Trong bóng Veblen: Tầng lớp nhàn rỗi thế kỷ 21
Tiếp tục từ kia.
Lý thuyết Tầng lớp nhàn rỗi của Veblen đổ một cái bóng dài. Hơn một trăm năm sau thời điểm xuất bản, "tiêu thụ phô trương" và "nhàn rỗi phô trương" trở thành câu cửa miệng với nhiều người - cả những ai chưa từng đọc nó. Năm 2017, một lý thuyết tầng lớp khác ra đời: tầng lớp phấn đấu (aspirational class). Chương đầu tiên của cuốn sách ấy vẫn là Veblen.
Tầng lớp nhàn rỗi thế kỷ 21
- Elizabeth Currid-Halkett
Một chiếc thìa bạc chế tác thủ công, trị giá chừng mười đến hai mươi đô la, thông thường không hề hữu dụng hơn - ở nghĩa đầu tiên của từ “hữu dụng” - một chiếc thìa bạc sản xuất bằng máy cùng chất liệu. Nó thậm chí có khi còn chẳng hữu dụng hơn tí nào… Một trong những công dụng chủ yếu, nếu không phải là công dụng chủ yếu, của chiếc thìa đắt tiền thường bị bỏ qua; chiếc thìa rèn tay thỏa mãn thị hiếu của ta, cảm quan thẩm mỹ của ta… Chất liệu của chiếc thìa rèn tay đắt gấp hàng trăm lần so với kim loại tầm thường, trong khi bản thân nó không hẳn vượt trội về vân bạc hay màu sắc, hay về mặt cơ học phục vụ.
— Thorstein Veblen, Lý thuyết về Tầng lớp Nhàn rỗi (1899)
Hồi thập niên 1920, Muriel Bristol dự một tiệc trà mùa hè ở Cambridge, Anh. Hôm đó có mặt nhiều giáo sư cùng phu nhân của họ. Chủ nhà rót cho Bristol một tách trà rồi mới thêm sữa vào sau. Bristol liền phản đối, giải thích rằng bà thích “cho sữa trước,” vì như vậy trà sẽ ngon hơn. Dù mọi người đều tỏ ra hoài nghi, Bristol vẫn khẳng định bà có thể phân biệt. Ronald Alymer Fischer, một trong những vị khách có mặt - người sau này trở thành “Sir Fischer,” cha đẻ của thống kê thực nghiệm hiện đại với cuốn sách nổi tiếng The Design of Experiments (Thiết kế Thí nghiệm) - nảy ra một ý. Nếu pha tám tách trà, bốn tách cho sữa trước rồi trà sau, bốn tách ngược lại, và Bristol nhận diện chính xác tất cả, thì điều bà nói sẽ được chứng thực (xác suất đoán mò đúng chỉ là 1/70). Fischer, cũng như những người khác, tin rằng Bristol sẽ thất bại. Nói cách khác, họ nghĩ niềm tin của Bristol về khả năng nếm trà của mình chỉ xuất phát từ cảm quan thẩm mỹ giả tạo chứ không dựa trên thực tế. Nhưng rốt cuộc, Bristol đã xác định đúng trật tự rót trà và sữa trong cả tám tách.
Thí nghiệm của Fischer, sau này sẽ làm thay đổi bộ mặt thống kê và khoa học hiện đại (nền tảng của việc kiểm định “giả thuyết không”), sẽ không thể xảy ra có nếu “địa vị xã hội” đã không ăn sâu vào thẩm mỹ trong cách uống trà. Cho sữa vào trước hay sau đã là dấu hiệu địa vị từ thời Victoria, vì sự lựa chọn này ám chỉ vị trí tầng lớp.
Khác biệt thực tế nằm ở chất liệu của tách trà. Thời Victoria, những tách chất lượng thấp thường dễ nứt khi rót trà nóng. Rót sữa trước sẽ giảm nguy cơ làm vỡ tách. Ngược lại, người giàu có thể mua đồ sứ cao cấp chịu được nhiệt, do đó họ cho sữa sau như một dấu hiệu địa vị kinh tế cao. Ngay cả khi việc cho sữa trước hay sau chủ yếu chỉ là vấn đề thực tiễn, nó vẫn tiết lộ tầng lớp hơn là khẩu vị. Sau cùng, những người sở hữu sứ hảo hạng sẽ cố tình rót sữa sau để phô bày sự xa xỉ đó. Như người quản gia trong bộ phim Anh nổi tiếng thời ấy Upstairs, Downstairs nhận xét: “Chúng tôi ở tầng dưới thì cho sữa vào trước, còn bọn trên gác thì cho sữa vào sau.”[Về chuyện tầng cao tầng thấp, xem ở kia].
Ngay cả trong thời hiện đại, khi chất lượng gần như mọi loại bát đĩa đều đủ bền để chịu được trà nóng, việc cho sữa vào trước vẫn giữ nguyên ý nghĩa phân biệt giai tầng. Nữ tiểu thuyết gia Anh thế kỷ XX, Nancy Mitford, đã dùng thuật ngữ “M.I.F.” để chỉ tầng lớp thấp hơn, và cụm từ này vẫn còn được dùng lối châm biếm trong truyền thông đại chúng để tả tầng lớp lao động hoặc những người thiếu sự tinh tế xã giao. Ngày nay, hãng trà nổi tiếng của Anh Fortnum & Mason còn coi đó là một câu hỏi gai, dành hẳn một bài tiểu luận trên trang web của họ để bàn về cách uống trà.
Làm sao một lựa chọn nhỏ đến thế, vừa tinh tế vừa dường như vô hại, lại có thể trở thành một dấu hiệu phóng đại của địa vị xã hội? Qua thời gian, những điều tưởng như chỉ mang tính thực tiễn đã tiến hóa thành biểu tượng của địa vị. Ở nước Anh thời Victoria, việc trưng bày thuốc men trong phòng khách là dấu hiệu cho thấy một người đủ khả năng đi bác sĩ và mua thuốc. Ở Paris trước Cách mạng, việc dùng nến là hiếm hoi và tốn kém; nhưng ngay cả khi việc tiếp cận ánh sáng (và sau đó là điện) trở thành bình dân, thói quen thắp nến trong bữa tối vẫn được giữ lại như một biểu hiện của thẩm mỹ và nền nếp. Điều tương tự cũng đúng với việc dùng khăn ăn vải, trong khi khăn giấy đã có thể thay thế (và còn tránh phiền toái giặt giũ).
Mọi hành vi của chúng ta đều mang nghĩa xã hội. Tuổi thơ, đời sống gia đình, khung thu nhập và các vòng xã hội đồng thời mà ta tham gia dạy ta cách sống và cách ứng xử với thế giới trong những việc lớn và nhỏ. Thông qua cả hành vi lẫn vật chất, ta bộc lộ vị thế kinh tế–xã hội của mình, dù muốn hay không. Như nhà xã hội học nổi tiếng Pierre Bourdieu quan sát trong Distinction, địa vị nảy sinh từ những hình thức và dấu hiệu văn hóa thường nhật, và cốt lõi nhất, từ chính cách ta sống.
Địa vị luôn ám ảnh chúng ta. Nhận xét này đã được nhiều người khẳng định, có lẽ sâu sắc nhất là nhà nhân học Anh Dame Mary Douglas, và gần đây hơn là Daniel Miller trong cuốn Consumption and Its Consequences [Tiêu thụ và các hệ quả của nó]. Thường thì những thứ ta sở hữu và cách ta sử dụng chúng phô bày địa vị của ta với thế giới. Có những món hiển nhiên: ngôi nhà lớn ở mã vùng “đúng chuẩn”, xe thể thao, đồ sứ tinh xảo, đồng hồ đắt tiền. Nhưng ngay cả phong cách ứng xử cũng biểu thị nền nếp và cách sống: thiệp viết tay thay vì email, cách đặt dao nĩa khi kết thúc bữa ăn, hay việc gửi hoa tươi cho người yêu quý. Gần như tất cả những hành vi này gợi ra vị trí xã hội và đều dựa trên việc sử dụng những vật phẩm hữu hình cũng như kỹ năng sử dụng chúng theo một lối nhất định. Hoặc như Douglas nhận xét trong The World of Goods [Thế giới hàng hóa]: “Hàng hóa vừa là phần cứng vừa là phần mềm, nếu có thể nói vậy, của một hệ thống thông tin… Hàng hóa phục vụ nhu cầu vật chất - thức ăn, đồ uống - mang nghĩa không kém ballet hay thơ.”
Tương tự, việc ta tiêu thụ hàng hóa để biểu thị địa vị không nên được coi nhẹ hay chỉ xem như phô trương bề ngoài. Đó là một phần của cách ta tự định nghĩa bản thân và xác định quan hệ với các nhóm xã hội (vừa là thành viên, vừa là kẻ ngoài lề, và đôi khi đồng thời cả hai). Ta cần nhìn tiêu thụ như một phần phức tạp trong hệ thống xã hội của loài người. Giống như công việc hay cấu trúc gia đình hình thành con người ta, những gì ta mua và những chuẩn mực ứng xử ta học cũng vậy. Ta phải thấy tiêu thụ được dùng để phát tín hiệu về những điều sâu xa hơn nhiều so với cái hiển lộ bề ngoài.
Có lẽ chưa ai nắm bắt và diễn đạt được nghĩa xã hội của tiêu thụ tốt hơn nhà phê bình xã hội/ kinh tế gia Thorstein Veblen. Viết vào cuối thế kỷ XIX, chuyên luận phê phán Lý thuyết về Tầng lớp Nhàn rỗi của ông là văn bản cốt lõi diễn đạt chính xác quan hệ giữa hàng hóa và địa vị. Ở đỉnh cao của Thời đại Mạ vàng, ngay sau những thành tựu của Cách mạng Công nghiệp, tác phẩm của Veblen là dấu ấn của chính thời đại ông sống. Ông trở thành nhà tư tưởng hàng đầu, nhà phê bình nổi bật của Thời kỳ Tiến bộ, công kích lợi nhuận cũng như sự tiêu thụ và lãng phí đi kèm sự giàu có tư bản. Khái niệm nổi tiếng hơn cả là “tiêu thụ phô trương” (conspicuous consumption) - tiêu thụ để phô bày địa vị. Veblen hướng mũi nhọn phê phán vào “tầng lớp nhàn rỗi,” một nhóm giàu có ăn không ngồi rồi, hư phù và liên tục phô diễn vị thế xã hội, kinh tế của mình bằng những món đồ phần nhiều hoàn toàn vô dụng và không có chức năng gì.
Các lý thuyết của Veblen đã gặp phải nhiều phẫn nộ - ông vẽ cả một tầng lớp trong xã hội là vô ích và hời hợt, buộc tội họ gần như chỉ biết phản ứng trước thứ bậc. H. L. Mencken từng phản bác: “Tôi thích tắm rửa tử tế chỉ vì tôi biết John Smith không đủ tiền làm vậy - hay là vì tôi thực sự thích sạch sẽ? Tôi ngưỡng mộ Giao hưởng số 5 của Beethoven chỉ vì nó vượt ngoài tầm hiểu biết của các nghị sĩ và các tín đồ Methodist, hay là bởi tôi thực lòng yêu âm nhạc? Tôi thích hôn một cô nàng xinh đẹp hơn một bà hầu phòng chỉ vì ngay cả một gác cổng cũng có thể hôn một bà hầu - hay bởi cô gái xinh đẹp đẹp hơn, thơm hơn và hôn cũng ngọt ngào hơn?”
Lý thuyết Tầng lớp Nhàn rỗi phê phán gay gắt tầng lớp thượng lưu trong xã hội và thách thức những lý thuyết kinh tế chính thống vốn cho rằng con người tiêu thụ để tối đa hóa lợi ích của tiền. Veblen đối diện trực diện quan niệm thông thường về tiêu thụ, lập luận rằng động lực chủ yếu của thói quen tiêu thụ là sự mô phỏng và bắt chước, mà phần lớn trong số đó là phi lý và lãng phí. Ví dụ nổi tiếng nhất của Veblen về sự tiêu thụ phô trương của tầng lớp nhàn rỗi là chiếc thìa bạc rèn thủ công. Dĩ nhiên, dao nĩa làm bằng kim loại khác hoặc sản xuất bằng máy cũng hoàn toàn chấp nhận được và không khác biệt mấy về hình thức so với loại đắt đỏ, nhưng việc dùng dao nĩa bạc lại biểu thị một vị thế xã hội đặc thù. Veblen còn mỉa mai rằng việc dùng những cây gậy vô thưởng vô phạt là để tỏ rằng người đàn ông không cần dùng tay để lao động hay mặc corset bó chặt là để phụ nữ không thể làm việc. Chỉ những kẻ thuộc tầng lớp nhàn rỗi mới có thể mua và thực sự sử dụng những món đồ như vậy. Sự phê phán ấy đã làm nên danh tiếng (và tai tiếng) của Veblen - và nó vẫn còn nguyên giá trị hơn một thế kỷ sau. Lý thuyết Tầng lớp Nhàn rỗi vẫn là một trong những cuốn sách quan trọng nhất về kinh tế từng được viết trong hai thế kỷ qua.
Mặc dù Veblen nổi tiếng nhất với phê phán “tiêu thụ phô trương,” nghiên cứu của ông về địa vị xã hội phức tạp và sâu sắc hơn nhiều so với những gì người ta hay giản lược. Luận đề bao quát của Veblen là việc nhận diện phân tầng xã hội giữ vai trò trung tâm trong việc hiểu xã hội hiện đại. Vị trí xã hội của một người quan trọng hơn bất cứ giá trị hay sự hữu ích nào mà người ấy mang lại cho thế giới. Nghịch lý là, việc biểu lộ địa vị cao (qua tiêu thụ, nhàn rỗi và các thực hành phi tiền tệ) lại thường thể hiện chính qua sự vô dụng của vật phẩm hay hoạt động. Veblen cũng nhận diện hiện tượng “nhàn rỗi phô trương” - học kinh điển ở Oxford, du lịch nước ngoài, chơi thể thao và làm những việc không hề có mục đích sản xuất - và “lãng phí phô trương” - nuôi một đội ngũ phục dịch dư thừa trong nhà. Khả năng sử dụng thời gian cho những việc chẳng có tác dụng sản xuất nào chỉ có thể thuộc về tầng lớp thượng lưu.
Việc không tạo ra ích dụng, hay sự vô dụng của đồ vật, chính là dấu hiệu nổi bật nhất của địa vị xã hội. Trong nhãn quan của Veblen, những chiếc thìa bạc hay dấu hiệu không lao động qua gậy chống hoặc áo nịt bụng cho thấy dáng vẻ bề ngoài quan trọng hơn hạnh phúc hay sự thoải mái thực sự. Tương tự Karl Marx, Veblen coi kinh tế là thống trị hiện thực xã hội đương thời. Ông tin rằng kinh tế cung cấp khung cấu trúc nền tảng, từ đó toàn bộ xã hội hình thành và vận hành. Ta tiêu thụ cái gì, có khả năng kinh tế để tiêu thụ cái gì, và người khác quan sát ta tiêu thụ cái gì, tất cả quyết định vị trí của ta trong xã hội.
Một trăm năm sau, thuật ngữ “tiêu thụ phô trương” vẫn còn được dùng để tả kiểu hành vi kinh tế–xã hội này. Nhưng xã hội và nền kinh tế đã thay đổi sâu sắc kể từ thời Veblen, và những dạng tiêu thụ, hành vi mới đã xuất hiện để phô bày địa vị xã hội. Một thế kỷ sau khi Veblen viết Lý thuyết Tầng lớp Nhàn rỗi, những biến động lớn về công nghệ và toàn cầu hóa đã thay đổi cách chúng ta làm việc, sống và tiêu thụ. Cuộc Cách mạng Công nghiệp và sự tinh vi của sản xuất vừa tạo ra tầng lớp trung lưu vừa làm giảm giá hàng hóa, khiến tiêu thụ phô trương trở thành hành vi phổ biến. Đồng thời, tầng lớp nhàn rỗi đã được thay thế bằng một giới tinh hoa mới, dựa trên năng lực, tri thức và văn hóa, không còn được xác định rõ ràng bằng địa vị kinh tế. Họ làm việc nhiều giờ hơn, và nói chung, giá trị về năng lực và văn hóa được coi trọng hơn quyền thừa kế. Khi chủ nghĩa tư bản hiện đại mở toang cánh cửa cho tiêu thụ, nó cũng kéo theo sự bất bình đẳng ngày càng tăng. Tuy nhiên, khoảng cách giữa các tầng lớp không chỉ được xác định bằng những thứ người ta sở hữu. Những biến động này đã thay đổi động lực của công việc, nhàn rỗi, cách chúng ta tiêu thụ và mối liên hệ giữa tiêu thụ và địa vị. Dù có vẻ như “xa xỉ phẩm được dân chủ hóa,” như Daniel Boorstin nói, thế kỷ XXI đã mang lại bất bình đẳng xã hội–kinh tế lớn hơn bao giờ hết, càng nới rộng khoảng cách giữa giới tinh hoa và phần còn lại.
Tất cả những thay đổi đa dạng đó trong xã hội và kinh tế vừa thách thức vừa làm thay đổi ý nghĩa và cách đạt được địa vị cũng như tiêu thụ trong thế kỷ XXI. Ngày nay tiêu thụ trông ra sao và đã thay đổi thế nào trong nhiều thập niên qua? Giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp và nơi cư trú tác động đến những gì chúng ta mua như thế nào? Nếu việc sở hữu hàng hóa vật chất giờ đây đã phổ biến thì tầng lớp tinh hoa duy trì địa vị bằng cách nào? Veblen sẽ nói gì, nếu sống ở thế kỷ XXI? Cuốn sách này bàn về những thay đổi ấy và cách chúng định hình cách chúng ta chi tiền, cách chúng ta dùng thời gian, và cách chúng ta phô bày địa vị qua những biểu hiện lớn và nhỏ.
Nhưng trước hết, hãy nhìn lại vai trò trung tâm của địa vị trong văn minh loài người.
TIÊU THỤ PHÔ TRƯƠNG TRONG LỊCH SỬ
Dù tiêu thụ phô trương thường khiến ta nghĩ ngay đến một màn trình diễn tài sản hậu Cách mạng Công nghiệp, con người đã tham gia vào những cuộc chiến địa vị này ngay từ buổi đầu của văn minh. Veblen tin rằng phần lớn những gì ông quan sát được ở ngưỡng thế kỷ XX đã nảy sinh từ thời tiền sử.
Nghiên cứu của Andrew Wallace-Hadrill về xã hội La Mã cổ đại cho thấy “tiêu thụ phô trương” đã hiện hữu và nở rộ từ trước năm 79 sau Công nguyên. Những người không giàu đã mô phỏng tầng lớp trên từ hàng ngàn năm trước khi xuất hiện TV màn hình phẳng hay các khoản trả góp xe hơi ngày nay làm mờ ranh giới giai cấp. Trong nghiên cứu khảo cổ về các ngôi nhà ở Pompeii và Herculaneum thời kỳ đầu, với đủ quy mô và số phòng khác nhau, ông nhận thấy rằng “những dấu hiệu địa vị vốn có trong những ngôi nhà nguy nga nhất cũng xuất hiện, dù hiếm hoi hơn, ở cả những căn nhà nhỏ bé.” Chẳng hạn, Wallace-Hadrill chỉ ra rằng trang trí, một biểu tượng cơ bản của địa vị, được giới giàu có phô bày trong nhà và được người nghèo bắt chước, ngay cả khi họ không có nhiều không gian hay phương tiện để làm. Về sau, dưới thời Đế chế La Mã, khi Rome trở nên giàu có và hùng mạnh hơn, sự phổ biến của trang trí tăng lên và mang tính “dân chủ” hơn. Thói quen của giới thượng lưu được những thường dân giàu đang vươn lên bắt chước có ý thức hơn. Wallace-Hadrill cũng quan sát thấy rằng khi tầng lớp dưới tiếp cận được với những hình thức trang trí ấy, khoảng cách về chất lượng giữa những gì giới tinh hoa trưng bày và những gì người ít giàu phô ra lại càng lớn, cho thấy giới tinh hoa đã dùng đến vật liệu hiếm hoặc phương pháp khác thường để khẳng định địa vị - bởi lẽ bản thân các món đồ phô trương không còn đủ để biểu đạt địa vị nữa. Ví dụ, tranh ghép khảm (mosaic) rất khó chế tác, không thể làm giả, và đòi hỏi kỹ năng cũng như vật liệu đặc biệt, do đó trở thành dấu ấn hiếm của địa vị tinh hoa. Việc sử dụng cửa kính lớn hay kính màu trong những ngôi nhà thượng lưu nước Anh thời Victoria cũng cho thấy việc dùng sự khan hiếm để biểu đạt địa vị. Các ngôi nhà đó đã lấy thẩm mỹ kiến trúc từ những điền trang lớn ở Anh.
Việc dùng trang trí để gợi lên và mô phỏng địa vị tiếp tục trải dài khắp châu Âu thế kỷ XVII. Trong Đế chế Hà Lan, hai phần ba số hộ ở Delft sở hữu ít nhất một bức tranh - một hình thức trang trí ban đầu từng là dấu ấn của địa vị tinh hoa nhưng rồi được tầng lớp ít tài sản bắt chước. Ở Pháp trước Cách mạng, tầng lớp trung lưu mô phỏng giới quý tộc bằng giấy dán tường giả làm thảm thêu trong cung điện, dùng vữa stucco để giả cẩm thạch, và đồ sứ bắt chước vàng. Người ta thậm chí còn có thể giả vờ có thư viện bằng cách gắn những vòng xoắn sách giả trên tường. Phụ nữ bắt chước kiểu tóc của Marie Antoinette để tỏ ra gần gũi với hoàng tộc. Gần một thế kỷ sau, ở nước Anh thời Victoria, những đôi vớ lụa của cận thần nhanh chóng được giới lao động bắt chước bằng loại vớ dệt sợi thô (worsted stockings) - một lần nữa, dùng vật liệu rẻ hơn nhưng mang lại hiệu ứng tương tự.
Tất cả những ví dụ này cho thấy sự mô phỏng theo nghĩa khao khát - những phiên bản kém chất lượng hơn của hàng hóa tinh hoa, nhằm mục đích biểu đạt địa vị. Khi ấy cũng như bây giờ, từ túi Louis Vuitton nhái đến sàn gỗ giả, khác biệt hầu như không thể nhận thấy bằng mắt thường. Quan sát từ năm 79 sau Công nguyên vẫn giữ nguyên giá trị như thời Veblen và đến tận hôm nay: “Dĩ nhiên, có một khoảng cách lớn giữa xa xỉ của những ngôi nhà tinh hoa và khao khát giản đơn của những căn nhà nhỏ,” Wallace-Hadrill viết. “Nhưng điều quan trọng là phải hiểu rằng chúng không thuộc về những vũ trụ văn hóa khác nhau.” (Ngày nay, người ta thậm chí có thể mua sàn nhựa giả đá cẩm thạch - không khác mấy so với chức năng của stucco trong nước Pháp trước Cách mạng.) Nói ngắn gọn, ngay từ buổi đầu nền văn minh nhân loại có ghi chép, khát vọng phô bày địa vị, hay mô phỏng và hòa nhập với tầng lớp thượng lưu, đã hiện hữu rõ rệt. Như Wallace-Hadrill nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn với tôi: “Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng tiêu thụ phô trương đã diễn ra trong xã hội tiền tư bản. Thật là một quan điểm ngây ngô nếu xem nó chỉ như sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.”
TIÊU THỤ PHÔ TRƯƠNG TRỞ THÀNH PHỔ BIẾN
SẢN XUẤT HÀNG LOẠT VÀ TẦNG LỚP TRUNG LƯU
Mặc dù chủ nghĩa tư bản không phải là nguyên nhân khai sinh ra tiêu thụ phô trương, đúng là Cách mạng Công nghiệp đã mở toang cánh cửa tiêu thụ cho người thường. Sự thịnh vượng mà Cách mạng Công nghiệp mang lại dường như mang tính bình đẳng, đem lại của cải cho một tầng lớp xã hội hoàn toàn mới - tầng lớp trung lưu. Trước thế kỷ XVIII, nhân loại phải mất gần một thiên niên kỷ rưỡi để thu nhập toàn cầu tăng gấp đôi; nhưng Cách mạng Công nghiệp và chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đưa đến mức tăng gấp đôi đó chỉ trong 70 năm ở thế kỷ XIX, và một lần nữa trong 35 năm ở thế kỷ XX.
Trước Cách mạng Công nghiệp và sự ra đời của động cơ hơi nước, nhiều vật dụng chỉ có thể nằm trong tầm với của giới siêu giàu. Những thứ như máy khâu và máy chữ (phiên bản thời Victoria của đồ điện tử) vẫn còn nằm ngoài tầm với của đại chúng. Triển lãm Lớn ở London năm 1851 đã trưng bày nhiều vật xa xỉ của thế giới công nghiệp đang phôi thai, như giấy dán tường Morris hay đàn piano, nhưng chúng vẫn chỉ dành cho người giàu. Khi cơ giới hóa và chuyên môn hóa cho phép sản xuất một số lượng lớn hàng hóa, việc phân phối những món tiêu thụ “xịn” đến tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh trở thành khả thi. Mô phỏng không còn là con đường duy nhất để tiến gần tới giới thượng lưu. Thay vào đó, thông qua cả sản xuất hàng loạt và tín dụng nhanh (một phát triển của nửa sau thế kỷ XX), nhiều người hơn đã bắt đầu dùng những sản phẩm giống hệt giới tinh hoa.
Vào thời Veblen, tầng lớp nhàn rỗi thượng lưu sở hữu đất đai, kiểm soát tư liệu sản xuất và khả năng sở hữu hàng hóa vật chất. Cách mạng Công nghiệp đem đến sự tái cấu trúc kinh tế quy mô lớn và sự xuất hiện của một tầng lớp trung lưu gồm thương nhân và công nhân. Những công nhân mới này khác hẳn giai cấp vô sản không đất trước đó, vốn bị tầng lớp quý tộc áp bức. Trong những thập niên tiếp theo, tầng lớp trung lưu - không chỉ thượng lưu - cũng bắt đầu sở hữu tài sản, tạo ra của cải và có thu nhập khả dụng, cho phép họ mua địa vị thông qua tiêu thụ. Đầu thế kỷ XX, tầng lớp trung lưu mua xe hơi nhờ ngành công nghiệp ô tô Mỹ phát triển không ngừng (ban đầu là Model T, rồi đến Chevy và Cadillac). Đến thập niên 1950, nhiều người đã sở hữu nhà ngoại ô nhờ Đạo luật GI và Cơ quan Nhà ở Liên bang. Công nghệ mới và các kỹ thuật sản xuất nhanh cho phép tầng lớp trung lưu này mua TV, điều hòa nhiệt độ, và dàn stereo, khi tất cả những sản phẩm này đều được sản xuất với tốc độ nhanh hơn và chi phí thấp hơn.
Ngày nay, tiêu thụ phô trương trở nên phổ biến đến mức nó đồng nghĩa với những món đồ quá mức phô trương, từ BMW đến túi xách Louis Vuitton. Nouveau riche là những kẻ phạm lỗi đặc biệt, nhưng tầng lớp trung lưu cao đang lên, cùng các tài phiệt ở Nga và Trung Quốc, cũng vậy. Một số học giả thậm chí còn lập luận rằng người nghèo tham gia vào thực hành này nhiều hơn cả người giàu. Trong The Affluent Society, John Kenneth Galbraith chính ông đã nhận xét rằng bởi quá nhiều người có thể chi trả cho tiêu thụ xa xỉ, những hàng hóa này không còn là dấu hiệu của sự khác biệt nữa. Thực ra, việc phô bày của cải bị coi là “lỗi thời” đến mức tiêu thụ phô trương không còn gắn liền với giới siêu giàu, mà đúng hơn là với tất cả mọi người khác. Quả thật, trong The Power Elite, người đương thời với Galbraith, C. Wright Mills, đã quan sát rằng sự vắng mặt của một tầng lớp quý tộc ở Mỹ đồng nghĩa với việc những kẻ có tiền - “trần trụi, thô tục, phàm phu” - được vào mọi chốn, buộc giới tinh hoa thực sự phải tìm đến những dấu hiệu địa vị tinh vi hơn là giàu có hay thói quen tiêu thụ.
Một lực khác góp phần thúc đẩy sự lan rộng của tiêu thụ phô trương là nhận thức ngày càng tăng về lối sống của giới tinh hoa. Đầu thế kỷ XIX, Nữ hoàng Victoria và Hoàng tử Albert được chụp ảnh trong nhà riêng giữa các đồ dùng gia đình. Sự trỗi dậy của quảng cáo vào cuối thế kỷ XIX càng lan rộng hình ảnh những lối sống ao ước, từ đó bồi đắp một nền kinh tế tiêu thụ trung lưu mới. Nửa sau thế kỷ XX, lối sống xa hoa của Công nương Diana được phơi bày trên vô số tạp chí toàn cầu.
Ở Mỹ, nơi từ lâu có quan niệm dân chủ về người giàu, giới thượng lưu thường được coi là dễ tiếp cận, những mẫu hình “từ nghèo đến giàu” kiểu Horatio Alger. Ngay cả xã hội miền Đông cũ, dù phủ nhiều bí ẩn hơn các đối tác ở California, cũng khoe khoang ở New York và Boston, như được ghi lại trong tác phẩm của Edith Wharton, Dominick Dunne, Truman Capote, và Tom Wolfe. Ngày nay, truyền thông và báo lá cải về người nổi tiếng ghi lại từng căn nhà, đôi giày, chiếc nhẫn kim cương và nhà hàng của “giới quý tộc Hollywood.” Suy cho cùng, tầng lớp thượng lưu Mỹ chưa bao giờ có những quý tộc với hàng trăm năm địa vị thế tập, nên sự vượt trội của họ chủ yếu chỉ nằm ở của cải. Việc tiếp cận thông tin về lối sống tinh hoa khiến người bình thường thèm thuồng hơn (và gieo niềm tin rằng họ có thể đạt được điều đó). Chính sự tiếp cận này, cộng với hàng hóa tiêu thụ rẻ hơn, đã khiến điều đó trở thành khả thi. Tiêu thụ phô trương không còn bị giới hạn trong hàng ngũ tinh hoa nữa.
DÂN CHỦ HÓA TIÊU THỤ PHÔ TRƯƠNG
Ý thức về brand (thương hiệu) vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 có lẽ được khắc họa rõ nhất trong một trong những chương trình truyền hình nổi tiếng nhất thời đó, Sex and the City, ghi lại thời kỳ khi một chiếc đồng hồ Rolex sáng loáng hay một đôi giày Louboutin, nhận diện bằng đế đỏ đặc trưng và gót nhọn mảnh mai, đều báo hiệu một vị thế xã hội nào đó. Sự giàu có cũng được phô bày qua các thị trường hàng xa xỉ như Armani, Ralph Lauren và Oscar de la Renta, trong khi đám đông mô phỏng bằng việc mua những chiếc áo nỉ Gucci giả ở Quảng trường Thời đại, New York. Hình tượng người kỵ sĩ cầm gậy polo thêu trên áo golf hay chiếc sơ mi trắng tinh tươm cho thấy người mặc đã bỏ ra một khoản tiền lớn cho một món đồ tưởng chừng bình thường nhưng chất lượng vượt trội - một ví dụ thế kỷ XXI cho dao nĩa bạc của Veblen. Dĩ nhiên, những chiếc túi Prada giả đôi khi vẫn đánh lừa được cả con mắt tinh tường nhất, nhưng hàng xa xỉ “thật” - những chiếc túi xách chính hãng, áo golf Lauren, hay váy Armani - vẫn nằm ngoài tầm với của đám đông, cả về chi phí lẫn tính độc quyền. Địa vị của chúng dựa trên những logo to bản in hằn trên sản phẩm - càng lớn càng tốt. Người ta biết đó là túi Prada bởi vì trên chiếc túi nào cũng có tam giác đen bạc sáng bóng. Logo xa xỉ chính là chủ đề lặp đi lặp lại của sự hào nhoáng quá đà thời đó, gắn liền với dòng tiền phố Wall và nouveau riche.
Nhưng những thời kỳ tràn ngập logo và xa xỉ phô trương trước đó đã tạo ra một cơn đói trong quần chúng - và nó dần dần được thỏa mãn. Chỉ trong vài năm từ giữa thập niên 1990 đến 2000, một loạt thương hiệu đã cho ra đời cái gọi là “dòng khuếch tán” (diffusion lines) - tức là quần áo và phụ kiện chính hãng do chính các nhà mốt sản xuất nhưng với mức giá thấp hơn nhiều và dễ tiếp cận hơn. Nổi bật nhất trong số này xuất hiện liên tiếp: Armani với Armani Exchange (A/X, 1991), Ralph Lauren với Polo (1993), và Marc Jacobs với Marc by Marc Jacobs (2001). Trong khi vải vóc và đồ gia dụng cũng được sản xuất theo các dòng khuếch tán (Laura Ashley, Ralph Lauren), quần áo đặc biệt giữ vai trò then chốt trong quá trình biến đổi và dân chủ hóa tiêu thụ phô trương này. Theo đó, quần áo xa xỉ sản xuất hàng loạt theo một cách khác bắt đầu xuất hiện trong các trung tâm thương mại và phố trung tâm - Banana Republic được Gap mua lại năm 1983 và tái định vị thành nhãn hiệu trang phục cổ điển cao cấp. J.Crew, vốn là công ty catalogue quần áo mang tên Popular Club Plan, đổi tên và mở cửa hàng bán lẻ vào năm 1989, tự định vị như một phiên bản rẻ hơn của Ralph Lauren. Những nỗ lực này nhằm đưa hàng xa xỉ đến với thị trường đại chúng đã được đáp ứng bằng nhu cầu mạnh mẽ: A/X có 270 cửa hàng tại 31 quốc gia; J.Crew có 287 cửa hàng với doanh thu 2,5 tỉ đô la; Ralph Lauren có 460 cửa hàng với doanh số 7,4 tỉ đô la; và Gap đã mở 3.700 cửa hàng trên toàn cầu.
Theo tiêu chuẩn toàn cầu, những dòng khuếch tán và dòng quần áo xa xỉ đại chúng này vẫn còn đắt đỏ. Khó có thể bỏ ra dưới 100 đô la (và thường nhiều hơn) cho một món đồ ở Banana Republic. Tuy nhiên, chi phí của những món này thấp đáng kể so với các dòng xa xỉ gốc, và chúng truyền tải mỹ cảm gần như tương tự - sự tinh tươm quý tộc của Ralph Lauren hay nét lập dị của Kate Spade đều dễ dàng được mô phỏng bởi Banana Republic hoặc J.Crew. Sản phẩm Marc by Marc Jacobs có thể không đạt đến tay nghề hay chất liệu như thương hiệu chính, nhưng chúng nắm bắt được tinh thần phóng túng và tính phản nghịch vốn khiến nhà thiết kế này được tôn vinh.
Sự bùng nổ mua sắm trực tuyến cũng tạo ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng tiếp cận thương hiệu cao cấp của người tiêu thụ. Ngày trước, nếu bạn sống ở thị trấn nhỏ Kansas hay Missouri, bạn phải đến thành phố lớn mới có thể mua được đồ thời trang cao cấp. Ngày nay, chỉ cần một cú nhấp chuột trên trang web của Sak’s Fifth Avenue là có thể gửi một đôi giày “BB” của Manolo Blahnik tới bất cứ phụ nữ nào ở Mỹ, miễn là cô ấy sẵn sàng chi 600 đô la. Thêm nữa, internet cho phép các thương hiệu xa xỉ phân phối hàng hóa của các mùa trước lên những trang thời trang giảm giá. Các website quần áo và giày dép như Bluefly (1998), Zappos (1999), Overstock.com (1999), và dĩ nhiên “thiên đường” săn đồ rẻ gốc, Ebay (1995), cho phép người tiêu dùng bình dân tham gia tiêu dùng phô trương ở mức giá “khuyến mãi.” Một số bổ sung gần đây gồm Gilt (2007) và Rue La La (2007), bán hàng xa xỉ từ đồng hồ Cartier đến túi Chanel với mức giảm giá kinh ngạc qua các “flash sale,” trong đó một chiếc túi Hermès từ 20.000 đô giảm còn 10.000 đô, và đồ lót La Perla giảm 60% chỉ trong vài giờ hoặc một ngày. Đúng là những món này không hề rẻ, bất kể mức giảm. Rent-the-Runway, thành lập năm 2009 bởi hai tài năng Harvard, cho phép phụ nữ thuê váy dạ hội hàng hiệu cao cấp với một phần nhỏ chi phí, bao gồm cả một chiếc váy dự phòng gửi kèm miễn phí. Dù chỉ là giải pháp tạm thời, công ty này mang đến cho phụ nữ những món xa xỉ cho những dịp quan trọng, ngay cả khi phần lớn họ không bao giờ có thể mua được.
Khát vọng hàng hiệu đã tạo ra một thị trường mở rộng vượt xa tầng lớp thượng lưu vốn được nhắm tới ban đầu. Target nay hợp tác với các nhà thiết kế cao cấp để tạo ra các dòng Missoni, Lily Pulitzer và Proenza Schouler giá phải chăng, trong khi Kohls, Macy’s và Kmart bán các thương hiệu gắn với người nổi tiếng, đem lại cho người tiêu thụ cảm giác sở hữu phong cách của Kim Kardashian, Jessica Simpson (hay một ngôi sao nào khác). Dòng Tudor của Rolex là phiên bản đồng hồ “dễ mua” hơn (chỉ có ở châu Âu). Trong lĩnh vực ô tô, Tập đoàn Volkswagen là bậc thầy trong việc tạo ra nhiều mức giá khác nhau cho cùng một sản phẩm. Hoặc như một người chơi xe nhận xét: Lamborghini Gallardo thực chất là Audi R8. Audi A3 chính là Golf, mà Golf chính là Seat Leon. VW Group đã rất thông minh trong việc xác định những điều làm nên sự khác biệt với khách hàng của họ… nên dân mê Audi sẽ bỏ tiền cho một ‘Golf mặc váy dạ hội’ bởi họ không nghĩ nó là thế. Họ thích nhựa tốt hơn, nhôm bóng bẩy, v.v.”
Toàn cầu hóa, tiếp thị đại chúng, sản xuất hàng loạt và hàng nhái đã tạo ra một “chân dung tiêu thụ phô trương” cho nhiều người hơn. Sự tràn ngập của vật chất này gợi ra rằng những rào cản bước vào “tiêu thụ phô trương” của tầng lớp thượng lưu gần như đã bị xóa bỏ. Những thứ từng gắn liền với lối sống giàu sang - ô tô, nhiều túi xách, tủ quần áo đầy ắp - dường như đã trong tầm tay của xã hội đại chúng. Nhìn thoáng qua, tiêu thụ phô trương đã được dân chủ hóa.
Điều này không có nghĩa là quá trình dân chủ hóa của tiêu thụ phô trương không hề gặp phản ứng ngược. Vào cuối thập niên 1990, trong nỗ lực giành thêm thị phần, họa tiết kẻ caro nổi tiếng của Burberry - vốn chỉ xuất hiện bên trong những chiếc áo khoác trench coat cổ điển, chuẩn mực - bắt đầu xuất hiện trên nhiều sản phẩm khác, bao gồm cả ô, ví và ốp điện thoại. Sự phổ biến mới này (bị mỉa mai là “chav check”) đã biến Burberry từ đồng phục của giới quý tộc Anh thành một biểu tượng được tái diễn giải đầy nghịch lý trong văn hóa trẻ. Tràn lan trên khăn quàng, cà vạt và mũ, những phiên bản giả nhanh chóng tràn ngập chợ đen và bị giới “chav” - một thuật ngữ miệt thị dùng để chỉ thanh niên lao động trẻ tuổi ở Anh mê hàng hiệu giả lòe loẹt, hay như tờ The Economist gọi: “những thanh niên hư hỏng điển hình thuộc tầng lớp lao động da trắng, chuyên đi gây chuyện” - chiếm lấy. Việc nhóm này chiếm đoạt biểu tượng của Burberry đã gây ra cơn ác mộng quan hệ công chúng cho công ty, vì làm xa lánh nhóm khách hàng cốt lõi vốn ưa thích sự kín đáo, điềm đạm mà hãng duy trì từ giữa thế kỷ XIX. Chỉ đến những năm 2000, khi Rosie Marie Bravo và Angela Ahrendts (hai cựu CEO) cùng với CEO kiêm giám đốc sáng tạo Christopher Bailey tái định hình thương hiệu (giảm bớt họa tiết kẻ caro, lấy cảm hứng quân sự nhiều hơn), Burberry mới thực sự phục hồi doanh số. Không chỉ cắt giảm triệt để các sản phẩm phủ kín caro, Bailey còn tạo ra những thiết kế may đo tinh xảo với chất liệu độc đáo, vừa cực kỳ đắt đỏ, vừa hầu như không thể bắt chước. Chẳng hạn, chiếc túi Warrior trị giá hàng nghìn đô, được trang trí bằng kim loại lớn và đinh tán, gần như bất khả sao chép.
Trong một thế giới nơi hầu như mọi thứ (ngoại trừ có lẽ chiếc Warrior bag của Burberry) đều có thể bị bắt chước hoặc mua được với giá rẻ hơn, cuộc chơi địa vị của giới tinh hoa mới đã dịch chuyển ra sao? Ngay cả sau cuộc Đại Khủng hoảng, người giàu vẫn ngày càng giàu hơn, và họ dùng tài sản này để mua những thứ gần như không thể sao chép. Simon Kuper, tác giả của Financial Times, gần đây giải thích với tôi rằng tầng lớp thượng lưu giờ duy trì tính độc quyền của họ bằng cách sở hữu những phiên bản giới hạn của hàng hóa. Dù là phô mai thủ công, rượu vang niên vụ giới hạn hay xe Ferrari - bất kể mức giá bao nhiêu: món đồ tích lũy giá trị địa vị chỉ nhờ khan hiếm, chứ không chỉ bởi giá cao. Ở châu Âu, nơi các nhà sản xuất chật vật bán những chiếc xe phổ thông trị giá 15.000 đô, thì Ferrari - bắt đầu ở mức 275.000 đô - lại bán chạy như tôm tươi.
SỰ XÓI MÒN CỦA TẦNG LỚP NHÀN RỖI VÀ SỰ TRỖI DẬY CỦA TẦNG LỚP PHẤN ĐẤU
Bức tranh chung thay đổi không chỉ bởi quá trình dân chủ hóa của tiêu thụ phô trương, mà còn cả sự xói mòn của tầng lớp nhàn rỗi. Ngoại trừ vài tay chơi sống nhờ quỹ ủy thác hoặc các tiểu thư tài phiệt, tầng lớp nhàn rỗi hầu như không còn tồn tại. Phần lớn những người chi hàng trăm nghìn đô cho hàng hiệu ngày nay đều là những người tự kiếm ra tiền - nhiều người bằng lao động chân chính (dù cũng có kẻ thì không). Sự biến mất của một tầng lớp quý tộc giàu có, ăn không ngồi rồi, và sự trỗi dậy của một tầng lớp tinh hoa tự lập, có học vấn (đôi khi được gọi là tầng lớp tinh hoa dựa trên công trạng, meritocratic elite) đồng nghĩa với việc nhàn rỗi không còn là đồng nghĩa với thượng lưu. Nhưng cái giá của phiên bản địa vị có vẻ bình đẳng hơn này, theo nghiên cứu của nhà kinh tế Robert Frank (ĐH Cornell), là có một sự suy giảm rõ rệt về nhàn rỗi và hạnh phúc ở giới giàu có. Ông viết: “Trên thực tế, trong khi bất bình đẳng thu nhập tăng thì “bất bình đẳng nhàn rỗi” - thời gian dành cho hưởng thụ - lại theo hướng ngược lại: người thu nhập thấp được nhiều thời gian nhàn rỗi hơn, còn người thu nhập cao lại mất đi.” Từ 1985 đến 2003, số giờ nhàn rỗi hàng tuần của nam giới giàu giảm từ 34,4 xuống 33,2, trong khi nam giới ít giàu hơn tăng từ 36,6 lên 39,1. Ở phụ nữ, xu hướng này cũng lặp lại, nhưng nữ giới thu nhập cao còn mất nhiều thời gian nhàn rỗi hơn nữa - giảm tới 2 giờ trong cùng giai đoạn. Trong cuốn Changing Times: Work and Leisure in Postindustrial Society, Jonathan Gershuny nhận xét rằng, khác với thời Veblen, các nhóm xã hội–kinh tế trên cùng hiện nay lại ít thời gian hơn chứ không phải nhiều hơn, và hai biến số “lao động” và “nhàn rỗi” có quan hệ “tương hỗ”: thời gian chịu tác động bởi sản xuất và bởi những công việc gắn với các dạng sản xuất mới được coi trọng. Ngày nay, sự dư thừa nhàn rỗi không còn là dấu hiệu của địa vị cao.
Những con số thống kê này có thể gợi ý yếu tố lựa chọn cá nhân, nhưng quá trình tái cấu trúc kinh tế toàn cầu từ thời Veblen đến nay cho thấy cả người giàu lẫn người nghèo đều ít có tính chủ động hơn nhiều. Nền kinh tế sản xuất từng là phương tiện để thăng tiến xã hội thông qua thu nhập chứ không phải do dòng dõi hay sở hữu đất đai. Thực tế, chính thu nhập từ các công việc nhà máy - đặc biệt vào giữa thế kỷ XX - đã cho phép một bộ phận lớn dân cư mua được nhà cửa và nội thất, từ ghế bành đến rèm cửa. Trong những năm 1960, nhiều gia đình trung lưu có thể sống dư dả nhờ công việc nhà máy hoặc quản lý được trả lương khá cao. Thậm chí, bằng đại học (chứ chưa nói đến bằng sau đại học) cũng không phải điều kiện bắt buộc để sống khá giả. Năm 1950, chỉ 7,3% nam giới có bằng đại học; đến 1962, con số này mới nhích lên hơn 11%. Đến năm 2014, gần một phần ba cả nam và nữ đã có bằng đại học. Vào giữa thế kỷ XX, thăng tiến xã hội và kinh tế gắn chặt với lòng trung thành đối với tổ chức. Làm việc bốn mươi năm cho Ford hay General Electric đồng nghĩa với việc được tăng lương, thăng chức, và có thu nhập đủ để nuôi dưỡng lối sống trung lưu. Con người thời đó được đánh giá không phải bởi tấm bằng Ivy League hay sức hút đối với công ty đối thủ, mà bởi lòng tận tụy với tổ chức đã thuê mình - quân đội, chính phủ, công ty, công đoàn. Như C. Wright Mills đã phân tích, “tầng lớp quyền lực” chủ yếu hình thành từ chính những định chế này, vốn là trung tâm kiểm soát đời sống kinh tế–xã hội. Cũng trong giai đoạn này, nhiều phê phán xuất hiện, nổi bật là The Organization Man (1956) của William Whyte, coi sự đồng phục tư duy trong các tập đoàn Mỹ là một đòn bóp nghẹt tính cá nhân và sáng tạo. Bất chấp sự gò bó ấy, lòng trung thành được tưởng thưởng và tạo ra con đường thăng tiến. Bộ phim The Man in the Gray Flannel Suit (1956) hay loạt phim Mad Men gần đây chính là những miêu tả đại chúng điển hình về quan hệ này.
Sự sụp đổ của nền sản xuất công nghiệp đã thay đổi căn bản đồng tiền của tính di động xã hội–kinh tế. Quá trình phi công nghiệp hóa ở phương Tây (đặc biệt ở Mỹ và Anh) bắt nguồn từ ba lực chính: thị trường bão hòa (một gia đình không cần mua quá nhiều máy rửa bát), công nghệ và tự động hóa (máy móc rẻ và nhanh hơn con người trên dây chuyền sản xuất), và toàn cầu hóa (chi phí lao động ở nơi khác thấp hơn, trong khi vận tải và tin học hóa cho phép gia công sản xuất sang Đông Nam Á hay Nam Mỹ). Hệ quả là các công việc nhà máy lương cao - cái nôi của đời sống trung lưu Mỹ - biến mất nhanh chóng. Năm 1970, một phần tư lực lượng lao động Mỹ làm trong ngành sản xuất. Đến 2005, con số này giảm còn 10%. Không chỉ là cú sốc thống kê, sự sụt giảm đó còn đồng nghĩa với sự tan rã của hợp đồng xã hội–kinh tế từng ràng buộc tầng lớp trung lưu. Những công việc này vừa được trả lương tốt vừa ít đòi hỏi kỹ năng, nhờ thế, phần đông tầng lớp trung lưu Mỹ đã đạt được thịnh vượng, tiện nghi và an ninh mà không cần xuất thân quý tộc, cũng chẳng cần bằng cấp đại học. Việc các nhà máy đóng cửa hàng loạt, di dời sang các nước đang phát triển, đã khiến cả các trung tâm đô thị lớn lẫn những vùng rộng lớn khác của nước Mỹ rơi vào thất nghiệp và suy tàn.
Thay thế sản xuất công nghiệp là sự trỗi dậy của nền kinh tế dịch vụ, một cấu trúc lưỡng cực thực sự. Toàn cầu hóa không chỉ thể hiện ở việc xuất khẩu lao động giá rẻ, mà còn ở sự nổi lên của các “thành phố toàn cầu” (theo thuật ngữ của Saskia Sassen). Đây là những trung tâm sản xuất kiểu mới - dựa trên thông tin và vốn tài chính. Tầng lớp lao động tinh hoa tạo ra lợi nhuận cao nhất thuộc về các ngành nghề chuyên môn: kế toán, tài chính, luật, y khoa - Sassen gọi là “các dịch vụ sản xuất cấp cao.” Robert Reich thì gọi những người này là “nhà phân tích biểu tượng,” còn Richard Florida gọi họ là “tầng lớp sáng tạo.”
Một tấm bằng đại học không hẳn là điều kiện tiên quyết để bước vào các nhóm này, nhưng nó rõ ràng giúp ích và hầu hết các thành viên đều có. Như vậy, sự trỗi dậy của một nền kinh tế dựa vào đổi mới và tri thức cũng đồng nghĩa với sự lệ thuộc vào kỹ năng chuyên môn, nhiều trong số đó được tích lũy thông qua giáo dục. Khả năng đi vào tầng lớp trên cùng của trật tự kinh tế mới phụ thuộc vào tri thức, chứ không phải dòng dõi, không phải tài sản truyền đời, cũng không phải, như trước kia, lòng trung thành với tổ chức. Nhưng giới tinh hoa mới này không chỉ đơn thuần là một tập hợp kinh tế liên kết với nhau bởi sự giàu có. Họ không nhất thiết là nhà tài phiệt đứng đầu tháp kim tự tháp. Nhiều người trong số họ - luật sư, kỹ sư - giành được vị thế nhờ giáo dục và tri thức chuyên môn; nhưng đồng thời cũng có vô số người khác, từ những cử nhân văn chương Yale, nhà biên kịch chưa bán được kịch bản, nhạc sĩ hay tình nguyện viên Teach for America. Nhóm này, dù thu nhập khác biệt, vẫn thuộc về một hình thức văn hóa–xã hội mới, nơi tri thức được coi trọng tự thân, không phụ thuộc hoàn toàn vào chức năng kinh tế.
Nói ngắn gọn, thay vì được định nghĩa bằng thu nhập, nhóm mới này gắn kết với nhau bởi vốn văn hóa chung - họ nói cùng một “ngôn ngữ,” chia sẻ những tri thức tương tự, cùng hệ giá trị, và cùng một ý thức tập thể. Họ đọc bình luận văn hóa, theo dõi thời sự (tốt nhất là qua New York Times, Wall Street Journal, hoặc Financial Times), ăn thực phẩm hữu cơ, đến chợ nông sản cuối tuần. Những hành vi và dấu hiệu này vừa thể hiện giá trị của tầng lớp phấn đấu, vừa cho thấy tri thức để hình thành nên chúng. Và đằng sau đó là một mục tiêu đầy thiện ý: tri thức và vốn văn hóa được dùng để ra quyết định về ăn uống, môi trường, cách làm cha mẹ, năng suất lao động, và tiêu thụ có trách nhiệm.
Tầng lớp tinh hoa văn hóa mới này có thể được gọi, ngắn gọn, là tầng lớp phấn đấu (aspirational class). Khác với tầng lớp nhàn rỗi của Veblen hay “bobo” của David Brooks, giới tinh hoa mới không được xác định bằng kinh tế. Thay vào đó, tầng lớp phấn đấu hình thành từ một ý thức tập thể, được nâng đỡ bởi những giá trị và vốn tri thức đã được lĩnh hội cùng các quy trình văn hóa–xã hội tinh vi cần thiết để đạt được chúng.
Trong Bobos in Paradise, David Brooks ghi lại tình trạng “mâu thuẫn nhận thức” của những “bobo” (bohemian bourgeois - tầng lớp tư sản phóng túng), những người lớn lên trong văn hóa phản kháng của thập niên 1960 và cảm thấy bối rối sâu sắc trước sự giàu có ở tuổi trưởng thành. Nhóm này cũng là một tầng lớp tinh hoa dựa trên kinh tế, hay như Brooks gọi là “tầng lớp thượng lưu mới.” Sự khó xử của nhiều bobo trong việc hòa giải quá khứ hippy, phi vật chất của họ với sự giàu có mới mẻ đã dẫn tới những thói quen tiêu thụ vẫn đắt đỏ, nhưng rốt cuộc lại nhằm cố gắng tạo khoảng cách với tiền bạc. Trong nỗ lực vượt lên trên chủ nghĩa vật chất, những bobo giàu có mua tủ lạnh hiệu Subzero và tu sửa phòng tắm bằng tường đá phiến và phong cách Thiền (nhưng dĩ nhiên họ vẫn phải có rất nhiều tiền để làm vậy). “Bỏ ra 25.000 đô để làm lại phòng tắm thì là đạo đức, nhưng tiêu 15.000 đô cho dàn âm thanh và TV màn hình rộng thì là thô tục. Chi 10.000 đô cho một bồn Jacuzzi ngoài trời thì là sa đọa, nhưng nếu anh không tiêu gấp đôi số đó cho một buồng tắm đá phiến khổng lồ thì có nghĩa là anh chưa học được cách trân trọng những nhịp điệu giản dị của cuộc sống… nếu đồ nội thất của anh đã được ‘làm cho cũ kỹ,’ thì lương tâm của anh không cần phải bận tâm.”
Tầng lớp phấn đấu ngày nay thì không mang mặc cảm tự ý thức như vậy, và nhiều thành viên còn không có tiềm lực tài chính như các bobo. Tầng lớp phấn đấu được thúc đẩy bởi những giá trị tự tin và chủ động lựa chọn cách sống của mình thông qua quá trình thu thập thông tin, hình thành ý kiến và giá trị - một phần liên quan đến tiền bạc nhưng phần lớn dựa trên vốn văn hóa. Họ giữ khoảng cách với hàng hóa vật chất thông thường không phải vì cảm thấy khó chịu với sự giàu có (như bobo), mà bởi vì hàng hóa vật chất không còn là dấu hiệu rõ ràng của địa vị xã hội, cũng không còn là kênh hiệu quả để phô bày vốn văn hóa hay tri thức. Giới tài phiệt lẫn tầng lớp trung lưu đều có thể sắm “đồ đạc,” nhưng điều khiến tầng lớp phấn đấu khác biệt chính là khao khát tiếp thu tri thức và vận dụng nó để hình thành các giá trị xã hội, môi trường có ý thức - và đó là lý do tại sao một quả cà chua thừa kế giá 2 đô ở chợ nông sản lại mang tính biểu tượng sâu sắc cho tiêu thụ của tầng lớp phấn đấu, còn chiếc Range Rover trắng thì không. Tiêu thụ của tầng lớp phấn đấu là biểu hiện cho triết lý sống và hệ giá trị của họ.
Dĩ nhiên, trong hình thức văn hóa–xã hội mới này vẫn có sự phân tầng kinh tế. Có những thành viên giàu có của tầng lớp phấn đấu - chẳng hạn một luật sư - rộng tay chi tiêu cho bảo mẫu, học phí Ivy League và dâu tây hữu cơ. Nhưng cũng có những người gần như không đủ khả năng tham gia kinh tế, như một biên kịch thất nghiệp hay một nghệ sĩ tốt nghiệp Trường Thiết kế Rhode Island (RISD), họ vẫn dùng những phương tiện khiêm tốn để biểu thị sự thuộc về nhóm. Biên kịch kia cũng đọc New York Times và vẫn mua dâu tây hữu cơ ở Whole Foods (dù có lẽ phi lý và gây hại cho tài chính cá nhân). Anh ta mang túi vải bố in khẩu hiệu chính trị hay văn chương như một tín hiệu khác của văn hóa và sự tham dự vào dòng chảy trí thức đương thời. Nói ngắn gọn, hình thức văn hóa–xã hội mới này là tinh hoa nhờ những dấu hiệu vật chất và biểu tượng cần có để trở thành thành viên, nhưng suy cho cùng, những người thuộc về đó khao khát trở thành một phiên bản “con người tốt hơn” trong mọi khía cạnh của đời sống, trong đó vị trí kinh tế chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Nếu tri thức là động lực của nền kinh tế thế giới, thì nó cũng chính là “đồng tiền” để nhóm tinh hoa mới này định nghĩa bản thân và giành được các tín hiệu địa vị - dù vật chất hay biểu tượng. Việc tiếp thu thông tin và tri thức trở thành điều được trân trọng không chỉ trong trật tự kinh tế mới mà trong mọi mặt của đời sống. Các chuẩn mực xã hội và hàng hóa của tầng lớp phấn đấu phản ánh một thứ tri thức ngầm định, cùng với quá trình tiếp thu tri thức đó, vốn chi phối thói quen tiêu thụ của họ. Thời gian nhàn rỗi của tầng lớp phấn đấu - dù là đọc The Economist, nghe NPR, hay tập yoga - đều thấm đẫm tinh thần tri thức và năng suất như công việc. Thực hành làm mẹ của họ cũng không chỉ liên quan đến tiền bạc, mà còn đến những nghiên cứu công phu về cách tối ưu để nuôi dưỡng, dỗ dành, và giáo dục trẻ dưới ba tuổi. Hàng hóa và tập quán, do đó, trở thành những dấu hiệu của tri thức và đồng thời khẳng định sự thuộc về nhóm tinh hoa đặc tuyển này.
ĐỌC LẠI VEBLEN
Bất chấp những biến đổi căn bản trong nền kinh tế toàn cầu và trong cách thức mà chúng ta đạt được tính di động xã hội và kinh tế, phần lớn khung lý thuyết của Veblen để hiểu về những dấu hiệu biểu thị vị thế giai tầng vẫn còn đúng cho đến ngày nay, dù theo những cách phức tạp và bất thường hơn. Hơn 100 năm kể từ khi cuốn sách của Veblen được xuất bản lần đầu, các lý thuyết của ông lại càng đúng hơn bao giờ hết, cho tất cả chúng ta. Veblen có thể thắc mắc: những chiếc thìa bạc và những kẻ thuộc tầng lớp nhàn rỗi ăn không ngồi rồi giờ đi đâu hết? Nhưng thay vào đó, ông sẽ thấy tầng lớp phấn đấu với bình pha cà phê Chemex pour-over của họ. Cũng giống như ở thế kỷ XIX, ở thế kỷ XXI, khát vọng phô bày địa vị của chúng ta vẫn gắn liền với trật tự kinh tế và xã hội đương thời.
Theo truyền thống công trình của Veblen, The Sum of Small Things xem xét cách xã hội và giai tầng được biểu thị qua tiêu thụ và thực hành xã hội. Như Frank Trentmann viết trong Empire of Things, bộ sử tiêu thụ từ thế kỷ XV đến nay: “Ở đây, tiêu thụ mang tính quan hệ chứ không phải là sở thích cá nhân (hợp lý hay không), nó là một phần của hệ thống định vị xã hội, cho người ta biết họ đang đứng ở đâu.” Tiêu thụ phô trương vẫn là một phương tiện rất quan trọng để biểu thị vị thế xã hội, nhưng ở thế kỷ XXI, tầng lớp phấn đấu đã tìm ra những cách thức mới để thể hiện địa vị của mình. Trong cuốn sách này, tôi lập luận rằng có ba mô thức tiêu thụ đồng thời đang diễn ra.
Thứ nhất, quá trình dân chủ hóa tiêu thụ phô trương đã cung cấp nhiều hàng hóa vật chất hơn cho tầng lớp trung lưu, nhưng sự thay đổi này lại gây bất lợi cho họ. Khi chi nhiều hơn cho những biểu tượng địa vị vật chất, họ lại chi ít hơn cho những thứ có thể mở ra con đường thăng tiến liên thế hệ.
Thứ hai, do tiêu thụ phô trương trở thành xu hướng chính thống, phương thức tầng lớp phấn đấu sử dụng để biểu thị địa vị xã hội đã trở nên phức tạp hơn. Các thành viên của họ tìm ra những cách nhận diện bản thân mới - chi tiêu cho các hành vi và hàng hóa không hẳn là phô trương, và không phải lúc nào cũng mang tính vật chất. Giới tinh hoa mới này tiêu thụ ít các món đồ phô trương truyền thống hơn, thay vào đó hướng đến những dấu hiệu địa vị tinh vi hơn, xuất hiện dưới hình thức sản xuất phô trương và tiêu thụ không phô trương. Những thành viên giàu có hơn của tầng lớp phấn đấu dành nguồn lực tài chính để làm cho cuộc sống dễ dàng và hiệu quả hơn. “Tiêu thụ không phô trương” cũng mô tả việc tầng lớp phấn đấu chiếm lĩnh những hành vi và hàng hóa không đắt đỏ, không lòe loẹt, nhưng lại trở thành thiết yếu để biểu thị địa vị. Chẳng hạn, tập yoga, cho con chơi khúc côn cầu thay vì bóng đá, uống sữa hạnh nhân thay cho sữa bò, hay tái sử dụng túi đi chợ hàng tuần - tất cả đều là những dấu hiệu giai tầng không đắt đỏ hơn phương án thay thế, nhưng được cho là “có hiểu biết” hơn. Đến lượt nó, chính những hành vi này trở thành dấu hiệu của địa vị.
Cuối cùng, nhiều hành vi từng được Veblen gọi là “nhàn rỗi phô trương” - chẳng hạn như lấy bằng đại học hay chơi thể thao - nay lại trở thành điều kiện thiết yếu cho thăng tiến xã hội. Với tầng lớp phấn đấu, phần lớn nhàn rỗi đã trở thành có tính sản xuất.
Khi Veblen viết chuyên luận về tầng lớp nhàn rỗi, tiêu thụ phô trương chỉ giới hạn ở một tầng lớp rất nhỏ trong xã hội. Đúng là tất cả các giai tầng đều phần nào tham gia, nhưng chỉ tầng lớp nhàn rỗi mới có phương tiện để dùng hàng hóa làm dấu hiệu địa vị. Ngày nay, hàng hóa vật chất dư thừa, nhưng khả năng của chúng để biểu thị hoặc mang lại thăng tiến xã hội thì ngày càng hạn chế. Không còn một tầng lớp nhàn rỗi thống trị nữa; thay vào đó, tầng lớp phấn đấu đang viết lại các mô thức tiêu thụ đồng thời rút lui khỏi lối tiêu dùng phô trương vật chất truyền thống. Họ biểu thị địa vị của mình qua những hành vi và hàng hóa tinh vi hơn, không hẳn đắt đỏ, nhưng ngụ ý vốn văn hóa và xã hội dồi dào - thứ vốn gắn liền với tư cách thành viên của tầng lớp phấn đấu.
Thành viên của tầng lớp phấn đấu không phải là những kẻ phản diện Phố Wall, không phải các tài phiệt Nga mua sạch London hay Manhattan, cũng không phải giới tài phiệt ngồi máy bay riêng. Họ không phải là tầng lớp nhàn rỗi. Không phải tất cả đều kiếm được số tiền khổng lồ, nhưng họ đều có học vấn, họ đề cao tri thức và tham gia các thực hành tiêu thụ phản ánh các giá trị và vốn văn hóa đó. Tuy nhiên, chính những thuộc tính tích cực này có thể khiến tầng lớp phấn đấu còn nguy hiểm hơn cả siêu giàu - những người thường bị báo chí bêu xấu - hay tầng lớp nhàn rỗi của thế kỷ XIX. Trên đời không có nhiều tỷ phú và đại gia dầu mỏ, nhưng tầng lớp phấn đấu lại là một hình thức văn hóa rộng lớn và đầy quyền lực. Quan trọng nhất, thông qua những lựa chọn tinh vi và ngày càng không phô trương trong cách chi tiêu, cách ứng xử và cái gì họ coi trọng, họ củng cố vị thế đặc quyền xã hội–văn hóa (và thường cả kinh tế) cho bản thân và con cái, để mặc tất cả những người khác ở ngoài. Sự tự tin trong các quyết định và cảm giác xứng đáng với địa vị xã hội của họ cho phép họ phớt lờ bất bình đẳng ngày càng gia tăng quanh mình. Ít nhất, họ không coi mình là thủ phạm.
Vì bản chất dữ liệu và nghiên cứu được tiến hành, cuốn sách này tập trung phân tích các mô thức tiêu thụ ở Mỹ. Nhưng chắc chắn những quan sát về giai tầng, địa vị xã hội, và sự xuất hiện của tầng lớp phấn đấu có thể được chứng kiến ở nhiều nơi ngoài biên giới nước Mỹ. Thực tế, sự xuất hiện của những phương tiện phi vật chất mới để phô trương địa vị - như sản xuất phô trương, sản xuất mang tính biểu tượng, hay các thực hành làm mẹ - có thể thấy rõ ở khắp các quốc gia giàu có phương Tây. Một vòng dạo quanh Notting Hill cho thấy những thói quen tiêu thụ giống hệt với San Francisco hay Park Slope, Brooklyn. The Sum of Small Things (Năng Nhặt Chặt Bị) cố gắng giải mã các thói quen tiêu thụ của thế kỷ XXI: chúng đã thay đổi ra sao, phản ánh vị thế xã hội–kinh tế của chúng ta bằng những cách lớn nhỏ thế nào, và hệ quả của những lựa chọn cũng như thực hành ấy đối với cộng đồng, thành phố và toàn xã hội.
Anh Hoa dịch
năng nhặt chặt bị