favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Đông 2025
Next

Thực tại của trẻ con: nỗi đau

31/12/2025 12:38

Giống như Baudelaire, Thomas De Quincey là người lớn lên giữa các phụ nữ; De Quincey là con thứ năm trong gia đình có tổng cộng tám người con (chưa bao giờ có sáu người cùng sống một lúc), sau một người anh cả và ba chị gái. Hai trong số các chị gái đã ra đi từ sớm, và trong đó cái chết của Elizabeth Quincey, người chị lớn, để lại nỗi buồn sâu sắc hơn cả, và các hình ảnh và ấn tượng của sự việc ấy sau này vẫn còn trở lại và ám ảnh tác giả trong các tác phẩm sau này. Trong các autobiographical essay của De Quincey, trình tự thời gian của sự việc thường xuyên bị bỏ qua như một điều không thể tránh khỏi: các ký ức vốn thuộc về một trình tự nhất định ấy lại hồi ứng với các suy tư hay sự việc ở thời điểm khác, và bất kể xuất hiện ở đâu chúng như thể nhảy vọt lên trước hoặc thụt lùi về phía sau và rất khó để gán cho một vị trí thích hợp nếu không muốn làm cho mọi thứ trở thành đơn thuần một lời kể chuyện cá nhân chẳng có mấy sức mạnh. Quả thực, các hình ảnh của ký ức thường không bao giờ xuất hiện tách biệt và rõ rệt, mà, theo De Quincey, đến với chúng ta giống như các xoắn ốc của những kinh nghiệm trộn lẫn vào nhau không thể gỡ rời được. Baudelaire gọi đó là lối suy nghĩ xoắn ốc tự nhiên của De Quincey, trong đó hồi ức và mơ không thể tách rời khỏi tưởng tượng.

Lời kể về sự việc này, The Affliction of Childhood,  đã xuất hiện trên Blackwood’s Magazine và thường được xem là thuộc về loạt Suspiria de profundis; sau đó nó được De Quincey sửa lại và đưa vào, cùng với các bài viết đăng báo khác, tập Autobiographic Sketches năm 1853. Văn bản được dịch ở đây chính là phần đầu tiên của Autobiographic Sketches.

 

 

 

TAI HỌA THỜI THƠ ẤU

- Thomas De Quincey

Vào năm tôi lên sáu tuổi, chương đầu tiên của cuộc đời tôi đột ngột đi đến một kết thúc khủng khiếp; chương ấy, ngay cả khi đã ở sau cánh cổng thiên đường tìm thấy lại, xứng đáng được ghi nhớ. “Cuộc sống đã kết thúc!” là nỗi lo âu thầm kín trong tim tôi; bởi trái tim của một đứa trẻ cũng cảm thấy rõ như trí tuệ của người trưởng thành sự liên hệ với bất kỳ vết thương nào giáng xuống niềm hạnh phúc. “Cuộc sống đã kết thúc! Kết thúc thật rồi!” là nghĩa ẩn giấu, lối nửa vô thức, len lỏi trong những tiếng thở dài của tôi; và, giống như tiếng chuông vọng lại từ xa trong một buổi tối mùa hè đôi khi dường chất chứa một hình thức rõ rệt các từ, một thông điệp răn dạy nào đó, cứ vang vọng quanh quất không ngừng, theo cách ấy đến với tôi một giọng vô thanh và kín đáo dường như liên tiếp ngân nga một lời bí mật, chỉ để mỗi trái tim tôi nghe rõ - rằng “giờ thì sự bừng nở của cuộc sống đã úa tàn mãi mãi.” Chẳng phải lời ấy tự hình thành trong tai, hay phát ra rõ ràng trên môi; một lời thì thầm như thế đã im lặng lẻn vào tim tôi. Nhưng theo nghĩa nào thì lời ấy có thể đúng? Đối với một đứa trẻ chưa đầy sáu tuổi, có thể nào những hứa hẹn của cuộc sống lại thực sự tàn lụi, hay những vui thú vàng son của nó đã cạn kiệt? Tôi đã từng đến Rome chưa? Tôi đã đọc Milton chưa? Tôi đã nghe Mozart chưa? Không. Nhà thờ thánh Peter, “Paradise Lost,” những giai điệu thần thánh của “Don Giovanni,” tất tật đều chưa được hé lộ với tôi, và không phải bởi các sự ngẫu nhiên của hoàn cảnh mà bởi sự tất yếu của cảm năng chưa hoàn thiện của tôi. Các sung sướng vô ngần ấy có thể đến muộn; nhưng các sung sướng như thế là một hình thức khác của niềm vui bất an. Còn sự bình yên, ngơi nghỉ, an toàn trong tâm vốn thuộc về tình yêu vượt quá mọi hiểu biết - những điều này không còn trở lại được nữa. Một tình yêu như thế, không thể hiểu thấu, - một sự bình yên như thế, chẳng thể bị xáo động bởi giông bão, hay bởi nỗi sợ giông bão, - đã bao trùm bốn năm cuối thời thơ ấu của tôi, thời mà tôi có mối quan hệ đặc biệt với chị tôi; vào thời điểm ấy chị hơn tôi ba tuổi. Hoàn cảnh dẫn đến sự tan biến đột ngột của mối liên kết rất mực trìu mến ấy tôi sẽ thuật lại ở đây. Và, để có thể làm điều đó theo cách dễ hiểu hơn, tôi sẽ trước hết mô tả tình trạng thanh thản và ẩn dật mà chúng tôi đã trải qua.

Bất kỳ biểu hiện nào của tính tự phụ cá nhân, xen lẫn vào những ghi chép đầy xúc động, đều gây hại cho hiệu ứng của chúng - bởi các biểu hiện kia chẳng hề tương thích với sự đắm chìm của tinh thần và sự quên mình mà chỉ ở đó dục vọng sâu thẳm mới nảy sinh hoặc có thể tìm thấy điểm tựa xuất chúng. Bởi vậy, đối với tôi hẳn sẽ vô cùng đau đớn nếu chỉ cần một cái bóng, hay chỉ một biểu hiện bề ngoài của khuynh hướng ấy, lẻn vào các hồi ức này. Mặt khác, hẳn là bất khả, nếu không đặt một sự kiềm chế tai hại lên chuyển động tự nhiên của một lời tường thuật như thế, việc ngăn cản không cho chạm đến độc giả những tia yếu ớt hé lộ hoàn cảnh xa hoa hoặc thanh nhã quý phái bao quanh tuổi thơ tôi, bởi vậy xét cho cùng tôi nghĩ tốt hơn hết là nói ngay với độc giả theo lối giản dị của sự thật, về tầng lớp xã hội mà gia đình tôi thuộc về vào thời điểm lời tường thuật sơ lược này khởi đầu. Nếu không thì rất có thể, chỉ bằng việc thuật lại trung thực các sự việc của kinh nghiệm ban đầu này, tôi khó lòng tránh được việc khiến độc giả có ấn tượng về một tầng lớp có lẽ cao hơn cái mà gia đình tôi thực sự thuộc về. Và một ấn tượng như vậy chắc hẳn có vẻ như được tạo ra cách cố tình bởi chính tôi.

Bố tôi là một thương nhân; không phải theo nghĩa Scotland, nơi thương nhân tức là một người bán lẻ, chẳng hạn một người bán tạp phẩm trong hầm rượu, mà là theo lối người Anh, một nghĩa tuyệt đối độc quyền; nghĩa là, ông là người tham gia vào việc buôn bán ngoại quốc, và không có nghĩa nào khác; bởi vậy, chỉ buôn sỉ, và không gì khác - giới hạn cuối cùng của ý này rất quan trọng, bởi nó đưa ông vào diện được Cicero chiếu cố cách trịch thượng như một kẻ chắc chắn đáng khinh, nhưng không quá đáng đến nỗi ngay cả một thượng nghị sĩ La Mã cũng khinh miệt được. Ông - con người không hoàn toàn đáng khinh này - qua đời rất sớm, ngay sau khi các sự việc được ghi lại ở chương này diễn ra, để lại cho gia đình ông, lúc bấy giờ gồm một vợ và sáu con, một gia tài có thể giải phóng mọi gánh nặng với lợi tức hàng năm chính xác là một ngàn sáu trăm bảng. Bởi vậy, đương nhiên là vào thời điểm tôi bắt đầu thuật lại, - khi ông vẫn còn sống, - ông có một thu nhập lớn hơn rất nhiều, nhờ lợi nhuận của công việc buôn bán lúc bấy giờ. Giờ đây, với bất cứ ai đã quen với cuộc sống thương mại ở Anh, thật dễ thấy rằng trong một gia đình Anh giàu có ở tầng lớp ấy - giàu có, dù không hẳn là giàu theo định giá của ngành thương mại - kinh tế gia đình chắc chắn vận hành ở một quy mô nào đó vốn hoàn toàn không thể thấy nơi các tầng lớp tương đương ở ngoại quốc. Chẳng hạn việc có người hầu trong những ngôi nhà như vậy, ngay cả khi so sánh về số lượng với cơ ngơi ở các quốc gia khác, cũng phần nào làm một người định giá ngoại quốc ngạc nhiên, đơn giản chỉ là để hiểu vị thế tương đối của thương gia người Anh trong xã hội. Nhưng cùng cơ sở này, khi được đo lường dựa trên chất lượng và số lượng các tiện nghi được cung cấp để mang lại sự thoải mái hay thậm chí là chỗ ở lịch sự, sẽ khiến anh ta kinh ngạc gấp đôi, bởi nó phản ánh cả giá trị trong xã hội của thương gia người Anh, cũng như giá trị xã hội của người hầu Anh; bởi vì, theo nghĩa chân thực nhất, nước Anh là thiên đường của những người hầu trong gia đình. Lối sống xa hoa trong gia đình, trên thực tế, còn tự mở rộng đến cả các người hầu thấp kém nhất, cùng với sự khinh thường những thói keo bẩn nhỏ nhặt, là điểm đặc trưng của nước Anh. Và về mặt này các gia đình của thương gia Anh, xét về mặt tầng lớp, vượt xa mức chi tiêu phổ biến, không chỉ trong các tầng lớp tương ứng ở các nước lục địa, mà còn trong cả các lớp quý tộc nghèo hơn của nước ta - dù phải thừa nhận rằng họ là những nhà tráng lệ bậc nhất ở châu Âu; đó là một sự thực mà từ hồi thơ ấu, tôi đã có nhiều dịp tự mình xác minh ở Anh và ở Ireland. Xuất phát từ sự bất thường đặc thù này, vốn ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của các thương gia Anh, nảy sinh sự xáo trộn trên thang đo thông thường để đánh giá quan hệ thứ bậc. Có thể nói, sự tương quan giữa thứ bậc và các biểu hiện thông thường của thứ bậc, thường song hành với các mức chi tiêu, ở đây bị gián đoạn và đảo lộn, đến mức có một bậc được xác định bởi tên nghề nghiệp, và một bậc khác, cao hơn nhiều, được xác định bởi sự xa hoa của chi tiêu gia đình. Bởi vậy tôi báo trước cho độc giả (hay đúng hơn thì lời giải thích của tôi đã làm thế rồi), rằng anh ta không nên suy luận, từ bất kỳ dấu hiệu ngẫu nhiên nào của sự xa hoa hay sang trọng, mà xác định một thứ bậc tương ứng.

Chúng tôi, những đứa con trong nhà, thực sự đứng ở một thứ hạng vô cùng hạnh phúc trong hệ thống xã hội, nơi đón nhận mọi sự ảnh hưởng tốt đẹp. Lời cầu nguyện của Agur - “Xin cho con không nghèo đói cũng chẳng dư giả” - đã được ứng nghiệm với chúng tôi. Phúc lành chúng tôi được hưởng, không quá cao cũng chẳng quá thấp. Đủ cao để chúng tôi được thấy hình mẫu các cung cách tốt đẹp, của lòng tự trọng, và của phẩm cách giản dị; đủ khiêm nhường để được sống trong niềm cô độc ngọt ngào nhất. Được trang bị mọi tiện nghi cao quý của sự giàu có, với những phương tiện thượng hạng cho sức khỏe, cho văn hóa trí tuệ và sự hân hưởng thanh nhã, mặt khác, chúng tôi chẳng hề biết đến những phân biệt xã hội của nó. Không bị suy sụp bởi ý thức về những thiếu thốn quá tồi tàn, không bị cám dỗ trở nên liều lĩnh bởi ý thức về những đặc quyền cao vời, chúng tôi không có động cơ để xấu hổ, chúng tôi cũng không có gì để kiêu ngạo. Tôi cũng biết ơn giờ phút này, rằng giữa sự xa hoa của tất tật mọi thứ khác, chúng tôi được rèn theo lối sống giản dị kiểu người Sparta - thực tế là chúng tôi ăn uống kém xa so với những người hầu. Và nếu (theo gương Hoàng đế Marcus Aurelius) tôi phải tạ ơn Thượng Đế vì tất tật những phước lành trong thời thơ ấu của mình, bốn điều này tôi chọn ra để ghi nhớ đặc biệt - tôi sống trong sự cô độc thô sơ; sự cô độc này là ở nước Anh; những tình cảm thơ ấu của tôi được khuôn định bởi những người chị dịu dàng nhất, và không phải bởi anh trai quá quắt, hiếu chiến; cuối cùng, tôi và họ là những thành viên biết tôn kính và biết yêu của một giáo hội trong sạch, thánh thiện, và diễm lệ.

* * * * *

Những sự tình cờ sớm nhất xảy ra trong đời tôi, để lại những vết chích sâu trong ký ức khiến tôi còn nhớ đến tận hôm nay, là hai sự việc này, và cả hai đều xảy ra trước khi tôi tròn hai tuổi; đó là, thứ nhất, một giấc mơ kỳ lạ về người vú nuôi yêu quý, nó đáng quan tâm đôi với tôi vì lý do này - chứng tỏ rằng khuynh hướng nằm mơ của tôi là thuộc về thể tạng, và không phụ thuộc vào thuốc phiện [laudanum]; và, thứ hai, việc tôi tự liên hệ đến một nỗi xúc động sâu sắc mỗi lần xuất hiện trở lại, vào sớm mùa xuân, của hoa nghệ tây. Tôi đề cập đến điều này như một sự không thể giải thích được: bởi sự hồi sinh của cây và hoa chỉ tác động đến chúng ta như các kỷ niệm, hoặc gợi ý về một sự thay đổi cao hơn nào đó, và bởi vậy liên quan đến ý về cái chết; thế nhưng về cái chết, vào thời điểm ấy, tôi hoàn toàn không có bất kỳ kinh nghiệm nào.

Tuy vậy, tôi đã nhanh chóng có được kinh nghiệm ấy. Hai người chị của tôi - hai trong ba người chị vẫn còn sống lúc ấy, và đều lớn hơn tôi - đã được gọi đi từ sớm. Người đầu tiên qua đời là Jane, lớn hơn tôi khoảng hai tuổi. Chị lúc ấy ba tuổi rưỡi, còn tôi một tuổi rưỡi, hơn kém chút ít mà tôi không nhớ rõ. Nhưng lúc ấy cái chết hầu như không thể hiểu được đối với tôi, và tôi không thể nói là mình đau đớn mà chỉ là một nỗi bối rối buồn bã. Cũng có một cái chết khác xảy ra trong nhà vào khoảng thời gian ấy, đó là bà ngoại tôi; nhưng, bởi bà đến ở với chúng tôi vì mục đích rõ ràng là để qua đời trong vòng tay con gái bà, và bởi đau yếu nên bà sống hoàn toàn khép kín, những đứa trẻ chúng tôi biết rất ít về bà, và chắc chắn còn xúc động hơn trước cái chết (mà tôi đã chứng kiến) của một con chim xinh đẹp, cụ thể hơn, một con chim bói cá bị thương trong một tai nạn. Cái chết của chị Jane (dù rằng, như tôi đã nói, không gây đau buồn nhiều hơn hoang mang), tuy vậy, lại gắn liền với một sự việc gây ra ấn tượng khủng khiếp nhất cho chính tôi, làm sâu sắc thêm khuynh hướng ngẫm nghĩ và cái nhìn trừu tượng vượt xa những gì có vẻ hợp lý hơn đối với lứa tuổi của tôi. Nếu có một điều trên thế giới này mà, hơn bất cứ điều gì khác, tự nhiên đã buộc tôi phải nổi dậy, thì đó chính là tính hung tợn và bạo lực. Lúc bấy giờ, có lời xì xào bàn tán nổi lên trong nhà rằng một người hầu gái, do vô tình bị ngắt khỏi nhiệm vụ chính của cô ta để chăm sóc chị Jane của tôi một hoặc hai ngày, đã thỉnh thoảng đối xử với chị rất khắc nghiệt, nếu không muốn nói là tàn bạo; và vì sự ngược đãi này xảy ra chỉ ba hoặc bốn hôm trước khi chị mất, nguyên nhân của nó hẳn là do sự khó ở nào đó của đứa bé tội nghiệp phải chịu những cơn đau đớn, đương nhiên một cơn kinh hãi và tức giận lan khắp gia đình. Tôi tin rằng câu chuyện này chưa bao giờ đến tai mẹ tôi, và có lẽ nó đã bị phóng đại; nhưng đối với tôi tác động của nó thật khủng khiếp. Tôi không thường xuyên gặp người bị buộc cho sự tàn ác này; nhưng, hễ tôi gặp, mắt tôi lại nhìn xuống đất; tôi cũng không chịu được việc nhìn vào mặt cô ta; tuy vậy, dẫu sao đi nữa, như thế không thể gọi là tức giận. Cảm giác ập đến với tôi là một nỗi kinh hãi rùng mình, như thể một tia thoáng qua đầu tiên hé lộ rằng tôi sống trong một thế giới đầy rẫy cái ác và xung đột. Dù sinh ra trong một thành phố lớn, (thành phố Manchester, khi ấy vẫn thuộc hàng lớn nhất trên đảo), tôi đã trải qua toàn bộ thời thơ ấu của mình, ngoại trừ vài tuần đầu đời, trong một sự cô lập ở vùng nông thôn. Với ba chị gái ngây thơ làm bạn chơi cùng, luôn ngủ cùng nhau, và mãi mãi bị nhốt trong một khu vườn im lặng đóng kín trước mọi hiểu biết về nghèo đói, áp bức hay xúc phạm, cho đến khoảnh khắc ấy tôi đã chẳng hề nghi ngờ gì về dáng vẻ thực của thế giới mà bản thân tôi và các chị tôi đang sống. Từ đó trở đi các ý nghĩ của tôi thay đổi rất nhiều; bởi một số hành vi vô cùng đặc trưng thành thử chỉ cần một trường hợp duy nhất thuộc loại ấy cũng đủ đở mở toang trước bạn toàn bộ sân khấu các khả thể theo hướng ấy. Tôi chưa bao giờ biết được người phụ nữ bị cáo buộc về sự tàn nhẫn kia có bao giờ mảy may xúc động, ngay cả khi sự việc nối liền ngay sau đó đã mang lại cho nó một nhấn mạnh đau đớn hơn. Nhưng về phần tôi, sự việc ấy có một sức mạnh mang tính cách mạng lâu dài trong việc định hình sự đánh giá của tôi về cuộc sống.

Vậy là đã rời bỏ trần gian một trong ba người chị tạo thành nhóm bạn chơi cùng thời thơ ấu của tôi; và như thế kinh nghiệm của tôi (nếu nó có thể được gọi như vậy) khởi đầu với cái chết. Thế nhưng, thật ra, tôi chẳng biết gì về cái chết ngoài việc Jane đã biến mất. Chị đã ra đi; nhưng có lẽ chị sẽ trở lại. Khoảng thời gian hạnh phúc của sự ngây thơ trời sinh! Sự miễn nhiễm đầy ân phúc của thời ấu thơ trước nỗi buồn chẳng hề tương xứng với sức mạnh của nó! Tôi buồn vì sự vắng mặt của Jane. Nhưng trong tim mình tôi tin rằng chị sẽ trở lại. Mùa hè và mùa đông cũng trở lại - hoa nghệ tây và hoa hồng cũng thế; sao Jane bé nhỏ lại không?

Như thế là vết thương đầu tiên trong trái tim thơ ấu của tôi dễ dàng lành lại. Nhưng vết thương thứ hai thì không. Vì chị, chị thân mến, Elizabeth cao quý, quanh vầng trán rộng của chị, mỗi khi nét mặt dịu dàng của chị hiện lên trong bóng đêm, em tưởng tượng ra một miện ngọc của ánh sáng hay một vầng hào quang rực rỡ như một biểu tượng cho sự trang nghiêm thuộc trí năng bừng nở sớm của chị, - đầu chị, bởi sự phát triển vượt bậc, khiến khoa học phải kinh ngạc, - chị là người kế tiếp, nhưng sau quãng những năm đầy hạnh phúc, được gọi đi khỏi vườn trẻ của chúng ta; và đêm, bao trùm lấy em sau sự kiện ấy, cứ thế bám theo bước chân em vào cuộc sống; và có lẽ cho đến ngày hôm nay em đã chẳng còn giống với kẻ mà dù tốt hay xấu lẽ ra em nên trở thành. Cây cột lửa đi trước dẫn lối và thôi thúc em, - cây cột bóng tối, khi dáng vẻ chị quay về với Chúa, đã hé lộ quá đỗi chân thực cho những e sợ đang ló dạng của em cái bóng bí ẩn của sự chết, - bằng sức hút huyền bí nào mà tim em lại hướng về chị? Liệu một đứa trẻ, sáu tuổi đầu, có thể coi trọng đặc biệt trí năng hùng mạnh ấy? Trí tuệ thanh thản và rộng bao la của chị tôi hiện lên trước tôi sau khi suy ngẫm, nhưng liệu đó có phải bùa mê đã đánh cắp trái tim của một đứa trẻ? Ôi, không! Giờ đây tôi nghĩ về việc ấy với sự chú tâm, bởi điều đó, đối với lỗ tai kẻ lạ, dường phần nào biện minh được cho sự yêu mến quá đỗi của tôi. Nhưng lúc bấy giờ trí tuệ ấy không được tôi chú ý; hoặc, nếu không phải là không nhận ra, thì cũng chỉ thấy được qua các hiệu ứng của nó. Nhưng dẫu chị có là một đứa ngốc, chị em hỡi, thì em vẫn yêu chị, bởi trái tim rộng lượng của chị - tràn đầy, cũng như trái tim em cũng tràn đầy, sự dịu dàng; đau nhói, cũng như trái tim em đau nhói, bởi nhất thiết phải yêu và được yêu. Chính điều đó đã choàng lên chị vẻ đẹp và sức mạnh.

 

 

“Tình yêu, cảm tri thiêng,
Món quà tuyệt diệu của Chúa, mãnh liệt nhất nơi chị.”

Nguồn sáng của thiên đường ấy, đối với em, được thắp lên bởi sự phản chiếu của ánh sáng sống động đã cháy lên thật kiên định trong chị; và chưa từng với ai khác ngoài chị, chưa từng một lần nào nữa kể từ khi chị ra đi, em có sức mạnh hay sự cám dỗ, có dũng khí hay lòng khao khát, để bày tỏ những xúc cảm đã chiếm lấy em. Bởi em là đứa trẻ bẽn lẽn nhất; và, ở mọi giai đoạn của cuộc đời, một cảm tri tự nhiên về phẩm giá cá nhân ngăn em để lộ dẫu chỉ một tia nhỏ nhất các xúc cảm mà em không hoàn toàn được khích lệ bày tỏ.

Không cần thiết phải truy cứu, theo lối thật tường tận, diễn biến căn bệnh đã mang đi người chỉ huy và người bầu bạn của tôi. Chị (theo trí nhớ của tôi lúc này) khi ấy sắp lên chín còn tôi lên sáu. Và có lẽ sự vượt trội tự nhiên về tuổi và óc suy xét, cùng với sự khiêm nhường dịu dàng khiến chị khước từ chẳng chịu khẳng định điều đó, bên cạnh những thứ khác là điều làm mê hoặc nơi hiện diện của chị. Chính trong một buổi tối Chủ nhật, nếu những phỏng đoán kia có thể tin được, tia lửa định mệnh đã đột ngột bùng lên châm ngòi chuỗi những khuynh hướng của một căn bệnh não vốn đã ngủ yên trong chị cho đến lúc ấy. Chị được phép đến uống trà ở nhà của một người làm công, cha của người hầu gái chị yêu quý. Mặt trời đã lặn khi chị trở về, cùng với người hầu gái kia, băng qua những bãi cỏ hầm hập hơi bốc lên sau một ngày nóng. Kể từ lúc ấy chị ngã bệnh. Trong hoàn cảnh như vậy, một đứa trẻ, còn rất nhỏ như tôi, chẳng hề thấy lo. Nhìn thấy đám bác sĩ như những người được đặc cách, và đương nhiên được giao nhiệm vụ, tham chiến chống lại căn bệnh và cơn đau, tôi chẳng hề nghi ngờ về kết quả. Tôi khổ tâm, thật vậy, khi thấy chị tôi phải nằm trên giường; tôi lại càng khổ tâm hơn nữa khi nghe tiếng chị rên rỉ. Nhưng tất tật những chuyện này đối với tôi dường chỉ như một đêm khó nhọc, rồi bình minh sẽ sớm đến. Ôi cái khoảnh khắc tăm tối và mê sảng, khi mà người vú già đánh thức tôi khỏi sự lừa dối kia, và giáng tia sét chí mạng vào tim tôi với lời đảm bảo rằng chị tôi CHẮC CHẮN chết! Người ta nói thật đúng về nỗi đau khổ tột cùng, đó là nó “không thể nhớ lại được.” Bản thân nó, như một thứ có thể nhớ được, đã bị nuốt chửng trong chính sự hỗn loạn của nó. Cơn hỗn loạn và rối bời tột cùng của tâm trí ập lên tôi. Tôi như điếc và mù, trong cơn quay cuồng trước sự tiết lộ ấy. Tôi không muốn nhớ lại hoàn cảnh lúc ấy, khi nỗi đau của tôi lên đến tột độ, và nỗi đau của chị, theo một nghĩa khác, cũng sắp chạm đến đỉnh. Chỉ cần nói rằng mọi chuyện đã nhanh chóng kết thúc là đủ; và, ánh sáng buổi sớm mai của cái ngày rốt cuộc cũng phải đến ấy rọi xuống khuôn mặt ngây thơ của chị, đang ngủ giấc ngủ chẳng bao giờ còn tỉnh lại, và rọi xuống tôi kẻ đang đau nỗi đau chẳng gì có thể xoa dịu được.

Vào ngày hôm sau ngày chị tôi chết, trong khi ngôi đền dịu dàng của bộ não chị vẫn chưa bị xâm phạm bởi sự dò xét của con người, tôi đã tự mình lên kế hoạch để gặp chị thêm một lần nữa. Chẳng ai trên đời tôi có thể cho biết kế hoạch này, cũng không thể để bất kỳ nhân chứng nào đi cùng tôi. Tôi chưa từng nghe nói đến loại cảm xúc nào được gọi bằng cái tên “đa cảm,” cũng chẳng mơ về một khả năng như vậy. Nhưng nỗi đau buồn, ngay cả của một đứa bé, cũng ghét ánh sáng, và lẩn tránh ánh mắt con người. Ngôi nhà đủ lớn để có hai cầu thang; và theo lối một trong hai thang ấy tôi biết rằng vào khoảng giữa trưa, khi tất tật đã yên tĩnh, (bởi người hầu ăn trưa lúc một giờ,) tôi có thể lẻn vào phòng chị. Tôi đồ rằng khi tôi đến được trước cửa thì đã là một tiếng đồng hồ sau giữa trưa: cửa bị khóa, nhưng chìa vẫn còn ở đó. Bước vào trong, tôi đóng cửa lại thật khẽ, đến nỗi, dù cánh cửa ấy mở ra một sảnh thông với tất cả các tầng, không một tiếng vang nào trên khắp các bức tường im lặng. Thế rồi, xoay người lại, tôi tìm kiếm khuôn mặt chị. Nhưng cái giường đã bị dịch chuyển, và đầu giường xoay lưng về phía tôi. Chẳng có gì lọt vào mắt tôi ngoài khung cửa sổ lớn, mở toang, xuyên qua đó ánh sáng mặt trời giữa mùa hè, lúc giữa trưa, đang trút xuống dòng thác rực rỡ ánh sáng. Thời tiết khô ráo, trời không mây, màu thiên thanh sâu thẳm kia dường là hiện thân của cõi vô tận; và mắt chẳng thể nào thấy được, hay trái tim chẳng thể nào hiểu được, bất kỳ biểu tượng nào bi thương hơn thế về cuộc sống và vẻ huy hoàng của cuộc sống.

Cho phép tôi tạm dừng việc chạm đến ký ức gây xúc động tâm trí tôi ấy, để nhắc lại, việc, trong lời thú tội về thuốc phiện, tôi đã cố gắng giải thích lý do tại sao cái chết, trong cùng một hoàn cảnh, lại gây ảnh hưởng sâu sắc vào mùa hè hơn các thời điểm khác trong năm - ít nhất là trong phạm vi có khả năng bị thay đổi do các yếu tố ngẫu nhiên về cảnh quan hoặc mùa. Lý do, như tôi đã gợi ý ở đó, nằm ở sự đối lập giữa vẻ thừa mứa hầm hập của sự sống vào mùa hè và vẻ cằn cỗi giá lạnh của nấm mồ. Mùa hè chúng ta nhìn thấy được, còn nấm mồ lại ám lấy ý nghĩ chúng ta; vẻ rực rỡ ở xung quanh chúng ta, bóng tối bên trong chúng ta; và, khi hai thứ đó va vào nhau, cái này làm nổi bật cái kia thật mạnh. Nhưng, trong trường hợp của tôi, còn có một lý do tinh tế hơn giải thích tại sao mùa hè có sức mãnh liệt đến vậy trong việc làm sống động cảnh tượng hay các ý nghĩ kia về cái chết. Và, khi nhớ lại, tôi chợt nhận ra một sự thật, rằng phần lớn các ý nghĩ và cảm xúc sâu nhất đến với chúng ta thông qua sự kết hợp đầy phức tạp của các vật cụ thể, đến với chúng ta giống như các xoắn ốc (nếu tôi có thể dùng từ ấy) của những kinh nghiệm trộn lẫn vào nhau không thể gỡ rời được, hơn là chạm đến chúng ta cách trực tiếp, trong dáng vẻ mơ hồ của bản thân chúng. Chuyện là, trong bộ sưu tập bao la sách của vườn ươm chúng tôi có một quyển Kinh Thánh, với rất nhiều tranh minh họa. Và trong những buổi tối dài mờ mịt của chúng tôi, khi ba người chị, cùng với tôi, ngồi bên đống lửa được vây lại bởi rào chắn bảo vệ trong phòng trẻ của chúng tôi, không quyển sách nào chúng tôi yêu quý hơn quyển Kinh Thánh ấy. Quyển sách thống trị chúng tôi và cuốn hút chúng tôi theo cách bí ẩn giống như âm nhạc. Chị vú em trẻ, mà tất tật chúng tôi yêu mến, sẽ thỉnh thoảng, bằng hết khả năng giản dị của chị ta, cố giải thích những điều chúng tôi thấy khó hiểu. Chúng tôi, những đứa trẻ, tất tật theo cách rất tự nhiên đều trở nên trầm tư: bóng tối chập chờn và các mảng sáng thảng hoặc lướt nhẹ của ánh lửa trong căn phòng phù hợp với tâm trạng buổi tối của chúng tôi; và như thế cũng phù hợp với những mặc khải thiêng về quyền năng và cái đẹp huyền bí mà chúng tôi vốn kinh sợ. Trên hết, câu chuyện về một người công chính, - là người, nhưng không thuộc về loài người, thực hơn hết mọi sự, nhưng cũng mờ ảo hơn hết mọi sự, - đã chịu khổ nạn ở Palestine, ngủ yên trong tâm trí chúng tôi như bình minh sớm mai ngự trên mặt nước. Chị vú em biết và giải thích cho chúng tôi những điểm khác biệt chính của khí hậu phương Đông; và tất cả những khác biệt này (như người ta vẫn nói) đều tự thể hiện, dẫu ít hay nhiều, qua những liên hệ đủ loại với các thuộc tính và khả năng tuyệt diệu của mùa hè. Ánh mặt trời không vẩn mây của Syria - dường như chúng nói về mùa hè bất tận; các môn đệ hái bông lúa mì - đó chắc chắn là mùa hè; nhưng, trên hết, chính cái tên Chúa nhật Lễ Lá [Palm Sunday] ám ảnh tôi như một bài thánh ca. “Chúa nhật!” đó là gì? Đó là ngày của bình yên che phủ một bình yên khác còn sâu hơn cả điều mà trái tim con người có thể hiểu được. “Lá!” là gì vậy? Đó là một từ mơ hồ; lá cọ, theo nghĩa chiến lợi phẩm, thể hiện sự huy hoàng của cuộc sống; lá cọ, như một sản phẩm của tự nhiên, sự huy hoàng của mùa hè. Tuy vậy ngay cả lời giải thích này cũng không thỏa đáng; không chỉ có mỗi sự bình yên và mùa hè, còn có cả âm thanh sâu thẳm của ngơi nghỉ dưới tận cùng mọi ngơi nghỉ và của vẻ rực rỡ đang dâng lên, là thứ tôi bị ám ảnh. Đó còn bởi Jerusalem ở gần những hình ảnh sâu thẳm ấy cả về thời gian và không gian. Sự kiện trọng đại của Jerusalem đã gần kề khi Chúa nhật Lễ Lá diễn ra; và khung cảnh của ngày Chúa nhật ấy lại ở gần Jerusalem. Vậy thì Jerusalem là gì? Liệu tôi có tưởng tượng đó là rốn hay trung tâm vật lý của trái đất không? Tại sao điều đó lại ảnh hưởng đến tôi? Một điều đòi hỏi chính đáng như thế đã từng được đặt cho Jerusalem, và một lần khác cho một thành phố Hy Lạp; cả hai kỳ vọng ấy đều trở nên nực cười, khi hình ảnh của trái đất được sáng tỏ. Đúng; nhưng nếu không phải là trung tâm của trái đất, thì là của sự chết; đối với cư dân của trái đất, Jerusalem, giờ đã trở thành rốn và trung tâm tuyệt đối. Nhưng tại sao lại như vậy? Ở đó, ngược lại, theo như những đứa trẻ chúng tôi hiểu, cái chết đã bị đạp xuống dưới chân. Đúng vậy; nhưng, cũng bởi chính lý do ấy, ở đó sự chết đã mở ra cái miệng hố ảm đạm nhất của nó. Chính tại đó, quả thật, con người đã trỗi dậy với đôi cánh từ dưới nấm mồ; nhưng, cũng chính vì vậy, ở đó cái thiêng đã bị nuốt chửng xuống vực sâu; ngôi sao nhỏ không thể trỗi lên trước khi ngôi sao lớn bị che khuất. Mùa hè, bởi vậy, đã gắn liền bản thân nó với cái chết, không chỉ như một hình thức của sự đối lập, mà còn như một hiện tượng được gắn liền cách mật thiết với sự chết bởi khung cảnh và các sự kiện trong kinh thánh.

Ra khỏi đoạn ngoại đề này, vốn có mục đích trình bày như thế nào mà những xúc cảm của tôi và hình ảnh của cái chết đã bện chặt theo lối không thể tách rời vào mùa hè ấy, cũng như được liên hệ với Palestine và Jerusalem, hãy trở lại phòng ngủ của chị tôi. Dưới ánh sáng rực rỡ ấy tôi quay sang thi thể. Ở đó là hình dáng trẻ thơ dịu dàng; ở đó là gương mặt thiên thần; và, như thường được tưởng tượng, người trong nhà nói với nhau rằng chẳng có nét nào thay đổi. Phải thế không? Vầng trán, quả thực, - vầng trán thanh thản và cao quý, - có thể vẫn còn nguyên vẹn; nhưng mi mắt đông cứng, bóng tối dường đã lẻn vào bên dưới, đôi môi cẩm thạch, đôi bàn tay cứng đờ, tay này đặt trên tay kia, như thể lặp lại những khẩn cầu của cơn đau sau chót, - liệu chúng có thể bị nhầm với sự sống? Nếu đúng là thế, sao tôi lại chẳng lao ngay đến đôi môi thiên đường ấy cùng với nước mắt và những nụ hôn bất tận? Nhưng không phải như vậy. Tôi đã đứng sững lại trong giây lát; nỗi kính sợ, chứ không phải khiếp hãi, ập lên tôi; và, trong khi vẫn đứng đó, một làn gió khoan thai bắt đầu nổi lên - làn gió buồn nhất mà tai tôi từng nghe thấy. Làn gió ấy hẳn đã quét lên những cánh đồng của sự chết qua một ngàn thế kỷ. Rất nhiều lần kể từ đó, vào những ngày hè, khi mặt trời sắp trở nên nóng nhất, tôi đã nhận thấy cùng một cơn gió nổi lên và phát ra cùng một âm thanh rỗng, khoan thai, như giọng trang nghiêm phát ra từ đầu tượng Memnon, nhưng vô cùng thánh thiện: đó là biểu tượng lớn có thể nghe được duy nhất của vĩnh cửu trên thế gian này. Và đã ba lần trong đời tôi tình cờ nghe được cùng một âm thanh ấy trong cùng hoàn cảnh - cụ thể là, khi đứng giữa một ô cửa sổ mở và một cơ thể chết vào một ngày mùa hè.

Ngay lập tức, khi tai tôi bắt được âm điệu Aeolian bao la này, khi mắt tôi ứ đầy sắc vàng kim viên mãn của sự sống, vẻ huy hoàng của bầu trời trên cao, hay sự rực rỡ của hoa dưới đất, và quay sang nhìn khi nó ngự xuống trên lớp sương giá phủ kín mặt chị tôi, ngay lập tức tôi rơi vào một cơn mê hồn. Một khung vòm dường mở ra trên cực đỉnh thiên thanh cao vợi, một cột trụ vọt lên cao mãi. Tôi, trong tâm hồn, dâng lên như thể trên những đỉnh sóng cũng vọt lên cột trụ kia mãi mãi; và các cuộn sóng dường như đuổi theo ngai cao của Chúa; nhưng ngai cao ấy luôn vượt xa chúng tôi và liên tục biến mất. Cuộc chạy trốn và đuổi theo ấy dường tiếp diễn vô cùng tận. Sương giá chồng chất sương giá, một cơn gió Sarsar đầy chết chóc, dường cố đẩy lùi tôi; một mối liên hệ hùng mạnh nào đó giữa Chúa và sự chết đấu tranh ngầm để tự hình thành giữa sự đối lập khủng khiếp; các ý nghĩa mờ ảo không ngừng ngăn trở và giày vò, trong giấc mơ, việc giải mã lời sấm tiên tri diễn ra trong tôi. Tôi ngủ - chẳng biết bao lâu: dần dần tôi lấy lại được sự tự chủ; và, khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đứng, vẫn như trước, bên giường chị tôi.

Tôi có lý do để tin rằng một quãng rất lâu đã trôi qua trong lúc diễn ra cuộc lang thang hoặc đình chỉ hoạt động tâm trí hoàn hảo của mình. Khi tôi trở lại với chính mình, có tiếng bước chân (hoặc tôi tưởng là vậy) trên cầu thang. Tôi hoảng sợ; bởi vì, nếu bất kỳ ai phát hiện ra, bằng mọi cách người ta sẽ ngăn tôi quay trở lại. Bởi vậy, hết sức vội vã tôi hôn lên đôi môi tôi sẽ không bao giờ còn được hôn nữa, và lẩn lút, như một kẻ có tội, với những bước rón rén rời khỏi phòng. Thế là đã lụi tàn viễn cảnh ấy, đẹp đẽ nhất trong tất tật những gì trần gian hé lộ với tôi; thế là đứt đoạn sự chia ly hẳn phải kéo dài mãi mãi; thế là nỗi sợ đã vấy bẩn lời vĩnh biệt thiêng liêng với tình yêu và nỗi đau, tình yêu tuyệt diệu và nỗi đau không thể chữa khỏi.

Hỡi Abasuerus, người Do Thái bất diệt! [nhân vật truyền thuyết người Do Thái đã từ chối để Chúa Jesus nghỉ lại khi vác Thánh giá lên đồi Calvary, bị Chúa đáp lại bằng lời nguyền phải bất tử và lang thang cho đến ngày phán xét cuối cùng],  dù có là chuyện hoang đường hay không, ngươi, khi khởi đầu cuộc hành hương bất tận của nỗi thống khổ, - ngươi, khi lần đầu tiên chạy trốn qua cổng thành Jerusalem, và khao khát trong tuyệt vọng bỏ lại lời nguyền đuổi theo sau lưng ngươi, - cũng không thể nào đọc được định mệnh về nỗi khốn khổ bất tận, theo cách chắc chắn hơn, trong lời của Chúa, so với ta khi rời khỏi mãi mãi căn phòng của chị ta. Sâu mọt trong tim tôi; và, tôi có thể nói, sâu mọt ấy chẳng bao giờ chết. Con người chắc chắn trước sau như một bởi mối liên hệ tinh tế nào đó, một hệ thống nào đó của các mắt xích, mà chúng ta không thể nhận thức được, kéo dài từ trẻ sơ sinh cho đến người già lẩm cẩm; nhưng, xét về các tình cảm và dục vọng vốn gắn liền với bản tính tự nhiên ở các giai đoạn khác nhau, con người không phải như thế, mà là một sinh vật thỉnh thoảng gián đoạn, kết thúc và bắt đầu lại: sự đồng nhất của con người, về mặt này, chỉ trải rộng trong phạm vi một giai đoạn cụ thể mà dục vọng kia tồn tại. Một số dục vọng, như tình yêu thể xác, thiêng liêng ở một nửa căn nguyên của chúng, bản năng và trần tục ở nửa còn lại. Những dục vọng ấy sẽ không tồn tại lâu hơn giai đoạn của riêng của chúng. Nhưng tình yêu, vốn thiêng liêng trọn vẹn, như tình yêu của hai đứa trẻ, được đặc ân quay trở lại qua những thoáng hiện trong sự  im lặng và trong cảnh tối tăm của những năm úa tàn; và, có thể, kinh nghiệm cuối cùng này ở phòng ngủ của chị tôi, hoặc một kinh nghiệm nào đó mà sự ngây thơ của chị dự phần, sẽ lại hiện ra với tôi để soi tỏ mây mù của sự chết.

Vào ngày tiếp theo cái ngày xảy ra sự việc tôi vừa kể lại ấy xuất hiện một nhóm bác sĩ đến xem xét não và bản chất đặc thù của căn bệnh, bởi qua một vài triệu chứng nó đã cho thấy những điểm dị thường khó hiểu. Một giờ sau khi những người lạ kia rút lui, tôi lại lẻn vào phòng; nhưng cánh cửa giờ đã bị khóa, chìa khóa bị đem đi, và tôi bị nhốt bên ngoài mãi mãi.

Rồi sau đó đến lễ tang. Tôi, theo nghi thức có tư cách là người khóc than, được đưa đến đó. Tôi được đặt vào một cỗ xe cùng với vài quý ông mà tôi không quen. Họ tử tế và ân cần với tôi; nhưng theo lẽ tự nhiên họ nói về những chuyện không liên quan đến dịp này, và cuộc trò chuyện của họ là cả một nỗi dày vò. Ở nhà thờ, tôi được bảo phải lấy một khăn tay trắng đưa lên mắt. Cái trò giả tạo trơ trẽn! Đứa bé ấy thì cần gì đến những cái mặt nạ hay nhạo báng, khi mà trái tim đã chết lặng bên trong ngay trước mỗi lời thốt ra? Suốt phần lễ nghi diễn ra trong nhà thờ, tôi đã rất cố gắng để tập trung; nhưng tôi cứ tiếp tục chìm xuống lại bóng tối cô độc của riêng mình, và hầu chẳng nghe thấy gì, ngoại trừ vài giai điệu mỏng manh thoáng hiện của chương thánh kinh tuyệt diệu của thánh Phao-lô, mà ở Anh luôn được đọc trong lễ tang.

Cuối cùng đến nghi thức trang trọng giáo hội Anh cử hành bên huyệt mộ; bởi giáo hội này không bỏ rơi chị tôi chừng nào họ còn đứng bên trên, và chờ đợi “lời vĩnh biệt dịu dàng và trang nghiêm” cuối cùng bên cạnh mộ. Một lần nữa, cũng là lần cuối, quan tài được phơi ra kia. Tất tật mọi con mắt đều dõi theo dòng chữ viết tên, giới, tuổi, và ngày lìa trần - những dòng mờ ảo quá đỗi! và chìm vào bóng tối như thể những thông điệp gửi lại cho giòi bọ. Gần đến phút cuối cùng nghi thức mang tính biểu tượng mới diễn ra, xé toạc và làm tan nát trái tim với những tiếng bắn vang dội, lần lượt từng hồi, của loạt súng cuối cùng của nỗi đau. Cỗ quan tài từ từ được hạ xuống nơi an nghỉ; nó biến mất khỏi mọi ánh nhìn ngoại trừ những con mắt đang nhìn xuống đáy huyệt mộ. Người giữ đồ thánh đứng sẵn sàng, với cái xẻng để xúc đất. Giọng linh mục một lần nữa lại vang lên, - đất về với đất, - và ngay lập tức tiếng lộc cộc kinh hoàng vang lên trên nắp quan tài; tro về với tro - và âm thanh chết chóc kia lại được nghe thấy; bụi về với bụi - và loạt đạn tiễn biệt báo hiệu rằng ngôi mộ, cỗ quan tài, khuôn mặt, tất cả đã bị niêm phong mãi mãi.

Hỡi đau buồn! Nghệ thuật của ngươi được xếp vào hàng các dục vọng làm nản lòng. Và quả thật ngươi hạ xuống tận bụi đất, nhưng cũng nâng lên tận mây. Ngươi run rẩy như sốt rét, nhưng ngươi cũng rắn chắc như băng. Ngươi làm trái tim nhiễm bệnh, nhưng ngươi cũng chữa khỏi những yếu nhược của nó. Một trong những điểm nổi bật nhất của tôi là sự nhạy cảm đến mức bệnh hoạn với sự xấu hổ. Và, mười năm sau đó, tôi thường tự trút lên mình sự trách móc về khuyết điểm ấy dưới hình thức này, đó là, nếu tôi được gọi đến để giúp một đồng loại đang hấp hối, và chỉ có thể thực hiện được việc ấy bằng cách đối mặt với một đám đông rất nhiều những bản mặt đang chế giễu hoặc chỉ trích, hẳn là tôi, rất có thể, sẽ hèn hạ mà lẩn tránh nhiệm vụ ấy. Thật sự thì chưa từng có trường hợp nào như vậy xảy ra; thế nên đó chỉ thuần là sự lãng mạn của ngụy biện để tự chê trách mình về sự hèn nhát rất chướng ấy. Nhưng, cảm thấy một nghi ngờ, cũng là cảm thấy sự kết tội; và đó hẳn là tội, trong mắt tôi, đó chính là tội. Giờ đây, dẫu thế nào đi nữa, mọi thứ đã thay đổi; và đối với bất cứ điều gì gợi nhắc đến ký ức về chị tôi, chỉ sau một chốc tôi đã có một trái tim mới. Một lần nọ ở Westmoreland tôi đã chứng kiến một trường hợp tương tự. Tôi thấy một con cừu cái bỗng nhiên cự tuyệt và rũ bỏ bản tính của nó, để dâng hiến cho tình yêu - đúng vậy, lột ra hoàn toàn hệt như con rắn lột da. Con cừu non của nó bị rớt xuống một hố sâu, dưới đó không cách nào thoát ra được nếu không có sự trợ giúp của con người. Và con cừu cái tiến đến chỗ một người nọ, kêu be be inh ỏi, cho đến khi người kia đi theo nó và cứu đứa con yêu dấu của nó. Sự thay đổi của bản thân tôi chẳng hề kém như vậy. Năm vạn khuôn mặt chế giễu giờ đây cũng chẳng thể ngăn cản bất kỳ sự ân cần dịu dàng nào của tôi đối với ký ức về chị tôi. Mười đạo quân cũng không ngăn cản được tôi đi tìm chị, giả như có một cơ may nào để chị có thể được tìm thấy. Sự chế giễu! nó chẳng làm gì được tôi nữa. Kẻ cười cợt! tôi chẳng hề coi trọng. Và khi tôi bị nhạo lối cố tình xúc phạm vì “khóc như con gái,” cụm “như con gái” ấy chẳng hề là một vết chích, mà như tiếng vọng đến một suy nghĩ vĩnh cửu của trái tim tôi - một bé gái là điều dịu dàng nhất mà tôi, trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, từng được biết; chính một bé gái đã choàng lên thế gian cái đẹp, và mở ra cho cơn khát của tôi nguồn suối tình yêu thuần khiết thiêng liêng, ở đó, trong thế giới này, chẳng bao giờ tôi còn được uống nữa.

Giờ đây bắt đầu mở ra những niềm an ủi của nỗi cô độc, những niềm an ủi dành riêng cho mình tôi nếm; giờ đây, bởi thế, bắt đầu mở ra trước tôi sự mê hoặc của nỗi cô độc, thứ, khi hoạt động như một tác nhân đồng thời với nỗi đau buồn bất khả kháng, dẫn đến kết quả đầy nghịch lý bởi biến chính nỗi đau ấy thành một sự diễm lệ; một sự diễm lệ như thế rốt cuộc trở thành một cái bẫy, treo lơ lửng ở đó cuộc sống, và những tiềm năng của cuộc sống, bằng những mối đe dọa ngày càng tăng thêm. Mọi cảm xúc sâu sắc của một nhóm con bệnh mãn tính đồng thuận với nhau ở điểm này, đó là họ tìm kiếm sự cô độc và được nuôi dưỡng bởi sự cô độc. Nỗi đau sâu thẳm, tình yêu sâu thẳm, thật tự nhiên quá đỗi sự liên kết bản thân chúng với xúc cảm tôn giáo! Và cả ba - tình yêu, nỗi đau, tôn giáo - đều là những kẻ năng lui tới những chốn cô độc. Tình yêu, nỗi đau, và bí ẩn của lòng sùng kính, - những thứ ấy sẽ ra sao nếu không có nỗi cô độc? Suốt cả ngày dài, khi không còn là việc bất khả với tôi nữa, tôi tìm đến những cái hốc khuất nẻo và yên tĩnh nhất trong khuôn viên quanh ngôi nhà hoặc trên những cánh đồng lân cận. Sự tĩnh mịch quá đỗi thường thấy ở các trưa hè, khi không một làn gió thoảng, sự im lặng quyến rũ của những buổi trưa xám hoặc mù sương, - những điều ấy làm mê hoặc như thể có phép phù thủy. Tôi nhìn, vào sâu trong rừng, sâu trong sa mạc không khí, như thể sự an ủi nào lẩn khuất ở đó. Tôi làm mệt nhoài cả bầu trời với cuộc điều tra bằng ánh nhìn cầu khẩn. Hết sức ngoan cố tôi dày vò những vực thẳm màu lam kia bằng sự dò xét ráo riết, mãi mãi quét qua chúng ánh nhìn của mình, tìm kiếm ở chúng một khuôn mặt thiên thần chắc hẳn sẽ được phép hiện ra trong chốc lát.

Vào thời điểm ấy, và dưới sự thôi thúc của nỗi đau háu đói, để vồ lấy thứ vốn không thể có được, cái khả năng tạo ra hình ảnh từ xa bằng những yếu tố thoáng qua, nhóm chúng lại theo khát khao của trái tim, đã phát triển trong tôi đến mức thái quá bệnh hoạn. Và ngay lúc này tôi nhớ lại một ví dụ về việc ấy, có thể cho thấy rằng chỉ cần vài mảng tối, hoặc một ánh lập lòe sáng, hoặc chẳng có gì cả, cũng có thể tạo nên nền tảng đủ vững chắc cho khả năng sáng tạo này.

Vào các buổi sáng Chủ nhật tôi cùng gia đình đến nhà thờ: đó là một nhà thờ xây theo lối cổ của Anh, có đủ các gian bên, các gallery, đàn ống, tất tật đều cổ kính và trang nghiêm, và tầm vóc thật uy nghi. Ở đây, khi cộng đoàn đang quỳ và đọc bài kinh dài, mỗi lần đọc đến đoạn ấy, một đoạn tuyệt đẹp giữa rất nhiều những đoạn khác, cầu xin Chúa cho “tất cả những người bệnh và trẻ nhỏ,” và xin ngài “rủ lòng thương hết thảy tù nhân và kẻ bị giam cầm,” tôi thầm khóc; và ngước đôi mắt đẫm lệ lên các cửa sổ của gallery, vào những ngày mặt trời rọi sáng, tôi thấy một cảnh tượng xúc động đến nỗi không một nhà tiên tri nào có thể chứng kiến. Các cửa sổ được phủ kín bởi rất nhiều ô kính; qua các ô màu tím sẫm và đỏ thắm ấy dòng ánh sáng vàng rực tràn qua; sự rực rỡ của ánh sáng thiên đường (bởi mặt trời chiếu rọi) hòa quyện vào sự rực rỡ trần thế (bởi nghệ thuật và màu sắc tuyệt đẹp) của những gì cao cả nhất nơi con người. Đó là các vị tông đồ đã đạp lên đất, và lên vinh quang của đất, vì tình yêu thiêng liêng dành cho con người. Đó là các vị tử đạo đã làm chứng cho chân lý giữa lửa, giữa cực hình, và giữa các đội quân đầy những vẻ mặt hung tợn, phỉ báng. Đó là các vị thánh, trong cơn khốn khổ khôn xiết, đã tôn vinh Chúa bằng sự phục tùng ý ngài. Và trong suốt lúc ấy, khi tiếng náo động của những đài tưởng niệm uy nghi này vẫn tiếp diễn cùng với các âm trầm đệm theo, tôi nhìn thấy qua ô kính lớn trung tâm của cửa sổ, nơi gắn kính không màu, những dải mây trắng, tơi xốp đang trôi qua các tầng sâu xanh thẳm của bầu trời: chỉ cần một mẩu hay một vệt rất nhỏ về một đám mây như vậy, ngay lập tức dưới lóe chớp ánh mắt u buồn khôn nguôi của tôi, nó dần lớn lên và tự khuôn thành ảo ảnh những cái giường và những rèm rủ trắng muốt; và nằm trên đó là những đứa trẻ bệnh, đang hấp hối, quằn quại trong đau đớn và khóc thảm thiết chờ chết. Chúa, bởi một lý do bí ẩn nào đó, không thể đột ngột giải thoát chúng khỏi đau đớn; nhưng ngài đã để cho những cái giường ấy, trông hệt như vậy, chầm chậm bay xuyên qua các đám mây; chầm chậm chúng bay vào những căn phòng không khí; cũng chậm như thế, tay ngài hạ xuống từ trời, để ngài được sớm gặp lại những đứa trẻ, mà ở Palestine, một lần và muôn đời, ngài đã ban phúc, dẫu chúng phải thật chậm trải qua vực thẳm chia cách khủng khiếp. Những ảo ảnh này duy trì liên tục. Những ảo ảnh này chẳng cần bất kỳ âm thanh nào để nói với tôi, hay bất kỳ âm nhạc nào để khuôn định cảm xúc của tôi. Thoáng gợi từ lời cầu nguyện, mảnh rời của cụm mây, - những thứ ấy cùng các ô kính cửa sổ là đã đủ. Nhưng dẫu vậy tiếng gay gắt của cỗ đàn ống huyên náo cũng trổ ra những tác phẩm riêng của nó. Và nhiều lần trong các bài thánh ca, khi thứ nhạc cụ hùng tráng ấy quẳng ra những cột bao la âm thanh, dữ dội nhưng du dương, trên nền dàn hợp xướng, - cao vút thành những cung vòm, khi chúng dường như vọt lên, vượt qua và chế ngự sự xung đột các bè giọng, và gộp lại bằng sức mạnh cưỡng ép toàn bộ những giông bão kia thành một thể thống nhất, - đôi khi tôi dường như trỗi dậy và bước đi khải hoàn trên những đám mây kia, mà mới chỉ một khắc trước, tôi ngước nhìn như những kỷ niệm của nỗi buồn đau làm suy kiệt; vâng, đôi khi bởi những biến hình của âm nhạc, bản thân nỗi buồn khổ kia được cảm thấy như một cỗ xe rực lửa để cưỡi lên bởi chiến thắng trên những căn nguyên của nỗi đau.

Chúa cũng nói với trẻ con trong các giấc mơ và bằng những lời sấm ẩn tàng trong bóng tối. Nhưng trong sự cô độc, trên hết thảy mọi thứ, khi cất tiếng trong trái tim trầm tư qua các chân lý và các săn sóc của một giáo hội quốc gia, Chúa giữ “sự hiệp thông không bị gián đoạn” với trẻ em. Sự cô độc, dẫu có thể im lặng như ánh sáng, là, cũng giống như ánh sáng, sức mạnh lớn nhất; bởi cô độc là điều thiết yếu với con người. Tất tật loài người đến thế gian này một mình; tất tật đều một mình đi khỏi đó. Ngay cả một em bé cũng có một ý thức thầm thì, làm khiếp sợ, rằng, nếu nó được triệu đến trước Chúa, sẽ chẳng có người vú em dịu dàng nào được phép nắm tay nó, chẳng được mẹ ẵm trong tay, cũng chẳng có chị để chia sẻ cơn run rẩy của nó. Vua và thầy tế, chiến binh và thiếu nữ, triết gia và trẻ con, tất tật phải bước đi trên những hành lang hùng vĩ ấy một mình. Bởi vậy, sự cô độc, vốn làm kinh hãi hay mê hoặc một trái tim trẻ nhỏ trên thế gian này, chỉ là tiếng vang của một cô độc sâu sắc hơn nhiều, mà nó đã trải qua rồi, và của một cô độc khác, vẫn còn sâu hơn nữa, nó sẽ phải trải qua: phản chiếu một sự cô độc - báo trước một sự cô độc khác.

Hỡi gánh nặng của cô độc, bám chặt lấy con người qua mọi gian đoạn sự tồn tại của hắn! vào thời điểm hắn sinh ra, việc đã xảy ra - trong cuộc đời hắn, cái đang diễn ra - trong cái chết của hắn, thứ sẽ đến - nỗi cô độc vĩ đại và cốt yếu! đã, đang, và sẽ hiện hữu; ngươi ngự trị, như Thần Khí Chúa lướt đi trên bề mặt các vực thẳm, trên mỗi trái tim đang say ngủ trong những vườn trẻ Cơ đốc giáo. Giống như phòng thí nghiệm bao la của khí, thứ tưởng chừng chẳng là gì, hoặc còn kém hơn cả một bóng mờ, lại ẩn chứa trong đó luật của vạn vật, sự cô độc đối với đứa trẻ trầm tư là tấm gương Agrippa phản chiếu vũ trụ không thể thấy. Sâu khôn dò sự cô độc của hàng triệu người, những kẻ dẫu mang trái tim tràn ngập tình yêu, chẳng được ai yêu. Sâu khôn dò sự cô độc của những kẻ, chịu nỗi đau thầm kín, chẳng được ai thương xót. Sâu khôn dò sự cô độc của những kẻ, chiến đấu với hoài nghi và bóng tối, chẳng được ai khuyên nhủ. Nhưng sâu thẳm hơn hết là những sự cô độc phủ lên tuổi thơ dục vọng của nỗi buồn - bày ra trước nó, từng đợt, nỗi cô độc cuối cùng đang canh giữ nó, và chờ nó sau cánh cổng của sự chết. Hỡi cô độc hùng mạnh và cốt yếu, đã, đang và sẽ mãi hiện hữu, vương quốc của ngươi được hoàn thành trong nấm mồ; nhưng ngay cả đối với kẻ canh giữ bên ngoài nấm mồ ấy, giống như ta, một đứa trẻ lên sáu, ngươi hằng giương cao cây quyền trượng của sự mê hoặc.

Công Hiện dịch

 

Thực tại của trẻ con

 

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công