Washington Square: Bốn chương
Đã đến lúc quay trở lại với Henry James: luôn luôn cần quay trở lại với James, vì đó là nhà văn có thể nói với chúng ta rất nhiều điều.
Dưới đây là bốn chương trong cuốn tiểu thuyết Washington Square, mà FORMApubli sắp in, nơi sự tình tại ngôi nhà của ông bác sĩ Sloper trở nên rối ren do câu chuyện hôn nhân liên quan tới cô con gái Catherine - tác phẩm ấy của Henry James, quyến rũ một cách lạ thường, chính là thứ đã làm cho quảng trường Washington tại New York được khoác lên mình một bầu không khí huyền hoặc (và cả mơ hồ) của văn chương.
Washington Square
- Henry James
CHƯƠNG XVIII
Catherine ngồi một mình bên lò sưởi trong phòng khách, thẫn thờ suốt một tiếng. Cô thấy bà cô mình quá hung hăng và ngu ngốc, và việc có thể nhìn thấu Mrs. Penniman khiến cô cảm giác mình thật trải đời. Cô không uất ức khi bị quy cho là yếu đuối; điều ấy chẳng làm cô bận tâm chút nào vì nó nằm ngoài cô, thậm chí cô cũng chẳng đau lòng khi không được hiểu. Cô dành sự kính trọng vô bờ cho cha; cô cảm thấy làm trái ý ông là mang tội, tương tự như hành vi báng bổ trong ngôi đền thiêng; nhưng ý định của cô đã dần chín muồi, và cô tin lời cầu nguyện của cô đã gột rửa cơn quá khích. Đêm dần buông, ngọn đèn lịm dần mà cô không hay; đôi mắt cô dán chặt vào kế hoạch khủng khiếp của mình. Cô biết cha còn trong thư phòng suốt từ tối; thỉnh thoảng cô ngóng tiếng ông đi lại. Cô nghĩ có thể ông sẽ vào phòng khách như thỉnh thoảng vẫn vậy. Cuối cùng đồng hồ điểm mười một giờ, ngôi nhà bọc trong không khí im phắc, người hầu đã ngủ say. Catherine đứng dậy và chậm rãi mò đến cửa thư phòng, bất động đứng đợi một lúc. Cô gõ cửa rồi lại đứng đợi. Cha cô đã lên tiếng nhưng cô không đủ can đảm để vặn kéo cửa. Những gì cô nói với bà cô là sự thật - cô sợ ông; và khi cô nói rằng mình không yếu đuối thì cô ngụ ý là cô không sợ chính mình. Cô nghe thấy tiếng ông dịch chuyển bên trong, ông ra mở cửa cho cô.
“Có chuyện gì thế?” bác sĩ hỏi. “Con cứ đứng đấy như ma vậy.”
Cô bước vào phòng nhưng mất một lúc mới thốt ra được điều mình muốn nói. Cha cô, đang khoác áo choàng và đi dép lê, vẫn bận rộn trên bàn viết và sau khi nhìn cô một lúc, chờ cô nói, ông tiếp tục làm việc. Lưng ông quay về phía cô - cô bắt đầu nghe thấy tiếng bút sột soạt trên giấy. Cô vẫn đứng ở cửa, tim đập thình thịch dưới lớp áo, cô mừng vì ông quay lưng lại bởi cô cảm thấy cô dễ nói chuyện với tấm lưng của ông hơn là với khuôn mặt ông. Cuối cùng cô cũng nói, mắt vẫn dõi theo tấm lưng ông.
“Cha đã nói với con rằng nếu con có bất cứ điều gì muốn nói thêm về Mr. Townsend, cha đều sẵn lòng nghe.”
“Chính xác, con yêu,” bác sĩ nói, không quay lại, nhưng ngừng bút.
Catherine ước cây bút cứ tiếp tục chuyển động, cô nói tiếp. “Con nghĩ con nên báo với cha rằng con đã không gặp lại anh ấy, nhưng con muốn gặp anh ấy.”
“Để nói tạm biệt cậu ta sao?” bác sĩ hỏi.
Cô gái do dự một lúc. “Anh ấy không đi đâu cả.”
Bác sĩ chậm rãi xoay người trên ghế, nở nụ cười như trách móc vì cô đã buông lời châm biếm; đôi khi các thái cực va vào nhau mặc dù Catherine không hề có ý làm làm như vậy. “Thế ra không phải để nói lời tạm biệt với cậu ta à?” cha cô nói.
“Không, thưa cha, không phải; ít nhất là, không phải vĩnh viễn. Con đã không gặp lại anh ấy, nhưng con muốn gặp anh ấy,” Catherine lặp lại.
Bác sĩ từ từ xoa môi dưới bằng lông bút.
“Con đã viết thư cho cậu ta chưa?”
“Rồi ạ, bốn lần.”
“Vậy là con chưa từ bỏ cậu ta. Một lần là đủ rồi.”
“Không,” Catherine nói; “Con đã bảo anh ấy... bảo anh ấy đợi.”
Cha cô ngồi nhìn cô, và cô sợ ông sắp nổi cơn lôi đình; đôi mắt ông lạnh và sắc đến sợ.
“Con là một đứa con gái ngoan ngoãn, trung thành,” cuối cùng ông nói. “Lại đây với cha của con nào.” Và ông đứng dậy, đưa tay về phía cô.
Những lời đó quá bất ngờ và chúng mang lại cho cô niềm vui sướng tột độ. Cô tiến đến chỗ ông, và ông vòng tay ôm lấy cô vỗ về rồi hôn cô. Rồi ông nói:
“Con có muốn làm cha vui không?”
“Con muốn... nhưng con sợ con không thể,” Catherine trả lời.
“Con có thể nếu con muốn. Tất cả phụ thuộc vào ý chí của con.”
“Bằng cách từ bỏ anh ấy phải không cha?” Catherine nói.
“Phải, từ bỏ cậu ta.”
Và ông vẫn ôm cô, với sự dịu dàng không đổi, nhìn vào mặt cô và dừng ánh nhìn trên đôi mắt đang lảng tránh của cô. Một sự im lặng dài dặc ngự trị; cô ước gì ông buông cô ra.
“Cha hạnh phúc hơn con,” cuối cùng cô nói.
“Cha không nghi ngờ về việc con cảm thấy bất hạnh lúc này. Nhưng thà chịu đau khổ ba tháng rồi vượt qua, còn hơn kéo dài nhiều năm mà không bao giờ thoát khỏi.”
“Vâng, nếu đúng là như thế,” Catherine nói.
“Sẽ đúng thôi; cha chắc chắn.” Cô không đáp, ông tiếp tục. “Con không có lòng tin vào sự sáng suốt, sự dịu dàng, hay sự quan tâm cha dành cho tương lai của con sao?”
“Ôi, cha,” cô lẩm bẩm.
“Con nghĩ cha không hiểu gì về bọn đàn ông sao: những thói xấu, lầm lạc, những sự dối trá của họ?”
Cô lùi lại một chút rồi quay về phía ông. “Anh ấy không phải kẻ xấu... anh ấy không phải kẻ dối trá!”
Cha cô vẫn nhìn cô bằng ánh mắt sắc. “Vậy con không xem trọng sự đánh giá của cha à?”
“Con không thể tin điều đó!”
“Cha không yêu cầu con phải tin, mà chỉ cần con chấp nhận nó.”
Catherine còn lâu mới tự nhủ rằng đấy là một ngụy biện khéo léo; nhưng cô vẫn đáp lại lời khuyên một cách thẳng thắn. “Anh ấy đã làm gì... cha biết gì về anh ấy chứ?”
“Cậu ta chưa làm gì cả... cậu ta chỉ là một kẻ lười biếng ích kỷ.”
“Cha ơi, cha đừng bôi nhọ anh ấy như vậy!” cô van nài khẩn thiết.
“Cha không có ý bôi nhọ cậu ta; điều đó sẽ tạo sai lầm lớn. Con có thể làm những gì con muốn,” ông nói thêm, rồi quay đi.
“Con có thể gặp lại anh ấy chứ?”
“Tùy con thôi.”
“Cha sẽ tha thứ cho con chứ?”
“Không đời nào.”
“Chỉ một lần thôi.”
“Cha không biết con định nghĩa “một lần” là như thế nào. Con phải quyết định: hoặc từ bỏ cậu ta, hoặc tiếp tục mối quan hệ.”
“Con chỉ muốn giải thích... bảo anh ấy hãy chờ.”
“Chờ cái gì?”
“Chờ cho đến khi cha hiểu anh ấy rõ hơn... cho đến khi cha đồng ý.”
“Đừng nói với cậu ta những điều vô ích như vậy. Cha hiểu cậu ta đủ rồi, và cha sẽ không bao giờ đồng ý.”
“Nhưng chúng con có thể kiên nhẫn chờ mà,” Catherine nói, giọng kìm nén và hạ mình tột độ, nhưng với cha cô, câu ấy chỉ kéo dài điệp khúc thiếu tinh tế và khiến ông khó chịu.
Tuy nhiên, bác sĩ đáp khá điềm tĩnh: “Tất nhiên, các con có thể chờ đến khi cha qua đời, nếu muốn.”
Catherine thảng thốt.
“Cuộc đính hôn của con mang lại một điều tuyệt vời: nó khiến con vô cùng nôn nóng mong chờ ngày đó xảy ra.”
Catherine sững sờ, trong khi bác sĩ khoan khoái tận hưởng lập luận sắc bén của mình. Đối với Catherine, những lời đó vang lên như chân lý hiển nhiên - hoặc đúng hơn, như một tiên đề mà cô không đủ tư cách phản bác; nhưng dù nó có là sự thật khoa học đi nữa, cô vẫn hoàn toàn không chấp nhận nổi.
“Nếu điều đó là thật, con thà không kết hôn còn hơn,” cô nói.
“Vậy hãy chứng minh cho cha đi; đâu thể phủ nhận việc quyết định đính hôn với Morris Townsend tức là con đang chờ ngày cha qua đời.”
Catherine quay đi, cảm thấy buồn nôn và choáng váng; bác sĩ vẫn tiếp tục. “Và nếu bản thân con còn sốt sắng như thế, thử nghĩ CẬU TA sẽ còn nôn nóng đến mức nào!”
Catherine trăn trở suy nghĩ - những lời của cha cô có sức nặng đến mức ngay cả suy nghĩ của cô cũng dường bị ép phải tuân theo. Lời nói đó ẩn chứa một sự xấu xa khủng khiếp, như thể nó đang xuyên qua lý trí yếu ớt của cô rồi nhìn trừng trừng. Song bất chợt, một tia sáng lóe lên trong đầu cô - cô gần như chắc chắn đó là một ý tưởng được soi dẫn.
“Nếu con không kết hôn trước khi cha qua đời, thì sau này cũng sẽ không,” cô nói.
Đối với cha cô, phải thừa nhận rằng câu ấy chẳng khác nào một lời châm biếm nữa; và bởi sự bướng bỉnh ở những tinh thần non nớt thường không chọn cách diễn đạt như vậy, nên ông càng ngạc nhiên trước lối nói ngông cuồng xuất phát từ ý niệm cố chấp này.
“Đó là cách con hỗn láo với cha đấy à?” ông hỏi, dù khi thốt ra, ông hoàn toàn ý thức được sự nặng nề của nó.
“Hỗn láo ư? Cha ơi, sao cha lại nói những điều khủng khiếp như thế!”
“Nếu con không định chờ đến khi cha qua đời thì con nên kết hôn ngay đi; còn gì khác để chờ nữa đâu.”
Catherine im lặng hồi lâu, cuối cùng cô nhẹ nhàng nói: “Con nghĩ Morris... dần dần... có thể lay chuyển cha.”
“Cha sẽ không bao giờ để cậu ta có cơ hội nói chuyện với cha nữa. Cha quá ghét cậu ta.”
Catherine thở dài; cô cố gắng nén tiếng thở dài ấy bởi cô đã tự nhủ rằng việc phô bày nỗi đau khổ của mình trước mặt cha là điều không nên, và càng không nên dùng cảm xúc để tác động lên ông một cách thiếu thành thực. Thật ra cô còn cho rằng việc cố tác động đến cảm xúc của cha theo bất kỳ cách nào đều không đúng; cô chỉ có thể dần dần và nhẹ nhàng thay đổi lý trí của ông về con người thật của Morris đáng thương. Song phương cách bây giờ còn quá mờ mịt khiến cô bất lực và tuyệt vọng đến khốn khổ. Cô đã vắt sạch mọi lý lẽ, mọi lời phản bác. Cha cô có thể động lòng thương xót, và thực tế cũng đôi chút động lòng, nhưng ông vẫn tin chắc rằng mình đúng.
“Có một điều con có thể nói với Mr. Townsend khi con gặp lại cậu ta,” ông nói. “Đó là, nếu con kết hôn mà không có sự đồng ý của cha, cha sẽ không để lại cho con một xu nào. Điều đó sẽ khiến cậu ta quan tâm hơn bất cứ điều gì khác mà con nói.”
“Vâng, hoàn toàn xác đáng,” Catherine đáp. “Con không nên nhận một xu nào từ cha ở trong hoàn cảnh ấy.”
“Con yêu của ta,” bác sĩ cười nói, “sự mộc mạc của con thật cảm động. Hãy nói đúng câu đó, với chính giọng điệu và vẻ mặt này với Mr. Townsend, rồi ghi lại phản ứng của cậu ta. Câu trả lời sẽ không mấy lịch sự đâu..., sự hằn học sẽ lộ ra; và cha sẽ vui vì điều đó, bởi như thế sẽ cho thấy cha đúng đến mức nào. Trừ phi... cũng rất có thể... con lại càng lún sâu hơn vì chính sự thô lỗ đó.”
“Anh ấy sẽ không bao giờ thô lỗ với con,” Catherine nhẹ nhàng nói.
“Dù vậy, con cứ nói với cậu ta những gì cha bảo.”
Cô nhìn cha, đôi mắt yên tĩnh của cô bỗng ứa nước mắt.
“Con nghĩ, vậy thì con sẽ gặp anh ấy,” cô khẽ thốt lên rụt rè.
“Tùy con thôi!” Và ông bước tới rồi mở cửa để cô bước ra ngoài. Cử chỉ ấy khiến Catherine cảm nhận rõ rệt sự lạnh lùng như thể ông đang đẩy cô ra khỏi cuộc đời mình.
“Chỉ một lần, thưa cha,” cô nói thêm, ngập ngừng đứng lại trong giây lát.
“Hoàn toàn tùy con thôi,” ông lặp lại, tay đặt trên cánh cửa. “Cha đã nói điều cha nghĩ. Nếu con gặp cậu ta, con sẽ là một đứa con bất hiếu, tàn nhẫn; con sẽ khiến người cha già này phải chịu nỗi đau lớn nhất trong đời.”
Điều này vượt quá sức chịu đựng của cô gái tội nghiệp; nước mắt cô tuôn ra, cô bước về phía người cha lạnh lùng và kiên định của mình, miệng thốt lên tiếng kêu thống khổ. Đôi tay cô đưa lên van nài, nhưng ông cương quyết né tránh sự cầu xin đó. Thay vì để cô đau khổ òa khóc trên vai mình, ông chỉ lặng lẽ nắm lấy cánh tay cô và dẫn cô qua ngưỡng cửa rồi nhẹ nhàng nhưng dứt khoát đóng cánh cửa lại sau lưng cô. Sau đó, ông đứng im lắng nghe. Một lúc lâu không có tiếng động nào; ông biết cô vẫn đang ở ngoài. Như tôi đã nói, ông có xót xa cho con gái, song ông quá tin là mình đúng. Cuối cùng, ông nghe thấy cô bước đi, và tiếng chân cô khẽ vẳng trên cầu thang.
Bác sĩ đi qua đi lại vài vòng, tay đút túi, trong mắt ông vụt lóe một tia sáng - có thể là sự khó chịu, nhưng cũng pha hài hước. “Thật tình,” ông tự nhủ, “mình tin con bé vẫn sẽ cố chấp... sẽ cố bám trụ đến cùng!” Và ý nghĩ Catherine “bám trụ” dường khá buồn cười, nó mở ra cả một viễn cảnh thú vị đáng để theo dõi. Ông quyết định sẽ chờ xem mọi chuyện diễn ra như thế nào.
CHƯƠNG XIX
Chính vì quyết tâm này mà ngày hôm sau ông tìm cách có một cuộc nói chuyện riêng với Mrs. Penniman. Ông cho gọi bà vào thư phòng và tại đó, ông nhấn mạnh rằng ông hy vọng, đối với chuyện của Catherine, bà sẽ cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói của mình.
“Em không hiểu ý anh là gì khi dùng cụm từ ấy,” em gái ông đáp. “Anh nói cứ như thể em mới bập bẹ học bảng chữ cái vậy.”
“Bảng chữ cái của lẽ thường là thứ em sẽ không bao giờ học được,” bác sĩ châm chọc.
“Anh gọi em đến đây chỉ để sỉ nhục em à?” Mrs. Penniman phẫn uất.
“Hoàn toàn không. Anh chỉ khuyên em thôi. Em chọn đứng về phía cậu Townsend; đó là việc riêng của em. Anh không can thiệp vào cảm xúc, sở thích, tình cảm hay ảo tưởng của em. Nhưng điều anh yêu cầu là em hãy giữ những thứ đó cho riêng mình. Anh đã nói rõ quan điểm của mình với Catherine; con bé rất hiểu, và bất kỳ hành động nào của nó có ý khuyến khích sự quan tâm của cậu Townsend đều sẽ là hành vi chống đối có chủ ý với ý muốn của anh. Còn nếu em định giúp sức hay an ủi con bé thì... anh phải nói... đấy là hành động phản bội rành rành. Em biết đấy, phản quốc là tội danh phải lãnh án tử hình; cẩn thận đừng để mình lãnh lấy hình phạt đó.”
Mrs. Penniman ngửa đầu ra sau, mắt mở to đầy kịch tính, một biểu cảm bà thường dùng khi muốn gây ấn tượng. “Em thấy anh nói chuyện chẳng khác nào một kẻ độc tài.”
“Anh nói như một người cha của con gái mình,” ông đáp
“Chẳng giống anh trai của em chút nào!” Lavinia thốt lên.
“Lavinia yêu quý ạ,” bác sĩ nói, “nhiều khi anh tự hỏi liệu mình có phải là anh trai của em không đấy. Chúng ta quá khác nhau. Thế nhưng, gạt những cái khác đó sang một bên, chúng ta vẫn có thể hiểu nhau khi cần thiết, mà điều này bây giờ là quan trọng nhất. Hãy cư xử cho đúng mực trong chuyện với cậu Townsend, anh chỉ cần vậy thôi. Anh khá tin rằng có khả năng em đã trao đổi thư từ với cậu ta suốt ba tuần qua... thậm chí gặp cậu ta. Anh không hỏi em đâu... em cũng không cần nói.” Ông có một niềm tin đạo đức rằng em gái ông sẽ cố nặn ra vài lời nói dối làm ông chán ghét nếu phải nghe. “Bất kể em đã làm gì, hãy dừng lại ngay. Đấy là những gì anh muốn.”
“Anh muốn giết chết đứa trẻ của chúng ta à?” Mrs. Penniman hỏi bằng giọng mỉa mai.
“Ngược lại, anh muốn nó được sống và hưởng hạnh phúc.”
“Anh sẽ giết chết nó mất thôi; đêm qua là một đêm kinh hoàng với con bé.”
“Nó sẽ không chết chỉ vì một đêm kinh hoàng, hay thậm chí cả chục đêm kinh hoàng như thế. Hãy nhớ rằng anh là một bác sĩ danh tiếng.”
Mrs. Penniman do dự trong giây lát, rồi đánh liều buông lời đáp trả: “Việc anh là một bác sĩ danh tiếng cũng đâu ngăn được chuyện anh đã để mất hai thành viên trong gia đình mình!”
Anh trai bà đáp lại bằng ánh mắt sắc lẹm - giống như lưỡi dao mổ của bác sĩ phẫu thuật - khiến bà hoảng loạn trước chính sự liều lĩnh của MÌNH. Và ông trả lời bằng những câu cũng sắc như ánh mắt: “Và cũng có thể không ngăn tôi mất đi thêm một người nữa trong gia đình đâu.”
Mrs. Penniman rút lui với dáng điệu của một người cảm thấy công lao bị coi thường rồi đi thẳng đến phòng Catherine, nơi cô gái đáng thương đang tự giam mình. Bà biết rõ đêm qua thực sự kinh hoàng với Catherine vì hai người đã gặp nhau sau khi Catherine rời khỏi phòng cha. Lúc đó Mrs. Penniman đang đứng ở hành lang tầng hai thì cô cháu gái bước lên cầu thang. Không có gì lạ khi một người như bà có thể nhận ra ngay rằng Catherine vừa nói chuyện riêng với bác sĩ. Cũng chẳng bất ngờ khi bà tò mò tột độ về kết quả của cuộc nói chuyện, và chính thôi thúc ấy, cùng lòng nhân hậu và rộng lượng, đã khiến bà hối hận về những lời gay gắt mà bà từng trút lên Catherine. Khi cô gái bất hạnh xuất hiện trong hành lang mờ tối, bà ngay lập tức bày tỏ sự đồng cảm nhiệt thành. Trái tim nặng nề của Catherine không hề để ý thấy. Cô chỉ cảm nhận được rằng bà cô mình đang ôm lấy mình. Mrs. Penniman kéo Catherine vào phòng và hai người ngồi bên nhau đến tận khuya. Catherine, đầu tựa lên đùi cô, ban đầu khóc thút thít rồi nín bặt. Mrs. Penniman yên lòng vì cảm thấy việc này có thể xóa bỏ lệnh cấm mà Catherine từng đặt - cấm bà tiếp tục liên lạc với Morris Townsend. Tuy nhiên, bà không còn cảm thấy như vậy nữa khi - trở lại phòng của cô cháu gái trước bữa sáng - phát hiện Catherine đã dậy và đang chuẩn bị.
“Cháu không nên xuống ăn sáng,” bà nói. “Cháu chưa đủ khỏe sau một đêm kinh hoàng như vậy.”
“Không đâu, cháu rất khỏe, chỉ sợ bị muộn thôi,” Catherine đáp.
“Cô không hiểu nổi cháu!” Mrs. Penniman kêu lên. “Cháu nên nằm trên giường ít nhất ba ngày!”
“À, cháu không thể làm vậy được đâu!” Catherine nói, vì ý tưởng này chẳng có chút hấp dẫn nào với cô.
Mrs. Penniman thất vọng ê chề, và với sự khó chịu tột độ, bà nhận ra rằng mọi dấu vết của những giọt nước mắt đêm qua đã hoàn toàn ráo sạch trên đôi mắt Catherine. Thể trạng của cô thật khó mà đoán định. “Cháu nghĩ mình sẽ gây được ấn tượng gì với cha,” bà hỏi, “nếu cháu bước xuống đó, hoàn toàn không có chút dấu hiệu nào của cảm xúc, cứ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra trên đời vậy?”
“Cha sẽ không thích cháu nằm lì trên giường,” Catherine nói đơn giản.
“Đó lại càng là lý do để cháu làm thế. Nếu không, cháu định làm gì để lay động ông ấy đây?
Catherine suy nghĩ một chút. “Cháu không biết làm sao, nhưng chắc chắn không phải bằng cách đó. Cháu chỉ muốn mọi thứ diễn ra như bình thường.” Rồi cô hoàn tất việc thay đồ và, theo cách nói của bà cô, hùng hục bước thẳng tới chỗ cha. Thực ra, Catherine quá nhún nhường để có thể duy trì dáng vẻ bi lụy trước sau như một.
Nhưng sự thật là cô đã trải qua một đêm vô cùng kinh hoàng. Ngay cả sau khi Mrs. Penniman đã đi, cô vẫn không thể chợp mắt. Catherine nằm đó, nhìn chằm chằm vào bóng tối lạnh lẽo, trong óc vọng mãi hình ảnh cha cô lạnh lùng mời cô ra khỏi phòng, nói rằng cô là một đứa con gái vô tâm. Trái tim cô tan nát. Ít nhất cô vẫn còn đủ trái tim để cảm nhận điều đó. Có những lúc cô gần như tin rằng ông nói đúng, rằng việc cô đang làm thực sự cho thấy cô quá tệ bạc. Cô đúng là tồi tệ, nhưng cô chẳng thể làm gì khác. Cô sẽ cố tỏ ra mình tốt đẹp, ngay cả khi trái tim đã hoàn toàn lạc lối; thỉnh thoảng cô còn nghĩ biết đâu cô có thể đạt được điều gì đó nếu khéo léo nhượng bộ ở bề ngoài dù lòng cô chọn hướng về Morris. Sự khéo léo ấy mơ hồ biết bao, chúng ta cũng không cần vạch trần bản chất trống rỗng của nó. Điểm đáng chú ý hơn có lẽ nằm ở vẻ ngoài tươi tắn, thứ khiến Mrs. Penniman nản lòng. Bà không khỏi bàng hoàng trước nét mặt tỉnh bơ của cô gái trẻ chỉ vừa mới trải qua một đêm quằn quại bởi lời nguyền rủa mà người cha giáng xuống. Tội nghiệp Catherine, cô rất rõ vẻ tươi tắn đó thực ra là gì; nhưng thay vì mang đến hy vọng, nó lại càng khiến cô lo lắng về tương lai, càng làm nặng nề thêm gánh nặng nơi tâm trí. Điều đó dường như chứng tỏ rằng cô là người mạnh mẽ, kiên định và có phần vững chãi, rằng cô sẽ sống thọ - có lẽ lâu hơn mức mà nhiều người mong. Ý nghĩ này khiến cô cảm thấy bí bách, như thể nó đặt thêm lên vai cô một hòn đá tảng, đúng vào lúc mà bất kỳ sự phô trương nào cũng đều đi ngược lại những gì cô cho là đúng đắn. Hôm ấy, cô viết thư cho Morris Townsend, yêu cầu anh đến gặp cô vào ngày hôm sau. Bức thư chỉ vỏn vẹn vài dòng ngắn ngủn, không kèm bất kỳ lời giải thích nào. Mọi điều cần nói, cô sẽ tự mình làm rõ khi đối diện với anh.
CHƯƠNG XX
Chiều hôm sau, cô nghe thấy tiếng anh nói ngoài cửa và tiếng bước chân anh vang lên ở hành lang. Cô đón anh trong phòng khách lớn sáng sủa phía trước và đã dặn người hầu rằng nếu có ai đến, hãy nói rằng cô đang bận tiếp khách quan trọng. Cô không sợ cha xuất hiện vì vào giờ đó ông thường đi xe dạo quanh thành phố. Khi Morris đứng trước mặt cô, điều đầu tiên cô nhận thấy là anh thậm chí còn đẹp hơn cả những gì ký ức lờ mờ của cô hình dung; tiếp theo là việc anh đã ôm cô vào lòng. Khi ra khỏi vòng tay anh, cô cảm giác như mình vừa bất chấp ném mình vào vực thẳm, thậm chí trong thoáng chốc, như thể cô đã là vợ anh.
Anh nói rằng cô đã quá tàn nhẫn, rằng cô làm anh khốn đốn biết bao; và Catherine thấu tận sự trớ trêu của số phận mình, thứ buộc cô phải gây tổn thương cho cả hai bên. Nhưng cô ước rằng, thay vì buông lời trách móc, dù có dịu dàng đến đâu, anh hãy giúp cô; anh chắc chắn đủ khôn ngoan và tài trí để tìm ra cách gỡ rối. Cô bày tỏ niềm tin của mình và Morris tự nhiên đón nhận; tuy nhiên, thay vì lập tức vạch ra con đường, anh lại bắt đầu dò hỏi.
“Em không nên để anh chờ lâu như vậy,” anh nói. “Anh chẳng biết mình đã quay quắt ra sao trong thời gian đó; mỗi giờ trôi qua dài như cả năm. Đáng ra em nên quyết định sớm hơn.”
“Quyết định?” Catherine hỏi lại.
“Quyết định xem em sẽ giữ anh lại hay từ bỏ anh.”
“Ôi, Morris,” cô thốt lên, thì thầm âu yếm, “em chưa từng nghĩ đến việc từ bỏ anh!”
“Vậy thì em đang chờ đợi điều gì?” Chàng trai trẻ dứt khoát.
“Em nghĩ rằng cha em có thể... có thể...” cô ngập ngừng.
“Có thể thấy em đang đau khổ thế nào sao?”
“Ồ không! Nhưng em nghĩ rằng ông ấy có thể thay đổi cách nhìn nhận.”
“Và giờ em gọi anh đến để nói rằng cuối cùng ông ấy đã thay đổi. Có phải vậy không?”
Sự lạc quan giả tạo của anh khiến cô nhói lòng. “Không, Morris,” cô nghiêm túc nói, “ông ấy vẫn giữ nguyên cách nhìn.”
“Thế em gọi anh đến làm gì?”
“Vì em muốn nhìn thấy anh!” Catherine khẩn thiết kêu lên.
“Quả là lý do tuyệt vời. Nhưng em chỉ muốn nhìn anh thôi sao? Không có gì khác để nói với anh à?”
Đôi mắt đẹp đầy sức thuyết phục của anh đang hướng về phía cô, và cô tự hỏi liệu có câu trả lời nào đủ cao quý để đáp lại ánh nhìn ấy hay không. Trong khoảnh khắc, ánh mắt cô chạm mắt anh, rồi cô dịu dàng nói: “Em thực sự muốn thấy anh!” Nhưng, trái với lời, ngay sau đó cô giấu mặt đi.
Morris chăm chú nhìn cô một lúc. “Ngày mai em sẽ cưới anh chứ?” anh bất ngờ hỏi.
“Ngày mai ư?”
“Vậy tuần sau. Bất cứ lúc nào trong vòng một tháng đổ lại.”
“Chẳng phải đợi thêm sẽ tốt hơn sao?” Catherine nói.
“Đợi điều gì?”
Cô cũng không biết mình muốn đợi điều gì; nhưng bước vọt táo bạo này khiến cô chếnh choáng. “Cho đến khi chúng ta suy nghĩ kỹ hơn,” cô lúng túng trả lời.
Anh lắc đầu, vừa buồn bã vừa trách móc. “Anh nghĩ em đã nghĩ chuyện này suốt ba tuần qua. Em định nghĩ thêm năm năm nữa sao? Em khiến anh chờ quá lâu rồi. Cô gái khốn khổ của anh,” anh nói thêm, “em không thành thật!”
Catherine đỏ mặt tía tai, mắt cô trào lệ. “Ôi, sao anh có thể nói như thế được?” cô khẽ thì thầm.
“Em phải chọn anh hoặc bỏ anh,” Morris nói, giọng đầy lý lẽ. “Em không thể làm hài lòng cả cha em và anh cùng lúc; em phải lựa chọn giữa hai người.”
“Em đã chọn anh!” cô nồng nhiệt đáp.
“Vậy tuần sau hãy cưới anh.”
Cô đứng đó, nhìn anh đăm đăm. “Không còn cách khác sao?”
“Anh không biết còn cách nào khác để đạt được kết quả tương tự. Nếu có, anh sẵn lòng nghe em nói.”
Catherine không nghĩ ra được cách nào khả dĩ, và sự sáng suốt sắc bén của Morris thật tàn nhẫn. Điều duy nhất cô có thể nghĩ đến là biết đâu cha cô, rốt cuộc, sẽ thay đổi ý định, và cô vụng về bày tỏ mong muốn phép mầu xảy ra, dù nhận thức rõ sự bất lực của mình.
“Em có nghĩ điều đó khả thi dù chỉ một chút không?” Morris hỏi.
“Sẽ có, nếu như cha em chịu hiểu anh!”
“Ông ấy có thể hiểu anh nếu ông ấy muốn. Điều gì ngăn cản ông ấy?
“Các định kiến, các lý lẽ của ông,” Catherine đáp. “Chúng thực... thực sự quá mạnh.” Cô vẫn còn run lên khi nhớ lại.
“Mạnh sao?” Morris kêu lên. “Thà rằng em nghĩ chúng yếu ớt.”
“Ồ, không có điều gì ở cha em yếu ớt cả!” cô gái nói.
Morris quay người, bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. “Em thực sự bị ông ấy át vía!” cuối cùng anh nhận xét.
Catherine không có ý định phủ nhận bởi cô không thấy xấu hổ vì điều đó; nếu đấy không phải là vinh dự cho bản thân cô thì ít nhất cũng là sự kính trọng dành cho cha cô. “Có khi đúng là như thế,” cô đơn giản đáp.
“Vậy thì em không yêu anh... ít nhất không giống như anh yêu em. Nếu em sợ cha em hơn là yêu anh thì tình yêu của em không phải là điều anh từng hy vọng.”
“Ôi, anh yêu!” cô nói, tiến về phía anh.
“Bản thân anh có sợ điều gì không?” anh hỏi, quay người đối mặt với cô. “Nhưng vì em, có điều gì mà anh không sẵn sàng đối mặt?”
“Anh thật cao thượng... thật dũng cảm!” cô đáp, đầy thành kính.
“Nhưng chẳng ích gì, nếu em quá nhút nhát.”
“Em không nghĩ mình nhút nhát... THỰC SỰ đấy,” Catherine nói.
“Anh không hiểu em nhấn mạnh “thực sự” là có ý gì vì sự thật là nó đủ khiến chúng ta lâm vào cảnh khổ sở nhường này.”
“Em nghĩ mình đủ mạnh mẽ để chờ đợi... chờ đợi rất lâu.”
“Và nếu sau một thời gian dài, cha em còn ghét anh hơn bây giờ thì sao?”
“Ông ấy sẽ không... không thể!”
“Ông ấy sẽ cảm động trước lòng kiên định của anh sao? Đó có phải ý em không? Nếu ông ấy dễ xiêu lòng như vậy, thì tại sao em phải sợ?”
Lời xuyên thấu ấy giáng một đòn xuống Catherine. “Em sẽ cố không sợ,” cô nói. Cô đứng đó ngoan ngoãn, như thể đã tập trước vai người vợ tận tụy, giàu trách nhiệm. Hình ảnh này không khỏi khiến Morris Townsend hài lòng và anh thấy coi trọng cô. Cảm xúc dồn lên khiến sau đó anh đề cập với cô về kế sách của Mrs. Penniman, theo đó cần xúc tiến một đám cưới ngay tức khắc, bất chấp hậu quả.
“Đúng thế, Mrs. Penniman chắc chắn rất thích,” Catherine nói. Nhưng đó là một nhận xét chân thành, hoàn toàn không có ý mỉa mai. Một lúc sau, cô lại bảo Morris rằng cha cô đã nhắn một lời tới anh. Cô cảm thấy mình có trách nhiệm chuyển lời, và dù nhiệm vụ ấy có đau đớn gấp mười lần, cô vẫn sẽ cẩn trọng thực hiện.
“Cha bảo em phải nói với anh... ông truyền đạt rất rõ rằng nếu em kết hôn mà không có sự đồng ý của ông, em sẽ không nhận được một xu nào từ gia tài của ông hết. Ông đặc biệt nhấn mạnh việc này. Ông dường như nghĩ... nghĩ rằng...”
Morris đỏ mặt, như bất kỳ chàng trai tự trọng nào sẽ đỏ mặt trước ám chỉ về sự đê tiện.
“Dường như nghĩ gì?”
“Rằng điều đó sẽ gây ra đảo lộn.”
“Nó SẼ gây ra đảo lộn... ở nhiều khía cạnh. Chúng ta sẽ nghèo hơn hàng ngàn đô la và đó là một đảo lộn lớn. Nhưng chuyện này không làm thay đổi tình cảm của anh.”
“Chúng ta sẽ không cần số tiền ấy,” Catherine nói. “Anh biết em cũng có một khoản kha khá.”
“Đúng vậy, cô bé của anh, anh biết em có vốn. Và ông ấy không thể đụng vào số đó!”
“Cha sẽ không bao giờ làm thế,” Catherine nói. “Mẹ đã để lại cho em.”
Morris im lặng một lúc. “Ông ấy rất cương quyết về chuyện này, phải không?” cuối cùng anh hỏi. “Ông ấy nghĩ rằng lời nhắn đó sẽ làm anh tức tối và khiến anh lộ rõ mặt thật, đúng không?”
“Em không biết cha nghĩ gì,” Catherine mệt mỏi đáp.
“Làm ơn chuyển lời tới ông ấy rằng anh để tâm đến lời nhắn của ông ấy chẳng khác gì như thế này!” Và Morris búng tay tách một cái.
“Em không nghĩ em có thể nói với cha như vậy.”
“Em có biết đôi khi em làm anh thất vọng lắm không?” Morris hỏi.
“Em nghĩ là có. Em gây thất vọng cho tất cả... cho cha và cô Penniman.”
“Thôi, chẳng quan trọng, anh yêu em nhiều hơn bọn họ.”
“Vâng, Morris,” cô gái nói, với trí tưởng tượng ít ỏi của mình, cô chìm đắm trong hạnh phúc vô hại ấy.
“Em có tin rằng ông ấy sẽ giữ quan điểm ấy mãi mãi... mãi mãi tước quyền thừa kế của em không? Và sự tốt bụng cùng lòng kiên nhẫn của em chẳng làm nguôi bớt sự khe khắt đó?”
“Vấn đề là, nếu em cưới anh, cha sẽ nghĩ rằng em không phải một đứa con ngoan. Cha sẽ coi đó là chứng cớ rành rành.”
“À, vậy thì ông ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho em đâu!”
Ý này được Morris thốt ra gãy gọn qua đôi môi đẹp và trong chốc lát, nó khuấy lên trong lương tâm chỉ vừa mới yên ổn của cô gái đáng thương viễn cảnh kinh hãi nhất. “Ôi, chắc anh phải yêu em lắm!” cô kêu lên.
“Sao có thể nghi ngờ được chứ em yêu!” người yêu cô đáp. “Em không thích mấy chữ “tước quyền thừa kế” phải không?” anh nói.
“Không phải vì số tiền, mà là vì việc cha lại... lại cảm thấy như thế.”
“Anh đoán là đối với em, điều này giống như lời nguyền,” Morris nói. “Chắc chắn khiến em ủ ê. Nhưng em không nghĩ,” anh tiếp tục sau một lúc, “rằng nếu em thực sự khéo léo và biết cách bắt đầu đúng đắn thì cuối cùng em có thể hóa giải được à? Em không nghĩ,” anh tiếp bằng giọng cảm thông, “rằng một phụ nữ thực sự thông minh, ở vào vị trí của em, có thể làm ông ấy thay đổi ý định sao? Em không nghĩ thế à?”
Ngay lúc đó, Morris đột ngột bị ngắt lời; những câu hỏi khéo léo của anh còn chưa kịp đến tai Catherine. Mấy từ “tước quyền thừa kế” khủng khiếp kia với toàn bộ án đạo đức kèm theo nó, vẫn ong ong trong đầu cô, vọng lại và dồn thúc. Sự lạnh lẽo chết chóc của hoàn cảnh ngấm sâu vào trái tim ngây thơ, khiến cô ngờ được nỗi cô độc cùng nguy hiểm gần kề. Nhưng chỗ nương tựa của cô đang ở ngay kia, ngay bên cạnh cô và cô đưa tay víu lấy. “Ôi, Morris,” cô khẽ rùng mình, “em sẽ cưới anh bất cứ khi nào anh muốn.” Rồi cô buông mình, tựa đầu vào vai anh.
“Cô bé ngoan ngoãn và đáng yêu của anh!” anh thốt lên, nhìn xuống báu vật vừa đoạt được. Rồi anh lại ngước lên, ánh mắt thoáng chút mơ hồ, đôi môi hé mở và chân mày nhướng lên.
CHƯƠNG XXI
Đốc tờ Sloper nhanh chóng truyền đạt với Mrs. Almond những gì ông nghĩ: “Con bé sẽ kiên định đến cùng, thánh thần ơi! Nó sẽ không từ bỏ.”
“Ý anh là con bé sẽ lấy cậu ta sao?” Mrs. Almond hỏi.
“Anh không biết, nhưng con bé sẽ không khuất phục. Nó sẽ kéo dài cuộc đính hôn này với hy vọng làm anh mủi lòng.”
“Vậy anh không định mủi lòng à?”
“Một mệnh đề hình học có thể uốn được sao? Anh đâu có hời hợt thế.”
“Chẳng phải hình học nghiên cứu về các diện à?” Mrs. Almond, vốn khôn khéo, mỉm cười hỏi lại.
“Đúng thế; nhưng nó nghiên cứu về các diện một cách sâu sắc. Catherine và chàng trai trẻ của con bé là các diện của anh; anh đã đo được chúng.”
“Anh nói cứ như thể chuyện này làm anh kinh ngạc lắm vậy.”
“Vô cùng kinh ngạc ấy chứ; sẽ có rất nhiều thứ để nhìn.”
“Anh máu lạnh khủng khiếp!” Mrs. Almond nói.
“Cần phải vậy khi xung quanh anh toàn những người máu nóng. Cậu Townsend ít nhất khá điềm tĩnh; phải thừa nhận điểm này ở cậu ta.”
“Em không thể đánh giá cậu ấy được,” Mrs. Almond đáp. “Nhưng em chẳng ngạc nhiên về Catherine.”
“Anh thì thú thực có chút ngạc nhiên; con bé hẳn đã bị giằng xé và rối bời ghê lắm.”
“Nói thẳng ra là anh thấy thú vị đi! Em không hiểu sao anh lại xem việc con gái tôn thờ mình là chuyện hài hước cho được.”
“Điều anh thấy thú vị là xác định xem đâu là điểm dừng của sự tôn thờ đó.”
“Nó dừng lại ở chỗ tình cảm kia bắt đầu.”
“Hoàn toàn không... thế thì đơn giản quá. Hai tình cảm đó hòa vào nhau và sự pha trộn ấy mới kỳ lạ. Nó sẽ tạo nên tình cảm thứ ba, và đó mới là cái anh chờ đợi. Anh chờ đợi trong phấp phỏng... cũng rất phấn khích; anh chưa từng nghĩ Catherine có thể mang tới cho anh loại cảm xúc đó. Thực sự anh phải cám ơn con bé rất nhiều.
“Con bé sẽ bấu chặt,” Mrs. Almond nói. “Chắc chắn nó sẽ bấu chặt.”
“Đúng thế; như anh đã nói, con bé sẽ bám trụ.”
“Bấu chặt nghe dễ thương hơn. Những người bản tính đơn giản luôn luôn làm thế, chẳng thứ gì có thể đơn giản hơn Catherine. Con bé không dễ bị ấn tượng, nhưng một khi đã rồi thì sẽ bấu mãi. Giống cái ấm đồng bị móp ấy, anh có thể đánh bóng nó, song vết móp thì không xóa được.”
“Vậy ta phải thử đánh bóng Catherine,” bác sĩ nói. “Anh sẽ đưa nó sang châu Âu.”
“Cũng chẳng quên được cậu kia đâu.”
“Nhưng cậu ta sẽ quên con bé.”
Mrs. Almond trở nên nghiêm nghị. “Anh thực sự mong như thế đấy à?”
“Rất mong!” bác sĩ đáp.
Trong khi đó Mrs Penniman không mất nhiều thời gian để nối lại liên lạc với Morris Townsend. Bà báo anh thu xếp một cuộc gặp khác, song lần này bà không chọn quán hàu nữa. Bà đề nghị anh gặp bà ở cửa một nhà thờ, sau buổi lễ chiều Chủ nhật, và bà cẩn trọng tránh chọn các nhà thờ mà bà thường đi, nơi giáo đoàn có thể dòm ngó. Thay vào đó bà chọn một nơi ít trang trọng hơn, và khi bước ra từ cửa nhà thờ vào đúng giờ đã hẹn, bà thấy bóng dáng chàng trai. Bà không tỏ ra là đã thấy anh cho đến lúc băng qua con đường và để anh theo sau một đoạn. Tại đó, bà nở nụ cười: “Thứ lỗi vì ta có vẻ xa cách. Nhưng cháu biết ta mà. Cẩn trọng là trên hết.” Khi anh hỏi bà muốn đi về hướng nào, bà khẽ nói: “Nơi ít bị ngó nghiêng nhất.”
Morris không mấy vui vẻ và chẳng có hứng vuốt đuôi: “Cháu không tự ảo tưởng rằng có ai lại ngó nghiêng chúng ta đâu.” Rồi anh liều lĩnh quay về hướng trung tâm thành phố. “Cháu hy vọng cô đến đây để thông báo rằng ông ấy đã chịu xuống nước,” anh nói tiếp.
“Ta e rằng ta không phải người báo tin lành; nhưng ở một khía cạnh khác, ta lại là sứ giả của hòa bình đấy. Ta đã suy nghĩ rất nhiều, Mr. Townsend ạ,” Mrs. Penniman nói.
“Cô nghĩ nhiều quá rồi.”
“Đúng là thế, nhưng ta không dừng được, đầu óc ta lúc nào cũng hoạt động không biết mệt. Đã đâm lao thì phải theo lao. Ta phải trả giá bằng những cơn đau đầu, những cơn đau đầu kinh điển của ta... đau như vòng kim cô siết ấy! Nhưng ta cảm tưởng mình là nữ hoàng đang đội vương miện. Cháu có tin là ngay bây giờ ta vẫn đang đau đầu không? Dù thế ta cũng không thể bỏ lỡ cuộc hẹn này. Ta có chuyện cực kỳ quan trọng cần nói.”
“Được rồi, vậy cô nói đi,” Morris đáp.
“Hôm trước, dường như ta hơi vội khi khuyên cháu cử hành hôn lễ ngay lập tức. Ta suy nghĩ lại rồi, bây giờ tình thế có phần khác trước.”
“Cô có vẻ có hơi nhiều cách cho một tình thế ấy nhỉ?”
“Vô hạn cách!” Mrs. Penniman tuyên bố, ngầm tâm đắc như thể đó là điểm sáng nhất của bà.
“Cháu nghĩ cô chỉ nên chọn lấy một rồi bám vào nó thôi,” Morris đáp.
“Ôi, nhưng dễ gì mà chọn. Trí tưởng tượng của ta chẳng bao giờ im, chẳng bao giờ thỏa mãn. Nó khiến ta trở thành người cố vấn thiếu sáng suốt, có lẽ vậy; nhưng nó đồng thời biến ta thành người bạn tuyệt vời!”
“Người bạn tuyệt vời mang tới lời khuyên tệ!” Morris nói.
“Ta đâu cố ý... thậm chí ta còn sẵn sàng chạy đến, bất chấp rủi ro, để xin lỗi một cách chân thành nhất mà!”
“Vậy bây giờ cô định khuyên cháu làm thế nào?”
“Kiên nhẫn, quan sát và chờ đợi.”
“Thế lời khuyên ấy tệ hay tốt?”
“Cái đó không do ta quyết định,” Mrs Penniman đường hoàng đáp. “Ta chỉ dám chắc như thế thì chân thành.”
“Vậy tuần sau cô lại đến và khuyên cháu điều gì khác cũng chân thành như thế chứ?”
“Có thể tuần sau ta sẽ đến và bảo rằng ta bị đuổi ra đường cũng nên!”
“Bị đuổi ra đường?”
“Ta vừa có một trận cãi vã khủng khiếp với ông anh và anh ấy dọa, nếu có chuyện gì xảy ra, sẽ đuổi ta ra khỏi nhà. Cháu biết đấy, ta lại là một người phụ nữ không xu dính túi.”
Morris tự nhủ thể nào bà già chẳng có chút tài sản, song tất nhiên anh không hỏi.
“Cháu lấy làm tiếc nếu cô phải chịu khổ vì cháu,” anh nói. “Nhưng cô nói như thể anh trai cô là một kẻ độc tài vậy.”
Mrs. Penniman ngần ngừ.
“Ta chắc chắn không xem Austin là một tín đồ Cơ đốc chuẩn mực.”
“Vậy cháu phải chờ đến khi ông ấy đổi ý sao?”
“Ít nhất hãy chờ đến khi ông ấy nguôi giận. Kiên nhẫn, Mr. Townsend; đừng quên rằng phần thưởng nhận được rất lớn!”
Morris lặng lẽ bước đi, vừa đi vừa dùng gậy gõ mạnh vào các hàng rào và cột cổng bên đường.
“Cô đúng là mâu thuẫn đến quái đản!” cuối cùng anh bực dọc nói. “Cháu đã thuyết phục được Catherine đồng ý cử hành lễ cưới bí mật rồi.”
Mrs. Penniman quả thật vô cùng mâu thuẫn, khi nghe tin ấy bà lại reo lên.
“Ôi! Khi nào và ở đâu thế?” bà hỏi dồn dập, nhưng bất đồ khựng lại.
Morris có chút mơ hồ.
“Bọn cháu chưa quyết; nhưng cô ấy đồng ý rồi. Giờ mà rút lui thì thật khó xử.
Mrs. Penniman khựng lại, đôi mắt sáng quắc chăm chăm nhìn vào chàng trai.
“Mr. Townsend,” bà tiếp lời, “ta có nên nói với cháu một điều không? Catherine yêu cháu đến mức cháu có thể làm bất cứ điều gì.”
Tuyên bố mập mờ ấy khiến Morris tròn mắt nhìn bà.
“Cháu rất vui khi nghe điều đó! Nhưng “bất cứ điều gì” là ý gì?”
“Cháu có thể hoãn lại... cháu có thể thay đổi mọi thứ; con bé cũng chẳng nghĩ xấu về cháu đâu.”
Morris vẫn đứng đó, lông mày nhướng cao; sau đó, anh chỉ đơn giản nói, có phần khô khốc: “À!” Thế rồi, anh bảo Mrs. Penniman rằng nếu bà cứ đi chậm như vậy, người ta sẽ để ý mất. Cuối cùng, anh hộ tống bà về đến căn nhà nơi mà vị trí của chính bà cũng đang lung lay.
Thanh Nghi dịch
Henry James
Bi kịch từ lỗi, Chi Quân dịch (1864, lúc này James hai mốt tuổi)
Richard khốn khổ, Nguyễn Hoài dịch (1867)
Câu chuyện về một kiệt tác, Thanh Nghi dịch (1868)
De Grey: Một chuyện tình, Hoàng Trang dịch (1868)
Một ca vô cùng lạ, Thanh Nghi dịch (1868)
Bốn cuộc gặp, Công Hiện dịch (1877)
Những người châu Âu, Phan Lương dịch (1878)
Daisy Miller & Di sản Aspern, Phan Lương & Anh Hoa dịch (1878 - 1888)
Đám cưới của Longstaff, Bùi Gia Bin dịch (1881)
Vẽ một phụ nữ, Anh Hoa dịch (1881)
Một vấn đề, Công Hiện dịch (1891)
Hình tượng trên tấm thảm, Anh Hoa dịch (1896)
Con quái vật trong rừng & Ban thờ người chết, Anh Hoa dịch (1903)
James đọc
đọc Balzac
đọc Joseph Conrad, Edith Wharton, Arnold Bennett
đọc James
về James
Henry James và Edith Wharton (CVD)
Daisy (AH)
James và Stevenson (CVD)
James và Turgenev (CVD)
Sống tiếp (AH)
Tại sao Isabel khóc? (AH)
Những người châu Âu (CVD)