William Empson: Văn chương vô sản
Là một nhà phê bình văn học quan trọng của thế kỷ 20, William Empson có mối quan tâm rộng lớn: không chỉ có vị trí không thể bỏ qua trong lịch sử bình luận Shakespeare, những bình luận sâu sắc về nhiều chủ đề khác khiến cho đến giờ, bốn mươi năm sau khi qua đời, Empson vẫn là tác giả thu hút sự chú ý của những ai thực sự đọc văn chương. "Văn chương vô sản" là một trong những tiểu luận thuộc cuốn sách Some Versions of Pastoral (in ở Mỹ với nhan đề English Pastoral Poetry).
Văn chương vô sản
- William Empson
Một người Anh thì khó mà nói xác quyết về nghệ thuật giai cấp vô sản, bởi ở Anh nó chưa bao giờ là một thể loại có các nguyên tắc xác định, và những gì từng có về chủ đề này, theo như tôi thấy, đều tệ. Nhưng việc quan trọng là phải thử và quyết định xem thuật ngữ này nên mang nghĩa gì; điều tôi nghi ngờ, và sẽ cố làm rõ, đó là nó có thể bị đặt giới hạn sai.
Về mặt tuyên truyền, một vài tác phẩm rất tuyệt đúng là thuộc loại ấy; hầu hết tác giả đều muốn quan điểm của họ có sức thuyết phục. Pope nói rằng ngay cả Aeneid cũng là một "lộng ngôn chính trị"; nỗi sầu muộn phổ quát, không ám chỉ ai cụ thể, đầy mơ hồ của nó là sự ủng hộ có toan tính cho Augustus. Và mặt khác văn chương vô sản không nhất thiết phải mang tính tuyên truyền; Carl und Anna [của Leonhard Frank] đơn giản là một chuyện tình rất hay; nó được xem là thuộc về giai cấp vô sản bởi vì không có tầng cầu xã hội (ý luận) nào khác được đưa vào ngoài xã hội của các nhân vật là công nhân nhà máy. Đương nhiên việc xác định mục tiêu của một tác giả, có chủ ý hay ngoài ý thức, là rất khó. Việc viết tốt là bất khả nếu không có những lực nghiêm túc thúc đẩy; và không thể tồn tại lâu dài nếu nó không tác động đến những độc giả có quan điểm khác với tác giả. Mặt khác lý do khán giả Anh có thể thưởng thức phim ảnh tuyên truyền của Nga là do sự tuyên truyền ở quá xa để có thể làm phiền: một thính giả thuộc đảng Tory nếu chịu sự tuyên truyền của đảng Tory với cùng cường độ ấy sẽ chán ngấy. Dù sao người ta cũng đồng thuận rằng có một số tác phẩm hay mà một người Marxist sẽ cho là vô sản; những câu hỏi cấp bách hơn đối với anh ta là liệu một tác phẩm tốt có thể là bourgeois không và liệu một tác phẩm nào đó có thể không hề mang ý thức giai cấp hay không.
Elegy của Gray [Thomas Gray, Elegy Written in a Country Churchyard] là một trường hợp kỳ lạ của thơ với những ý tưởng chính trị tiềm ẩn:
Rất nhiều ngọc quý của lòng thanh thản trong sáng nhất
Lẩn dưới động tối, sâu thẳm của đại dương
Rất nhiều hoa nở ửng hồng không ai thấy
Vung vãi tươi mát vào bầu khí sa mạc.
Như thế nghĩa là, như bối cảnh đã chỉ rõ, nước Anh thế kỷ mười tám không có một hệ thống uyên bác hay carrière ouverte aux talents [sự nghiệp mở rộng cho nhân tài]. Điều này được bày tỏ thật thống thiết, nhưng độc giả bị đặt vào một tâm trạng nơi người ta không muốn cố thay đổi. (Quả thật xã hội vào thời Gray, không giống với một xã hội tràn ngập máy móc, nhất thiết phải dựa trên lao động chân tay, nhưng nó có thể sử dụng một người có khả năng đặc biệt ở bất cứ nơi nào anh ta sinh ra.) Bằng cách so sánh sự sắp đặt của xã hội với Tự nhiên ông khiến nó mang vẻ tất yếu, mà thực tế nó không phải vậy, và mang lại cho nó một phẩm giá không xứng đáng. Hơn nữa, một viên ngọc không ngại ở trong động và một bông hoa không thích bị hái; chúng ta cảm thấy rằng con người thì giống như hoa, tồn tại ngắn ngủi, tự nhiên, có giá trị, và điều này đánh lừa chúng ta rằng anh ta tốt đẹp hơn nhiều bởi không có cơ hội. Khơi gợi tính dục của sự đỏ mặt đưa vào đó ý Cơ đốc giáo rằng sự trong trắng tự thân nó tốt đẹp, và bởi vậy bất kỳ sự quên mình nào cũng tốt; điều này có thể đánh lừa chúng ta cảm thấy thật may mắn cho người nghèo khi xã hội giữ cho họ không bị vấy bẩn bởi Thế giới. Giọng điệu u sầu khẳng định rằng nhà thơ hiểu những suy xét này đối lập với giới quý tộc, dù anh ta xét đoán chống lại họ; chân lý hiển nhiên của những suy tư trong nghĩa trang, tính phổ quát và phi cá nhân mà điều này đem lại cho phong cách, khẳng định như thể để so sánh rằng chúng ta nên chấp nhận sự bất công của xã hội giống như chúng ta chấp nhận sự tất yếu của cái chết.
Nhiều người, ngoài những người cộng sản, đã khó chịu bởi sự tự mãn trong tĩnh lặng bao la của bài thơ, và điều này dường phần nào là bởi họ cảm thấy có sự gian lận trong ẩn ý chính trị; bản thân người "bourgeois" không thích văn chương có quá nhiều "ý luận bourgeois".
Tuy vậy điều được nói ra lại là một trong những chân lý vĩnh cửu; chỉ ở một mức nào đó bất kỳ sự cải thiện nào của xã hội mới có thể ngăn chăn sự lãng phí năng lực con người; sự lãng phí ngay cả trong một cuộc sống may mắn, sự cô lập ngay cả trong một cuộc sống đầy ắp thân mật, không thể không cảm nhận được sâu sắc, và là cảm giác trung tâm của bi kịch. Và bất cứ thứ gì có giá trị đều phải chấp nhận điều này bởi nó không được bán rẻ bản thân; sức mạnh của nó là ở chỗ sẵn sàng phí hoài bản thân, nếu nó không có được cơ hội của mình. Một tuyên bố như vậy chắc chắn là phi chính trị bởi nó đúng trong bất kỳ xã hội nào, và tuy vậy hầu như tất tật mọi lời bày tỏ thơ ca vĩ đại về điều đó thì đều "bourgeois" theo cách nào đó, giống như bài thơ kia; chúng gợi ý cho rất nhiều độc giả, dù chúng không nói ra, rằng đối với người nghèo, mọi thứ không thể cải thiện được ngay cả về mức độ. Điều này ít nhất cho thấy rằng sự phân biệt mà những người cộng sản cố gắng chỉ ra là một điều gây bối rối; hai người có thể có những kinh nghiệm rất khác nhau về cùng một tác phẩm nghệ thuật mà không người nào rõ ràng sai. Người ta kể rằng người Nga hiện giờ không tán thành bi kịch, và trong một buổi biểu diễn vở Hamlet ở vùng Turk-Sib khán giả chẳng ai ép buộc tự ý quyết định đó là một trò hề. Họ cũng hoàn toàn có thể phản đối nỗi u sầu của nước Nga cũ, và đối với họ có lẽ sẽ thật nguy hiểm nếu dính líu đến bất kỳ bi kịch nào, mà những người khác không trông thấy. Tôi chắc chắn rằng dù trong trường hợp nào thì người ta cũng không thể ước tính được tổng số ý luận bourgeois "thực sự ẩn trong" những câu thơ của Gray.
Trở ngại cũng nảy sinh theo hướng ngược lại. Văn chương vô sản thường có ý gợi về tính đồng quê, một hình thức rắc rối có vẻ như thuộc về giới vô sản nhưng không phải. Tôi phải nói về nghĩa của thuật ngữ này trong giây lát. Người ta có thể định nghĩa nghệ thuật giới vô sản là sự tuyên truyền của một tầng lớp công nhân nhà máy, những người cảm thấy lợi ích của họ đối lập với chủ nhà máy; nghĩa hẹp này có lẽ là thứ thường được viện ra nhưng chẳng đáng quan tâm mấy. Bạn không thể có văn chương vô sản theo nghĩa ấy trong một nhà nước xã hội chủ nghĩa đã thành tựu. Nghĩa rộng hơn của thuật ngữ này bao gồm cả văn chương dân gian được tạo ra bởi người dân, dành cho người dân, và về người dân. Nhưng hầu hết các truyện cổ tích hay ballad, dẫu có "bởi" và "dành cho", không "về" người dân; trong khi đó tính đồng quê dẫu có "về" lại không "bởi" hay "dành cho". Các bản ballad Biên giới giả định một xã hội của các đảng tranh đấu được bảo vệ bởi đầu đảng của họ vì những người này có khả năng mua vũ khí đắt tiền; nhà quý tộc có chức năng rõ ràng với người dân, và họ vui vẻ mô tả sự vĩ đại và trang phục đẹp của anh ta. (Niềm vui này đối với anh ta như một chủ đề của tưởng tượng lại là điều bình thường, nhưng thường xuyên có những quyền lực theo cách khác.) Họ đều có ý thức đúng về giai cấp, nhưng không có ý thức về chiến tranh giai cấp. Tính đồng quê lại là một chuyện kỳ quặc hơn, nhưng tôi cho rằng lâu bền và không phụ thuộc vào một hệ thống bóc lột giai cấp. Bất kỳ thể chế xã hội chủ nghĩa nào mà giới trí thức ở thủ đô cảm thấy bản thân họ có học thức hơn nông dân (điều này đúng; nghệ thuật sản sinh ra bởi tình trạng quá tải dân số) đều có thể tạo ra nó; nó phổ biến trong những bộ phim Nga ngày nay, và là phần lớn vẻ đẹp của chúng (chẳng hạn như bộ phim tên là The General Line khi nó đến nước Anh). Lý do tôi đem hình thức lỗi thời này ra thảo luận đó là vì tôi nghĩ một tác phẩm nghệ thuật vô sản tốt thường mang tính Đồng quê Ngầm ẩn.
Trước khi lý thuyết hóa điều này tốt nhất tôi nên nói về một vài nghệ sĩ Anh gần đây. Một quyển sách giống như Hunger and Love của Lionel Britton, một trong số ít những tác phẩm vô sản có sức mạnh mà nước Anh có thể giới thiệu (tôi quá không thích để mà đọc hết nó), lại không hề có tính đồng quê; đó là một câu chuyện nồng nhiệt và đầy xúc động về một người đàn ông đang cố thoát khỏi giới vô sản để bước vào giới trí thức, hoặc đúng hơn là từ tầng lớp trung lưu thấp tiến lên tầng lớp cao hơn. Vậy thì nó có thể là tác phẩm văn chương tốt bởi sức mạnh thuần túy, và là tác phẩm tuyên truyền hữu dụng nếu nó không lỗi thời vào thời điểm được viết ra, nhưng điều tác giả thiếu là cơ hội để không trở thành người vô sản; cũng tốt thôi, nhưng như thế không tạo nên văn chương vô sản. Mặt khác không ai xem truyện đồng quê của T. F. Powys thuộc về giới vô sản, dù nó thực sự nói về các công nhân; mục đích của ông khi viết về người dân miền quê là để có một chất liệu đơn giản đủ cho ý định của ông, mà người ta có thể tóm tắt là một vở kịch với hình ảnh Cơ đốc nhân chỉ được hậu thuẫn bởi một sự đồng thuận của Phật tử về Chúa và cái chết. Rõ ràng ông sẽ nói rằng dân miền quê thực sự cảm thấy như vậy, và họ khôn ngoan hơn những người có học thức, và rằng ông là người phát ngôn cho họ, nhưng các nhân vật thì hoàn toàn giả tạo và được giữ ở một khoảng cách rất xa với tác giả. W. W. Jacobs khiến lý lẽ này trở nên rõ ràng đến mức buồn cười; chẳng rõ tại sao ông không phải là một tác giả vô sản, và một người cộng sản hẳn rất khó chịu mà thừa nhận rằng ông đúng là như vậy. Có lẽ không có ai lại phủ nhận rằng ông viết một thể loại đồng quê. Sự thật trợ giúp công thức của ông ở chỗ những người giống như các nhân vật của ông giữ cho tâm hồn họ sống động bằng sự hóm hỉnh đầy mỉa mai, một lối suy nghĩ tế nhị trong số các ý khác khiến bạn sẵn lòng để cho bị cai trị bởi những ai giỏi hơn; và điều này khiến người bourgeois cảm thấy an toàn ở Wapping. Việc D. H. Lawrence từ chối viết văn chương vô sản là một sự lựa chọn quan trọng, nhưng ông là một người phức tạp; để thấy được những lý lẽ chung cho việc ấy tốt nhất nên chọn một ví dụ đơn giản hơn. George Bissill, họa sĩ, làm việc từ nhỏ trong các hầm mỏ và từng thực hiện những bản khắc gỗ xuất sắc, đã từ chối làm việc cho New Leader (họ muốn làm những phim hoạt hình chính trị) bởi ông thà trở thành một Nghệ sĩ Vỉa hè hơn một Nghệ sĩ Vô sản. Về mặt cá nhân rõ ràng ông không "bourgeois", trừ phi việc cương quyết không trở lại hầm mỏ khiến bạn trở thành như thế. Một người như vậy không thích nghệ thuật vô sản bởi ông cảm thấy rằng nó giống như nghệ thuật đồng quê, và bởi vậy hoặc kẻ cả hoặc "lãng mạn". Người Anh mà tôi thấy dường gần với một nghệ sĩ vô sản nhất (trong số những người tôi biết) là nhà sản xuất phim Grierson; Drifters đã mang lại theo lối rất sống động cảm giác thực sự sống trên một tàu đánh cá trích và (bởi vẻ đẹp của nước và lưới và cá, và sự tinh vi của thời gian và vân vân) những gì tôi nên gọi là một cảm giác đồng quê về phẩm chất của hình thức lao động ấy. Nó chịu ảnh hướng lớn từ người Nga. Nhưng những người đánh cá trích kia khó có thể xem được Drifters; theo như tất cả các tuyên bố thương mại của chính phủ về tính hữu ích chắc chắn thì đây là một bức tranh "cao cấp" (cái từ chói tai ấy cho thấy sự giả dối không chủ ý ở đó); sức ảnh hưởng của Frierson, tốt đẹp lành mạnh đến thế, mang thứ gì đó thật bủn xỉn. Đương nhiên có rất nhiều công nhân tay nghề cao ở Anh tự hào về kỹ năng của họ, và bạn có thể tìm thấy những người trung niên trong các trang trại bảo rằng họ thích nông thôn hơn thị trấn, nhưng bất cứ thứ gì giống như cái tôi đang cố gọi là đồng quê đều làm sửng sốt những người Anh bắt gặp nó ở Lục địa. Ký ức cá nhân duy nhất của tôi về loại này là khi xem người Tây Ban Nha đạp nho rồi sau đó ép bã, gồm các bước nhảy với nhịp điệu phức tạp. Tôi thốt ra điều vừa trông thấy, rằng trông giống hệt Ba lê Nga, và tôi lo lắng bồn chồn nghe nhận xét ấy được phiên dịch; bất kỳ công nhân người Anh nào cũng sẽ xem đó là điều xúc phạm, có lẽ một xúc phạm tính dục. Họ điềm nhiên hài lòng khi một điểm rõ ràng như vậy được nhận ra, và chỉ cho chúng tôi một điệu nhảy khác được sử dụng ở vùng lân cận; cả hai điệu đều tươi vui và là cách hiệu quả để thu được tối đa nước ép. Vấn đề không phải là họ đang sống cuộc sống đẹp đẽ giản dị một mình; hoàn toàn ngược lại; một phẩm chất nào đó trong cuộc sống khắc nghiệt của chính họ khiến họ cảm thấy thư thái với phần còn lại của nền văn minh, rõ ràng là vậy. Điều này có thể cho thấy thật rõ sự lạc hậu của đất nước; vấn đề ấy cũng tạo ra những cảm xúc tương tự ở Nga mà chính quyền Xô viết có thể sử dụng nếu như họ tiếp cận được. Họ dường có thể mang lại thứ gì đó như một cảm giác đồng quê ở Tây Ban Nha và Nga, ngoại trừ một nghệ sĩ Anh, mặc cho sự chân thành của bản thân anh ta, dường nó bị đeo chặt lấy bởi trò bịp, và vốn đã như vậy trong suốt một thời gian dài. Đây có thể cũng là một lỗi nghiêm trọng trong hệ thống xã hội Anh, nhưng đó không phải lỗi mà một nghệ sĩ Anh có thể tránh được bằng cách trở thành một nghệ sĩ vô sản.
Vậy thì cũng nên xem xét vài tác phẩm viết bên ngoài nước Anh, những quyển rõ ràng không tuyên truyền và có thể được gọi là vô sản. Người ta hẳn cho rằng tinh thần dân chủ của Mỹ đã sản sinh ra văn chương vô sản từ lâu rồi, nhưng theo như tôi biết thì chủ đề trung tâm luôn luôn là xung đột trong tâm trí tác giả giữa dân chủ và thứ gì đó khác. (Hẳn là phải có một loại xung đột xã hội nào đó đằng sau một tác phẩm tốt, nhưng đây không phải là lý lẽ chống lại chủ nghĩa cộng sản như một ý đồ chính trị; "bạn không cần phải gây rắc rối"; sẽ có xung đột trong bất kỳ xã hội nào. Đây chỉ là một lý lẽ phản đối thẩm mỹ của người cộng sản.) William Faulkner viết bi kịch đạo đức hoặc kịch mê lô, và nhắm đến những nhân vật nghèo hoặc thấp kém chỉ vì cuộc sống của họ hơn ai hết bị thống trị cách rõ ràng và nghiệt ngã bởi Số phận; việc này được cho rằng khiến chúng ta cảm thấy điều tương tự cũng đúng với mọi người. Hầu hết các nhà văn viết về Số phận đều dùng ngón này; nó sử dụng một phần của cơ chế đồng quê vốn thường được tôn vinh thành một thứ siêu hình học tồi. Trái lại trong La Condition Humaine (Storm in Shanghai) [Thân phận con người] của André Malraux các anh hùng là những người cộng sản và cố gắng hoàn tất việc gì đó, nhưng họ thực sự không liên quan đến giai cấp vô sản; chính bởi vậy mà họ giành được sự thương cảm và phẩm giá, và quyển tiểu thuyết thoát khỏi tuyên truyền. Mục đích đằng sau một nhân vật của Hemingway là thực hiện ở mức độ cao nhất các phương pháp tường thuật trực tiếp - người đàn ông kiên cường giản dị của tác giả là típ người có được trực tiếp nhất những cảm nhận mà bất kỳ ai cũng có thể có được trước các sự việc. Đây là phương pháp rất phổ biến cho các câu chuyện hành động và có một chút tính đồng quê khi nó ngụ ý rằng "kẻ ngốc nhìn thấy sự thật". Thật khó chịu khi Hemingway ngụ ý rằng những anh hùng dư giả của ông nên được ca ngợi vì cục mịch như thế, nhưng ngay cả điều đó cũng được hậu thuẫn bởi một cảm giác kẻ tiên phong ở vùng hẻo lánh vốn vừa quý tộc vừa vô sản. Đi đến cùng đêm của Céline là trường hợp đáng quan tâm hơn, không thể được xếp vội vàng vào loại đồng quê hay vô sản; phần nào bởi chủ đề "kẻ thua thiệt" và phần nào bởi sự phê phán xã hội. Hai nhân vật chính không có tiếng nói cũng không có lòng tin vào xã hội của họ và không đồng cảm với những người có chúng; chính điều này, chứ không phải sự hèn nhát hay cảnh bần cùng hay tầng lớp thấp, là thứ chiến tranh đã làm họ vỡ lẽ, và kể từ đó trong họ trỗi lên một mặc cảm thấp kém đầy thành thực; chủ đề trở thành cuộc vật lột của họ với nó như các cá nhân riêng biệt. Trong nửa đầu quyển sách người anh hùng phát điên, và có vẻ đã được định sẵn như vậy, bởi cái ý rằng mọi người đang tấn công anh ta, và kết quả anh ta cũng tàn bạo giống như họ. Anh ta nhận thức được điều này và xấu hổ về nó khi anh ta đi khỏi và bỏ cô gái lại Detroit, bắt đầu làm việc và trở thành một bác sĩ. Đến đây chủ đề kẻ thua thiệt được tiếp tục với Robinson, người anh ta cố cứu, và cuối cùng, khi lần thứ hai khước từ tình yêu của một cô gái, chấp nhận cái chết. Người anh hùng tôn trọng điều này nhưng hoàn toàn không cần bắt chước nó; dù thế nào nó cũng giải phóng anh ta và kết thúc quyển sách. Cuộc sống có thể đen tối và điên rồ trong nửa sau nhưng Bardamu thì không, và anh ta đi đến cùng đêm với tư cách nhà phê bình và khán giả. Sự thay đổi này được giấu đi bởi sự thống nhất của phong cách và bởi một sự khiêm tốn, thứ sẽ không cho phép ai có thể tuyên bố mình tỉnh táo khi sống như một phần của một thế giới như vậy, nhưng chính ở phần thứ hai ấy chúng ta thấy rằng Bardamu thay mặt Céline để chỉ trích nó. Những gì bị tấn công có thể được tóm tắt là mong muốn được chết sản sinh ra từ bầy đàn của một xã hội máy móc, và anh ta không nói như là "người phát ngôn của giới vô sản" hay với bất kỳ sự đồng cảm nào với một người cộng sản. Có thể đúng là dưới một chính quyền cộng sản sẽ có ít những người mang loại mặc cảm thấp kém này hơn, nhưng điều đó không tạo ra một thể loại văn chương mới; và trước khi tuyên bố bản tính của một quyển sách là văn chương vô sản bạn phải tách tác giả của nó ra (theo cụm từ Gorki sử dụng) khỏi một người chín muồi cho chủ nghĩa phát xít.
Thủ thuật cốt yếu của văn chương đồng quê cũ, như thể ngụ ý một mối quan hệ đẹp đẽ giữa người giàu và người nghèo, là khiến những người giản dị thể hiện cảm xúc mạnh (tạo cảm giác như là chủ đề phổ quát nhất, thứ gì đó về cơ bản là đúng đối với mọi người) bằng ngôn ngữ uyên bác và thời thượng (để bạn viết về chủ đề hay nhất theo lối hay nhất). Khi nhìn thấy hai loại người kết hợp lại như thế bạn bạn sẽ suy nghĩ tốt hơn về cả hai; những gì tốt nhất của cả hai đều được sử dụng. Hiệu ứng gây ra ở một mức độ nào đó là kết hợp được nơi độc giả hay tác giả những ưu điểm của cả hai loại; anh ta được tạo ra để phản chiếu trong bản thân mình một cách hoàn chỉnh hơn các yếu tố hiệu quả của xã hội mà họ sống. Đây không phải một quá trình bạn có thể giải thích trong sự sáng tác văn chương đồng quê; như thế nó đã cho thấy xung đột giữa phong cách và chủ đề, và để sự xung đột diễn ra đúng hướng (không trở nên buồn cười) người viết phải tiếp tục giả vờ rằng mình không ý thức được điều đó. Quả thật quá trình thông thường để đưa thêm nghĩa vào hoàn cảnh đồng quê là nhấn mạnh rằng những người chăn cừu là những người cai trị đàn cừu, và bởi vậy so sánh họ với chính trị gia hay giám mục hay đại loại thế; việc này chồng quy ước về anh hùng lên quy ước về đồng quê, bởi người anh hùng lại là một biểu tượng khác của toàn thể xã hội anh ta sống. Một sự giả vờ như thế chắc chắn khiến các nhân vật không thực, nhưng cảm xúc được thể hiện hay thậm chí tình huống được miêu tả thì không như vậy; sự giả vờ tương tự thường có giá trị trong cuộc sống thực. Tôi phải nói rằng chính qua hàng rào này mà văn chương đồng quê đã xuất hiện ở Anh sau thời kỳ Phục hồi [Restoration]. Các nghệ thuật, kể cả âm nhạc, trở nên phụ thuộc nhiều hơn trước kia vào sự hiểu biết văn hóa ngoại quốc, và Thanh giáo, vốn hoài nghi nghệ thuật, chỉ không quá mạnh trong lớp quý tộc. Một cảm giác dần dần lớn lên rằng bất kỳ ai dưới tầng lớp thượng trung lưu đều tự biến mình thành ra lố bịch, tự cao hơn bản thân, nếu anh ta tỏ ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy vẫn còn giữ một cảm tri về cái đẹp, và cảm giác này phổ biến ở mọi tầng lớp. Phải có một niềm tin chung khắc nghiệt và giả tạo như thế mới khiến cho vẻ vờ lịch thiệp của văn chương đồng quê có vẻ hoàn toàn vô lý. Dẫu vậy vẫn có một trường phái nhạo-đồng quê thành công trong thời gian mà các tầng lớp thượng lưu và hạ lưu có ý thức Thanh giáo kém hơn tầng hớp trung lưu. Khi nó không còn nữa thì những mánh khóe đồng quê của tư tưởng sẽ nương náu trong sự sùng trẻ em.
Một sự trợ giúp lớn cho quy ước về tính đồng quê là truyền thống, xuất phát từ nguồn gốc thơ tình lãng mạn của chúng ta trong những người hát rong, giọng điệu thích hợp của nó là một dạng khiêm nhường, những khoảnh khắc thích hợp để kịch tính hóa trong một cuộc tình là khi những người tình kia tuyệt vọng. (Có thể đặt ra nhiều lý thuyết để ca ngợi quy ước này; một trong số đó trở thành bằng chứng vô lý của Poe rằng u sầu là giọng điệu giàu tính thơ nhất. Thêm nữa có một sự thật hiển nhiên rằng bạn không hoàn toàn tin vào cách thể hiện nỗi tuyệt vọng của nhà thơ khiến bạn cảm thấy rằng anh ta đã dự trữ sức mạnh.) Giả dụ như vậy, người đàn ông thấp kém chỉ cần dịch sự khiêm nhường của mình vào các cuộc tình để có được phẩm giá theo một quy ước chung. Có một ví dụ rất tuyệt ở As You Like It; chúng ta thấy Corin, trong một khoảnh khắc, khóc than cho tình yêu tuyệt vọng của mình với một mục đồng già, và rồi đám quý tộc tìm cách lấy lương thực từ anh.
CLOWN. Holla! you, clown!
ROSALIND. Peace, fool, he's not thy kinsman.
CORIN. Who calls?
CLOWN. Your betters, sir.
CORIN. Else they are very wretched.
Rosalind đã nghe thấy đoạn nói chuyện trước, nhưng chắc hẳn dù sao thì nàng cũng hiểu được; người mục đồng tỏ ra mình cao quý chứ không khiêm nhường, nhưng ông ta có đủ mọi quyền để làm vậy, và tên hề triều đình phải câm lặng trong đoạn còn lại của xen ấy.
Quy ước này, đương nhiên, thường giả tạo một cách vô lý; lời ngợi ca tính hồn nhiên thường đi kèm với lời tâng bốc cực độ của một người bảo trợ (được tôn kính như một biểu tượng của toàn xã hội, thông qua mối liên kết tính đồng quê với người anh hùng), được thực hiện thế nào đó để tác giả có thể nhận được thật xa xỉ từ người bảo trợ; nó cho phép lời tâng bốc trở nên càng thái quá bởi nó giúp cả tác giả và người bảo trợ giữ được lòng tự trọng của mình. Vì vậy nó đã được nhại lại quá nhiều, đặc biệt là khiến người nghèo trở nên xứng đáng nhưng lố bịch, như thường thấy trong Shakespeare; và điều này cũng không chỉ đơn thuần là học đòi khi ở dạng đầy đủ của nó. Người đàn ông giản dị trở thành một tên ngốc vụng về nhưng có "cảm giác" tốt hơn những người trội hơn anh ta và có thể nói những điều cơ bản đúng đắn hơn; anh ta ở "trong mối liên hệ với tự nhiên", thứ mà một người phức tạp cần có, thế nên Bottom không e sợ các nàng tiên; anh ta tiếp xúc với các thế lực bí ẩn của bản chất chính chúng ta, thế nên anh ngẫn có trí khôn của Ngoài Ý thức; anh ta có thể nói sự thật vì anh ta không có gì để mất. Ngoài ra ý tưởng rằng anh ta tiếp xúc với tự nhiên, bởi vậy "hợp nhất với vũ trụ" giống một người theo lối Seneca, gợi ra ý về sống khắc kỷ; điều này làm cho mọi thứ ít phi thực tế hơn bởi một người đàn ông nghèo hài hước thì rõ ràng khắc kỷ hơn là sâu sắc. Và có thể những cảm giác mơ hồ đang hoạt động, về chúng tôi không thể liệt kê, giống như những cảm giác về Phật giáng thế. Một cách sử dụng khác của anh ngẫn (bản thân đó là một từ để chỉ người nhà quê đơn thuần) nên nhắc đến ở đây; sự hoạt động của cái rùng rợn, ở nơi bạn tạo ra một anh ngẫn thoát chết. Cái chết chóc trong Dance of Death [Danse Macabre] của Holbein, một bộ xương còn bọc da, thường là một hình tượng nhỏ quyến rũ và thanh lịch mà vòng eo ong bắp cày mang lại cho một phẩm chất phần nào pha trộn cả hai giới tính, và mặc chúng ta có nghĩ khác hay không nó cũng tự coi mình là một người ưa châm chọc; nó được nhìn thấy rõ nhất khi thổi sáo cho một anh ngẫn và dẫn anh ta đi, có lẽ đến bờ vực nào đó, đối xử với hình tượng lớn của sự nhút nhát này bằng một sự ngưỡng mộ đầy thân ái và vui tươi thành thử bức tranh đọng lại trong tâm trí người xem chủ yếu như một cảnh tình yêu. Nó khác xa với cảnh đồng quê, nhưng anh ngẫn để lại những cảm xúc như vậy sau lưng trong số các nguồn sức mạnh của anh ta.
Bởi vậy cả hai phiên bản, thẳng thắn và hài hước, đều dựa trên một thái độ kép của người nghệ sĩ đối với dân lao động, của người phức tạp đối với người đơn giản ("một đằng tôi tốt hơn, đằng khác lại không quá tốt"), và từ điều này có thể nhận ra một sự thật vĩnh cữu về hoàn cảnh thẩm mỹ. Để tạo ra nghệ thuật vô sản thuần túy người nghệ sĩ phải hợp nhất với người lao động; điều này là bất khả, không phải vì các lý do chính trị, mà bởi nghệ sĩ thì không bao giờ hợp nhất với bất kỳ cộng đồng nào. Nỗ lực lớn nhất để thoát ra khỏi hoàn cảnh này có thể thấy ở Gertrude Stein, người tuyên bố là biểu đạt trực tiếp của Zeitgeist [tiếng Đức: tinh thần thời đại/thời gian] (giai đoạn hiện tại của quá trình biện chứng) và bởi vậy không cần mối quan hệ nào khác với công chúng dưới bất kỳ hình thức nào. Trên thực tế bà có một mối quan hệ xác lập rõ với công chúng của bà, và tôi nên gọi tác phẩm của bà là một phiên bản của sự sùng trẻ em, thứ vốn là một một phiên bản của đồng quê; điều này không hề khiến chúng tệ. Trong phạm vi này vấn đề chỉ thuần túy là một vấn đề triết học, rằng tôi không có ý định phủ nhận bất kỳ tuyên bố nào được đưa ra cho cái được gọi là văn chương vô sản miễn là nghệ sĩ không đi chệch hướng bởi lý thuyết của nó; tôi chỉ gọi đó là một quan niệm sai. Có khả năng rằng để tạo ra bất kỳ tác phẩm nghệ thuật tốt nào người nghệ sĩ phải bằng cách nào đó tiếp cận người lao động, có khả năng đây là điều nhầm lẫn với nghệ thuật phương Tây, có khả năng rằng nước Nga sẽ sớm tạo ra một nghệ thuật rất tuyệt, với toàn bộ sức mạnh của một xã hội giống như một cơ thể lành mạnh và thống nhất, nhưng tôi chắc chắn rằng nó sẽ không thuần túy là nghệ thuật vô sản và tôi nghĩ nó sẽ tự phá hỏng mình nếu cố trở thành như vậy.
Dường thật rõ rằng người Công nhân, như vẫn được sử dụng trong tác phẩm tuyên truyền của giới vô sản, là một nhân vật được sùng bái đầy hoang đường thuộc loại mà tôi đã cố gắng mô tả. Điều này không chỉ với riêng đảng phái nào. Ngay lúc này, chính phủ vừa mới trưng ra một áp phích công bố số người quay lại làm việc, kèm một bức ảnh lớn chụp một công nhân lành nghề đang sử dụng một cái đục. Đó là một người gầy nhưng dẻo dai, sống động nhưng không quá mạnh mẽ, kiểu cockney, với rất nhiều nét thành thạo chân thực nhưng lạ lùng của một người Anh thuộc tầng lớp trung lưu thấp. Đây là lời tuyên truyền rất mạnh của đảng Tory; người ta cảm thấy thật đích đáng khi xem anh ta như một mẫu công nhân lành nghề điển hình của Anh, và như thế loại bỏ cảm giác về người cộng sản nơi người công nhân chỉ bằng cách nhìn vào anh ta. Chấp nhận bức ảnh nghĩa là cảm thấy những lợi ích của công nhân lành nghề gắn liền với địa vị của anh ta trong hệ thống giai cấp và sự thành công của chính sách đối ngoại của nước Anh trong việc tìm kiếm thị trường. Thật không may là còn thiếu một từ. Gọi bức ảnh là một "biểu tượng", như một ký hiệu toán học, tức là bỏ qua nguồn gốc sức mạnh của nó; gọi nó là một "huyền thoại" là đưa ra một gợi ý đầy xúc phạm rằng tác giả cao cấp hơn những tình cảm phổ thông. Tôi không có ý nói rằng những bức ảnh giống như vậy là vô nghĩa khi gọi chúng là các huyền thoại; các cơ sở của sự sống một quốc gia, chẳng hạn cách dư luận xoay chuyển, thực sự rất kỳ lạ, và có lẽ một ý tưởng phần nào huyền hoặc là cách nhanh nhất để đi đến sự thật. Những người cho rằng các tình cảm đặc thù của người Công nhân dẫn đi lạc hướng trong chính trị đương đại thường có xu hướng sử dụng từ "lãng mạn" như một quả tên lửa; trừ phi họ chỉ có ý muốn nói là "sai lầm" thì việc này hoàn toàn không đúng trọng tâm; điều họ nên làm là đưa ra một huyền thoại đối thủ, giống như tấm áp phích. Khi gọi nó là huyền thoại tôi muốn nói đến những cảm xúc phức tạp, bao gồm đủ mọi chủ đề xa cách nó, được đưa vào nó như một biểu tượng, với hàm ý rằng "đây là người công nhân phù hợp để chọn và ghi nhớ như một mẫu", và rằng trong số các chủ đề ấy có một cảm giác kỳ diệu mơ hồ "trong khi trông như vậy anh ta lại thật Tự nhiên và bởi vậy sẽ thúc Tự nhiên mang lại thịnh vượng cho chúng ta". Vấn đề không phải là không nên sử dụng huyền thoại mà là việc sử dụng chúng trong văn chương vô sản không hề đơn giản như vẻ bề ngoài.
Dòng hiện thực của văn chương đồng quê (có liên quan đến nhạo-đồng quê) cũng mang đến một cách diễn đạt tự nhiên về bất công xã hội. Trong chừng mực con người được mô tả ngoài lề xã hội bởi quá nghèo để nhận được các phúc lợi từ nó mà anh ta độc lập, như nghệ sĩ tuyên bố, và có thể là một nhà phê bình xã hội; trong chừng mực bởi vậy mà buộc phải phạm tội anh ta là thẩm phán của xã hội đang phán xét anh ta. Đây là một nguồn của irony đối với cả anh ta lẫn xã hội, và nếu là một tên tội phạm đáng thương anh ta có thể gợi ý về Chúa với tư cách vật hiến tế (bởi vậy cầu khẩn lòng thương xót Cơ đốc) cũng như gợi ý về người anh hùng bi thảm phải hy sinh, người thường ở trên xã hội chứ không thấp hơn, lại thêm một nguồn khác của irony. Dostoyevsky luôn luôn sử dụng những ý này; có lẽ không lành mạnh, nhưng điều đó có hiệu quả tuyên truyền rất lớn. Nhưng tôi nghi ngờ việc chúng được cho phép trong văn chương vô sản thuần túy; những người cộng sản không chấp thuận chúng, cả bi kịch lẫn Cô đốc, bởi cả hai đều vinh danh con người độc lập và bởi chúng có thể được sử dụng để chống lại bất kỳ xã hội nào, kể cả một xã hội cộng sản.
Ở đây tôi đang cố gắng giải quyết ý tưởng phổ biến, chung chung nhưng phần nào hiển nhiên, về văn chương vô sản, đó là điều có sức ảnh hưởng; có thể có một định nghĩa bí mật và tinh tế khả dĩ bác bỏ điều tôi phải nói. Những gì thấy rõ nơi những miêu tả khác nhau về hoàn cảnh của các tác giả ở Nga là không có một định nghĩa nào được chấp nhận chung. Những người đồng cảm nói với bạn rằng có một thỏa thuận theo đó các tác giả được kỳ vọng khi làm báo, viết về các điều kiện trong một chuỗi nhà máy xa xôi hay đại loại vậy, và trong các tác phẩm riêng của họ chỉ phải tránh việc xúi giục nổi loạn; điều này có vẻ lành mạnh nếu như chính phủ để mắt đến nhưng không có nhiều quan tâm phê bình. Gorki, trong bài phát biểu của mình tại đại hội toàn liên bang các nhà văn Liên Xô năm 1934, đã tạo ra cách sử dụng rộng hơn cho công thức chủ chốt của văn chương vô sản, "thực tại luận xã hội chủ nghĩa".
"Sáng tạo có nghĩa là trích xuất ra từ toàn bộ tồn tại thực tế ý tưởng cơ bản của nó và thể hiện điều này trong một hình ảnh; từ đó chúng ta có thực tại luận. Nhưng nếu ý tưởng trích xuất từ thực tại lại được thêm vào mong muốn, tiềm năng và hình ảnh được bổ sung bởi điều này, chúng ta có được học thuyết lãng mạn nằm ở nền tảng của huyền thoại và rất hữu ích ở chỗ nó tạo điều kiện khơi dậy một thái độ cách mạng đối với thực tế, một thái độ thực sự thay đổi thế giới."
Tôi hy vọng rằng việc sử dụng từ "huyền thoại" như thế sẽ cho thấy rằng cách tôi sử dụng không bóp méo nó. Ý tưởng về bánh xe vẫn tiếp tục quay, ngay cả nếu bạn thêm vào đó chủ nghĩa duy vật biện chứng bằng cách nói rằng điều này mang lại sự tiến triển dọc theo mặt đất, đó là thứ một người cộng sản không muốn đẩy đi quá xa - văn chương cách mạng vô sản, dù với bất kỳ ý định nào, rõ ràng là sản phẩm của quá trình chuyển đổi; và vế thứ hai được thêm vào ấy có thể bị hiểu nhầm là lời tuyên truyền dối trá. Nhưng rắc rối thực sự duy nhất về điều này với tư cách một lời giải thích về văn chương vô sản nằm ở chỗ nó cũng áp dụng được cho bất kỳ văn chương tốt nào khác. Khi những người cộng sản nói rằng một tác giả sống trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cảm thấy bị cắt đứt khỏi hầu như toàn bộ đời sống của đất nước, và sẽ không có chuyện đó dưới chủ nghĩa cộng sản, thì nhận xét ấy mang lượng lớn sự thật, dẫu rằng anh ta chỉ có thể đổi cảm giác bị cô lập để chuyển sang cảm giác lãng phí sức lực của mình; chắc chắn không hoàn toàn đúng đến mức khiến bài thơ của Gray trở nên vô nghĩa với một người sống dưới chế độ cộng sản. Cách cảm giác cô lập này đã được tránh khỏi trong quá khứ đó là thông qua các quy ước của tính đồng quê mà tôi quan tâm. (Ngay cả trong Alice in Wonderland, dù quy ước của cô bé tương ứng với sự thất bại trong truyền thống đồng quê thông thường, lại thực sự đại diện cho thứ gì đó tạo ra cảm giác đoàn kết các giai cấp.) Khi họ nói rằng một nhà văn vô sản là "người phát ngôn và đại diện của giai cấp vô sản" thì ở đây giống như một định nghĩa; nhưng một khi tất cả đều vô sản anh ta chỉ đơn thuần đại diện cho con người; và trong bất kỳ trường hợp nào một người đại diện đều ý thức được rằng anh ta không giống với những gì anh ta đại diện. Khi Radek trong bài phát biểu của ông trong cùng đại hội kia đã kêu gọi sự giúp sức của các nhà văn nước ngoài trong việc tạo ra một nền văn chương vô sản lớn về "tình yêu cho những người bị áp bức, lòng căm thù trước bóc lột giai cấp…. Trong văn chương ấy chúng ta sẽ đổ tràn tâm hồn của giai cấp vô sản, dục vọng và tình yêu của nó…" bài hùng biện của ông có ý định chuyển từ một ý tưởng chính trị sang một ý phổ quát. Bảo rằng cách duy nhất mà một nhà văn thời nay có thể tạo ra tác phẩm tốt là cống hiến hết mình cho tuyên truyền chính trị thì đương nhiên hoàn toàn khác với việc định nghĩa văn chương vô sản, và trong một số trường hợp thì điều đó đúng. Nhưng công bằng mà nói thì có vài nghi ngờ về sự định nghĩa này.
Những tuyên bố đầy thi vị về sự lãng phí và giới hạn của con người, những người mà chức năng là mang lại sức mạnh để nhìn cuộc sống rõ ràng và bởi vậy có một thái độ đầy đủ hơn trước nó, thường đưa vào, hoặc chừa ra để độc giả tự đưa vào, toàn bộ các ý tưởng đồng quê. Bởi những thành tựu văn chương quan trọng như thế giống như cố hòa giải xung đột nào đó giữa các bộ phận của một xã hội; văn chương là một tiến trình xã hội, và cũng là một nỗ lực để hòa giải những xung đột của cá nhân ở đó những xung đột của xã hội sẽ được phản ánh. (Tin rằng các ý của một người hoàn toàn cũng là sản phẩm từ bối cảnh kinh tế của anh ta thì đương nhiên cũng ngớ ngẩn như tin rằng họ hoàn toàn phụ thuộc vào bối cảnh đó.) Thế nên "đúng về cơ bản" trở thành "đúng với con người trong mọi bộ phận xã hội, ngay cả những người mà anh không ngờ tới", và điều này hàm ý giọng khiêm tốn bình thường đối với đồng quê. "Giờ đây tôi từ bỏ các cảm xúc riêng bởi tôi đang cố gắng tìm kiếm những cảm xúc tốt hơn, thế nên tôi phải cân bằng bản thân mình trong lúc này bằng cách tưởng tượng ra những những cảm xúc của một người đơn thuần. Anh ta có thể ở trong trạng thái tốt hơn tôi nhờ may mắn, sự tươi mới, hay nhờ ân sủng thiêng liêng; giá trị nằm ngoài mọi kế hoạch đo lường giá trị bởi cả nó nữa cũng phải được đánh giá." Nhiều nghịch lý khác có thể được quẳng vào đây; "tôi phải tưởng tượng ra được cách cảm nhận của anh ta bởi vì thứ tinh chất phải được đánh giá bằng thứ cơ bản, bởi sức mạnh phải được học trong sự yếu đuối và quảng giao học được trong cô độc, bởi những cung cách tốt nhất học được trong cuộc sống đơn giản" (điều cuối cùng này là trọng tâm trong nghịch lý của Spenser về "lịch sự"; Quyển sách về Nhã nhặn dẫn độc giả đi giữa những kẻ Man rợ Cao quý.) Giờ thì tất tật những ý này rất phù hợp với một xã hội theo chủ nghĩa xã hội, và đã được tạo ra để phù hợp với giáo điều về sự bình đẳng của con người, nhưng tôi không thấy chúng phù hợp với một thẩm mỹ vô sản cứng nhắc. Họ cho rằng đôi khi cũng tốt việc tách rời khỏi xã hội của bạn xa nhất có thể. Họ cho rằng một số người tinh tế và phức tạp hơn những người khác, và rằng nếu những người như vậy có thể giữ sự tách biệt này không gây hại thì đó là điều tốt, dù là chuyện rất nhỏ so với bản tính loài người thông thường của chúng ta. Một khi bạn cho phép nghệ thuật kết nạp điều này bạn sẽ có những tác phẩm nghệ thuật ngụ ý rằng con người đặc biệt cần được đối xử đặc biệt hơn, và đó không phải là văn chương vô sản.
Chính vì những lý lẽ như thế mà hầu hết các tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhất thường mang một ẩn ý chính trị khiến có thể bị lợi dụng và bị gọi là bourgeois. Chúng mang một ẩn ý về xã hội mà chúng viết về; câu hỏi đặt ra là liệu những gì viết về xã hội ấy có đúng với bất kỳ xã hội loài người nào hay không, ngay cả khi nó tốt hơn nhiều so với những cái khác. Khó khăn của riêng tôi về văn chương vô sản là khi nó xuất hiện tôi thấy rằng tôi xem nó như văn chương đồng quê; tôi đọc thấy ở đó, hoặc thấy rằng tác giả đã bí mật đưa vào đó, những ý tưởng tinh tế hơn, sâu rộng hơn, và tôi nghĩ rằng bền vững hơn.
Hẳn sẽ rất thú vị nếu biết được các ý về đồng quê theo nghĩa rộng này có tính phổ quát đến mức nào, và tôi nghĩ việc cố gắng đặt ra một thế giới quan thô thiển sẽ đưa vào thêm một quan điểm khác về thẩm mỹ cộng sản. Trừ ngoại lệ của Alice tất tật chúng đều thuộc về truyền thống châu Âu thông thường, nhưng chúng dường phụ thuộc vào đó, đặc biệt là phụ thuộc vào Cơ đốc giáo. Trong bài viết của tôi những ý về người Anh hùng Hy sinh như Chúa chịu chết được trộn lẫn vào nhau, và những ý này, với hình thức tối cao là Cơ đốc giáo, chủ yếu thuộc về châu Âu và vùng Địa Trung Hải. The Golden Bough [Cành vàng, James George Frazer] phân biệt rõ giữa người anh hùng này và Con người Chân thành hòa làm Một với Tự nhiên, người cũng hiến thân mình cho đến khi thảm họa quốc gia chứng minh rằng hoàng đế không chân thành, nhưng tác giả khước từ việc cố tách rời họ; có vẻ rõ ràng là họ lần lượt thuộc về phương Tây và phương Đông. Mặt khác sự quan tâm đến các vấn đề của Một và Nhiều, đặc biệt là các khía cạnh xã hội, là điều cổ xưa và rõ ràng ở phương Đông. Và nhiều phiên bản của đồng quê xuất phát từ đó. Ý tưởng về mọi thứ được bao gồm trong điều khiêm tốn, với sự tôn trọng huyền bí dành cho những người nghèo, những tên ngốc, và trẻ nhỏ, và một ý tương phản của mọi thứ được bao gồm trong người anh hùng thống trị, là một nhánh chính của tư tưởng Trung Quốc vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên; có trước Phật giáo và không giới hạn với Đạo giáo. Ở Trung Quốc cái cảm giác rằng mọi thứ đều đã được định đoạt thế nên chẳng có gì đáng làm, vốn là bản chất của phương thức suy nghĩ này, được cân bằng bởi sự nhấn mạnh của Khổng giáo vào việc thực hiện chính xác các nghĩa vụ và lễ nghi địa phương. Người ta có thể lập một danh sách các ý của châu Âu với mục đích tương tự, biến cái tức thời thành cái thực, tất tật đều ít nhiều trực tiếp nhấn mạnh vào cá nhân và đều bị phủ nhận ở phương Đông. Chúa là một người; mỗi cá nhân riêng biệt đều bất tử, với đặc điểm mà anh ta đã giành được trong cuộc sống này; thế nên người ta phải tiếp tục lo lắng về việc liệu mình có tự do hay không; và anh ta được sinh ra trong tội lỗi thành thử anh ta phải nỗ lực; và bởi chỉ có duy nhất một Chúa, một cá nhân giống như phần còn lại của loài người, mới xứng đáng được hiến tế cho Chúa. Những ý này đã lan khắp Âu châu trước khi chúng trở thành tín điều Cơ đốc, và việc từ chối Chúa có thể là một yếu tố ít nguy hiểm hơn trong lập trường cộng sản so với việc công nhận Hegel. Gorki đã nói vào những ngày đầu của Liên Xô rằng mối nguy hiểm lớn của nước Nga đó là nó có thể "Đông tiến", một nhận xét đáng chú ý ngay cả khi bản thân phương Đông đã được tiêm phòng chống lại loại triết lý này. Người ta có thể nói rằng con người luôn luôn đi thành đàn, và rằng tất cả các phiên bản của lời tuyên bố về cá nhân luận phần lớn đều là giả mạo; nhưng điều đó giải thích lý do tại sao cột chống của thuyết cá nhân chủ nghĩa là cần thiết. Khi bạn nói rằng mọi thứ đều là Một thì rõ ràng văn chương cũng là tài liệu tuyên truyền; một khi bạn nói rằng không có chân lý nào có thể biết ngoài quá trình biện chứng trực tiếp của lịch sử thì rõ ràng là tất tật nghệ sĩ đương đại phải chuẩn bị cùng một kiểu mẫu. Cũng rất rõ ràng rằng Một thì bị giới hạn về không gian cũng như thời gian, và các phần tử Phát xít theo thuyết Hegel không kém phần đúng khi nói rằng mọi nghệ thuật đều ái quốc. Và quá trình biện chứng diễn ra thông qua các xung đột, bởi vậy chúng ta chắc hẳn phải có rất nhiều cuộc chiến tranh lớn. Đương nhiên nói như thế nghĩa là hiểu sai triết học, nhưng một khi triết học được tạo ra như một tín điều công khai chắc chắn nó phải bị hiểu sai theo cách nào đó giống như thế. Tôi không có ý nói rằng triết học sai lầm; vì vấn đề đó tính đồng quê được xây dựng từ những ý tưởng triết học giống như văn chương vô sản - sự khác biệt nằm ở chỗ nó đưa ra cái tuyệt đối ít hấp tấp hơn. Tôi cũng không cố nói bất kỳ điều gì về chính trị và kinh tế, chỉ bởi chúng không cung cấp một lý thuyết thẩm mỹ.
Trong các tiểu luận tiếp theo tôi sẽ cố trình bày, theo thứ tự lịch sử, những cách mà quá trình đồng quê biến cái phức tạp thành đơn giản (bản thân nó là sự trợ giúp lớn cho sự tập trung cần thiết của thơ ca) và kết quả của các ý tưởng xã hội đã được sử dụng trong văn chương Anh. Người ta không thể tách nó ra khỏi nhiệm vụ anh hùng hay khỏi thủ pháp "pantification" (xử lý biểu tượng với tư cách những thứ mà nó tượng trưng, mà hóa ra lại là mọi thứ). Cuốn sách này còn lâu mới đủ cho một chủ đề như vậy; xét theo nghĩa rộng công thức có thể bao gồm tất tật tác phẩm văn chương, và theo nghĩa hẹp thì hầu hết chất liệu đều không thích hợp. Có lẽ những trường hợp tôi chọn là những trường hợp đáng ngạc nhiên hơn thông thường, và một khi đã bắt đầu bằng một ví dụ tôi sẽ nương theo nó mà không quan tâm đến tính thống nhất của cuốn sách. Chắc chắn nó không phải một tác phẩm xã hội học vững chắc; bởi vấn đề ấy mà rất nhiều tình cảm xã hội quan trọng không tìm được lối vào văn chương. Nhưng tôi phải khẳng định rằng cũng mánh ấy của suy nghĩ, mang ra những hình thức rất khác nhau, được tiếp nối qua một chuỗi sự kiện lịch sử.
Công Hiện dịch