh.

“Trên lầu có vấn đề,” Baba nói, rồi thêm rằng nếu trang điểm thì Imelda dễ dàng trở thành một phụ nữ rất quyến rũ.

“Dù sao sơ cũng có ơn gọi!” tôi đáp, thậm chí còn thốt ra cái ý ngốc nghếch rằng có lẽ tôi cũng có ơn gọi. Đôi lúc việc làm nữ tu nghe thật hấp dẫn, sống một cuộc đời không vương tội lỗi, không phải sinh con và đeo nhẫn để được gọi là Tân Nương của Chúa Kitô. Nhưng cũng còn một mặt khác, sự im lặng, vẻ nghiêm trang, việc phải dậy hai ba lần mỗi đêm để cầu nguyện, và nhất là, không bao giờ được đi khỏi tu viện trừ khi bố mẹ chết. Với chúng tôi, những học trò nội trú, điều đó là cực hình. Song với các sơ, đó chẳng khác gì định mệnh bi thảm. Ít ra chúng tôi còn có thể than vãn với nhau và đã làm thế, nhất là về đồ ăn. Bữa trưa thường có thịt ba chỉ xông khói với bắp cải, hoặc một loại thịt dai kỳ quặc nào đó, tiếp đến là món pudding bột năng; bữa xế thì có bánh mì phết mỡ heo; lâu lâu được chiêu đãi món mứt đại hoàng xanh lét, vừa chua vừa thiếu đường. Qua những khung cửa sổ dài không rèm, chúng tôi nhìn ra hàng thông và bầu trời dường lúc nào cũng như sắp mưa hoặc đang mưa.

Đúng là mất trí, Baba nói, học đại học bốn năm rồi tự nguyện sống đời giam hãm, nghèo khó, khiết tịnh và phục tòng. Chúng tôi bày ra những viễn tượng thống khổ  trong một ký túc xá nào đó ở Dublin, nơi có một cậu trai hay thậm chí một người đàn ông trẻ đứng dưới cửa sổ phòng sơ, ném từng cục đất hay huýt sáo, hoặc thầm thì lời khẩn cầu. Trong hình dung của chúng tôi, anh ta lớn hơn sơ vài tuổi và rất có thể là sinh viên y bởi họ thường có tài quyến rũ phụ nữ do phải học các sơ đồ giải phẫu và xương người. Những lần anh ta ve vãn sẽ, như cơn giông bất chợt, dâng lên rồi nhấn chìm sơ, và ký ức về những tấn công nóng bỏng, giày xéo ấy ám sơ suốt đời. Nếu có khi nào sơ lên cơn sốt, hẳn những bí mật đó sẽ tuôn trào tất tật. Người ta còn đồn rằng sơ tính khí dữ dằn, rằng khi còn là một tập sinh, sơ từng đánh một cô bé nặng đến mức cô này phải nằm liệt vì thương tích do dây lưng da. Một vết nhơ nữa chống lại Sơ Imelda là chuyện anh trai Ambrose của sơ bị một y tá kiện vì bội ước.

Buổi sáng đầu tiên khi sơ bước vào lớp chúng tôi và khiêm tốn tự giới thiệu, tôi không thể ngờ rằng sơ sẽ thâm nhập vào đời tôi khủng khiếp đến thế, rằng theo thời gian sơ sẽ không còn là một trong những cô giáo hay nữ tu bình thường mà trở thành người đặc biệt, gần như một bóng ma vụt khỏi các ranh giới giao tế thông thường, chui vào tận bên trong tôi, nuốt trọn bao nhiêu ý nghĩ, bao nhiêu dục vọng, chiếm cứ cái nơi vẫn thường được gọi là trái tim. Sơ nói bằng giọng rất nhỏ, như thể không muốn lời mình vượt ra khỏi bốn bức tường và liên tục nhấn mạnh giá trị của việc học để mở rộng và rèn luyện trí tuệ. Một bên mí mắt sơ đỏ và sưng lên như sắp mọc chắp. Tôi nghĩ có lẽ sơ tự hành xác đến mức nhịn ăn hoàn toàn. Trong sơ, tôi nhìn thấy một điềm báo khủng khiếp về sự hy sinh mà rồi tôi cũng sẽ đi theo. Thế nhưng trái ngược hẳn với vẻ nghiêm cẩn ấy, sơ thẫn thờ cầm viên phấn giữa hai ngón trỏ và giữa, y hệt cách người ta cầm điếu thuốc. Baba thì thầm rằng có lẽ hồi còn ở Dublin, sơ từng hút thuốc. Sơ Imelda lập tức cúi nhìn tôi sắc lẹm và hỏi có chuyện gì bí mật và tôi muốn chia sẻ không, vì có vẻ chuyện rất buồn cười. Tôi đáp: “Dạ không có gì đâu, thưa sơ, không có gì,” và đôi mắt đen của sơ ánh lên một vẻ dữ dội đến nỗi tôi thầm cầu mong mình sẽ không bao giờ cho sơ cái cớ nào khác để trừng phạt.

Tháng Mười Một đến và những bức tường lát gạch men trong phòng sinh hoạt rịn ẩm và u ám. Hầu hết các cô gái đều bị viêm họng và được bảo rằng nên chịu đựng sự bất tiện ấy để hành xác, hầu góp phần vinh quang vào sự hiệp thông tâm linh nối kết người sống với kẻ đã khuất. Đó là tháng cầu cho các linh hồn đau khổ nơi Luyện ngục, và khi nghe kể về nỗi khốn khổ gấp đôi của họ, nỗi khao khát được nhìn thấy Đức Kitô và sự tàn bạo của ngọn lửa nhảy múa thiêu đốt cơ thể tội nghiệp của họ, chúng tôi được kêu gọi thực hiện những hành vi đền tội. Một số bạn bỏ ăn mứt hay kẹo, vài người khác không trò chuyện, thế là đến giờ sinh hoạt họ trở thành những con búp bê câm chỉ dùng ngón cái và ngón trỏ ra hiệu, “Bạn khỏe không?” Baba bảo rằng những người tỉnh táo hơn đang bị nhốt trong trại tâm thần cách tu viện một dặm. Chúng tôi từng thấy họ vật vờ trong sân, miệng há hốc, nước dãi chảy ròng như những cục băng tan. Một trong muôn vàn nỗi sợ của chúng tôi là có kẻ điên nào đó vượt rào thoát rồi chạy thẳng đến tu viện và tấn công một trong những cô gái nội trú.

Vậy mà giữa bao nỗi sợ ấy, tôi lại thấy mình hạnh phúc tột độ. Tôi đã gặp Sơ Imelda vài lần bên ngoài lớp học và cảm thấy giữa chúng tôi một dây liên kết nào đó. Một lần, chuyện diễn ra trong khuôn viên trường, khi sơ làm một việc thật bốc đồng. Sơ bẻ một cành cúc rồi đưa cho tôi ngửi. Nó không có mùi, hoặc nếu có thì chỉ là một hương thoảng rất nhẹ gợi nhắc mùa thu; chính sơ cũng cảm thấy vậy nên nói nó đâu phải hoa dành dành nhỉ. Một lần khác chúng tôi gặp nhau ở hiên nhà nguyện, và khi sơ kéo tấm khăn choàng ôm sát lấy người, tôi bỗng nhìn thấy phần con người nơi sơ, cũng biết lạnh.

Trong lớp học, mối quan hệ giữa tôi và sơ không êm thấm như thế. Hình học là môn tôi dở nhất và hoàn toàn là bí ẩn đối với tôi. Sơ mới dạy chưa đến bốn buổi đã nhận ra và, trong cơn tức giận, đã ném khăn lau bảng vào tôi. Vài bạn gái thảng thốt thở mạnh khi sơ yêu cầu tôi đứng dậy làm trò cười cho cả lớp. Mặt sơ đỏ rực lên, sơ rút khăn tay ra thấm nhẹ một bên mắt đỏ và sưng. Tôi không chỉ thấy mình như một đứa ngốc mà còn sắp hắt hơi vì ngửi phải mùi phấn rơi đầy bộ váy thể dục. Đột nhiên sơ chạy khỏi lớp, để lại cho chúng tôi mười phút tự do trước khi đến tiết tiếp theo. Một số bạn cho đó là điều đáng hổ thẹn, bảo tôi nên viết thư về nhà kể mình bị hành hung. Số khác thì vui sướng vì rỗi vài phút buôn chuyện. Tất cả những gì tôi muốn bây giờ là chạy theo sơ để nói rằng tôi xin lỗi vì đã khiến sơ tức giận, bởi tôi lờ mờ hiểu rằng cơn giận ấy có lẽ bắt nguồn từ sự cảm mến không kém nỗi chán ghét. Trong tôi bỗng dâng lên nỗi dịu dàng khôn tả dành cho sơ và tôi biết rằng tôi đã bắt đầu rung động.

“Chúng ta có thể khiến sơ bị lột áo dòng,” Baba nói và thúc cùi chỏ vào tôi, bảo tôi hãy ngồi xuống, nhân danh Chúa.

Tối hôm đó, trong giờ chầu Mình Thánh, tôi có một bất ngờ choáng ngợp. Đó là một buổi tối đặc biệt hân hoan với dàn hợp xướng các sơ cất lên những nốt vút cao. Những hàng nến cháy sáng như những cái thang nhỏ dẫn về phía chén thánh dát vàng lấp lánh càng thêm rực rỡ dưới ánh lửa chập chờn. Tôi rưng rưng  khi phát hiện một tấm ảnh thánh mới được kẹp trong sách kinh của tôi, và trước cả khi dám lật mặt sau để xem ai đã tặng, tôi đã linh cảm và gần như chắc chắn rằng đây không phải là món quà bình thường từ một người bạn gái bình thường; rằng đây là bùa hộ mệnh, là lời làm hòa từ Sơ Imelda. Đó là một tấm ảnh xanh nhạt đến mức gần như chuyển sang màu xám lông tơ của chim bồ câu non, vẽ một người mẹ đang cúi nhìn đứa trẻ sơ sinh. Ở mặt sau, bằng nét chữ bay bướm và thanh tú, sơ viết một đoạn thơ:

Hãy tín thác nơi Người khi bóng tối ngờ vực bủa vây,

Tín thác khi lòng tin trong con thật nhỏ nhoi,

Tín thác khi chỉ riêng việc tín thác thôi

Cũng là, trong mọi điều, điều khó nhất.

Đây là sự đền bù của sơ. Cứ nghĩ rằng sơ đã tìm đến tận ngăn trong nhà nguyện nơi tôi cất sách kinh, nghĩ rằng sơ đã dám viết rành rành lên đó và cho tôi cơ hội khoe khoang với các bạn gái. Hôm sau, khi tôi cảm ơn, sơ chỉ cúi đầu không nói gì. Phần lớn các sơ đều giữ luật im lặng và chỉ được phép nói trong giờ học.

Không lâu sau, tôi lại nhận được một món quà nữa, một cuốn kinh nhỏ xíu bọc da, viền vàng. Các lời nguyện được in bằng tiếng Pháp với những dòng chữ li ti như do một loài côn trùng tí hon khắc nên. Chẳng mấy chốc, tôi đã được xem là học trò cưng của sơ. Tôi mở cửa cho sơ, nâng bảng cao thêm hai nấc (vì sơ cao hơn các sơ khác) và phát bài tập đã được sơ chấm điểm. Giờ đây, bên lề các bài tập hình học của tôi xuất hiện những chữ như “Tốt” hay “Xuất sắc”, trong khi trước đó sơ viết chữ “Tệ hại!” to đùng. Baba bảo làm học trò cưng của sơ là đê tiện, và đứa con gái nào bợ đỡ các sơ thì không thể tin được.

Khoảng một tháng sau, Sơ Imelda nhờ tôi mang sách lên tầng bốn tới phòng nấu ăn. Sơ dạy môn nấu ăn cho lớp dưới. Khi sơ đi trước trên cầu thang, tôi đã nghĩ đến dáng người mềm mại và vẻ quý phái của sơ, và khi sơ dừng ở chiếu nghỉ để nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ dài không rèm, tôi cũng dừng lại. Dưới kia có hai người phụ nữ đi ủng da lộn vừa trò chuyện vừa hút thuốc, tay xách giỏ đi chợ bước thong thả trên phố. Gần đó, một nữ tu phục vụ đang quỳ xuống cọ từng bậc thềm đá granite và không khí lạnh lẽo nồng mùi chất tẩy Jeyes Fluid sống sượng. Trên chiếu nghỉ có một chậu cây; Sơ Imelda ấn ngón tay vào đất, lắc đầu “chẹp chẹp” rồi nói cây đang khát nước. Tôi bảo sẽ tưới sau. Tôi hạnh phúc trong ngục tù của mình, hạnh phúc vì được ở gần sơ, hạnh phúc khi bước sau lưng sơ lúc sơ lần tràng hạt và cúi đầu chào nữ tu phục vụ. Tôi không còn khóc vì nhớ mẹ hay gạch đếm từng ngày trên cuốn lịch bỏ túi để mong đến kỳ nghỉ Giáng sinh nữa.

“Quay lại lúc năm giờ nhé,” sơ nói khi đứng ở ngưỡng cửa phòng dạy nấu ăn. Những cô gái, ai nấy mặc áo choàng trắng, đã đứng thành vòng quanh bàn gỗ dài chờ sơ. Như thể ai cũng phải lòng sơ. Bởi khi sơ bước vào, gương mặt họ bừng sáng nụ cười, và mỗi người, bằng một kiểu táo bạo riêng, cất tiếng gọi tên sơ. Hẳn sơ thích dạy nấu ăn vì trông sơ thật rạng rỡ khi gọi ai đó, ai cũng được, nhanh tay nhóm lửa lên. Rồi sơ bước tới cái bếp gang và nhổ nước bọt lên bếp để thử nhiệt. Bếp nóng khiến nước bọt bốc lên kêu xèo xèo.

Khi tôi quay lại, sơ đang ngồi lưng chừng trên mép bàn và đung đưa chân. Có gì đó liều lĩnh trong tư thế ấy, có gì đó bất cần. Dường như bất cứ lúc nào sơ cũng có thể rút ra một hộp thuốc lá, búng mở nó rồi lém lỉnh đưa tôi một điếu.

Mùi bánh nướng thơm nức khiến tôi nhận ra mình đang đói, nhưng hơn cả cơn đói, nó kéo tôi về với căn nhà mình, với hình ảnh mẹ tôi thử bánh cam bằng một cái kim đan rồi để tôi liếm dọc vệt bột còn sống dính trên đó. Tôi tự hỏi có phải sơ đang thế chỗ mẹ tôi không và tôi mong là không, bởi vì tôi từng nguyện sẽ đi khỏi thế giới cũ để bước vào một thế giới mới, linh thiêng hơn.

“Chắc con mê đồ ngọt lắm,” sơ nói rồi đứng dậy, băng qua bếp và từ dưới một cái chuông bạc sáng lấp lánh, sơ lấy ra hai chiếc bánh mứt còn ấm với lớp vỏ đan mắt cáo phủ trên phần nhân mứt đen sậm.

“Con làm gì với chúng đây?” tôi hỏi.

“Ăn đi, đồ ngốc,” sơ nói rồi nhìn tôi ăn như chính sơ cũng đang tận hưởng một niềm vui kỳ lạ, trong khi đó tôi xấu hổ vì vụn bánh rơi lả tả và vệt mứt dâu đen dính trên môi. Sơ bật cười thích thú. Đó là một trong những khoảnh khắc lúng túng run rẩy nhất mà tôi từng trải qua, và ẩn trong niềm vui ấy là một nỗi sợ khủng khiếp. Giả như bị bắt gặp, hẳn sơ sẽ phải trả một cái giá rất lớn. Tôi nhìn sơ, thầm nghĩ sơ thật can đảm, thật vô song và tự hỏi sơ có đói không. Sơ mặc áo choàng trắng phủ ngoài áo dòng đen trông vừa ấm áp lại vừa tự do, điều đó làm tôi tưởng tượng đến một niềm hạnh phúc khác, một cuộc sống lơ đễnh tự tại nếu chúng tôi được ra khỏi tu viện và cùng ở trong một gian bếp bình thường, làm những việc thân thuộc. Nhưng chúng tôi không ở đó. Lúc ấy tôi hiểu ra rằng niềm vui của tôi luôn luôn đi cùng nỗi đau, và chúng tồn tại song song không tách rời như hai cực của dòng điện.

“Hồi ở đại học Dublin sơ có bạn thân không?” tôi đánh bạo hỏi.

“Sơ ngồi chung bàn với một nữ tu ở Howth và cùng trọ ở một ký túc xá,” sơ đáp.

Còn con trai thì sao, tôi nghĩ, còn cuộc sống của sơ bây giờ: sơ có khao khát được ra ngoài không? Nhưng tôi không thể thốt ra.

Chúng tôi biết đôi chút về nếp sống của các sơ. Người ta đồn rằng họ mặc đồ lót bằng len ngứa ngáy, ăn bánh mì khô vào bữa sáng, hiếm khi có thịt, bánh ngọt hay những món tinh tế và giữ im lặng tuyệt đối với nhau vào một số khung giờ cố định, cùng lúc đó phải canh chừng ý chí không ngơi nghỉ để nếu đầu óc lỡ lạc sang đồ ăn hay khoái lạc, họ sẽ lập tức quay lại với những ý về Thiên Chúa và linh hồn vĩnh cửu. Họ ngủ trên những chiếc giường cứng, không ga trải, đắp những tấm chăn lông thô ráp. Vào bốn giờ sáng, khi chúng tôi còn đang ngủ, từng sơ rời giường - vẫn mặc nguyên áo dòng, cũng là áo liệm khi chết - và trong tiếng thánh ca, tất cả rập ràng đi xuống cầu thang gỗ như bầy quạ rồi quỳ rạp xuống nền gạch nhà nguyện. Các sơ, kể cả Mẹ Bề Trên, đều phủ phục hoàn toàn, giang tay úp mặt xuống sàn, đọc kinh bằng tiếng La-tinh, dâng trọn khoảnh khắc lên Thiên Chúa. Sau đó họ âm thầm trở về phòng và được nghỉ thêm một giờ. Không khó để tưởng tượng cảnh Sơ Imelda úp mặt xuống gạch, tay dang rộng, phủ phục hoàn toàn. Tôi thường nghe thấy tiếng tụng kinh của các sơ mỗi khi giật mình tỉnh dậy giữa cơn ác mộng - bởi tuy chúng tôi ngủ ở một dãy nhà khác, hai tòa vẫn nằm liền nhau, và nếu ai đó tỉnh giấc, người ấy hẳn nghe thấy tiếng tụng kinh đơn điệu bằng tiếng Latin ngân vang rất lâu trước cả tiếng chim hót, trước cả khi chuông báo thức của chúng tôi reo lúc sáu giờ sáng.

“Sơ có ăn món gì ngon không ạ?” tôi hỏi.

“Tất nhiên rồi,” sơ đáp và mỉm cười. Thỉnh thoảng sơ bật ra một nụ cười hăm hở rồi lại cố giấu nó đi ngay.

“Con đã bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành gì chưa?” sơ hỏi.

Tôi lắc đầu. Ước mơ của tôi thay đổi mỗi ngày.

Sơ liếc nhìn cái đồng hồ quả quýt bằng bạc của đàn ông, vặn núm chỉnh nhiệt lò nướng rồi chuẩn bị đi. Sơ rà tay lên từng tủ âm tường để chắc chắn mọi thứ đều đã khoá.

“Thưa sơ” tôi gọi, cuối cùng cũng gom đủ can đảm. Chúng tôi phải có một điều gì đó, một bí mật nhỏ nào đó để gắn kết nhau. “Tóc sơ màu gì?”

Chúng tôi không bao giờ thấy tóc của các sơ, cũng không thấy lông mày hay tai, vì tất cả đều được che kín dưới lớp guimpe trắng cứng.

“Con không nên hỏi những điều như thế,” sơ nói, mặt ửng hồng, rồi quay lại khẽ nói: “Sơ sẽ nói cho con biết vào ngày cuối cùng con ở đây, nếu điểm hình học có tiến bộ.”

Sơ vừa đi khỏi thì Baba, nấp sau một cây cột nào đó, thò đầu qua cửa và nói: “Lạy Chúa, để dành cho tao một miếng với.” Nó ăn nốt cái bánh thứ hai, rồi lục lọi khắp các ngăn kéo trong bếp. Vì mọi thứ đều bị khoá nên nó chỉ tìm được một ít đường mịn trong lọ sứ. Nó nếm một chút rồi ném phần còn lại vào ngọn lửa lụi trong bếp: lửa bùng lên thoáng chốc, bắn ra những tia lửa vàng tóe lên rào rào. Baba bộc lộ cơn ghen bằng cách rỉ tai khắp trường rằng tối nào tôi cũng chui vào phòng bếp nấu ăn để nhồi bánh cùng Sơ Imelda và buôn chuyện.

Tôi không nói chuyện riêng với Sơ Imelda lần nào nữa cho đến buổi tối diễn vở kịch Giáng sinh. Sơ đến để giúp chúng tôi trang điểm và thay phục trang sân khấu, đội mũ mão rườm rà. Những bộ đồ ấy được cất trong một chiếc rương từ năm này qua năm khác: tuy trông sang trọng với đầy ruy băng và chỉ kim tuyến được gắn lên, chúng vẫn sực mùi long não. Thế nhưng khi chúng tôi khoác những bộ đồ ấy lên người, cảm giác bỗng khác hẳn; và khi tán lớp phấn pancake lên mặt, chúng tôi trở nên táo bạo, càng nhấn nhá thêm vẻ cải trang ấy bằng cách kẻ mắt thật đậm và tô môi cam rực. Chỉ có duy nhất một thỏi son, ai cũng tranh. Buổi diễn gồm vài trích đoạn Shakespeare xen những tiểu phẩm hài. Tôi được chọn đọc lời ai điếu của Mark Antony trước thi hài Caesar, và tôi sẽ mặc áo choàng tím, đi tất trắng đến đầu gối và mang đôi giày da bóng có móc cài. Giày quá rộng, tôi đi như đi guốc. Sơ bảo tôi tháo ra đi chân trần. Tôi nhận ra mình đang lo lắng, và khi cố gắng học thuộc bài diễn, các từ cứ rối tung lên và bay loạn xạ trong đầu như những mảnh ghép của một trò xếp hình bung ra tứ phía. Sơ cảm nhận được nỗi hoảng loạn của tôi, chậm rãi đặt tay lên mặt tôi và bảo tôi nhìn vào mắt sơ. Tôi nhìn vào đôi mắt dường vô đáy ấy và thấy sơ đang dồn cả ý chí để khiến tôi bình tâm lại, buộc tôi làm chủ nỗi sợ, và tôi chẳng hề hay biết sẽ có ngày sơ cũng phải làm điều tương tự khi đối diện với cơn lốc tình cảm tôi dành cho sơ. Khi chúng tôi nhìn nhau, tôi cảm thấy mình dần dịu lại; những lời thoại chừng rối tung bỗng về lại đúng chỗ, trôi chảy, nguyên vẹn. Đèn ngoài hội trường sinh hoạt được tắt bớt, chúng tôi biết rằng các sơ đã đến đông đủ, đã an vị và đang háo hức chờ hỗn hợp trình diễn nghiệp dư thường niên này. Một sự im lặng ghê gớm bao trùm khi hội trường chìm vào bóng tối và chỉ còn vài đèn sân khấu còn bật. Sơ hôn cây thánh giá đeo trên cổ và tôi nhận ra sơ đang cầu nguyện cho tôi. Sau đó sơ giơ cánh tay lên, như thế tạo dáng của một nữ thần Hy Lạp, và khi tôi bước ra sân khấu, tôi như được thắp sáng bởi chính lòng sốt mến của sơ.

Baba cứ việc bảo tôi rú lên giống con bò mộng bị chọc tiết, nhưng Sơ Imelda, người đứng ở cánh gà, thì nói rằng trong khoảnh khắc ấy, sơ đã thấy những con phố ở Rome, thấy thi thể của Caesar hiện ra qua từng câu thoại thống thiết giận dữ của tôi. Khi tôi bước xuống sân khấu, sơ ôm lấy tôi, và tôi như được bao trọn trong cơn mưa những nụ hôn lặng lẽ. Sau khi chúng tôi gỡ hết đồ trang trí và cất lại hoá trang vào rương, tôi tặng sơ hai hộp sô-cô-la nửa cân do một bạn học sinh bán trú lén mua giúp, còn sơ tặng tôi một cái hộp nhỏ làm từ vỏ bao diêm phủ sơn ánh kim và rắc bụi vàng. Tôi cầm nó trên tay như đang nâng niu một con ngài sẽ dính phấn lên các đầu ngón tay.

“Ngày Giáng sinh sơ sẽ làm gì ạ?” tôi hỏi.

“Sơ sẽ cầu nguyện cho con,” sơ đáp.

Thật vô ích nếu hỏi “Sơ có ăn gà tây không?”, hay “Sơ có ăn bánh pudding mận không?”, hay “Sơ có được nằm dài trên giường không?”, vì tôi tin rằng Ngày Giáng sinh của sơ cũng sẽ khắc khổ và thiếu thốn như mọi ngày khác trong đời sơ. Vậy mà trông sơ vẫn rạng rỡ như thể chính khổ hạnh là niềm vui. Có lẽ sơ đang âm thầm tận hưởng một thức nhận bí mật giữa sơ và tôi.

Vào chiều tuyết lạnh ba tuần sau, khi chúng tôi trở về sau kỳ nghỉ, Sơ Imelda lên tận phòng ngủ để chào mừng tôi trở lại. Tất cả các bạn gái khác đều đã xuống hội trường để tập nhảy và tôi nghe thấy tiếng ai đó đang gõ mạnh lên đàn. Tôi chẳng muốn xuống dưới, nhảy lóc thóc giữa sáu mươi đứa con gái trong khi không có gì đáng mong ngoài bữa trà, buổi lần chuỗi Mân Côi và đi ngủ sớm. Sau kỳ nghỉ, những cái giường đều ẩm và khi đặt tay vào giữa hai tấm ga, tôi có cảm giác như chạm phải sương, nhưng là thứ sương thiếu hẳn độ tươi mới ngoài trời. Tôi càng chán nản vì chợt thấy con chuột trong tủ, đuôi nó cong lại vì hoảng sợ rồi biến mất vào kẽ hở. Nếu đã có một con thì Chúa mới biết còn bao nhiêu con khác; mấy cái bánh chúng tôi giấu hẳn không được an toàn. Tôi vẫn đang dở tay gỡ đồ thì sơ đi tới, bước qua hành lang hẹp giữa các dãy giường sắt và tôi nhìn thấy trong dáng đi của sơ có điều gì đó kích động.

“Chà chà, con đã uốn tóc rồi đấy,” sơ nói, vẻ không hài lòng.

Đúng thế, thế giới bên ngoài dường hiện ra qua mái tóc uốn xoăn này, và trong một thoáng tôi nhớ lại cơn rát khi những giọt amoniac nhỏ xuống trán, rồi đến niềm sung sướng khi cô thợ làm tóc bảo rằng cô sẽ làm cho tôi trông giống Movita, một ngôi sao điện ảnh Mexico. Song bây giờ thế giới đó cùng những ham muốn bỗng trở nên nhạt nhẽo khiến tôi chỉ muốn cầm lấy cái lược rồi chải thẳng tóc ra, trở lại là cô bé vụng về u tối, có phần thô kệch như tôi từng là. Tôi mời sơ bánh queen cake phủ đường lạnh mà mẹ tôi làm nhưng sơ từ chối và bảo chỉ có thể ở lại một lát. Sơ đưa tôi mượn một quyển sổ tay cũ mà sơ từng dùng khi còn là học sinh, trong đó sơ đã chép những câu trích dẫn yêu thích, có câu tôn giáo, có câu không. Tôi mở ngẫu nhiên một trang và đọc.

Đôi ba lần ta đã yêu em,

Trước cả khi biết mặt hay tên gọi.

Như trong tiếng nói, như trong ánh lửa vô hình,

Thiên thần chạm vào ta như thế.

“Sơ có khoẻ không?” tôi hỏi.

Sơ trông nhợt nhạt. Có thể là vì tiết trời hôm đó - xám xịt, buốt giá, lấm tấm mưa tuyết, cũng có thể là do những tấm khăn trải giường trắng toát - dù thế nào, trông sơ cũng không được khoẻ.

“Sơ nhớ con,” sơ nói.

“Con cũng vậy,” tôi đáp.

Ở nhà, tôi ăn ngấu nghiến, ăn trifle cả ngày, thậm chí cả bữa sáng: nhúng những cái bánh ratafia nhỏ vào tách trà, thử giày mới, tất lụa mới, tôi đã từng ước sơ cũng ở đó với chúng tôi, được ngồi bên bếp lửa và tận hưởng tự do.

“Con biết là chúng ta không nên thân thiết như vậy.”

“Nhưng điều đó không sai,” tôi nói.

Tôi sợ một ngày sơ sẽ quay lưng với tôi, giẫm nát tình cảm giữa chúng tôi và đột ngột buông một tấm màn tang bằng voan đen lên mối gắn bó như thể tuyên bố nó đã chết. Tôi sợ. Nhưng tôi biết nó sẽ xảy ra.

“Chúng ta không được để lòng mình ràng buộc,” sơ nói và tôi không thể nào đáp rằng chúng ta đã ràng buộc, cũng như tôi không đủ can đảm để nhắc sơ nhớ đến ngày hội nọ và sự thân mật đã từng có giữa chúng tôi. Tu viện thực sự là ngục tối.

Từ đó trở đi, sơ đối xử với tôi như thể tôi không còn là học trò được yêu quý nhất. Sơ gọi tên tôi trong lớp một cách sắc lạnh, và có lần sơ còn nói nếu tôi muốn ho thì có thể đợi đến khi tan lớp mà ho. Baba mừng rỡ, các bạn khác cũng vậy: ai nấy đều vui khi thấy tôi mất dần chỗ đứng trong mắt sơ. Song tôi biết vẻ cứng rắn là một phần của tình yêu: dẫu sơ có nhìn tôi lạnh lùng đến đâu, đôi lúc ánh mắt ấy vẫn dịu lại. Việc đọc cuốn sổ tay của sơ giúp tôi rất nhiều. Tôi đã chép lại những đoạn trích mà sơ sưu tầm vào cuốn sổ riêng rồi cố bắt chước thật giống nét chữ sơ.

Ít lâu sau một tối sơ đến giám sát buổi tự học của chúng tôi, tôi nhận được từ sơ một nụ cười lúc sơ ngồi trên bục cao nhìn xuống cả lớp. Tôi cứ ngẩng lên nhìn sơ và bằng một cái nhíu mày nhẹ, tôi ra hiệu rằng mình đang gặp rắc rối với bài hình học. Sơ khẽ ngoắc tôi lại và tôi bước lên, mang theo vở bài tập cùng cây bút. Đứng gần sơ - và cũng bởi cái guimpe hôm đó bị lệch - lần đầu tiên tôi thấy được một bên lông mày sơ. Sơ thấy tôi để ý và hỏi rằng điều đó có làm thỏa mãn trí tò mò của tôi không. Tôi đáp là không hẳn. Sơ nói rằng vậy thì tôi còn muốn thấy gì, cái cổ thiên nga của sơ chăng, và mặt tôi đỏ bừng. Tôi sững người vì sơ có thể nói như vậy trước mặt các bạn gái khác, rồi sơ còn nói thêm một câu hãi hơn thế, sơ nói G. K. Chesterton đãng trí tới mức có lần mặc ngược quần. Sơ chờ tôi cười. Tôi gần sơ đến mức tưởng tiếng sôi nhẹ trong bụng sơ là của mình, và về chuyện đó sơ cũng cười. Một ý kinh hoàng sượt qua - rằng sơ định đi khỏi tu viện, nhảy qua bức tường. Sau khi giải xong bài hình học cho tôi, sơ chấm nó 100 trên 100 rồi hỏi tôi còn vấn đề nào không. Mắt tôi ngấn nước vì tôi muốn sơ hiểu rằng sự lạnh nhạt gần đây của sơ đã khiến thần kinh tôi rối bời, tâm trí tôi không lúc nào yên ổn.

“Có chuyện gì vậy?” sơ hỏi.

Tôi có thể khóc hoặc run rẩy để tỏ cho sơ cảm xúc ấy, nhưng không tài nào nói được. Như thể có một thôi thúc vô hình nào đó, Mẹ Bề Trên bước vào, thấy cảnh thân mật rành rành ấy và nhíu mày khi tiến lại bục giảng.

“Con vui lòng về chỗ,” sơ nói, “và từ giờ, làm ơn để Sơ Imelda làm phần việc của mình.”

Tôi rón rén trở về bàn, cúi gằm đầu, trong người tràn ngập sợ hãi lẫn hổ thẹn. Rồi Mẹ Bề Trên liếc nhìn khay đựng mấy cái cốc, và khi thấy còn một cốc chưa ai đụng tới, sơ hỏi cô gái nào đã không uống phần sữa của mình.

“Con, thưa sơ,” tôi nói và bị gọi lên để uống nốt chỗ sữa đó rồi đứng dưới đồng hồ treo tường như một hình phạt. Sữa âm ấm có mùi bụi, tôi nghĩ đến những con bò trong những phiên chợ quê bị người ta quất roi vì trượt chân hay loạng choạng đi trên con đường bùn đất.

Suốt nhiều tuần sau đó, tôi cố gắng tìm cơ hội gặp riêng sơ, thậm chí còn rình trước những cánh cửa mà tôi biết sơ sẽ đi qua, chỉ để bị từ chối hết lần này đến lần khác. Tôi nghi ngờ Mẹ Bề Trên đã cảnh cáo sơ không được thân thiết quá mức với tôi. Nhưng tôi vẫn bám lấy niềm tin rằng giữa chúng tôi còn một mối liên kết, rằng sự lạnh lùng của sơ, thậm chí cả những cái nhìn gắt gao mà tôi phải nhận chỉ là một màn kịch, một lớp mặt nạ. Tôi tự hỏi không biết khi ở một mình trên giường sơ nghĩ gì, sơ ngủ như thế nào, có bao giờ nhớ đến tôi, hay nếu cố gắng không nghĩ đến tôi thì liệu sơ có mơ thấy tôi như tôi mơ thấy sơ không. Sơ quả thật gầy đi thấy rõ: chiếc nhẫn bạc dòng tu của sơ thường xuyên tuột khỏi ngón tay áp út ngoài ý muốn. Tôi nghĩ sơ có lẽ đang rơi vào suy sụp thần kinh.

Một ngày tháng Ba mặt trời ló rạng, lò sưởi tắt, và dù gió vẫn quất mạnh, chúng tôi được thông báo rằng mùa xuân đã tới, được phép ra sân chơi. Chúng tôi kéo nhau ra sân và bất ngờ khi thấy Sơ Imelda làm trọng tài ngày hôm đó. Những đóa thủy tiên trên sân bị gió quần thảo, xoay trở liên hồi, vàng rực, nhưng không quyến rũ bằng những bông giọt tuyết bé nhỏ, e dè, run rẩy trong gió. Chúng tôi chơi đánh bóng; khi đến lượt tôi vung cây gậy gỗ dài thì tôi lại chùn tay đánh trượt vì sợ quả bóng bay trúng vào mình.

“Nhà vô địch…” Baba chế giễu.

Sau ba lần tôi đánh trượt, Sơ Imelda bảo tôi có thể ngồi ngoài quan sát, và khi tôi đang ngồi trong nhà kính nuốt nỗi xấu hổ, sơ bước tới và nói tôi không được để nước mắt trào ra, bởi nỗi nhục là phép thử vĩ đại nhất của tình yêu Đức Kitô hay bất cứ tình yêu nào khác.

“Khi con trở thành một nữ tu, con sẽ hiểu,” sơ nói. Ngay lập tức tôi quyết tâm trở thành một nữ tu, và dù suốt đời không được tự do bộc lộ tình cảm thì ít nhất chúng tôi cũng được sống chung dưới một mái nhà, một tu viện, đồng hành trong tâm tưởng và linh hồn.

“Ban đầu có khó khăn lắm không ạ?” tôi hỏi.

“Khủng khiếp,” sơ nói, rồi lén nhét vào túi áo thể dục của tôi một chiếc huy chương nhỏ. Nó còn ấm vì vừa được lấy ra từ túi áo sơ và khi tôi cầm nó, tôi biết chúng tôi lại gần nhau thêm, rằng thật ra chúng tôi chưa bao giờ xa cách. Trên đường xuống sân chơi để ăn trưa Chủ nhật với món thịt cừu hầm bắp cải, mọi người đều vây quanh Sơ Imelda ríu rít. Mấy cô gái quây quanh, níu lấy tay sơ, đếm chìa khóa trên chùm chìa khóa của sơ và hỏi những câu vừa táo bạo vừa tinh nghịch.

“Sơ ơi, sơ đã bao giờ chạy xe mô-tô chưa?”

“Sơ ơi, sơ đã bao giờ mang tất không viền chưa?”

“Sơ ơi, sơ thích minh tinh điện ảnh nào nhất… nam ấy!”

“Sơ ơi, sơ thích ăn món gì?

“Sơ ơi, nếu được ước một điều sơ sẽ ước gì?

“Sơ ơi, nếu bị ngứa đầu thì sơ gãi thế nào?

“Có chứ,” sơ nói, sơ từng lái mô-tô và từng mang tất lụa - loại có đường may sau chân. Món sơ thích nhất là chuối và nếu được ước một điều, sơ chỉ mong được về nhà vài tiếng để thăm bố mẹ và anh trai.

Chiều hôm đó khi chúng tôi đi bộ băng qua thị trấn, cảnh những cửa hiệu đóng im lìm với thùng bia đen đặt phía trước và những con chó lai lang thang cũng không làm vơi đi cơn hoan lạc tôi vừa tìm lại được. Cái huy chương vẫn nằm trong túi và cứ vài giây tôi lại đưa tay sờ để tự trấn an. Baba trông thấy một cái bánh cuộn Thụy Sĩ đặt trong tủ kính tiệm bánh - bánh nằm trên một tấm giấy viền ren, phủ một lớp đường trắng mịn - trông ngon đến mức nó phải thốt lên vì đói rồi chửi đổng vì bị nhốt trong cái trại cải tạo khốn kiếp này, giữa lũ đần độn và u uất. Bất thình lình, nó rút cái giũa móng tay trong túi ra, lao sang bên kia đường xem có cắt được kính không. Một chị trưởng nhóm liền chạy từ cuối hàng lên và hỏi Baba có muốn bị nhốt vào phòng kỷ luật hay không.

“Thì tôi đang bị nhốt rồi còn gì,” Baba đáp, vừa nói vừa giũa móng tay để giữ thể diện và trút cơn giận. Baba là cô gái duy nhất dám đối đầu với các chị trưởng nhóm. Khi hứng lên, nó sẵn sàng bỏ ngang hàng đi bộ, trèo lên tường đá ngồi chờ đến lúc chúng tôi quay về. Baba bảo rằng nếu có thứ gì chán hơn học hành thì đó chính là những cuộc đi bộ mỗi ngày. Nó thường xắn tất xuống, ngắm nghía bắp chân và than rằng mình bắt đầu thấy mạch máu nổi lên vì cái trò đi bộ ngu xuẩn. Chân nó, như tất cả chúng tôi, đều đen vì thuốc nhuộm từ đôi tất mà lại bị cấm tắm, vì tắm được coi là vô đạo đức. Mỗi đêm, ai nấy chỉ được rửa ráy trong cái chậu men đặt cạnh giường. Khi dội nước lạnh lên ngực các cô gái thể nào cũng hét toáng lên, mặc dù việc đó bị cấm.

Sau buổi đi bộ, chúng tôi viết thư về nhà. Mỗi tuần chúng tôi được phép viết một lá thư và các lá thư luôn luôn bị kiểm duyệt. Tôi viết cho mẹ rằng mình đã quyết định sẽ đi tu và hỏi mẹ có thể gửi cho tôi ít chuối không, nếu cửa hàng tạp hoá ở quê có nhập chuối. Tối hôm ấy, có lẽ ngay khi tôi đang viết thư cho mẹ trên tờ giấy trắng kẻ ô ly, một bức điện được gửi tới, báo tin anh trai của Sơ Imelda đã qua đời vì bị xe tải đâm khi đang trên đường về sau một trận đấu hurling. Mẹ Bề Trên thông báo tin đó cho chúng tôi, bảo chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn anh ấy và viết thư chia buồn gửi đến bố mẹ của Sơ Imelda. Chúng tôi viết những lá thư giống hệt nhau. Hồi năm nhất chúng tôi đã được phát các mẫu thư dùng cho từng tình huống, nên giờ ai cũng lật lại trang có mẫu thư chia buồn để chép theo.

Hôm sau, chiếc xe thuê trong thị trấn chạy đến tu viện và Sơ Imelda về nhà để dự tang lễ cùng một nữ tu khác. Sơ trắng bệch như tờ giấy, đôi mắt sưng húp và quấn một cái khăn len dày nặng quanh vai. Mặc dù sơ đã trở lại ngay tối đó (tôi cố thức để nghe tiếng xe), nhưng suốt cả tuần sau chúng tôi không được thấy sơ, trừ lúc vô tình bắt gặp bóng lưng sơ trong nhà nguyện. Khi quay lại lớp, sơ trông xanh xao và xa cách, hoàn toàn không đả động gì đến biến cố vừa qua.

Hôm chuối được gửi đến, tôi đứng chờ trước cửa và đưa cho sơ một nải chuối được gói trong giấy lụa. Một vài quả vẫn còn hơi xanh và sơ nói Mẹ Bề Trên sẽ đem chúng vào nhà kính để ủ chín. Tôi linh cảm rằng Sơ Imelda sẽ không bao giờ được nếm những quả chuối ấy; chúng sẽ được dành cho linh mục hay giám mục đến thăm.

“Ôi thưa sơ, con rất tiếc về anh trai của sơ,” tôi buột miệng nói.

“Rồi ai trong chúng ta cũng sẽ đến lúc đó, sớm hay muộn,” Sơ Imelda u sầu đáp.

Tôi đánh liều chạm nhẹ vào cổ tay sơ để bày tỏ nỗi buồn của mình. Sơ rảo bước, có lẽ vì sợ sẽ bật khóc. Có những lúc sơ cáu gắt và còn nổi một cái mụn bọc trên má. Sơ nghỉ một vài buổi dạy, và trong bếp dạy nấu ăn, một nữ tu trẻ hơn được cử thay thế. Sơ dặn tôi cầu nguyện cho linh hồn anh trai sơ và tránh gặp riêng sơ. Mỗi lần sơ đi về phía tôi trong hành lang, tôi buộc phải rẽ sang hướng khác. Bây giờ Baba hoặc một cô bạn nào đó là người nâng bảng lên hai nấc và trải khăn choàng ướt của sơ lên lò sưởi để hong khô.

Tôi bị cảm cúm và phải nằm liệt giường. Cơn cảm đi theo một chu trình ảm đạm như thường lệ, một cốc senna nóng do chính Mẹ Bề Trên mang đến và đứng đó trông tôi uống đến khi hết, trà vào bữa trưa kèm vài lát bánh mì đen mỏng (khi ấy chiến tranh vừa kết thúc, lương thực vẫn còn phân phối theo tem phiếu, bơ được trộn với mỡ lợn, có những vệt trắng chạy ngang qua và một mùi ôi nhẹ), rồi hàng giờ chỉ nằm đó nhìn phòng ngủ trống trải, những giường sắt trơ trọi phủ khăn trải giường trắng và những cây thánh giá kim loại đặt trên từng gối ren trắng. Tôi biết chắc rằng sơ sẽ nhớ tôi và hy vọng Baba sẽ nói với sơ tôi đang ở đâu. Tôi đếm gạch từ trần nhà xuống đến đầu giường, nghĩ đến mẹ tôi ở nhà đang trộn cám cho gà ăn, nghĩ đến bố tôi có lẽ đang nổi trận lôi đình và giậm giày đinh xuống sàn bếp, nghĩ đến khoản học phí còn nợ, thầm mong Sơ Imelda sẽ không bao giờ biết chuyện đó. Trong kỳ nghỉ Giáng sinh tôi đã thấy hóa đơn mà Mẹ Bề Trên gửi bố tôi, trong đó viết: “Xin vui lòng gửi khoản này trong tuần, không chậm trễ.” Tôi ghét phải nằm lì một chỗ gây thêm phiền toái và khiến Mẹ Bề Trên nhớ đến món nợ chưa trả. Phòng ngủ không có đồng hồ nên tôi không biết thời gian, chỉ biết rằng từng giờ đang trôi qua lê thê.

Marigold, một trong các cô hầu, đến gỡ khăn trải giường lúc năm giờ và mang theo hai món quà từ Sơ Imelda - một quả cam và một cái gọt bút chì. Tôi giữ vỏ cam trong tay, vừa ngửi mùi vừa nghĩ cách cảm ơn. Nghĩ về sơ tôi, thiếp đi trong cơn sốt mơ màng và tỉnh dậy khi các cô gái trở về giường lúc mười giờ rồi bật các bóng đèn trần lên.

Vào lễ Phục sinh, Sơ Imelda dặn tôi đừng tặng sô-cô-la nên tôi thay bằng một cái đèn pin và mấy cục pin dự phòng. Hài lòng với món quà hữu dụng ấy (có lẽ sơ đọc thư trong lúc nằm trên giường), sơ vòng tay ôm tôi và áp một bên má vào tôi nhưng không phát ra tiếng hôn. Thế là đủ để bù lại bảy tuần lạnh nhạt. Khi tôi cùng Baba ngồi xe đi khỏi tu viện, sơ vẫy tay từ cửa sổ phòng mình đúng như đã hứa.

Kỳ cuối, chuyện học hành trở nên ráo riết vì kỳ thi cuối tháng Sáu đang cận kề. Giống như tất cả các sơ khác, Sơ Imelda chỉ nghĩ đến kỳ thi. Sơ nhồi nhét kiến thức cho chúng tôi, nổi giận cách ngày và nghiến răng mỗi khi bảng đen không ăn phấn. Hễ gặp tôi ngoài hành lang, sơ lại hỏi tôi có biết điều này điều kia hay không; và trên đường đi xuống sau giờ ra chơi Chủ nhật, sơ tranh thủ ôn lại các câu hỏi với chúng tôi. Ngày thi định mệnh cuối cùng cũng tới, chúng tôi ngồi mỗi người một bàn, được giám sát bởi một phụ nữ lạ đến từ Dublin. Bà ta mở một cái rương khóa kỹ, lấy ra các đề thi in trên giấy màu hồng và phát cho từng người. Môn hình học thi vào ngày thứ tư. Khi chúng tôi ra khỏi phòng thi, Sơ Imelda đã đứng sẵn ngoài hành lang với đáp án trong tay để chúng tôi đối chiếu với bài làm. Thế rồi sơ gọi tôi ra một chỗ và chúng tôi đi lên phía nhà bếp dạy nấu ăn, ngồi trên bậc thang và sơ xem lại đề cùng tôi, từng câu một. Tôi biết mình làm đúng ba câu và sai hai câu nhưng không nói cho sơ.

“Đen quá,” sơ nói, hơi đột ngột. Tôi tưởng sơ đang nói đến bóng tối xung quanh.

“Nhưng mát mẻ,” tôi nói.

Mùa hè đã tới, làn da trắng của chúng tôi rám đi dưới bộ đồng phục dày nặng, những bông pansy tím sẫm nở rộ trong khuôn viên tu viện. Sơ lại khỏe mạnh, làn da xanh nhợt của sơ lại mịn màng không tì vết.

“Tóc sơ,” sơ thì thầm, “màu đen.” Rồi sơ kể cho tôi nghe về đêm cuối cùng trước khi vào tu viện. Sơ đã đạp xe với một chàng trai, đạp suốt nhiều dặm đường, rồi họ bị lạc trên một ngọn núi và sơ bắt đầu sợ rằng sẽ về quá muộn. Chúng tôi ngầm hiểu rằng tôi sẽ vào tu viện vào tháng Chín và tôi cũng được phép có một lần buông thả cuối cùng.

Hai ngày sau, chúng tôi chuẩn bị về nhà. Có những lời từ biệt và những hứa hẹn viển vông, sổ lưu bút được ký tên và những cô gái lê bước lên hội trường, va li căng phồng quần áo sách vở. Baba rắc vụn bánh quy trong phòng ngủ cho lũ chuột và nhét tất cả sách kinh nguyện xuống dưới đệm giường. Bố nó hứa sẽ đến đón chúng tôi lúc bốn giờ. Tôi đã lén thu xếp với Sơ Imelda rằng sẽ gặp sơ trong một nhà chòi mùa hè dọc lối đi, chúng tôi sẽ dành nửa giờ cuối cùng bên nhau. Tôi mong sơ sẽ nói gì đó về cuộc sống tập sinh sắp tới của tôi. Nhưng bố Baba đến sớm một tiếng. Ông có việc gấp cần làm nên đến lúc ba giờ thay vì bốn giờ. Tất cả những gì tôi có thể làm là nhờ Marigold chuyển cho Sơ Imelda một mảnh giấy nhắn.

Chỉ xin được nhớ đến

Nhưng nếu chỉ nhớ đã là điều khó khăn,

Thì hãy quên đi.

Tôi ghét Baba, ghét ông bố bận rộn của nó, ghét cả ý nghĩ về mẹ tôi đang đứng ở ngưỡng cửa trong chiếc váy đẹp nhất đón tôi về nhà. Ngay khoảnh khắc đó tôi đã sẵn sàng trở thành nữ tu nếu có thể.

Tối hôm ấy tôi viết thư cho sơ, hôm sau lại viết, tuần nào cũng thế suốt một tháng. Thư của sơ bị kiểm duyệt nên tôi phải cố gắng bày tỏ tình cảm một cách gián tiếp. Trong một bức thư gửi cho tôi (mỗi tháng sơ chỉ được gửi một lần), sơ nói rằng mong được gặp tôi vào tháng Chín. Nhưng đến tháng Chín thì Baba và tôi đã nhập học đại học ở Dublin. Tôi ngừng viết thư cho Sơ Imelda, không đủ can đảm để nói rằng tôi không còn muốn đi tu.

Ở Dublin chúng tôi nhập học tại chính ngôi trường mà sơ từng học và đã tỏa sáng rực rỡ. Tôi nhìn thấy tên thời con gái của sơ trên một danh sách vinh danh sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và suốt nhiều ngày sau đó tôi lại buồn rầu và hối hận. Tôi vội đi mua pin cho chiếc đèn pin đã tặng sơ và gửi qua bưu điện, không kèm dòng nhắn nào. Không nói gì về ơn gọi đã mất, cũng không nói vì sao tôi không viết nữa.

Vào một Chủ nhật khoảng hai năm sau, Baba và tôi tới Howth bằng xe buýt. Baba quen một vài doanh nhân chơi gôn ở đó và giở đủ mánh khóe để kéo được lời mời cho cả hai. Xe buýt đông nghịt, phần lớn là các bà mẹ bế con trên đường ra bãi biển Dollymount Strand. Chúng tôi chạy dọc con đường và nhìn thấy biển: xanh ngắt, lấp lánh dưới nắng, và vì mặt nước bị chia nhỏ thành hàng cả triệu gợn sóng li ti nên trông nó như một đống chai lọ vỡ màu xanh thẫm trải dài bất tận. Gần bờ, cát trông ấm và có màu bánh quy. Chúng tôi chẳng bao giờ bơi hay tắm nắng. Cuộc sống chỉ xoay quanh công việc và gặp gỡ đàn ông, dù ai cũng thừa biết quan hệ rốt cuộc chỉ dẫn tới làm mẹ và rồi dắt díu lũ trẻ con ồn ào ra biển mỗi Chủ nhật. Câu “họ chẳng biết mình đang làm gì” chính xác dành cho chúng tôi.

Chúng tôi trang điểm đậm đến mức người soát vé cũng có vẻ không vừa ý và cáu gắt khi phải trả tờ mười shilling thừa. Không vì lý do nào rõ ràng, tôi bất đồ nhớ lại những lúc trang điểm trước các buổi kịch ở trường và nhận ra sự ngây ngô so với hiện tại: giờ chúng tôi luôn luôn phủ dày son phấn dù là đêm. Nghĩ đến tu viện, tôi nghe thấy tiếng xào xạc của vải dạ nữ tu, ngửi thấy mùi nước tẩy Jeyes và mùi bắp cải luộc, thấy khuôn mặt tái nhợt, bàng hoàng của sơ những tháng sau cái chết của anh trai. Tôi nhìn quanh và thực sự thấy sơ ở đó, ban đầu tôi nghĩ là mình tưởng tượng. Nhưng không, sơ đã lên xe cùng một sơ khác và đang ngồi xuống băng ghế cuối gần cửa. Trông sơ già hơn, nhưng vẻ xa cách vẫn còn nguyên, đôi mắt sơ vẫn thế và trái tim tôi bắt đầu dồn dập, vừa phấn khích vừa kinh hãi. Lúc đầu nó đập mạnh như kẻ trở về sau một quãng lưu lạc, rồi bỗng chững lại, dường sắp ngừng hẳn. Nỗi sợ lẫn tình yêu tôi dành cho sơ ùa về trong khoảnh khắc. Tôi đã suýt nhảy ra cửa sổ nếu như nó đủ rộng. Vấn đề là làm sao để thoát khỏi sơ. Baba reo lên khoái trá, đứng bật dậy và bằng một cách lộ liễu hết mức, ngoái nhìn ra sau để xác nhận đó đúng là Imelda. Nó còn nhận ra sơ đi cùng một người có biệt danh Johnny, từng dạy piano. Ý nghĩ đầu tiên của Baba là trả đũa. Nó bắt đầu liệt kê những hình phạt mà họ từng áp lên chúng tôi và nói sẽ tuyệt biết bao nếu được quay lại và làm họ sốc, nói những câu như: “Bẽ mặt không, các sơ,” hay “Biến đi,” hoặc thứ gì đó tệ hơn. Baba không hiểu vì sao tôi lại run rẩy, cũng như không hiểu vì sao tôi bắt đầu lau son môi. Trên hết tôi biết rằng mình không thể đối mặt.

“Mày sẽ phải làm thôi,” Baba nói.

“Không thể,” tôi đáp.

Không chỉ là vì cách ăn mặc của tôi mà còn vì chuyện tôi đã không viết thư và đã thất hứa. Baba cứ ngoái lại nhìn và than rằng họ chẳng nói một lời nào còn lũ trẻ thì cứ trố mắt nhìn. Không phải lúc nào cũng thấy các nữ tu đi xe buýt và chúng tôi đoán xem họ có thể đang đi đâu.

“Biết đâu đang hẹn hò với hai anh chàng,” Baba nói, rồi hình dung cảnh họ ngồi ở câu lạc bộ golf, say bí tỉ và vén váy lên. Nhưng với tôi chuyện đó chẳng buồn cười chút nào. Nó bày ra một kế: khi xe buýt sắp tới trạm và vẫn đang chạy, tôi phải bật dậy, đi dọc lối đi và bước ngang qua họ mà không thèm liếc mắt. Nó nói rất có thể họ sẽ không nhận ra chúng tôi vì mắt họ luôn luôn cúi và trông như đang cầu nguyện.

“Tớ không chạy dọc xe buýt được,” tôi nói. Chân tay run rẩy và cơn choáng váng đã dâng lên mức khủng khiếp.

“Mày sẽ làm thế,” Baba nói, và dù tôi khăng khăng là không thể, tôi đã bắt đầu ngầm tập trước một lời xin lỗi. Vừa làm thế tôi vừa liên tục làm dấu thánh giá trong khi Baba cứ nhắc chỉ còn một trạm nữa là tới nơi.

Khi khoảnh khắc kinh khủng ấy đến, tôi bật dậy và cố gắng nặn ra một nụ cười - nếu có thể gọi đó là cười - như một lời xin lỗi. Tôi theo Baba đi xuống cuối xe buýt. Thế nhưng họ đã đi mất. Tôi chỉ kịp thấy bóng lưng hai dáng người y hệt nhau, khoác áo choàng đen tuyền, khăn trùm đầu phấp phới trong gió. Họ trông thật lạnh lẽo và lạc lõng khi vội băng qua vỉa hè, tôi chỉ muốn chạy theo. Bằng cách nào đó, cảm giác ấy còn tồi tệ hơn cả phải đối diện với họ. Tôi không chắc sẽ nói gì nếu có cơ hội. Tôi biết rằng có điều gì vừa buồn vừa chán ghét ở điểm kết của một mối tình, nhất là khi mối tình ấy chưa từng trọn vẹn thành hình. Có lẽ tôi đã định ám chỉ điều đó nhưng e là không. Trong những khoảnh khắc sâu thẳm nhất, người ta thường thốt ra những điều tầm thường nhất.

(9 tháng Mười Một năm 1981)

Tấm thảm

Tôi quỳ xuống sàn linoleum mới tinh và ngửi thấy một mùi lạ. Đó là một mùi nồng và gây. Lần đầu tiên nó bám vào ký ức là khi tôi lên chín. Về sau tôi mới biết đó là mùi của dầu hạt lanh, và mỗi khi bất chợt ngửi thấy, tôi lại vừa xáo động vừa buồn rầu.

Tôi lớn lên ở miền tây Ireland, trong một ngôi nhà nông thôn xây bằng đá xám được bố tôi thừa kế từ ông nội. Bố tôi xuất thân từ một gia đình làm nông khá giả ở vùng đất thấp trù phú, còn mẹ tôi đến từ những ngọn đồi hoang gió, đói nghèo, nằm cheo leo trên một hồ nước lớn. Thuở bé, chúng tôi chơi trong một khu rừng nhỏ đầy hoa đỗ quyên - rậm rạp, um tùm, gãy rạp vì đàn bò - rừng bao quanh nhà và kéo dài xuống đường xe chạy. Lối đi từ cổng trước dẫn vào nhà nhiều ổ gà lớn đến mức ô tô phải lạng sang cánh đồng rồi mới vòng lại được đường chính.

Thoạt nhìn, ngôi nhà có vẻ bị bỏ bê - cỏ dại, hoa vàng và cây kế mọc um tùm - nhưng khách lạ đều không khỏi ngạc nhiên khi bước vào trong; bố tôi có thể phung phí cả đời chỉ để ngồi nhìn những tấm ngói trượt dần khỏi mái nhà kho - nhưng bên trong ngôi nhà đá vuông vức nơi đất thấp ấy lại là niềm kiêu hãnh và vui thú của mẹ. Lúc nào nó cũng sạch bong dù đầy đồ đạc - bàn ghế, chó sứ, cốc Toby, bình cao cổ, khay, thảm treo tường và đủ thứ linh tinh. Bốn phòng ngủ, phòng nào cũng có ảnh thánh treo trên tường, phía trên lò sưởi là gờ lò mạ vàng. Bên trong các lò sưởi đặt quạt giấy hoặc nắp hộp sô-cô-la để trang trí. Trên các bệ lò sưởi là bộ sưu tập chen chúc những món đồ nhỏ gồm hoa sáp, tượng thánh, đồng hồ báo thức hỏng, vỏ sò, ảnh chụp và những gối tròn mềm dùng để cắm kim may.

Bố tôi là người hào phóng, khờ khạo và lười nhác đến mức người ta chỉ có thể cho rằng đó là một kiểu bất mãn với đời. Năm tôi lên chín, cũng là năm tôi lần đầu ngửi thấy cái mùi tuyệt diệu ấy, ông lại bán đi thêm một khoảnh đồng để trả nợ, và lần đầu tiên sau nhiều năm, mẹ tôi mới có trong tay một món tiền kha khá.

Một sáng nọ, mẹ ra khỏi nhà từ sớm và bắt xe buýt lên thành phố. Suốt cả buổi sáng và chiều hè hôm đó, bà lặng lẽ đi khắp nơi chọn tấm trải sàn linoleum. Khi trở về vào buổi tối, chân đau nhức vì đi giày cao gót, mẹ nói đã mua được một loại linoleum tuyệt đẹp màu nâu nhạt, điểm những ô vuông màu cam.

Rồi ngày ấy cũng đến: bốn cuộn linoleum được chở đến cổng trước, và Hickey, người giúp việc nhà tôi, chuẩn bị ngựa và xe để chở chúng lên nhà. Cả nhà đi theo; chúng tôi háo hức không ai muốn ở lại. Đám bê con lon ton theo sau xe, tưởng rằng sẽ được cho ăn ngay bên vệ đường. Có lúc chúng phi ra xa rồi quay lại, con này húc con kia giành chỗ đứng. Trời hôm ấy ấm và lặng gió, âm thanh xe cộ và tiếng chó nhà hàng xóm nổi rất rõ; trên đường xe chạy, những bãi phân bò đã khô màu nâu sẫm như thuốc lá vụn.

Mẹ tôi hăm hở chất các cuộn linoleum lên xe. Từ lâu bà đã chấp nhận mình sinh ra để làm lụng.

Có lẽ mẹ đã hứa cho Hickey mấy con gà đem bán lấy tiền riêng nên tối hôm đó anh mới chịu ở lại phụ trải sàn, bởi giờ đó anh thường đi uống bia đen. Mẹ, như mọi khi, cẩn thận giữ lại các tờ báo và nói rằng lót càng nhiều lớp dưới tấm trải sàn càng bền. Vừa quỳ gối làm, mẹ vừa ngẩng lên từng đợt - mặt đỏ bừng vì mệt nhưng ánh mắt rạng rỡ - và nói: “Nhớ lời mẹ đấy, thể nào có ngày nhà mình cũng có thảm lót sàn.”

Trước khi cắt những đoạn khó quanh khung cửa, cửa sổ lồi và lò sưởi, cả nhà phải tính toán và bàn bạc khá lâu. Hickey nói rằng nếu không có anh, chắc mẹ đã làm hỏng hết cả. Trong lúc lời qua tiếng lại, không ai để ý rằng tôi đã thức quá giờ. Suốt buổi tối, bố tôi ngồi ngoài bếp cạnh cái lò sưởi trong khi chúng tôi làm việc. Mãi một lúc sau ông mới bước vào và khen chúng tôi. Làm rất tốt, ông nói. Ông bảo ông vừa bị đau đầu.

Ngày hôm sau chắc chắn là thứ Bảy vì tôi đã ngồi lì trong phòng khách suốt buổi sáng, ngắm tấm linoleum, ngửi mùi của nó và đếm từng ô vuông màu cam. Lẽ ra tôi phải phủi bụi. Thỉnh thoảng tôi điều chỉnh rèm cửa theo hướng nắng. Phải che nắng để giữ cho màu không bị phai.

Chó sủa và người đưa thư đạp xe tới. Tôi chạy ùa ra đón ông và thấy ông mang theo một bưu kiện rất to. Lúc đó mẹ tôi đang ở trong sân nuôi gà. Khi ông đã đi, tôi chạy lên báo cho mẹ biết.

“Bưu kiện à?” mẹ hỏi. Lúc ấy mẹ đang cọ máng ăn cho gà trước khi đổ cám vào. Đám gà luýnh quýnh xung quanh, con nào con nấy nhảy ra nhảy vào thùng nước, mổ vào tay mẹ. “Chắc là cuộn dây buộc rơm cho máy ép,” mẹ nói. “Ai lại gửi bưu kiện cho mình chứ?” Mẹ tôi xưa nay không phải người dễ xao động.

Tôi nói với mẹ là trên bưu kiện có dấu bưu điện Dublin - chính người đưa thư bảo vậy - và bên trong có cái gì đó bằng len đen, xù xì. Giấy gói bị rách ở một góc và tôi rụt rè thọc ngón tay vào sờ thử.

Trên đường về nhà mẹ lấy một nắm cỏ dài lau tay. “Biết đâu có ai bên Mỹ cuối cùng cũng nhớ tới mình,” mẹ nói. Một trong số ít những giấc mơ của mẹ là được bà con di cư sang Mỹ nhớ đến. Khu chuồng trại cách nhà một đoạn; hai mẹ con tôi chạy nốt quãng cuối. Nhưng ngay cả trong cơn phấn khích, bản tính tằn tiện của mẹ vẫn khiến bà phải tháo từng nút dây cẩn thận rồi cuộn lại để dành. Mẹ là người phụ nữ hào phóng nhất trên đời nhưng lại chắt chiu từng thứ dây buộc, giấy gói, chân nến cháy dở, cánh gà tây khô và những hộp thuốc không.

“Lạy Chúa,” mẹ khẽ thốt lên kính cẩn khi gấp tờ giấy cuối cùng và trước mắt lộ ra một tấm thảm lót lò sưởi bằng da cừu đen. Chúng tôi mở ra. Tấm thảm hình bán nguyệt, rộng phủ kín bàn bếp. Mẹ không nói nên lời. Đó là da cừu thật, dày, mềm và sang trọng.

Mẹ xem kỹ lớp lót, săm soi nhãn mác ở mặt sau, lục tìm trong nếp giấy nâu xem có thư gửi kèm hay không. Thế nhưng chẳng có bất kỳ dấu hiệu nào cho biết món quà đến từ đâu.

“Lấy kính cho mẹ,” mẹ bảo. Hai mẹ con cùng đọc lại địa chỉ và dấu bưu điện. Gói hàng được gửi từ Dublin hai ngày trước. “Gọi bố con dậy,” mẹ nói. Ông đang nằm trên giường vì đau khớp. Dẫu có thảm hay không, ông vẫn đòi ly trà thứ tư mới chịu dậy.

Chúng tôi khiêng tấm thảm đen lớn vào phòng khách và trải nó lên tấm linoleum mới ngay trước lò sưởi.

“Quá là hoàn hảo phải không, phối màu cũng hoàn hảo nữa chứ?” mẹ nói. Căn phòng bỗng trở nên ấm cúng. Mẹ lùi lại, đứng ngắm nó với vẻ ngạc nhiên pha chút nghi ngại. Dù luôn luôn hy vọng, mẹ chưa bao giờ thực sự tin rằng điều gì đó tốt đẹp sẽ đến với mình. Lúc ấy mới chín tuổi nhưng tôi đã đủ hiểu cuộc đời của mẹ để thầm cảm tạ rằng cuối cùng mẹ cũng nhận được một món quà mà không phải đánh đổi bằng lao động vất vả. Mẹ có gương mặt tròn, nước da sạm vàng và một nụ cười ngập ngừng, rụt rè đến lạ. Sự nghi ngờ sớm tan đi và nụ cười ấy hiện rõ. Đó là một trong những ngày hạnh phúc nhất của mẹ; tôi nhớ nó rõ như nhớ ngày đau khổ nhất mà tôi từng chứng kiến: ngày viên chức siết nợ đến nhà, một năm sau đó. Tôi ao ước mẹ sẽ ngồi trong căn phòng mới mỗi chiều Chủ Nhật, uống trà, không còn đeo tạp dề, mái tóc nâu chải suôn, khuôn mặt thanh thản hiền hậu. Bên ngoài, những bụi đỗ quyên, dù hoang dại và gãy gập, vẫn nở hoa đỏ thắm và tím biếc. Còn bên trong, tấm thảm mới sẽ nằm yên trên tấm linoleum thơm lừng. Mẹ bất chợt ôm chầm lấy tôi, như thể tôi là người đã mang món quà ấy đến. Tay mẹ khô cứng vì cám gà kết lại, chúng có mùi ngai ngái mà tôi sớm đã quen.

Suốt mấy ngày sau đó mẹ cứ nghĩ ngợi mãi, vò đầu bứt tóc rồi quay sang bắt cả nhà cùng nghĩ để tìm ra manh mối. Chắc chắn người gửi phải là ai đó hiểu rõ mẹ cần gì, mong gì chứ sao có thể chọn đúng món đồ mẹ đang cần như thế? Mẹ viết thư gửi khắp nơi, cho họ hàng xa, cho bạn bè, cho những người đã nhiều năm không gặp.

“Chắc là bạn của mình đấy,” mẹ nói với bố tôi.

“Ờ, chắc vậy, chắc vậy,” bố đáp. “Tôi cũng quen không ít người tử tế mà.”

Dĩ nhiên là mẹ nói mỉa - ám chỉ những người lạ mặt mà bố tôi hay mời trà. Ông chẳng thích gì hơn là đứng dưới cổng vào những ngày hội chợ hay ngày đua ngựa, bắt chuyện với người qua đường, và thể nào cũng có ai đó được ông dẫn về nhà uống trà và ăn trứng luộc. Bố tôi có tài kết bạn.

“Chắc thế thật,” ông nói, vui ra mặt khi được nhận công về mình.

Những buổi tối ấm áp, cả nhà ngồi quây quần quanh lò sưởi - trong suốt tuổi thơ tôi căn phòng ấy chưa từng có ngọn lửa nào - và quanh tấm thảm, cùng nhau nghe radio. Thỉnh thoảng mẹ hoặc bố lại sực nhớ ra ai đó có thể là người đã gửi tấm thảm. Chưa đầy một tuần mẹ đã viết thư cho chục người - một người quen từng dắt theo con chó săn nhỏ mà bố tôi tặng khi chuyển lên Dublin, và con chó ấy sau này đã thành chó đua vô địch; một linh mục bị tước áo dòng từng lưu lại nhà tôi một tuần để lấy lại tinh thần trước khi về quê gặp gia đình; một ảo thuật gia từng đánh cắp đồng hồ vàng của bố tôi rồi biến mất không tung tích; một lão nông từng bán cho nhà tôi một con bò bị lao và nhất quyết không chịu nhận lại.

Thời gian trôi qua. Mỗi thứ Bảy tấm thảm lại được mang ra ngoài giũ kỹ, còn tấm linoleum thì được đánh bóng. Một lần tan học sớm, tôi lén nhìn qua cửa sổ và thấy mẹ đang quỳ trên tấm thảm, lặng lẽ cầu nguyện. Tôi chưa từng thấy mẹ cầu nguyện như thế giữa ban ngày. Hôm sau bố tôi định sang hạt bên để xem một con ngựa mà ông nghĩ có thể mua với giá rẻ; và mẹ, dĩ nhiên, đang cầu cho ông giữ đúng lời hứa và không động đến rượu. Bởi nếu ông uống, có thể ông sẽ lại lao vào một cơn say lạc lối và mất tăm suốt cả tuần.

Hôm sau ông đi, định ở lại qua đêm nhà bà con. Trong lúc ông vắng mặt, tôi ngủ cùng mẹ trên chiếc giường đồng lớn cho đỡ trống trải. Tôi tỉnh giấc khi thấy ánh nến lập lòe và mẹ đang vội vã khoác áo len. Bố về rồi ạ? Không, mẹ nói, nhưng mẹ trằn trọc mãi không ngủ được, có chuyện nhất định phải nói với Hickey không thì cả đêm mẹ sẽ mất ngủ. Chưa đến mười hai giờ; có thể anh vẫn còn thức. Tôi bảo tôi không muốn bị bỏ lại một mình trong bóng tối nhưng mẹ đã bước nhanh qua hành lang. Tôi vội nhảy ra khỏi giường và chạy theo. Chiếc đồng hồ dạ quang chỉ mười hai giờ kém mười lăm. Từ chiếu nghỉ đầu cầu thang, tôi nhìn xuống và thấy mẹ đang vặn núm cửa phòng Hickey.

Sao anh lại mở cửa cho mẹ vào giờ này, tôi nghĩ. Hickey chẳng bao giờ để ai vào phòng, lúc đi làm ngoài đồng anh cũng luôn luôn khóa cửa. Có lần chúng tôi leo qua cửa sổ vào trong và thấy cả căn phòng vô cùng bừa bãi - bộ com-lê tốt nhất trải bẹp dưới sàn, một cái áo sơ mi ngâm trong xô nước xanh bẩn, một lon sữa chứa đầy bơ sữa đã vón cục, một sợi xích xe đạp, một tượng Thánh Tâm bị vỡ, vài đôi giày cũ móp méo - mẹ đã quyết định từ đó không bao giờ bước chân vào căn phòng ấy nữa.

“Cái quái gì vậy?” Hickey nói. Rồi có tiếng rầm. Chắc anh làm đổ thứ gì đó trong lúc lục tìm đèn pin.

“Nếu mai trời đẹp thì chúng ta sẽ cắt than bùn,” mẹ nói.

Hickey hỏi có phải mẹ gọi anh dậy giờ này chỉ để nhắc lại chuyện họ đã bàn lúc uống trà chiều hay không.

“Mở cửa đi,” mẹ nói. “Tôi có tin mới cho cậu, về tấm thảm.”

Anh hé cửa một khe nhỏ. “Ai gửi vậy?”

“Cái người ở Ballinasloe ấy,” mẹ đáp.

“Cái người ấy” là cách mẹ gọi hai vị khách từng đến nhà tôi nhiều năm về trước - một cô gái trẻ và một người đàn ông lớn tuổi đeo găng da nâu. Họ vừa đến nơi, bố tôi đã cùng họ lên ô tô đi đâu đó. Khi họ quay lại sau khoảng một tiếng, tôi đoán từ những chuyện rời rạc rằng họ đã đến gặp bác sĩ trong vùng, cũng là bạn của bố. Cô gái là em ruột của một nữ tu làm hiệu trưởng tại trường dòng nơi các chị tôi theo học. Cô ấy đã khóc. Khi đó tôi đoán, hoặc cũng có thể là sau này, cô gái ấy khóc vì chuyện mang thai, và bố tôi đã đưa cô đến bác sĩ để chắc chắn xem cô có thai thật không mà biết hướng chuẩn bị cưới hỏi. Cô không thể nào đi khám bác sĩ gần nhà và tôi tin chắc bố sẵn lòng giúp vì ông không phải lúc nào cũng có tiền đóng học phí cho các chị.

Mẹ đãi họ trà trên khay - chứ không tỉ mỉ bày biện khăn thêu tay và tách sứ trắng mỏng sang trọng - và khi tiễn họ ra về, mẹ chỉ bắt tay lạnh nhạt. Mẹ không thể chịu nổi những người phạm tội.

“Tốt ghê, thế mà vẫn nhớ,” Hickey nói, vừa hút gió qua kẽ răng vừa huýt lên những tiếng như chim kêu. “Mà sao bà biết?”

“Tôi đoán thôi,” mẹ nói.

“Lạy Chúa!” Hickey kêu lên, rồi sập cửa, chui tót lên giường với một lực mạnh đến nỗi tôi nghe cả tiếng lò xo kêu răng rắc.

Mẹ bế tôi lên cầu thang vì chân tôi lạnh cóng rồi bảo Hickey là người chẳng có chút lễ độ nào.

Hôm sau, khi bố trở về trong trạng thái tỉnh táo, mẹ kể lại cho ông chuyện đó và tối đến bà viết thư gửi nữ tu nọ. Không lâu sau, nhà tôi nhận được thư hồi âm - kèm theo vài mẫu ảnh thánh và áo đeo vai cho tôi - nói rằng cả nữ tu lẫn người em gái đã lập gia đình của bà đều không gửi món quà nào. Tôi đoán cô gái kia đã lấy người đàn ông đeo găng tay da.

“Có lẽ đó là một trong những điều bí ẩn của đời người,” mẹ nói trong lúc vỗ tấm thảm vào trụ xi măng, nhắm mắt để tránh bụi và chấp nhận việc mình sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật.

Nhưng bốn tuần sau, khi mẹ con tôi đang ở tầng trên thay ga giường, có tiếng gõ cửa sau. “Chạy xuống xem ai,” mẹ bảo.

Người đứng đó là một ông trùng tên với bố tôi sống trong làng - người chuyên đến vay mượn đủ thứ: con lừa, cái máy cắt cỏ, thậm chí cả cái xẻng.

“Mẹ cháu có nhà không?” ông hỏi. Tôi chạy lên nửa cầu thang rồi gọi mẹ xuống.

“Tôi đến lấy lại tấm thảm,” ông nói.

“Thảm nào cơ?” mẹ tôi hỏi. Đó có lẽ đó là lần mẹ tiến gần nhất đến việc nói dối. Hơi thở bà nghẹn lại và mặt hơi ửng đỏ.

“Tôi nghe nói nhà bà có tấm thảm mới. Mà đó thật ra là thảm nhà tôi, em vợ tôi gửi từ mấy tháng trước mà chúng tôi mãi chưa nhận được.”

“Ông đang nói cái gì vậy?” mẹ hỏi, giọng chua chát. Ông ta là người nhút nhát và thiên hạ vẫn bảo ông ta bất tài đến mức phải gọi vợ từ vườn vào chỉ để rót cho mình một tách trà. Có lẽ mẹ tôi hy vọng có thể dọa ông ta chùn bước.

“Tấm thảm mà người đưa thư mang cho đứa nhỏ nhà bà ấy.” Ông ta gật đầu về phía tôi.

“À, cái đó à,” mẹ nói, hơi sững lại vì biết người đưa thư đã lỡ kể. Rồi có lẽ một tia hy vọng, cũng có thể là một tia hoang tưởng, lóe lên trong đầu mẹ khi bà hỏi: “Ông đang hỏi tấm thảm màu gì?”

“Da cừu đen,” ông ta đáp.

Không còn nghi ngờ gì nữa. Toàn thân mẹ tôi rũ xuống - cả vai, bụng, giọng nói, tất tật.

“Nó ở đây,” mẹ lặng lẽ nói rồi bước qua hành lang vào phòng khách.

“Chắc do trùng tên nên người ta đưa nhầm,” ông ta ngớ ngẩn nói với tôi.

Mẹ nháy mắt bảo tôi đứng yên không để ông ta đi theo vì bà không muốn ông ta thấy nhà tôi từng dùng đến tấm thảm.

Khi mẹ trả lại, nó đã được cuộn tròn, buộc gọn ở giữa bằng một đoạn dây. Đứng nhìn ông ta đi khuất khỏi hàng rào, mẹ bật khóc, không hẳn vì mất mát - dù đó là một mất mát lớn - mà vì sự khờ dại khi từng tin rằng cuối cùng cũng có ai đó muốn tử tế với mẹ.

“Sống rồi mới biết,” mẹ nói, tháo dây tạp dề theo thói quen rồi lại buộc vào, chậm rãi, chỉn chu, siết chặt thêm một nấc.

(16 tháng Ba, 1963)
 

Thanh Nghi dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công