Thomas de Quincey: Văn chương của biết và văn chương của năng
tiếp tục Thomas de Quincey viết tiểu luận, kỳ gần nhất ở kia
(cũng: tiểu luận về Thomas de Quincey)
Văn chương của biết và văn chương của năng
- Thomas de Quincey
Mỗi tác phẩm kinh điển trong ngôn ngữ của chúng ta cần được thỉnh thoảng đọc lại và đặc biệt cần như vậy nếu tác giả ấy thuộc vào, dù ở mức độ nào, một bộ phận văn chương gắn liền với phong tục và nếu danh tiếng ban đầu của hay phong cách sáng tác của tác giả ấy có thể bị ảnh hưởng nhiều bởi thứ mốt chóng tàn thuộc về thời đại của chính tác giả. Sự tước đi khỏi một nhà thơ nhiều kịch tính hay một nhà thơ trào phúng bất kỳ hào quang giả dối nào mà tác giả có được nhờ vào liên hệ nhất thời với cái ta có thể gọi là tính cách của một thế hệ phù du, hoặc tước đi bất kỳ sự che chở thái quá nào đối với những sai sót có lẽ đã được gom lại quanh họ do khuynh hướng chính trị hoặc do sự yếu kém trí tuệ của những người ủng hộ tác giả đôi khi sẽ làm thay đổi nghiêm trọng, sau một thế kỷ hoặc hơn, đánh giá công bằng nhất thuở ban đầu về một nhà văn giỏi. Một cửa sổ tạo ra bởi những mẩu kính Claude Lorraine sẽ trải rộng khắp khung cảnh bên ngoài một hiệu ứng đáng lo ngại, mà chẳng phải con mắt thành thục nào cũng tránh được. Eidola theatri [các thần tượng sân khấu] tác động lên tất cả chúng ta. Không ai tránh được việc bị lây nhiễm bởi khán giả đương thời của mình.
Khi sách nhiều đến một mức không còn kiểm soát được nữa, việc lựa chọn ngày càng trở thành một sự thiết yếu đối với độc giả, và năng lực lựa chọn càng lúc càng trở thành vấn đề khủng khiếp với những độc giả bận rộn. Khả năng lựa chọn khôn ngoan trở thành vô vọng khi sự cần thiết phải lựa chọn mỗi lúc một thêm cấp bách. Cũng giống như sức nặng càng lúc càng dồn lên của sách vở chồng chất kìm hãm năng lực so sánh, pari passu [mọi thứ phải được đối xử bình đẳng] là lời kêu gọi ồn ào dành cho việc so sánh; và bởi vậy nảy sinh một nghĩa vụ cấp bách tương đương, là phải tìm kiếm và rà lại cho đến khi mọi thứ giả mạo bị loại khỏi những Tinh Anh của nền văn chương cao nhất, cho đến khi sự lãng phí thời gian của những người có quá ít tự chủ được giảm xuống mức tối thiểu. Bởi vì, khi mà tác phẩm tốt không thể được đọc đến một phần hai mươi thì cần hơn cả là không được để cho những phần tồi kia cướp mất một giờ của thời gian được cho phép; và thật là không thể chịu đựng được khi những người không có lấy một phút rảnh rỗi phải đọc xong một cuốn sách rồi mới xác định được thật ra nó có đáng đọc hay không. Công chúng không thể đọc theo lối ủy quyền những tác phẩm xứng đáng nhưng có thể đọc để phát hiện những thứ độc hại cần tránh. Và do đó, khi văn chương mở rộng, nhiệm vụ đặt lên nhà phê bình (những người đọc thay cho công chúng) càng cấp bách – đó là xem xét tất cả các tác phẩm có thể được cho là đã hưởng lợi quá nhiều hoặc quá bừa bãi do mê tín về một cái tên. Các praegustator [người nếm trước thức ăn] nên nếm thử mọi thứ và báo cáo chất lượng của chúng trước cả khi công chúng yêu cầu; và trên hết, họ phải làm điều này trong mọi trường hợp của thứ văn chương cao hơn – văn chương đúng nghĩa.
Chúng ta hiểu văn chương là gì? Hết sức phổ biến, đối với suy nghĩ hời hợt, nó bao gồm tất tật những gì in trong sách. Không cần nhiều lý lẽ để phản bác định nghĩa ấy. Ngay cả người vô tri nhất cũng dễ dàng nhận ra trong ý niệm về văn chương một yếu tố chủ chốt là mối liên hệ nào đó với những quan tâm chung và thông thường của con người – vì vậy những gì chỉ dành cho một bộ phận, hoặc chuyên môn, hoặc thuần túy là hứng thú cá nhân, dù được trình bày dưới hình hài một quyển sách cũng không thuộc về văn chương. Cho đến giờ, định nghĩa này dễ thu hẹp và cũng dễ mở rộng. Vì không chỉ nhiều thứ chiếm chỗ trong những quyển sách không phải văn chương mà, ở chiều ngược lại, nhiều thứ thực sự là văn chương lại không bao giờ có chỗ trong quyển sách. Các bài giảng hàng tuần của Cơ đốc giáo, nền văn chương bục giảng đồ sộ tác động nhiều đến tâm thức chung – để cảnh báo, duy trì, khôi phục, an ủi, báo động – chẳng được đưa vào trú ẩn nơi các thư viện đến một phần vạn tổng số chúng. Kịch, một lần nữa – những vở kịch hay nhất của Shakespeare ở Anh và tất tật những vở kịch hàng đầu của Hy Lạp biểu diễn vào buổi trưa trên các sân khấu ở Athens – hoạt động như một thứ văn chương đối với công chúng và được (theo nghĩa nghiêm ngặt nhất của thuật ngữ này) xuất bản thông qua các khán giả đã chứng kiến[I] chúng một thời gian trước khi chúng được công bố dưới dạng đọc; và chúng đã được công bố theo cách thức xuất bản của sân khấu với hiệu ứng mạnh hơn nhiều so với khi được in thành sách vào những thời đại mà sao chép hoặc in ấn vô cùng tốn kém.
Sách, bởi vậy, không đề xuất một ý tồn tại đồng thời và có thể hoán đổi với ý về văn chương vì nhiều tác phẩm văn chương, kịch, điều tra tư pháp hay giáo dục (như các bài giảng và diễn thuyết trước công chúng) có thể không bao giờ được đưa vào sách và nhiều tác phẩm in thành sách có thể chẳng hề mảy may liên quan đến văn chương[II]. Nhưng sự điều chỉnh còn quan trọng hơn nhiều đối với ý chung mơ hồ về văn chương không nằm ở chỗ tìm ra một định nghĩa tốt hơn mà ở chỗ phân biệt rõ ràng hơn hai chức năng mà nó thực hiện. Trong cái cơ quan của xã hội to lớn mà theo cách toàn thể chúng ta gọi là văn chương ấy, có thể phân biệt hai chức năng riêng biệt khả dĩ hòa trộn và thường xuyên là vậy nhưng đủ tư cách, riêng rẽ, cô lập khắt khe và hoàn toàn tự nhiên rơi vào thế đẩy lẫn nhau. Đó là, thứ nhất, Văn chương của Biết và, thứ hai, Văn chương của Năng. Chức năng của cái thứ nhất – để dạy; chức năng của cái thứ hai – để chuyển động: cái đầu là một bánh lái; cái sau, một mái chèo hay một cánh buồm. Cái thứ nhất nói đến sự hiểu biết thuần túy biện luận; cái thứ hai nói sâu, điều này hoàn toàn có thể, đến hiểu biết ở trật tự cao hơn hoặc đến lý trí, nhưng luôn luôn thông qua khoái lạc hay đồng cảm. Xa hơn, nó có thể di chuyển về phía một đối tượng nằm trong thứ mà Lord Bacon gọi là ánh sáng khô; nhưng gần hơn, nó phải hoạt tác bên trong và xuyên qua ánh sáng ẩm bao phủ trong sương mù cùng mống mắt lấp lánh của dục vọng, ham muốn và những cảm xúc thân ái của con người – nếu không nó sẽ ngừng là Văn chương của Năng. Người ta quá ít suy ngẫm về những chức năng cao hơn của văn chương, đến mức coi là nghịch lý nếu có ai bảo rằng cung cấp thông tin chỉ là mục đích tầm thường hoặc thứ yếu của sách. Nhưng đó là nghịch lý chỉ theo nghĩa khiến nghịch lý trở nên đáng trọng. Bất cứ khi nào chúng ta nói, theo ngôn ngữ thông thường, về việc tìm kiếm thông tin hoặc tiếp thu kiến thức, chúng ta hiểu những từ này theo nghĩa tìm đến một cái gì đó hoàn toàn mới lạ. Nhưng sự cao quý của mọi chân lý có thể chiếm một vị trí cao trong mối quan tâm của con người nằm ở chỗ nó không bao giờ là tuyệt đối mới, kể cả với những tinh thần tầm thường nhất: nó tồn tại vĩnh cửu ở dạng mầm mống hoặc nguyên lý ngầm ẩn ở những tinh thần thấp nhất cũng như cao nhất, cần được phát triển nhưng không bao giờ cần gieo trồng. Khả năng cấy ghép là đặc điểm cho phép nhận ra ngay những chân lý thuộc trật tự thấp hơn. Bên cạnh đó, có một điều hiếm hơn chân lý – là năng, hay sự đồng cảm sâu với chân lý. Chẳng hạn, tác động của trẻ em lên xã hội là gì? Nhờ tình thương, nhờ sự dịu dàng, và nhờ những cách thức đặc biệt của lòng ngưỡng mộ, những thứ gắn liền với sự bất lực, sự ngây thơ và sự đơn thuần của trẻ con, không chỉ những tình cảm nguyên thủy được củng cố và liên tục làm mới mà cả những phẩm chất được yêu mến nhất trong cảnh thiên đàng – sự yếu đuối chẳng hạn, thứ đòi hỏi kiên nhẫn, sự trong trắng tượng trưng cho thiên đàng và sự đơn thuần vô cùng xa lạ với trần tục – được lưu trữ trong ký ức vĩnh cửu, và lý tưởng của chúng liên tục được làm cho tươi mới. Một mục đích có cùng bản tính ấy được hồi ứng bởi thứ văn chương cao hơn, tức Văn chương của Năng. Bạn học được gì từ Paradise Lost? Chẳng gì cả. Bạn học được gì từ một quyển sách dạy nấu ăn? Một thứ gì đó mới, thứ gì đó bạn chưa từng biết trước đây, trong từng dòng. Nhưng liệu bạn có bởi vậy mà đặt quyển sách nấu ăn lên một bậc cao hơn áng thơ thần thánh? Những gì bạn nợ Milton chẳng phải là bất kỳ kiến thức nào, những thứ mà dù có cả triệu đề mục khác nhau thì vẫn chỉ là những bước tiến xa trên cùng một mức trần tục; thứ bạn mắc nợ là năng – nghĩa là, việc rèn luyện và mở rộng năng lực đồng cảm tiềm ẩn trong chính bạn với cõi vô tận, nơi mỗi nhịp đập và mỗi phun trào riêng biệt lại là một bước lên cao, một bước đi lên như trên cái thang của Jacob từ trái đất lên đến những tầng cao bí ẩn. Tất tật những bước tiến của tri thức, từ bước đầu tiên cho đến bước cuối cùng đem bạn đi xa hơn trên cùng một mặt phẳng, nhưng chẳng bao giờ có thể nâng bạn dù chỉ một tấc lên khỏi cái bề mặt cũ xưa của trái đất: trong khi ngay bước đầu tiên của năng đã là một cú vọt lên – một chuyển động hướng lên một tầng khác, nơi mặt đất bị lãng quên.
Nếu tri giác con người không được làm cho thông thoáng và liên tục được khơi động bởi các hiện tượng lớn của thời thơ ấu, hoặc của cuộc sống thực khi nó chuyển động xuyên qua các ngẫu nhiên và thay đổi, hoặc của văn chương khi nó kết hợp lại những yếu tố này trong thơ ca, lãng mạn, vân vân… thì chắc chắn, giống như bất kỳ sức mạnh động vật hay năng lượng cơ bắp nào không còn được sử dụng, tất tật những tri giác ấy sẽ dần suy kiệt. Chính trong quan hệ với những năng lực đạo đức tuyệt diệu này của con người mà Văn chương của Năng, trái ngược với Văn chương của Biết, sống và có trường hoạt động của nó. Nó liên quan đến những gì cao cả nhất của con người; vì bản thân Kinh thánh không bao giờ hạ mình xuống để bày tỏ bằng cách gợi ý hay hợp tác với sự hiểu biết thuần biện luận: khi nói về khả năng trí tuệ của con người, Kinh thánh không nói về hiểu biết mà về “trái tim hiểu biết” – biến trái tim, tức cơ quan trực giác tuyệt vời (hay là không biện luận), thành công thức có thể thay thế cho con người trong trạng thái năng lực cao nhất của anh ta trước cái vô tận. Bi kịch, lãng mạn, cổ tích hay anh hùng ca, tất tật đều khôi phục lại trong tinh thần con người những lý tưởng về công lý, hy vọng, sự thật, lòng nhân từ, sự trừng phạt, nếu không (bị bỏ mặc cho cuộc sống thường nhật với những thực tế nghèo nàn của nó), chúng sẽ suy tàn bởi thiếu minh họa thích đáng. Chẳng hạn, công lý thơ thì có nghĩa là gì? – nó không có nghĩa là một công lý khác về mục đích so với công lý thông thường của luật pháp con người, bởi nếu thế thì nó hẳn phải là một loại công lý vô cùng tệ hại; nhưng nó khác công lý tư pháp thông thường ở chừng mực nó đến gần mục đích của nó, một công lý có quyền tuyệt đối trên những kết cục của chính nó, vì xử lý – không phải những yếu tố ương ngạnh của cuộc sống trần thế, mà những yếu tố do chính nó tạo ra, với những chất liệu linh hoạt tương hợp với các tiền định thuần khiết nhất của bản thân nó. Chắc chắn nếu không có Văn chương của Năng, những lý tưởng kia hẳn còn lại giữa chúng ta chỉ trong hình thức khái niệm khô cằn; trong khi đó, bởi sức sáng tạo của con người được đưa vào văn chương, chúng có được sức sống mùa xuân của sự đổi mới và nảy mầm thành những hoạt động sống. Quyển tiểu thuyết thường nhất cũng duy trì và thúc đẩy những sợ hãi và hy vọng của con người cùng bản năng con người về sai và đúng, bằng cách chuyển động trong sự liên minh với những tình cảm ấy. Kêu gọi chúng hành động, nó giải thoát chúng khỏi trạng thái mê mệt. […] Tác phẩm cao quý nhất tồn tại trong Văn chương của Biết cũng chỉ là công trình tạm: một quyển sách phải dựa vào việc bị xét xử và sự mặc nhiên công nhận, và quamdiu bene se gesserit [miễn là anh cư xử tốt]. Hãy để lời dạy của nó bị sửa lại một phần, hay cứ giữ nguyên thế nhưng kéo dài thêm – không, thậm chí cứ giữ nguyên những giáo huấn ấy nhưng sắp xếp lại theo một trật tự tốt hơn – và ngay lập tức nó bị thay thế. Trong khi đó những tác phẩm kém nhất trong Văn chương của Năng, vẫn còn tồn tại, tồn tại như đã xong xuôi và không thể thay đổi được giữa con người. Chẳng hạn, Principia của Sir Isaac Newton là một cuốn sách ngay từ đầu đã phải chiến đấu. Trong mọi giai đoạn tiến triển của mình nó hẳn đã phải đấu tranh để tồn tại: trước tiên, về sự thật tuyệt đối; sau nữa, khi cuộc chiến kết thúc, về hình thức của nó hay cách thức trình bày sự thật. Và ngay khi Laplace, hay bất kỳ ai khác, xây lên cao hơn dựa trên nền tảng cuốn sách ấy, kết quả là người ấy quẳng nó ra khỏi ánh sáng vào tối tăm mục nát; bằng vũ khí giành được từ cuốn sách này người ta đã làm cho nó lỗi thời và hủy diệt nó, thành thử chẳng mấy chốc tên tuổi Newton chỉ còn là một nominis umbra [bóng của một cái tên], còn cuốn sách của ông, như một quyền lực sống, đã chuyển sang những hình thức khác. Giờ thì, ngược lại, Illiad, Prometheus của Aeschylus, Othello hay Vua Lear, Hamlet hay Macbeth, và Paradise Lost, chẳng phải chiến đấu, mà mãi mãi khải hoàn miễn là ngôn ngữ mà chúng nói hay có thể được dạy vẫn còn tồn tại. Chúng không bao giờ có thể đầu thai thành những hiện thân mới. Việc tái tạo những tác phẩm này trong hình thức mới, hay những biến tấu, ngay cả khi ở vài chỗ chúng có thể được cải thiện, sẽ là ăn cắp. Một động cơ hơi nước tốt sẽ được thay thế bởi một động cơ tốt hơn. Nhưng một thung lũng đồng quê đáng yêu không thể thay thế được, cũng như một bức tượng của Praxiteles không thể thay bằng một bức tượng của Michelangelo. Những thứ này không được phân tách bởi sự không ngang bằng, mà bởi sự chênh lệch. Chúng không được xem là không ngang bằng nhau theo cùng tiêu chuẩn, mà khác nhau về loại, và, nếu như có ngang bằng nhau, chúng cân bằng qua một tiêu chuẩn khác. Các tác phẩm của con người về vẻ đẹp bất tử và các tác phẩm về tự nhiên ở một khía cạnh nào đó thì cùng đứng chung một chỗ; chúng chẳng bao giờ hoàn toàn lặp lại nhau, chẳng bao giờ ở gần nhau đến mức không có khác biệt; và chúng không khác nhau ở chỗ tốt hơn hay tệ hơn, hay đơn giản là nhiều hơn hay ít hơn: chúng khác nhau bởi những nét khác biệt không thể giải mã và không thể truyền đạt, không thể bị bắt chước, không thể bị phản chiếu qua gương của các bản sao, không thể đo lường trong những thang so sánh thô thiển.
Tất tật mọi tác phẩm thuộc loại này, trái ngược với những tác phẩm thuộc Văn chương của Biết, trước hết, được tạo ra bởi các tác nhân sâu sắc hơn nhiều, và, thứ hai, lâu bền hơn; theo nghĩa nghiêm ngặt nhất chúng là χτηματα εσ αει [việc khai quật diễn ra ở đây]: và những gì xấu xa chúng rây ra, hay những gì tốt đẹp chúng mang lại, đều tương xứng với ngôn ngữ dân tộc, đôi khi còn tồn tại lâu hơn sau khi dân tộc đã lụi tàn. Vào lúc này, năm trăm năm sau khi được tạo ra, những truyện kể của Chaucer, mà tính nhạy cảm của chúng, hay sự sống động nơi vẻ đẹp của chúng chưa từng có gì trên trái đất này sánh bằng, được đọc một cách thân mật bởi rất nhiều người bằng ngôn ngữ mẹ đẻ quyến rũ của họ, và bởi những người khác bằng các tác phẩm hiện đại hóa của Dryden, của Pope, và Wordsworth. Vào lúc này, một nghìn tám trăm năm sau khi ra đời, những truyện kể Tà đạo của Ovid, mà sự vui tươi nơi những chuyển động của chúng chưa từng có gì trên trái đất này sánh bằng, được đọc bởi mọi Cơ đốc nhân. Dân tộc của người đàn ông này và những tượng đài của họ đã tan thành bụi nhưng ông vẫn còn sống: ông còn sống lâu hơn họ, như ông nói với chúng ta rằng ông đã có phận sự phải làm, trong một nghìn năm; “và sẽ thêm một nghìn năm nữa.”
Tất tật văn chương của Biết chỉ xây tổ trên mặt đất, thành thử bị lũ cuốn trôi, hay bị cày xới nát bươm; nhưng Văn chương của Năng xây tổ ở cao tít trên không nơi những ngôi đền linh thiêng bất khả xâm phạm, hay trong những khu rừng mà gian trá không thể tiếp cận được. Đây là đặc quyền lớn dành cho văn chương của năng; và còn lớn hơn nữa nơi phương thức gây ảnh hưởng của nó. Một bách khoa thư là bảng tóm tắt của nó; và, trong khía cạnh này, có thể được xem là biểu tượng sống của nó – rằng trước khi một thế hệ trôi qua thì một quyển bách khoa toàn thư đã lỗi thời; vì nó nói thông qua ký ức chết và sự hiểu biết chẳng hề nồng nhiệt, không có sự yên tĩnh của những năng lực cao hơn, nhưng liên tục được mở rộng và thay đổi lớp bìa da trang trọng. Nhưng tất tật những gì được xem là văn chương đúng nghĩa – văn chương χατ εξοχην [đúng nghĩa là xuất chúng] – cũng chính bởi lý do ấy mà nó bền bỉ hơn nhiều so với Văn chương của Biết, (và theo đúng bằng tỷ lệ ấy) mãnh liệt hơn và thấu đáo hơn trong những vết hằn nó để lại. Những hướng mà theo đó bi kịch của hành tinh này đã rèn luyện cảm xúc con người của chúng ta, và những kết hợp mà trong đó thơ ca của hành tinh này đã quẳng vào những dục vọng con người của tình yêu và thù hận, của ngưỡng mộ và khinh miệt, thực thi một quyền năng của cái tốt hoặc cái xấu lên cuộc sống nhân loại mà không thể được dự liệu, khi trải dài qua nhiều thế hệ, chẳng hề có một tình cảm nào là liên minh với nỗi kinh sợ.[III] Và về điều này mỗi người chúng ta hãy yên tâm – rằng ta nợ những quyển sách đầy mê hoặc mà ta đã đọc nhiều hơn gấp nghìn lần những xúc cảm mà ta có thể tìm lại chúng với đầy đủ ý thức. Mờ nhạt nơi nguồn gốc của chúng, những xúc cảm này vẫn nảy sinh bên trong ta, và định hình ta qua cuộc sống, giống như những biến cố từ thời thơ ấu đã bị lãng quên.
Chú thích của tác giả.
[I] Charles I, chẳng hạn, khi Hoàng tử xứ Wales và nhiều người khác trong triều đình của cha ông, bắt đầu làm quen với Shakespeare không phải qua những bản in khổ bốn, phân phối rất hạn chế, cũng không qua bản in đầu tiên năm 1623, mà qua các phiên tường thuật về những vở kịch chính của ông tại Whitehall.
[II] Thứ được gọi là Sách Xanh – theo tên gọi được hiểu là tập Báo cáo được ban hành trong mỗi kỳ họp của Quốc hội bởi các ủy ban của cả hai Viện, và được khâu vào những cái bìa màu xanh – dẫu thường bị những kẻ ngu dốt chế diễu là quá nhiều giấy vụn, sẽ được ghi nhận với lòng biết ơn bởi những ai đã sử dụng chúng hết sức siêng năng như là nguồn đúng của mọi thông tin chính xác về Vương quốc Anh ngày nay. Vốn là một kho tích trữ khổng lồ các số liệu thống kê trung thực (và không lỗi thời), chúng là thứ không thể thiếu đối với những sinh viên trung thực. Nhưng bởi vậy không ai xem Sách Xanh là văn chương.
[III] Lý do vì sao sự khác biệt lớn giữa hai loại văn chương, của biết và của năng, lại ít được chú ý đến vậy nằm ở điều thực tế là một tỷ lệ lớn các quyển sách – lịch sử, tiểu sử, du lịch, tiểu luận, vân vân – nằm ở vùng giữa, làm rối tung những điểm khác biệt này bằng cách trộn lẫn chúng. Tất tật những gì chúng ta gọi là để “tiêu khiển” hay “giải trí” chính là một hình thức pha loãng của dục vọng, và cũng là một hình thức hỗn hợp; và, khi các sợi chỉ dẫn đường xoắn chung lẫn lộn trên bề mặt chất liệu cùng với những sợi chỉ quyền năng, việc hấp thụ tính hai mặt này hình thành sắc thái đại diện trung hòa sự nhận biết riêng biệt của cả hai. Được hợp nhất thành một tertium quid [cái thứ ba], hoặc một trạng thái trung tính, chúng triệt tiêu khỏi con mắt của số đông những lực đẩy mà trên thực tế, chúng vốn là.