Voltaire: ABC
Ở địa hạt Voltaire, rất dễ có nhiều nhầm lẫn tai hại: đấy là một sử gia thì nhiều hơn là triết gia (điều này giống David Hume), và rất dễ lộn hai cuốn sách (sách thứ hai là cả một bộ), Dictionnaire philosophique (thật ra tên đầy đủ là Dictionnaire philosophique portatif) và Questions sur l'Encyclopédie; đấy là còn chưa nói, đọc Voltaire người ta dễ nghĩ đó là một người tinh quái, lạnh lùng, nhưng thật ra Voltaire lại rất mau nước mắt: Voltaire khóc rất nhiều, những khi nào nghe chuyện gì cảm động và nói chung hơn, ấy là một người hay khóc, và cũng viết rất nhiều, tính cả thư.
Sự nhầm lẫn giữa Dictionnaire philosophique portatif và Questions sur l'Encyclopédie còn phát sinh từ lịch sử in trước tác của Voltaire: ấn bản phổ biến hơn cả (Kehl) trộn hai cái đó vào với nhau, dưới tên Dictionnaire philosophique. Thêm nữa, Voltaire lại là một trong những tác giả của bộ Encyclopédie nổi tiếng - Những câu hỏi được viết sau Bách khoa thư. Không những thế - điều này làm mọi chuyện còn dễ rối loạn hơn nữa - trong Những câu hỏi, Voltaire lấy lại một số cái đã có ở Từ điển (Dictionnaire), cũng như một số tác phẩm khác (như truyện "Memnon").
Vậy thì, Voltaire muốn làm gì với Những câu hỏi về Bách khoa thư (bản in đầu gồm 9 tập)? Voltaire nhằm đến nhiều mục đích cùng một lúc: bình luận bộ Bách khoa thư nổi tiếng, phê phán nó, đồng thời bổ sung cho nó. Để làm vậy, Voltaire làm như thể đấy là tác phẩm của một tập hợp người (gọi là các "a-ma-tơ"); quả thật có vài tác giả khác, nhưng về cơ bản bộ sách là của riêng Voltaire.
Dưới đây là mục từ (entry) ABC, nằm ở - như người ta có thể đoán ngay - đầu Questions sur l'Encyclopédie, cụ thể hơn, "ABC" nằm ngay sau mục từ "A".
ABC, hay Alphabet
Nếu ông Du Marsais còn sống thì chúng tôi đã hỏi ông về cái tên "alphabet". Xin các nhà bác học viết Bách khoa thư nói cho chúng tôi biết tại sao alphabet không có tên trong bất kỳ ngôn ngữ nào của châu Âu. Alphabeth không muốn nói gì khác ngoài A B, và A B thì chẳng có nghĩa gì hết, hay nhiều nhất thì cũng chỉ là hai âm thanh; và hai âm thanh ấy không có chút tương quan nào với nhau. Beth chẳng hề được tạo ra từ Alpha; một là đầu tiên, còn lại là cái thứ hai; và người ta không biết tại sao.
Thế nhưng tại sao đã có chuyện người ta thiếu mất từ để diễn tả cánh cửa dẫn vào tất tật các khoa học? Hiểu biết về các số, nghệ thuật tính, đâu mang tên một-hai; thế mà điều sơ đẳng của nghệ thuật diễn tả các ý nghĩ không có bất kỳ cách nói nào để chỉ, ở châu Âu.
Alphabet là phần đầu tiên của ngữ pháp; những ai sở hữu tiếng Ả Rập, về đó tôi không có chút ý niệm nào, sẽ có thể dạy cho tôi thứ ngôn ngữ đó, vốn dĩ có, người ta bảo, tám mươi từ chỉ một con ngựa, có từ nào chỉ alphabet hay chăng.
Tôi xin tuyên bố là mình không biết tiếng Trung Quốc hơn tiếng Ả Rập; tuy nhiên tôi từng đọc được trong một quyển tự vị Trung Quốc nhỏ rằng quốc gia ấy từng lúc nào cũng đặt hai từ để diễn đạt catalogue, bản danh sách các ký tự thuộc ngôn ngữ của nó: một là ho-tou, một là haipien: chúng ta không có cả ho-tou lẫn haipien trong các thứ tiếng phương Tây của chúng ta. Người Hy Lạp đã không khéo léo hơn chúng ta, họ nói alphabet. Triết gia Sénèque dùng câu của Hy Lạp nhằm diễn tả một ông già giống tôi đang đặt các câu hỏi về ngữ pháp; ông gọi kẻ đó là Skedon analphabetos. Thế nhưng cái alphabet kia, người Hy Lạp đã lấy được từ người Phénicien, từ cái quốc gia được chính người Hebrew gọi là dân tộc hay chữ, khi những người Hebrew ấy đến định cư, rất muộn, gần đất nước của họ.
Cần phải nghĩ rằng người Phénicien, khi thông truyền các ký tự của mình cho người Hy Lạp, đã giúp họ một việc lớn bằng cách giải thoát họ khỏi nỗi lúng túng về chữ viết dạng Ai Cập mà Cécrops đã mang cho họ từ Ai Cập; người Phénicien, ở tư cách các thương gia, làm cho mọi chuyện đều dễ dàng: và người Ai Cập, ở tư cách các nhà diễn giải của thần, làm cho mọi chuyện thật khó.
Tôi tưởng tượng ra mình đang nghe thấy một lái buôn người Phénicien cập bến ở Achaïe, bảo một người Hy Lạp đối tác của ông ta: Không chỉ các ký tự của tôi dễ viết, và trả lại được suy nghĩ cũng như những âm thanh của giọng nói; mà chúng còn diễn tả được các món nợ tích sản và tiêu sản của chúng ta. Aleph của tôi, mà anh muốn phát âm thành alpha, đáng giá một once bạc; bethe thì hai once; ro một trăm: sigma hai trăm. Tôi nợ anh hai trăm once: tôi trả cho anh một ro: thế là tôi vẫn còn nợ anh một ro; chúng ta sẽ sớm thanh toán với nhau.
Có khả năng các lái buôn từng là những người thiết lập xã hội giữa các con người, bằng cách cung cấp cho những nhu cầu của họ; và để thương thuyết, cần phải hiểu được nhau.
Người Ai Cập đã chỉ bắt đầu rất muộn; họ kinh hoàng trước biển: đấy là Typhon của họ. Người Tyr từng là những người đi biển từ bao giờ chẳng biết được; họ nối các dân tộc mà tự nhiên đã phân tách lại với nhau, và họ sửa chữa những bất hạnh nơi các đảo lộn của địa cầu này từng thường xuyên nhấn một phần lớn giống người vào. Đến lượt mình, người Hy Lạp mang thương mại cùng alphabet thuận tiện của mình tới chỗ các dân tộc khác, những người này biến đổi nó đi một chút, như người Hy Lạp từng biến đổi alphabet của người Tyr. Lúc các lái buôn của họ, mà kể từ đó người ta đã biến thành gần như là thần, đến lập ra tại Colchos một thương mại về da lông mà người ta gọi là lông cừu vàng, họ trao những chữ cái của mình cho các dân tộc nơi những vùng đất ấy, những người này đã lưu giữ và cải biến chúng. Họ đã không hề lấy alphabet của người Thổ Nhĩ Kỳ mà họ quy phục, tôi hy vọng rồi họ sẽ lay đổ được ách thống trị đó, nhờ nữ hoàng Nga.
Rất có vẻ (tôi không nói là rất đúng, Chúa ngăn tôi làm thế) là cả Tyr lẫn Ai Cập hay bất kỳ người châu Á nào sống về phía Địa Trung Hải đều đã không truyền alphabet của mình cho các dân tộc phía Đông châu Á. Nếu người Tyr, hay thậm chí người Chaldéen vốn dĩ sống về phía Euphrate, đã, chẳng hạn, thông truyền phương pháp của mình cho người Trung Quốc, thì hẳn sẽ còn lại vài dấu vết; hẳn là phải có những ký hiệu gồm hăm hai, hăm ba hoặc hăm tư chữ. Ngược lại họ có các ký hiệu cho tất tật những từ tạo nên ngôn ngữ của họ; và họ có, người ta bảo với chúng ta, tám mươi nghìn từ: phương pháp này chẳng hề có gì chung với phương pháp của Tyr. Nó thông thái gấp như thế kia tận bảy mươi chín nghìn chín trăm bảy mươi ba lần, và rối hơn so với phương pháp của chúng ta. Hãy hội thêm vào khác biệt phi thường ấy chuyện họ viết từ trên xuống dưới, còn người Tyrien và người Chaldéen thì viết từ phải sang trái; người Hy Lạp và chúng ta thì từ trái sang phải.
Hãy xem xét các ký tự Tartare, Ấn Độ, Xiêm, Nhật, bạn sẽ không thấy ở đó bất kỳ tương đồng nào dẫu nhỏ tới đâu với alphabet Hy Lạp và Phénicien.
Tuy nhiên tất tật các dân tộc ấy, thậm chí cho thêm cả vào đó người Hottentot và người Cafre, phát âm những nguyên âm cùng phụ âm gần như giống chúng ta, vì họ có thanh quản được tạo ra tương tự xét về cốt yếu, cũng như một nông dân thô kệch có cổ họng được tạo ra giống nữ ca sĩ số một của nhà hát opera Naples. Khác biệt, thứ biến con người quê mùa kia thành một basse-taille thô mộc, lủng củng, không sao chịu nổi, còn nữ ca sĩ kia thì vượt cả chim họa mi, khó lòng nhận ra đến độ chẳng nhà giải phẫu học nào có thể thấy được. Não một kẻ ngu xuẩn thì giống như hai giọt nước với não của một thiên tài lớn lao.
Khi nói rằng các lái buôn của Tyr dạy A B C của họ cho người Hy Lạp, chúng tôi đã không định bảo là họ dạy người Hy Lạp nói. Có khả năng người Athens đã diễn đạt giỏi hơn các dân tộc Hạ Syria; họ có một cổ họng uyển chuyển hơn; lời lẽ của họ là một tập hợp hay hơn nhiều của các nguyên âm, phụ âm cùng nguyên âm đôi. Ngôn ngữ của các dân tộc thuộc Phénicie, ngược lại, gằn, thô, đấy là những người Shafiroth, những người Astaroth, những người Shabaoth, những người Chammaim, những người Chotihet, những người Thopheth; hẳn ở đây có cái khiến nữ ca sĩ nhà hát opera Naples của chúng ta phải bỏ chạy. Hãy hình dung người Rome hiện nay vẫn giữ alphabet cũ của Étrurie, và các lái buôn Hà Lan tới mang cho họ alphabet mà hiện tại họ đang dùng. Hẳn tất tật người Rome sẽ nhận ngay các ký tự của họ; nhưng họ sẽ tránh bằng được cái việc nói thứ tiếng Batavi. Chính bằng cách này mà dân chúng Athens đã sử dụng nó với những thủy thủ từ Caphthor, từ Tyr hay từ Bérith đến: người Hy Lạp lấy alphabet của họ, nó đáng giá hơn so với alphabet của Misraim vốn dĩ là Ai Cập; và cự tuyệt thứ thổ ngữ của những kẻ kia.
Nói một cách triết học, và đầy kính cẩn trừu tượng hóa đi tất tật các quy nạp mà hẳn người ta sẽ có thể rút được từ những cuốn sách thiêng mà ở đây chắc chắn sẽ không đả động, chẳng phải ngôn ngữ nguyên thủy là một huyễn tưởng rất vui hay sao?
Bạn sẽ nói gì về một người muốn tìm đâu là tiếng hét nguyên thủy của tất tật các loài thú, và làm thế nào đã xảy ra việc trong vòng một lượng lớn các thế kỷ lũ cừu lại khởi sự be be, mèo thì meo meo, bồ câu gù gù, hồng tước thì rít lên? Tất tật chúng hiểu nhau một cách hoàn hảo trong thứ tiếng của chúng, và hơn nhiều so với chúng ta. Mèo đực không khỏi chạy bổ đến khi nghe thấy những tiếng meo meo rất não và rất biến hóa của mèo cái; tật tuyệt diệu khi thấy ở Mirebalais một con ngựa cái dỏng hai tai lên, giậm chân, náo động trước những tiếng rống nghe thấy rõ của một con lừa. Loài nào cũng có ngôn ngữ của nó. Ngôn ngữ của người Esquimaux và người Algonquin từng hoàn toàn không phải ngôn ngữ của Peru. Đã không có ngôn ngữ nguyên thủy, và alphabet nguyên thủy, hơn so với những cây sồi nguyên thủy và cỏ nguyên thủy.
Nhiều rabbi bảo rằng ngôn ngữ mẹ là Samaritain; vài người khác từng đảm bảo rằng đấy là tiếng vùng Hạ Bretagne: trong nỗi thiếu chắc chắn này, người ta hoàn toàn có thể, mà không xúc phạm cư dân của Kimper và Samarie, không chấp nhận bất kỳ ngôn ngữ mẹ nào hết.
Chẳng phải người ta không thể, mà không xúc phạm ai, đặt giả định rằng alphabet đã bắt đầu bằng những tiếng hét cùng những tiếng hô? Bọn trẻ con bé tí tự nói được a ê những lúc chúng thấy một món đồ gây ấn tượng mạnh cho chúng; hi hi khi chúng khóc, hu hu hoa hoa khi chúng chế nhạo, ái khi người ta đánh chúng? Và không được đánh chúng.
Đối với hai đứa bé trai mà vua Ai Cập Psammeticus (đây không phải là một cái tên Ai Cập) từng cho nuôi để biết xem đâu là ngôn ngữ nguyên thủy, gần như không thể nào cả hai đều khởi sự hét mỏ mỏ để đòi ăn.
Những tiếng hô được tạo nên từ các nguyên âm, đối với bọn trẻ con cũng tự nhiên hệt như tiếng ộp oạp đối với ếch nhái, không ở xa lắm chỗ người ta đến tin vào một alphabet đầy đủ. Cần phải có một bà mẹ nói cho đứa con của mình tương đương của đến đây, này, cầm lấy, im đi, lại gần đây, đi chỗ khác: những từ này không đại diện cho gì hết, chúng không vẽ ra cái gì; nhưng chúng được hiểu với một cử chỉ.
Từ những điều sơ đẳng thiếu hình dạng này, có một con đường mênh mông để đến được với cú pháp. Tôi hoảng sợ lúc nghĩ rằng chỉ riêng từ cái từ đến đây kia thôi, một ngày kia sẽ phải nói được, lẽ ra con đã hết sức sung sướng mà đến, thưa mẹ, và hẳn con sẽ vâng theo những mệnh lệnh của mẹ, đối với con chúng lúc nào cũng quý giá, nếu trong lúc chạy tới chỗ mẹ con không bị ngã bổ chửng; và nếu một cái gai trong khu vườn của mẹ không đâm xiên vào cẳng chân trái của con.
Đối với trí tưởng tượng đầy ngạc nhiên của tôi dường như đã phải cần hàng thế kỷ thì mới điều chỉnh được cái câu đó; và nhiều thế kỷ nữa để vẽ nó. Hẳn đây là chỗ để nói, hoặc để tìm cách nói, bằng cách nào người ta diễn tả và bằng cách nào người ta phát âm trong tất tật các ngôn ngữ trên đời
Các ký tự thuộc alphabet, vốn dĩ bày ra vừa tên các vật, số của chúng, ngày tháng các sự kiện, các ý của con người, đã sớm trở thành những bí ẩn trong mắt ngay cả những ai đã chế ra các ký hiệu ấy. Người Chaldéen, người Syria, người Ai Cập, từng quy một cái gì đó thần thánh cho kết hợp của các chữ, và cho cách thức phát âm chúng. Họ nghĩ rằng tự thân những cái tên biểu nghĩa, và mang trong mình một lực, một đức hạnh bí mật. Họ đi tận tới chỗ bảo rằng từ chỉ quyền năng từ bản tính của nó đã hùng mạnh; rằng từ diễn tả thiên thần thì thuộc thiên thần; rằng từ mang lại ý về Chúa, thần thánh. Khoa học về các ký tự ấy đã nhất thiết bước vào ma thuật: không có thao tác ma thuật nếu không có những chữ cái của alphabet.
Cánh cửa cho tất tật các khoa học đó, đã trở thành cánh cửa cho tất tật những nhầm lẫn; các pháp sư của mọi đất nước đều từng dùng chúng để đi lại trong mê cung mà họ đã tự dựng lên, nơi những người khác không được phép vào. Cách thức phát âm các phụ âm và các nguyên âm, đã trở nên bí ẩn sâu sắc hơn cả, và thường xuyên khủng khiếp hơn cả. Từng có một cách thức để phát âm Jéova, tên Chúa ở chỗ người Syria và người Ai Cập; nhờ đó người ta làm một người lăn ra chết tốt.
Thánh Clément ở Alexandrie thuật lại rằng Moses từng làm vua Ai Cập Nechephre chết ngay lập tức bằng cách thì thào cái tên ấy vào tai ông ta; và sau đó ông hồi sinh ông ta bằng cách nói ra cùng từ đó. Thánh Clément ở Alexandrie rất chính xác, ông trích lại tác giả của nó, đấy là nhà bác học Artapan; và ai sẽ có thể phản bác lời chứng của Artapan đây?
Chẳng gì làm chậm lại các tiến bộ của tinh thần con người hơn so với thứ khoa học sâu sắc của nhầm lãn kia, sinh ra ở chỗ người châu Á cùng nguồn gốc của các sự thật. Vũ trụ từng bị ù lì đi bởi chính nghệ thuật sẽ rọi sáng nó.
Bạn thấy được một ví dụ lớn về điều này ở Origène, ở Clément, ở Tertullien, v.v... và v.v.... Nhất là Origène nói rất rõ, "nếu khi triệu Chúa, hay lấy Người ra mà thề, người ta gọi Người là Chúa của Abraham, của Isaac và Jacob, thì nhờ những cái tên này người ta sẽ làm những điều có bản tính và sức mạnh lớn đến mức lũ quỷ phải quy phục trước những người nói chúng ra; nhưng nếu người ta gọi Người bằng một cái tên khác, như Chúa của biển ồn ào, Chúa người phế truất, thì những cái tên ấy sẽ không có công hiệu, cái tên Israël dịch sang tiếng Hy Lạp sẽ chẳng thể làm được gì: nhưng hãy thốt ra nó bằng tiếng Hebrew, với những từ cần có khác, các ngài sẽ thực hiện được bùa chú."
Cùng Origène nói những lời rất đáng kể sau, " Có những cái tên hết sức tự nhiên đã có công hiệu sẵn, như tên của những người mà các nhà thông thái giữa những người Ai Cập, các pháp sư tại Ba Tư, các brahmane ở Ấn Độ sử dụng. Cái mà người ta gọi là ma thuật, không phải là một nghệ thuật vớ vẩn và tuyền huyễn tưởng, như các nhà khắc kỷ và những người theo Epicurus bảo; cái tên Sabaoth, tên Adonaï, đã không được tạo ra cho những sinh thể được tạo ra; mà chúng thuộc về một thần học bí hiểm có tương quan với Đấng Sáng tạo; từ đó mà có công dụng của những cái tên ấy khi người ta sắp xếp chúng và nói chúng ra theo các quy tắc, v.v..."
Chính bằng cách nói ra các chữ theo phương pháp ma thuật mà người ta buộc được trăng phải xuống đất. Cần phải tha thứ cho Virgile vì đã tin những điều ngu đần ấy, và đã hết sức nghiêm túc nhắc đến chúng trong khúc thứ tám của ông.
Carmina de caelo possunt deducere lunam.
Bằng các từ người ta khiến được trăng rơi xuống đất.
Rốt cuộc, alphabet là nguồn gốc cho tất tật các hiểu biết của con người và tất tật những điều ngớ ngẩn của họ.
