Thomas Bernhard: Thầy cũ
Elias Canetti về Karl Kraus: đó là chuyện thầy cũ, một vấn đề vô cùng hóc (từ thời đại là "nhạy cảm"). Làm thế nào sống được dưới một cái bóng quá lớn, một giọng quá áp chế, đến nỗi tất cả những gì phát ra dường như chỉ là lặp lại của cái giọng ấy? Và khi không còn như vậy nữa, thì phải thế nào? Chính Canetti cũng biết rằng người khôn ngoan ra sẽ tránh động đến các thần tượng đã phai tàn, những ngôi đền chỉ còn là đổ nát. Nhưng, Canetti nói luôn, là cũng có lúc cần phải không khôn ngoan, và thế là ta có có lời chứng tuyệt vời về Karl Kraus - người bị ám bởi các giọng, đồng thời khiến giọng mình ám vô số người, người định giọng cho thành phố.
Dẫu thế nào, cũng phải có một tinh thần thực sự mạnh để nhìn nhận một vấn đề như thầy cũ.
Thomas Bernhard viết một quyển sách tên chính xác như vậy (một quyển nữa, về sự bắt chước giọng). Dưới đây là đoạn đầu.
Thầy cũ
- Thomas Bernhard
Dù hẹn gặp Reger ở Bảo tàng Kunsthistorisches lúc 11 giờ 30, tôi đã đến địa điểm thỏa thuận từ 10 giờ 30 để, như đã định từ lâu, quan sát ông ấy một lần, từ góc lý tưởng nhất và không bị quấy rầy, Atzbacher viết. Vì chỗ ngồi buổi sáng của ông ấy là ở Phòng Bordone, đối diện với Người râu trắng của Tintoretto, trên cái ghế phủ nhung mà hôm qua, sau khi giải thích về cái thứ có tên Bản sonata bão tố, ông ấy tiếp tục giảng cho tôi về Art of the Fugue, từ tiền Bach đến hậu Schumann, dùng đúng từ của ông ấy, tuy thế ông ấy lại hứng nói về Mozart hơn là Bach, tôi phải mai phục từ chỗ có tên là Phòng Sebastiano; do đó, hoàn toàn trái với ý muốn, tôi đành chịu đựng Titian chỉ để có thể quan sát Reger ngồi trước Người râu trắng của Tintoretto, phải đứng nhưng không có gì bất lợi vì tôi thích đứng hơn ngồi, đặc biệt là khi quan sát người khác, cả đời tôi vẫn giỏi quan sát đứng hơn quan sát ngồi và - khi từ Phòng Sebastiano nhìn sang Phòng Bordone, hết sức tập trung, cuối cùng tôi cũng bắt được cả người Reger, còn không bị chắn bởi phần lưng ghế - chính Reger, chắc chắn đêm qua ông ấy bị ảnh hưởng nặng vì thời tiết thay đổi đột ngột, cứ đội sùm sụp cái mũ đen, thế nên tôi có thể thấy toàn bộ phần bên trái của Reger, kế hoạch một lần quan sát Reger mà không bị quấy rầy vậy là thành. Vì Reger (mặc áo khoác), dựa mình vào một cái gậy kẹp giữa hai đầu gối, đã chìm hẳn vào việc chiêm ngưỡng Người râu trắng, tôi chẳng sợ bị Reger phát hiện giữa lúc đang quan sát ông ấy. Nhân viên bảo tàng, Irrsigler (Jenő!) - mà Reger quen biết hơn ba mươi năm và tôi cũng giao hảo (hơn hai mươi năm) - đã được tôi ra hiệu là muốn quan sát Reger mà không bị quấy rầy, và mỗi lần Irrsigler xuất hiện, đều như đồng hồ, ông ta luôn làm như thể tôi không ở đó, như thể Reger cũng không ở đó, trong khi ông ta, Irrsigler, thực hiện nhiệm vụ của mình, buộc đám khách đến thăm phòng trưng bày - chẳng hiểu sao lại không đông lắm dù thứ Bảy được vào cửa miễn phí - phải chịu sự giám sát khó chịu theo kiểu của ông ta (rất khó chịu đối với những ai không biết ông ta). Irrsigler có đúng vẻ lừ lừ hắc ám mà nhân viên bảo tàng vẫn dùng để dọa những khách không biết điều; cái cách ông ta thình lình, không gây một tiếng động, xuất hiện ở bất kỳ căn phòng nào để kiểm tra quả là một nỗi kinh hoàng với những ai không biết ông ta; trong bộ đồng phục màu xám, cắt may tồi nhưng đã được định cho vĩnh cửu, giữ bằng hàng cúc lớn màu đen, lủng lẳng trên cơ thể gầy gò như trên giá áo, đầu đội cái mũ may từ cùng loại vải xám xịt, ông ta gợi nhắc đến một giám hộ trại giam hơn là một người được nhà nước thuê để giám hộ các tác phẩm nghệ thuật. Irrsigler đã luôn trắng bệch như thế kể từ khi tôi biết ông ta, dù chẳng bệnh tật gì, Reger gọi ông ta là cái xác nhà nước với hơn ba sáu năm công tác ở Bảo tàng Kunsthistorisches. Reger, với hơn ba sáu năm đi Bảo tàng Kunsthistorisches, đã biết Irrsigler từ ngày làm việc đầu tiên và duy trì quan hệ tốt đẹp với ông ta kể từ ấy. Chỉ cần lót trước một khoản con con để giữ chỗ trên cái ghế trong Phòng Bordone mãi mãi, vài năm trước Reger đã bảo tôi như thế. Reger đã bắt đầu quan hệ với Irrsigler và mối quan hệ ấy đã trở thành thói quen của cả hai hơn ba mươi năm nay. Bất cứ khi nào Reger, không phải là không thường xuyên, muốn ở một mình để chiêm ngưỡng Người râu trắng của Tintoretto, Irrsigler liền chặn khách đến thăm Phòng Bordone bằng cách ghim mình ở ngay ngưỡng cửa, không cho ai qua hết. Reger chỉ cần dùng tay ra hiệu là Irrsigler chặn ngay Phòng Bordone lại và quả thật chẳng ngại đẩy bất kỳ vị khách nào đã lảng vảng ở Phòng Bordone từ trước ra ngoài, vì Reger muốn thế. Irrsigler học nghề mộc ở Bruck-on-Leitha nhưng đã bỏ trước khi đủ điều kiện làm trợ lý thợ mộc, để đi làm cảnh sát. Nhưng nghề cảnh sát từ chối Irrsigler vì thể chất yếu đuối của ông ta. Một người cậu, em trai của mẹ ông ta, nhân viên Bảo tàng Kunsthistorisches từ hồi 1924, đã xin cho ông ta một chân ở Bảo tàng Kunsthistorisches, chỗ ấy lương bèo nhất nhưng an toàn nhất, Irrsigler nói. Đằng nào thì Irrsigler cũng chỉ muốn làm cảnh sát vì tin là nghề này sẽ giải quyết được vấn đề quần áo của mình. Cả đời mặc một bộ mà không cần phải bỏ tiền túi ra mua vì có nhà nước lo, đó là lý tưởng của ông ta; cậu của ông ta, người đã đưa ông ta vào Bảo tàng Kunsthistorisches, cũng nghĩ thế, và về điểm này thì làm cho cảnh sát hay làm cho Bảo tàng Kunsthistorisches cũng vậy, dù phải thừa nhận là cảnh sát lương bở hơn, Bảo tàng Kunsthistorisches thì bèo, nhưng làm cho Bảo tàng Kunsthistorisches làm sao có thể đem so với làm cảnh sát, ông ta, Irrsigler, không thể tưởng tượng được việc nào trách nhiệm hơn mà lại dễ hơn việc ở Bảo tàng Kunsthistorisches. Làm cảnh sát, Irrsigler nói, thì vong mạng như chơi, nhưng làm ở Bảo tàng Kunsthistorisches thì không. Không cần lo về sự công việc đơn điệu, ông ta thích sự đơn điệu. Ngày nào ông ta cũng đi đi lại lại chừng bốn năm chục cây số, như thế tốt cho sức khỏe hơn là làm cảnh sát, ở đó phần lớn công việc là ngồi lì cả đời trên một cái ghế văn phòng cứng đơ. Ông ta thà theo dõi khách thăm bảo tàng còn hơn là phải theo dõi người thường, vì khách đến bảo tàng dù sao cũng là những người vượt trội, có hiểu biết về nghệ thuật. Ông ta nói dần dà mình đã gom góp được đủ hiểu biết nghệ thuật để có thể tự hướng dẫn một chuyến tham quan Bảo tàng Kunsthistorisches, hoặc ít nhất là phòng trưng bày tranh, nhưng cái đó thì ông ta chẳng cần. Dù gì thì người ta cũng nghe tai nọ qua tai kia, ông ta nói. Hướng dẫn viên bảo tàng cứ ca đi ca lại một bài suốt mấy chục năm nay, tất nhiên là rặt những thứ vô nghĩa, như Herr Reger nói, Irrsigler bảo tôi. Các sử gia nghệ thuật chỉ giỏi làm khách tham quan chết ngạt trong mớ lảm nhảm của bọn họ, Irrsigler nói - nhiều năm nay ông ta đã chiếm làm của riêng nguyên văn nhiều câu, nếu không muốn nói là tất tật các câu mà Reger phun ra. Irrsigler là cái loa của Reger, gần như tất cả những gì Irrsigler nói ra đều từ miệng Reger mà ra, ròng rã ba mươi năm Irrsigler nói và nói những gì Reger nói. Nếu chăm chú, tôi còn có thể nghe thấy Reger nói qua Irrsigler. Nếu cứ nghe bọn hướng dẫn viên thì sẽ chẳng được gì ngoài mớ lảm nhảm phát rồ, những lảm nhảm nghệ thuật của các sử gia nghệ thuật, Irrsigler nói, bởi vì Reger thường nói thế. Tất cả tranh ở đây đều tuyệt vời, nhưng chẳng bức nào hoàn hảo, Irrsigler nói - theo Reger. Người ta chỉ đi bảo tàng vì được bảo là người có văn hóa thì phải đi bảo tàng, hoàn toàn chẳng phải vì ham thích, ai mà lại đi ham thích nghệ thuật cơ chứ, dù gì thì chín chín phần trăm nhân loại cũng cần quái gì nghệ thuật đâu, Irrsigler nói, lặp nguyên văn Reger. Ông ta, Irrsigler, đã có một tuổi thơ khó nhọc, một bà mẹ bị ung thư và qua đời khi mới bốn mươi sáu tuổi, một ông bố vừa lăng nhăng vừa say xỉn tối ngày. Đã thế Bruck-on Leitha còn xấu đau xấu đớn, giống hầu như mọi chỗ ở Burgenland. Ai trốn được khỏi Burgenland là trốn ngay, Irrsigler nói, nhưng hầu hết không sao mà cựa nổi, bọn họ bị kết án chung thân ở Burgenland, cái án cũng khủng khiếp như chung thân ở Stein-on-Danube. Người Burgenland là tù nhân hết, Irrsigler nói, quê hương của bọn họ là nhà tù. Họ cố bắt mình tin rằng họ có một quê hương tuyệt vời, nhưng thực tế là Burgenland vừa xấu vừa chán ốm. Người Burgenland mùa đông thì chết ngạt trong tuyết, mùa hè thì bị muỗi xơi. Còn suốt mùa xuân và mùa thu, bọn họ ngập ngụa trong sự bẩn thỉu của chính mình. Toàn cõi châu Âu chẳng có chỗ nào nghèo hơn, bẩn hơn, Irrsigler nói. Người Vienna cứ cố thuyết phục người Burgenland rằng Burgenland là một chốn tuyệt vời, bởi vì người Vienna yêu sự bẩn thỉu của Burgenland và sự ngu độn của Burgenland - họ coi sự bẩn thỉu và ngu độn này là lãng mạn: theo cách nhìn của người Vienna, rằng như thế là hay, là dị. Suy cho cùng, ngoài Herr Haydn, như Herr Reger nói, Burgenland chẳng tạo ra được cái gì cả, Irrsigler nói. Tôi đến từ Burgenland, điều đó chỉ có nghĩa là tôi đến từ nhà tù Áo. Hoặc từ trại tâm thần Áo, Irrsigler nói. Người Burgenland đi Vienna như thể đi nhà thờ, ông ta nói. Ao ước sâu thẳm nhất của một người Burgenland là được làm cảnh sát ở Vienna, mấy hôm trước ông ta nói, tôi đã không làm được điều đó vì tôi quá yếu, vì yếu đuối thể chất. Dù sao thì tôi cũng là nhân viên Bảo tàng Kunsthistorisches và vẫn là công chức. Buổi tối, sau sáu giờ, tôi không nhốt tội phạm mà nhốt các tác phẩm nghệ thuật, tôi nhốt Rubens và Bellotto. Cậu của ông ta - làm ở Bảo tàng Kunsthistorisches ngay sau Thế chiến thứ nhất - đã làm cả nhà phải ghen tị. Lần nào đến thăm ông ở Bảo tàng Kunsthistorisches, đều đặn vài năm một lần, vào những ngày thứ Bảy hoặc Chủ nhật vào cửa miễn phí, bọn họ cũng bám sát gót ông, nhớn nhác và nơm nớp đưa chân qua các gian phòng chen chúc các bậc thầy -thầy cũ - và xuýt xoa ngưỡng mộ bộ đồng phục của ông cậu. Đương nhiên, ông cậu đã sớm trở thành nhân viên cấp cao và được mang một ngôi sao nhỏ bằng đồng trên ve áo đồng phục, Irrsigler nói. Dẫu với toàn bộ lòng tôn kính và ngưỡng mộ, họ vẫn, khi ông dẫn họ qua các phòng, chẳng hiểu ông nói gì. Cố giảng Veronese cho bọn họ chỉ toi cơm, mấy hôm trước Irrsigler nói. Mấy đứa con của chị gái tôi cứ là mê tít đôi giày mềm của tôi, Irrsigler nói, còn chị ta thì cứ nghệt mặt ra trước Reni, đúng nhân vật vô vị nhất trong số các họa sĩ ở chỗ này. Reger ghét Reni nên Irrsigler cũng ghét Reni. Irrsigler nuốt mọi lời Reger tuôn ra, giờ ông ta còn lặp được gần như hoàn hảo bằng giọng của Reger. Chị tôi đến thăm tôi chứ không đến thăm bảo tàng, Irrsigler nói. Chị ta chẳng ham hố nghệ thuật gì đâu. Nhưng mấy đứa con chị ta, được tôi dẫn đi khắp các phòng, thì thấy cái gì cũng trố mắt lên. Chúng nghệt mặt ra trước Velazquez và không chịu cựa một li, Irrsigler nói. Herr Reger từng mời tôi và gia đình tôi đến Prater, Irrsigler nói, Herr Reger hào phóng, hôm đó là tối Chủ nhật, hồi bà vợ ông ấy còn sống, Irrsigler nói. Tôi đứng đó, nhìn Reger, vẫn đang bị hớp hồn, như người ta nói, bởi Người râu trắng của Tintoretto, đồng thời nhìn Irrsigler, không ở trong Phòng Bordone và vẫn đang nhả cho tôi từng mẩu chuyện đời ông ta, tức là các cảnh tuần trước của Irrsigler cùng Reger, người đang ngồi trên cái ghế bọc nhung và tất nhiên vẫn chưa để ý đến tôi. Irrsigler nói rằng từ nhỏ, mong ước tha thiết nhất của ông ta là được làm cảnh sát ở Vienna, được trở thành cảnh sát. Ông ta chưa bao giờ muốn làm bất kỳ nghề nào khác. Và khi ông ta hai mươi ba tuổi, khi, ở doanh trại Rossau, người ta xác nhận rằng ông ta có một yếu đuối thể chất, thế giới thế là sụp đổ với ông ta. Nhưng trong tột cùng tuyệt vọng, ông cậu đã tìm cho ông ta một chỗ ở Bảo tàng Kunsthistorisches. Ông ta lên đường đi Vienna chẳng mang gì ngoài cái vali nhỏ cũ nát, đến căn hộ của ông cậu, lưu lại đó bốn tuần, rồi ông ta, Irrsigler, chuyển đến trọ ở Molkerbastei. Trong căn phòng thuê ấy ông ta sống qua mười hai năm. Mấy năm đầu, ông ta chẳng biết gì về Vienna cả, ông ta đến Bảo tàng Kunsthistorisches từ sớm, tầm bảy giờ, và về nhà vào buổi tối, sau sáu giờ, suốt nhiều năm, bữa trưa của ông ta chỉ có một lát bánh mì với xúc xích Ý hoặc pho mát cùng một cốc nước lấy từ vòi trong phòng thay đồ nhỏ phía sau phòng thay đồ công cộng. Người Burgenland thuộc dạng ít đòi hỏi nhất, hồi trẻ tôi cũng từng làm với người Burgenland ở nhiều công trường và sống cùng người Burgenland trong nhiều lều công nhân, tôi biết người Burgenland ít đòi hỏi đến thế nào, họ chỉ cần những thứ tuyệt đối thiết yếu, cuối tháng tiết kiệm được tám mươi phần trăm lương, thậm chí nhiều hơn. Trong khi ngắm nghía Irrsigler và quả thật đang quan sát ông ta kỹ hơn bất cứ lần nào trước đây, tôi cũng thấy Irrsigler đứng cùng tôi trong Phòng Battoni tuần trước và thấy chính tôi đang lắng nghe ông ta. Chồng của một trong hai bà cố của ông ta đến từ Tyrol, chính vì thế mà có cái tên Irrsigler. Ông ta có hai chị em gái, người nhỏ tuổi hơn đã di cư sang Mỹ cùng một tay phụ làm tóc từ Mattersburg hồi những năm sáu mươi và qua đời ở đó vì nhớ nhà, ở tuổi ba lăm. Ông ta có ba anh em, tất cả đều sống ở Burgenland, làm công làng nhàng. Hai trong số đó, giống ông ta, cũng ôm mộng làm cảnh sát lên đường đi Vienna nhưng không được nhận. Còn việc bảo tàng thì, ông ta nói, dẫu sao cũng cần tí trí tuệ. Ông ta đã học được rất nhiều từ Reger. Có người bảo Reger điên vì chỉ một người điên mới có thể, suốt mấy chục năm trời, cứ cách ngày, trừ thứ Hai, lại đến phòng trưng bày tranh của Bảo tàng Kunsthistorisches nhưng ông ta không tin điều đó. Herr Reger là một người trí tuệ, học thức, Irrsigler nói. Đúng, tôi bảo Irrsigler, Herr Reger không chỉ là người trí tuệ, học thức mà còn là người nổi tiếng, suy cho cùng thì ông ấy đã học nhạc ở Leipzig và Vienna, viết phê bình âm nhạc cho The Times và giờ vẫn viết cho The Times, tôi nói. Không phải quân cạo giấy thường, tôi nói, mà là một học giả âm nhạc theo nghĩa chuẩn nhất của từ này, với sự nghiêm cẩn của một nhân cách vĩ đại. Không thể đem so Reger với thứ bồi bút lải nhải cứ không ngừng xối thứ rác lải nhải của chúng khắp các nhật báo. Reger là một triết gia đích thực, tôi nói với Irrsigler, một triết gia trong toàn bộ ý nghĩa của từ này. Trong hơn ba mươi năm, Reger đã viết phê bình cho The Times, những tiểu luận âm nhạc-triết học một ngày nào đó chắc chắn sẽ được tập hợp và xuất bản thành sách. Những chuyến thăm Bảo tàng Kunsthistorisches hẳn là một trong những điều kiện tiên quyết để Reger có thể viết cho The Times đúng theo cách đã viết cho The Times, tôi nói với Irrsigler, kệ Irrsigler có hiểu tôi hay không, có lẽ Irrsigler chẳng hiểu gì, tôi đã nghĩ thế và vẫn nghĩ thế. Ở Áo chẳng ai biết Reger viết phê bình âm nhạc cho The Times cả, cùng lắm chỉ vài người, tôi nói với Irrsigler. Tôi còn có thể nói rằng Reger là một triết gia kín, tôi nói với Irrsigler, mặc dù đó là một câu khá ngu để nói với Irrsigler. Ở Bảo tàng Kunsthistorisches, Reger tìm thấy cái ông ấy không thấy ở bất cứ nơi nào khác, tôi nói với Irrsigler, tất cả những gì quan trọng, tất cả những gì hữu ích cho suy nghĩ và công việc của ông ấy. Người ta có thể bảo Reger điên nhưng không hề, tôi nói với Irrsigler, Vienna và Áo ngó lơ Reger, tôi nói với Irrsigler, nhưng ở London và Anh, thậm chí ở Mỹ nữa, ai cũng biết Reger, biết Reger là một chuyên gia đích thực, tôi nói với Irrsigler. Và đừng quên rằng nhiệt độ lý tưởng là mười tám độ C, chính là nhiệt độ được duy trì quanh năm ở Bảo tàng Kunsthistorisches, tôi nói thêm với Irrsigler. Irrsigler chỉ gật đầu. Reger là một nhân vật được kính trọng trong giới học giả âm nhạc, hôm qua tôi nói với Irrsigler, chỉ mỗi ở đây, ở chính quê hương ông ấy, lại không ai muốn biết về ông ấy, ngược lại, ở chính quê hương ông ấy, Reger, người đã bỏ xa tất cả những kẻ khác trong lĩnh vực của mình, bỏ xa toàn bộ sự kém cỏi tỉnh lẻ tởm lợm ấy, chỉ ở đây ông ấy bị hắt hủi, phải, bị hắt hủi ở chính nước Áo quê hương ông ấy, tôi nói với Irrsigler. Một thiên tài như Reger bị căm ghét ở đây, tôi nói với Irrsigler, kệ cho Irrsigler hoàn toàn không hiểu khi tôi nói với ông ta rằng một thiên tài như Reger bị căm ghét ở đây, kệ cả chuyện không chắc có thực sự đúng không khi bảo Reger là thiên tài, một học giả thiên tài và một con người thiên tài, tôi ngẫm nghĩ, phải, Reger đúng là như thế. Thiên tài và nước Áo không đi đôi với nhau, tôi nói. Ở Áo, người ta phải đủ tầm thường để được lắng nghe và coi trọng, người ta phải đủ kém cỏi, đủ lươn lẹo tỉnh lẻ, phải có đầu óc nhược tiểu để được chấp nhận. Một thiên tài hay một bộ óc xuất chúng sớm muộn gì cũng bị cho phăng teo một cách nhục nhã ở đây, tôi nói với Irrsigler. Chỉ những người như Reger, những người chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay ở đất nước tởm lợm này, mới trụ được trong bầu không khí tha hóa và thù hằn, áp bức và thờ ơ của thói hèn hạ phản trí thức nhan nhản khắp nước Áo, chỉ những người có phẩm cách vượt trội và trí tuệ sắc nhọn, không thể tha hóa. Dù Herr Reger không phải là không giao hảo với giám đốc bảo tàng này và dù ông ấy biết bà ta rất rõ, tôi bảo Irrsigler, ông ấy sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc xin bà giám đốc bất cứ đặc quyền gì. Herr Reger đã quyết định sẽ thông báo cho ban quản lý, tức là bà giám đốc, về tình trạng tồi tàn của bọc ghế trong các phòng và hẳn còn có thể dụ bà ta đóng ghế mới, và thế là ghế đã được bọc lại, lại còn bọc rất trang nhã, tôi nói với Irrsigler. Tôi không tin, tôi nói với Irrsigler, rằng ban quản lý Bảo tàng Kunsthistorisches biết là suốt hơn ba mươi năm, Herr Reger vẫn cách nhật đến đây chỉ để ngồi trên cái ghế trong Phòng Bordone, tôi không tin. Việc đó hẳn đã có thể nảy ra trong cuộc trò chuyện giữa Reger và bà giám đốc, nhưng bà giám đốc không biết chuyện đó vì Herr Reger chưa bao giờ nhắc đến nó và vì ông, Herr Irrsigler, đã luôn giữ im lặng, bởi vì chính Herr Reger muốn ông giữ im lặng về việc Herr Reger đã đến Bảo tàng Kunsthistorisches cách nhật trừ thứ Hai suốt hơn ba mươi năm nay. Kín đáo, đó là ưu điểm của ông, tôi nói với Irrsigler, tôi ngẫm nghĩ trong khi nhìn Reger - vẫn đang nhìn Người râu trắng của Tintoretto - đồng thời đang bị Irrsigler nhìn. Reger là một người xuất chúng và những người xuất chúng cần phải được xử lý cẩn thận, hôm qua tôi bảo Irrsigler như thế. Việc chúng tôi, tức là Reger và tôi, đến bảo tàng hai ngày liên tiếp là không thể, hôm qua tôi nói với Irrsigler, vậy nhưng tôi quay lại đúng hôm nay mà không phải ngày nào khác bởi vì Reger đã nói là muốn tôi làm thế, nhưng vì sao hôm nay Reger đến đây thì tôi không biết, tôi ngẫm nghĩ, nhưng tôi sẽ sớm biết thôi. Irrsigler cũng khá ngỡ ngàng khi thấy tôi đến đây hôm nay, bởi vì mới hôm qua tôi còn nói với ông ta rằng việc tôi đến Bảo tàng Kunsthistorisches hai ngày liên tiếp là không thể, cũng như cho đến giờ, chuyện đó với Reger đã là không thể. Vậy mà hôm nay cả hai chúng tôi, Reger và tôi, lại cùng quay lại Bảo tàng Kunsthistorisches, nơi chúng tôi mới đến hôm qua. Điều này hẳn đã khiến Irrsigler bối rối, tôi nghĩ. Có khả năng, tôi nghĩ, là vì nhầm lẫn mà đến Bảo tàng Kunsthistorisches hai ngày liên tiếp nhưng chắc chắn, tôi nghĩ, chỉ có thể là mình Reger nhầm hoặc mình tôi nhầm chứ chắc chắn không có chuyện cả hai chúng tôi, Reger và tôi, cùng nhầm. Hôm qua Reger đã nói rất rõ với tôi, Ngày mai hãy đến đây, tôi vẫn có thể nghe thấy Reger nói thế. Nhưng tất nhiên, Irrsigler không nghe gì, không biết gì và do đó cực kỳ ngỡ ngàng khi thấy hôm nay Reger và tôi cùng quay lại bảo tàng. Nếu hôm qua Reger không nói với tôi: Ngày mai hãy đến đây thì hôm nay tôi sẽ không đến Bảo tàng Kunsthistorisches, có lẽ phải tuần sau, vì không giống Reger cứ cách nhật lại đến Bảo tàng Kunsthistorisches suốt hàng chục năm, tôi không cách nhật đến Bảo tàng Kunsthistorisches mà chỉ đến khi tôi thấy thích, khi có hứng. Và nếu muốn gặp Reger thì tôi không nhất thiết phải đến Bảo tàng Kunsthistorisches, tôi chỉ cần đến Khách sạn Đại sứ, nơi ông ấy luôn ghé qua sau khi rời Bảo tàng Kunsthistorisches. Ở Đại sứ, tôi có thể gặp Reger hằng ngày nếu muốn. Ở Đại sứ, ông ấy có một góc cạnh cửa sổ, ngay cạnh cái gọi là bàn Do Thái, trước bàn Hungary, cái bàn đứng ngay sau bàn Ả Rập nếu nhìn từ bàn của Reger về phía cửa ra tiền sảnh. Tất nhiên tôi thích đến Đại sứ hơn là đến Bảo tàng Kunsthistorisches, nhưng vì không thể đợi tới khi Reger đến Đại sứ được, tôi đến Bảo tàng Kunsthistorisches trước mười một giờ một chút để gặp ông ấy, người cha tưởng tượng của tôi. Buổi sáng, ông ấy thoải mái với không khí mười tám độ C ở Bảo tàng Kunsthistorisches, buổi chiều thì ông ấy dễ chịu hơn ở Đại sứ ấm áp, nơi luôn được giữ ở mức hai ba độ. Buổi chiều, tôi không thích suy nghĩ nữa và cũng không suy nghĩ cường độ cao nữa, Reger nói, thế nên tôi có thể chịu được Đại sứ. Bảo tàng Kunsthistorisches là xưởng sản xuất tinh thần, ông ấy bảo, còn Đại sứ, theo cách nào đó, là máy xử lý các ý của ông ấy. Ở Bảo tàng Kunsthistorisches, tôi bị phơi ra, còn ở Đại sứ, tôi được che chắn, ông ấy nói. Tương phản giữa Bảo tàng Kunsthistorisches và Đại sứ là thứ mà suy nghĩ của tôi cần hơn bất cứ điều gì khác, một bên bị phơi trần, một bên được che chắn, một bên là không khí Bảo tàng Kunsthistorisches, một bên là không khí Đại sứ, được che chắn và bị phơi trần, Atzbacher thân mến của tôi; bí mật của suy nghĩ ở tôi hoàn toàn nằm ở chỗ sáng thì tôi đến Bảo tàng Kunsthistorisches, chiều thì qua Đại sứ. Còn gì có thể đối lập hơn Bảo tàng Kunsthistorisches, nghĩa là phòng trưng bày tranh của Bảo tàng Kunsthistorisches và Đại sứ nữa. Tôi đã biến Bảo tàng Kunsthistorisches thành một cái nếp tinh thần cho mình, cũng giống như Đại sứ, ông ấy nói. Chất lượng các bình luận của tôi cho tờ The Times, mà tôi đã cộng tác ba mươi tư năm nay, ông ấy nói, phụ thuộc cả vào việc tôi đến Bảo tàng Kunsthistorisches và Đại sứ, Bảo tàng Kunsthistorisches buổi sáng cách ngày, Đại sứ buổi chiều hằng ngày. Hoàn toàn là nhờ cái nếp này mà tôi trụ được sau cái chết của vợ tôi. Atzbacher thân mến của tôi ạ, không có cái nếp ấy thì tôi đã chết rồi, Reger nói, hôm qua. Ai cũng cần một cái nếp thì mới trụ được. Đó có thể là cái nếp điên rồ nhất đời nhưng ông ấy cần nó. Tình trạng của Reger dường như đã được cải thiện, cách nói năng của ông ấy lại giống như trước khi vợ qua đời. Ông ấy nói là dù đã vượt qua điểm chết, ông ấy vẫn sẽ phải đau khổ cả đời vì bị vợ bỏ lại. Ông ấy cứ nói đi nói lại là cả đời mình đã kẹt cứng trong niềm tin sai lầm rằng ông ấy sẽ bỏ lại vợ, rằng ông ấy sẽ là người chết trước, và vì cái chết của bà đến quá đột ngột nên chỉ mấy ngày trước khi bà ấy chết, ông ấy vẫn tin chắc rằng bà ấy sẽ trụ lại sau mình; bà ấy là người khỏe mạnh, tôi là người bệnh tật, phải, chúng tôi đã luôn sống với niềm tin không suy suyển đó, ông ấy nói. Chẳng có ai khỏe mạnh như vợ tôi, bà ấy sống cả đời khỏe mạnh, còn tôi đã luôn ốm yếu, lúc nào cũng cận kề cái chết, ông ấy nói. Bà ấy là người khỏe mạnh, bà ấy là tương lai, tôi đã luôn là người tật bệnh, tôi là quá khứ, ông ấy nói. Việc sẽ đến lúc ông ấy phải sống mà không có vợ, phải thực sự sống một mình là điều ông ấy chưa bao giờ nghĩ tới, chưa bao giờ hình dung nổi, ông ấy nói. Còn nếu bà ấy chết trước thì mình sẽ theo bà ấy vào cõi chết càng chóng càng hay, ông ấy đã luôn nghĩ vậy. Giờ đây, một mặt ông ấy chấp nhận rằng đã lầm khi quá tin là vợ sẽ chết sau và, mặt khác, ông ấy chấp nhận cả việc mình đã không tự sát sau cái chết của vợ, rằng ông đã không theo bà vào cõi chết như dự định. Tôi đã luôn biết rằng bà ấy là tất cả đối với tôi và đương nhiên tôi không thể nghĩ đến việc tiếp tục tồn tại sau bà ấy, Atzbacher yêu quý của tôi ạ, ông ấy nói. Chỉ vì sự yếu đuối con người, dù thực sự nó không xứng đáng với một con người, chỉ vì hèn nhát mà tôi đã không theo bà ấy vào cõi chết, mà ngược lại, bây giờ tôi thấy (hôm qua ông ấy nói) tôi đã trở nên mạnh hơn, gần đây có những lúc tôi còn thấy mình mạnh hơn bao giờ hết. Bây giờ tôi bám vào cuộc sống nhiều hơn xưa, dù anh có tin hay không thì thực tế là tôi đang bám vào cuộc sống với lòng nhiệt thành cuồng dại. Tôi không muốn thừa nhận điều đó nhưng tôi sống mãnh liệt hơn cả trước khi bà ấy qua đời. Đúng là phải hơn một năm tôi mới có thể nghĩ thế, nhưng bây giờ tôi đang nghĩ thế mà không hề xấu hổ, ông ấy nói. Điều khiến tôi chán nản hơn cả là việc một người tiếp thu giỏi như vợ tôi lại chết với khối kiến thức khổng lồ mà tôi đã truyền cho bà ấy, việc bà ấy mang khối kiến thức khổng lồ đó vào cõi chết, đó là điều tàn khốc nhất, tàn khốc hơn nhiều so với việc bà ấy chết, ông ấy nói. Ta ép và nén mọi thứ trong mình vào một người, và rồi người ấy rời bỏ ta, chết đi, mãi mãi, ông ấy nói. Đó là còn chưa kể sự đột ngột của nó, việc ta không hề thấy trước cái chết của người ấy, không một phút nào tôi thấy trước cái chết của vợ tôi, tôi đã luôn nhìn bà ấy như thể bà ấy sống đời vĩnh cửu, chẳng bao giờ nghĩ tới cái chết của bà ấy, ông nói, cứ như thể bà ấy thực sự sẽ sống với khối kiến thức của tôi vào vô hạn, như một vô hạn, ông ấy nói. Đúng là một cái chết từ trên trời rơi xuống, ông ấy nói. Ta coi người ấy là vô hạn, đó là sai lầm. Nếu tôi biết bà ấy sắp chết thì tôi đã hành động khác hẳn, vì tôi không biết bà ấy sẽ chết trước tôi nên tôi đã hành động thật ngơ ngẩn, cứ như thể bà ấy tồn tại vô hạn, đến vô hạn, trong khi bà ấy đâu có được tạo ra cho vô hạn mà cho hữu hạn, giống như tất cả chúng ta. Chỉ khi ta yêu một người với tình yêu không biết đến giới hạn như tôi yêu vợ tôi thì ta mới thực sự tin rằng người ấy sẽ sống mãi mãi, đến vô hạn. Chưa bao giờ ông ấy đội mũ khi ngồi trên cái ghế trong Phòng Bordone và việc ông ấy yêu cầu tôi đến bảo tàng hôm nay khiến tôi thấy bất an, bởi vì đây quả thật là sự bất thường nhất có thể hình dung, tôi nghĩ, việc ông ấy đội mũ khi ngồi trên cái ghế trong Phòng Bordone, sự bất thường này thuộc loại khác hẳn những sự bất thường khác. Irrsigler đã vào Phòng Bordone và bước tới chỗ Reger, thì thầm gì đó vào tai ông ấy rồi đi ngay khỏi Phòng Bordone. Lời của Irrsigler, tuy thế, chẳng tác động gì đến Reger, ít nhất là nhìn từ bên ngoài, sau lời của Irrsigler, Reger vẫn ngồi nguyên trên ghế, y như trước lời của Irrsigler. Tuy thế tôi vẫn nghĩ xem Irrsigler đã nói gì với Reger. Nhưng tôi ngay lập tức từ bỏ việc nghĩ xem Irrsigler đã nói gì với Reger để quan sát Reger và đồng thời nghe thấy những gì ông ấy nói với tôi: Người ta cứ ủn nhau vào Bảo tàng Kunsthistorisches, thậm chí còn lặn lội từ tận Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đến Vienna chỉ để đi Bảo tàng Kunsthistorisches, để rồi khi về đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, họ có thể nói rằng họ đã đến Bảo tàng Kunsthistorisches ở Vienna, chuyện thật nực cười vì Bảo tàng Kunsthistorisches đâu phải là Prado, cũng không phải Bảo tàng Lisbon, Bảo tàng Kunsthistorisches còn lâu mới đạt đến mức ấy. Bảo tàng Kunsthistorisches còn chẳng có Goya, thậm chí không có cả EI Greco. Tôi quan sát Reger, đồng thời nghe thấy những gì ông ấy nói với tôi hôm qua. Bảo tàng Kunsthistorisches còn chẳng có Goya, thậm chí không có cả EI Greco. Tất nhiên không có EI Greco cũng chẳng sao vì EI Greco không thực sự là họa sĩ lớn, Reger nói, nhưng không có Goya thì đúng là thảm họa đối với một bảo tàng như Kunsthistorisches. Không có Goya, ông ấy nói, thì cũng chẳng khác gì nhà Habsburg, anh biết đấy, chẳng hiểu gì nghệ thuật, chắc cũng có tai nhạc nhưng chẳng hiểu gì nghệ thuật. Bọn họ nghe Beethoven nhưng không thấy Goya. Họ không muốn có Goya. Bọn họ cứ dỏng tai lên mà nghe Beethoven vì với họ âm nhạc chẳng có gì nguy hiểm nhưng Goya thì không được phép vào Áo. Phải, nhà Habsburg có chính xác thứ cảm năng Công giáo uốn éo ngự trị trong bảo tàng này. Bảo tàng Kunsthistorisches chính xác là cảm năng Habsburg uốn éo méo mó về nghệ thuật - uốn éo phát buồn nôn. Cái cách ta nói chuyện với những kẻ chẳng quan tâm gì mình, ông ấy nói, chỉ vì cần người nghe. Ta cần người nghe cũng như cần một cái loa mồm, ông ấy nói. Cả đời chúng ta chỉ ước có một cái loa mồm lý tưởng mà không tìm được, vì không có cái loa mồm nào lý tưởng hết. Ta có một Irrsigler, ông ấy nói, nhưng ta vẫn luôn tìm kiếm một Irrsigler lý tưởng. Ta biến một tâm hồn chất phác thành cái loa mồm của mình và khi ta đã biến con người chất phác ấy thành cái loa mồm của mình, ta sẽ đi kiếm một cái loa mồm khác, một kẻ khác hợp làm cái loa mồm của ta hơn. Sau cái chết của vợ tôi, ít nhất thì tôi có Irrsigler, ông ấy nói. Irrsigler, giống như tất tật người Burgenland, chỉ là một tay Burgenland ngu độn trước khi gặp tôi, Reger nói. Ta cần một tâm hồn ngu độn để làm loa mồm cho mình. Một tay Burgenland ngu độn rất hợp làm loa mồm, Reger nói. Đừng hiểu lầm tôi, tôi quý trọng Irrsigler, giờ tôi cần ông ta như cần một miếng bánh mì, tôi đã cần ông ta hàng mấy chục năm nay nhưng chỉ một kẻ ngu độn như Irrsigler mới có thể dùng làm loa mồm được, hôm qua Reger nói. Tất nhiên, ta khai thác một tay ngu độn như khai thác một con người, ông ấy nói, nhưng mặt khác, chính nhờ sự khai thác của ta, một tay ngu độn mới có thể biến thành một con người, chính bằng cách biến hắn thành cái loa mồm của ta và gò các ý của ta vào đầu hắn, ban đầu phải hơi ồ ạt, tất nhiên rồi, ta biến một tay Burgenland ngu độn, giống như Irrsigler, thành một con người Burgenland. Trước khi gặp tôi, Irrsigler không có khái niệm gì về âm nhạc hay bất kỳ nghệ thuật nào, về cơ bản chẳng có gì, thậm chí còn không nhận ra sự ngu độn của chính mình. Còn giờ Irrsigler đã vượt lên tất cả lũ lảm nhảm lịch sử nghệ thuật ngày nào cũng lảng vảng ở đây, hành hạ lỗ tai người ta bằng những lảm nhảm lịch sử nghệ thuật của chúng. Irrsigler có trình độ cao hơn tất cả những con lợn giảng lịch sử nghệ thuật đang ngày ngày tàn phá hàng chục lớp học bằng những lảm nhảm liên tu bất tận. Sử gia nghệ thuật mới đúng là lũ phá hoại nghệ thuật, Reger nói. Sử gia nghệ thuật lảm nhảm về nghệ thuật cho đến khi giết chết nó bằng sự lảm nhảm. Nghệ thuật bị giết bởi sự lảm nhảm của sử gia nghệ thuật. Lạy Chúa, tôi thường nghĩ, khi ngồi trên cái ghế này, nhìn đám sử gia nghệ thuật lùa từng đàn chiên ngơ ngác đi qua, rằng bọn họ thật đáng thương, nghệ thuật bị đuổi khỏi tâm hồn họ, vĩnh viễn, bởi chính đám sử gia nghệ thuật. Nghề sử gia nghệ thuật là thứ nghề hèn hạ nhất, và một sử gia nghệ thuật lảm nhảm, nhưng sử gia nghệ thuật nào mà chả lảm nhảm, thì chỉ đáng bị quất roi tống đi, tống cổ khỏi thế giới nghệ thuật, Reger nói, tất tật sử gia nghệ thuật đều đáng bị tống cổ khỏi thế giới nghệ thuật, bởi vì chính sử gia nghệ thuật mới đúng là lũ phá hoại nghệ thuật và chúng ta không nên để nghệ thuật bị phá hoại bởi lũ phá hoại đội lốt sử gia nghệ thuật. Đến là buồn nôn khi phải nghe một tay sử gia nghệ thuật giảng, ông ấy nói, ta thấy nghệ thuật mà hắn đang lảm nhảm bị hủy hoại, nghệ thuật teo lại và bị hủy hoại trong mớ lảm nhảm mà sử gia nghệ thuật ọe ra. Hàng nghìn, đúng hơn là hàng vạn sử gia nghệ thuật đã hủy hoại nghệ thuật bằng mớ lảm nhảm của chúng, ông ấy nói. Sử gia nghệ thuật mới chính là bọn thảm sát nghệ thuật, nếu ta nghe một sử gia nghệ thuật giảng, ta cũng tham gia vào việc phá hủy nghệ thuật, sử gia nghệ thuật xuất hiện ở đâu thì nghệ thuật ở đó bị phá hủy, đó là sự thật. Đời tôi hiếm khi căm ghét thứ gì hơn lũ sử gia nghệ thuật, Reger nói. Nghe Irrsigler giảng một bức tranh cho một vị khách ngây thơ là một niềm vui thuần khiết, Reger nói, bởi vì khi giảng một tác phẩm nghệ thuật, ông ta không ba hoa, ông ta không lảm nhảm, ông ta chỉ là một người truyền dạy khiêm nhường, khơi mở cho người nhìn, ông ta không đóng nó lại bằng mớ lảm nhảm của ông ta. Đó là điều tôi đã dạy ông ta, Irrsigler, suốt mấy chục năm, làm sao bày tác phẩm ra như một đối tượng cho chiêm ngưỡng. Nhưng tất nhiên tất cả những gì Irrsigler nói đều đến từ tôi, Reger nói thêm, vì ông ta đâu có gì của riêng mình, nhưng ông ta đã học được những gì tốt nhất trong óc tôi, chỉ học mót nhưng đôi khi vẫn hữu ích. Đối với một nhà âm nhạc học như tôi, cái được gọi là mỹ thuật tỏ ra cực kỳ hữu ích, Reger nói, càng tập trung vào âm nhạc học và càng mắc kẹt trong âm nhạc học, tôi lại càng dồn sức vào mỹ thuật; ở chiều ngược lại, tôi nghĩ một họa sĩ sẽ tiến rất mau nếu, chẳng hạn, anh ta dâng mình cho âm nhạc, tức là nếu anh ta đã quyết định theo đuổi hội họa suốt đời thì anh ta cũng nên theo đuổi âm nhạc suốt đời. Mỹ thuật là bổ sung hoàn hảo cho âm nhạc, hai cái ích lợi lẫn nhau, ông ấy nói. Tôi không thể tưởng tượng nổi nghiên cứu âm nhạc mà không dính đến cái gọi là mỹ thuật, đặc biệt là hội họa, ông ấy nói. Tôi xử lý các vấn đề âm nhạc giỏi như thế vì đồng thời, với không kém nhiệt thành và chuyên chú, tôi cũng lao vào hội họa. Không phải vô cớ mà hơn ba mươi năm nay tôi cứ đến Bảo tàng Kunsthistorisches. Buổi sáng, người khác đến quán rượu và nốc vài ly bia, còn tôi thì ngồi đây chiêm ngưỡng Tintoretto. Điên, hẳn anh nghĩ thế, nhưng tôi không thể làm khác được. Với một số người, niềm vui cả đời là được nốc vài ly bia ở một quán rượu nào đó vào quãng giữa buổi sáng, còn tôi thì đến Bảo tàng Kunsthistorisches. Một số người thì đi tắm lúc mười một giờ hằng ngày để vượt qua quãng ấy còn tôi thì đến Bảo tàng Kunsthistorisches. Nếu thêm vào đó ta còn có một người như Irrsigler thì ta đã có tất cả những gì mình cần, Reger nói. Thực ra từ nhỏ tôi đã ghét bảo tàng, ghét hơn mọi thứ trên đời, ông ấy nói, tôi căm thù bảo tàng, nhưng có lẽ chính vì thế mà tôi đều đặn đến đây hơn ba chục năm nay, tôi để mình chìm hẳn vào sự phi lý đã định ấy. Anh cũng biết, tôi không đến Phòng Bordone vì Bordone và quả thật cũng chẳng phải vì Tintoretto, dù tôi coi Người râu trắng là một trong những bức trác tuyệt nhất trên đời, tôi đến Phòng Bordone chỉ vì cái ghế này và vì tác động lý tưởng của ánh sáng lên khả năng cảm nhận của tôi, thực ra là vì nhiệt độ lý tưởng, nhất là ở Phòng Bordone, và vì Irrsigler, ông ta chỉ thực sự là Irrsigler trong Phòng Bordone. Sự thật là tôi không bao giờ có thể chịu đựng được việc ở gần, chẳng hạn, Velazquez, chưa kể Rigaud và Largilliere mà tôi tránh như tránh dịch. Ở đây, trong Phòng Bordone, tôi có điều kiện tốt nhất để suy nghĩ, và nếu tôi muốn đọc bất cứ thứ gì trên cái ghế này, chẳng hạn Montaigne yêu quý hay Pascal có lẽ còn yêu quý hơn hay Voltaire, mà tôi còn yêu hơn nữa, anh thấy đấy, các tác giả yêu quý của tôi đều là người Pháp, không có một người Đức nào, tôi có thể làm điều đó ở đây theo cách dễ chịu và hiệu quả nhất. Phòng Bordone là phòng suy nghĩ, cũng là phòng đọc sách của tôi. Và nếu tôi muốn một hớp nước thì Irrsigler sẽ mang cho tôi một cốc, tôi thậm chí không cần phải đứng dậy. Đôi khi người ta ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây, ngồi trên ghế, đọc Voltaire và uống một cốc nước trắng, họ sửng sốt, lắc đầu rồi đi tiếp, như thể họ coi tôi là một thằng điên được nhà nước cấp phép đặc biệt để mua vui cho thiên hạ. Nhiều năm nay tôi không đọc sách ở nhà, ở đây trong Phòng Bordone, tôi đã đọc hàng trăm cuốn sách, nhưng không có nghĩa là tôi đọc chúng trong Phòng Bordone từ đầu đến cuối, cả đời tôi chưa bao giờ đọc từ đầu đến cuối một cuốn sách, tôi đọc như một lật thủ siêu quần, thích lật trang hơn là đọc, và do đó lật hàng chục, thậm chí hàng trăm trang trước khi đọc một trang; nhưng khi kẻ này đọc một trang, anh ta đọc nó kỹ hơn bất kỳ ai và với sự chuyên chú vượt xa mọi tưởng tượng. Tôi là người lật trang hơn là người đọc, anh nên biết thế, và tôi thích lật trang không kém thích đọc, đời tôi lật trang nhiều hơn đọc cả triệu lần và tôi luôn thấy ở việc lật trang cái sướng và niềm thỏa thuê trí tuệ ít nhất không kém gì việc đọc. Chỉ đọc ba trang của một cuốn sách bốn trăm trang bao giờ cũng tốt hơn ngàn lần so với một độc giả thông thường cái gì cũng đọc nhưng chẳng bao giờ đọc kỹ dù chỉ một trang. Thà đọc mười hai dòng chuyên chú và xuyên thấu chúng còn hơn là đọc cả cuốn sách theo kiểu độc giả thông thường, cuối cùng bọn họ cũng đâu hiểu cuốn sách hơn một khách đi máy bay hiểu vùng đất hắn bay qua. Hắn còn chẳng nhận ra được các công tua. Giờ người ta đọc mọi thứ đúng kiểu cưỡi ngựa xem hoa. Cái gì cũng đọc nhưng chẳng hiểu gì sất. Tôi bước vào một cuốn sách và nồng nhiệt dìm mình, từ đầu đến chân, anh phải thấy là như thế, vào một hay hai trang của một tiểu luận triết học như thể bước vào một phong cảnh, một mẩu của tự nhiên, một cơ quan chính quyền, một chi tiết của trái đất, tùy anh gọi, tôi thâm nhập nó, đâm xuyên nó bằng tất cả những gì tôi có, không phải chỉ một nửa sức lực hay một nửa tinh thần, tôi dò từng phần của nó, và sau khi đã dò thấu chân tơ kẽ tóc, tôi mới rút ra kết luận về chỉnh thể. Kẻ nào cái gì cũng đọc thì chẳng hiểu gì, ông ấy nói. Đâu cần phải đọc toàn bộ Goethe hay Kant, cũng chẳng cần phải đọc hết Schopenhauer; vài trang Werther, vài trang Elective Affinities và thế là đủ để hiểu hai cuốn ấy hơn là đọc từ đầu chí cuối, làm thế chỉ tước đi cái sướng thuần khiết của việc đọc mà thôi. Nhưng sự tiết chế khủng khiếp ấy cần vô biên can đảm và sức mạnh tinh thần, ở mức mà ta hiếm khi dồn tụ được; người đọc, giống loài ăn thịt, lúc nào cũng háu đói đến phát tởm và, giống loài ăn thịt, chỉ giỏi hành hạ cái dạ dày cùng sức khỏe, cái đầu và toàn bộ trí năng mình. Ta sẽ hiểu một tiểu luận triết học hơn nhiều nếu không ăn sống nuốt tươi toàn bộ mà chỉ chọn ra một chi tiết, rồi tìm cách tiến dần đến tổng thể, nếu ta may mắn. Cái sướng của đọc nằm trong các mảnh và mẩu, cũng nhưng trong sự sống, cái sướng nằm ở mẩu cùng mảnh, còn cái toàn thể, cái hoàn hảo, cái đã xong chỉ khiến ta chán ngán. Chỉ khi đủ may mắn để biến cái toàn thể, cái đã xong, thậm chí cái hoàn hảo thành một mẩu, rồi nghiền ngẫm nó, chỉ lúc đó ta mới được hưởng cái sướng cường độ cao, đôi khi là cái sướng tối cao. Thời chúng ta trong toàn thể thì đúng là không cách nào chịu thấu, ông ấy nói, ta chỉ chịu được nó nếu nhìn ra được một mảnh của nó. Cái toàn thể, cái hoàn hảo là cái không thể chịu được, ông ấy nói. Chính vì thế mà về cơ bản, tất cả tranh ở Kunsthistorisches Museum đều không thể chịu thấu, thành thật là tôi thấy chúng rất kinh. Để có thể chịu được, tôi phải lần cho ra một sai lầm khủng khiếp trong chúng, về chúng, từng cái một, quy trình đó đến giờ vẫn luôn luôn đạt được mục tiêu biến cái gọi là tác phẩm hoàn hảo thành một mảnh, một mẩu, ông ấy nói. Sự hoàn hảo không chỉ đe dọa hủy hoại chúng ta mà còn đe dọa hủy hoại tất tật những gì được treo trên các bức tường này dưới cái danh kiệt tác. Tôi bắt đầu từ giả định rằng không có cái gì là hoàn hảo hay hoàn chỉnh, và mỗi lần biến một trong những thứ vẫn được gọi là hoàn hảo treo trên tường thành một mảnh bằng cách đi tìm một sai lầm khủng khiếp trong nó và về nó, đi tìm thất bại cốt yếu của nghệ sĩ tạo ra nó, tìm và tìm cho đến kì ra, tôi lại tiến được thêm một bước. Tôi đã tìm trong tất cả những thứ được gọi là kiệt tác ấy, tìm và phát hiện ra sai lầm khủng khiếp, thất bại cốt yếu của người tạo ra chúng, từng cái một. Hơn ba chục năm trời, anh cũng hình dung được, mưu đồ ghê gớm của tôi đã thành công. Chẳng một cái nào trong những kiệt tác trứ danh này, dẫu của ai, là hoàn hảo hay hoàn chỉnh. Điều đó làm tôi yên dạ. Nó khiến tôi về cơ bản là hạnh phúc. Chỉ khi, hết lần này đến lần khác, ta phát hiện ra rằng chẳng có cái gì gọi là hoàn chỉnh hay hoàn hảo thì ta mới có thể sống tiếp được. Ta không thể chịu đựng được cái hoàn chỉnh hay cái hoàn hảo. Ta phải đến Rome để khám phá ra rằng đại giáo đường Saint Peter là một công trình nhạt thếch, rằng ban thờ của Bernini là một kiến trúc dở hơi. Ta phải trực tiếp mặt đối mặt với Giáo hoàng và tự mình khám phá ra rằng ông ta cũng là một con người bất lực và xấu xí như bất kỳ kẻ nào khác để có thể chịu đựng được tất cả. Ta phải nghe Bach và nghe ra được ông ta đã thất bại đến thế nào, nghe Beethoven và nghe ra ông ta thất bại đến thế nào, thậm chí nghe Mozart và nghe ra ông thất bại đến thế nào. Và ta phải làm tương tự với những người được gọi là triết gia vĩ đại, ngay cả khi họ là những nghệ sĩ tinh thần mà ta yêu quý, ông ấy nói. Suy cho cùng, chúng ta yêu Pascal không phải vì ông ấy quá hoàn hảo mà vì về cơ bản ông ấy quá bất lực, cũng như chúng ta yêu Montaigne chính vì sự bất lực triền miên của ông ta, cả đời đi tìm mà không thấy, và ta cũng yêu Voltaire vì sự bất lực của ông ta. Ta yêu triết học và nhân văn chính bởi sự bất lực tuyệt đối của chúng. Ta chỉ thực sự yêu những cuốn sách không hoàn chỉnh, những cuốn sách hỗn loạn và bất lực. Cũng như thế với tất thảy mọi sự, mọi người, Reger nói, ta chỉ cảm thấy đặc biệt gắn bó với một người bởi anh ta bất lực và không hoàn chỉnh, vì anh ta hỗn loạn và không hoàn hảo. Phải, tôi nói, EI Greco, được thôi, nhưng ông già tốt tính ấy còn chẳng họa nổi một bàn tay! và tôi nói Veronese, cũng được, nhưng ông ta đâu có biết một khuôn mặt tự nhiên là thế nào. Và những gì tôi nói với anh về fugue hôm nay, hôm qua ông ấy bảo tôi, không một ai trong tất cả các nhà soạn nhạc, kể cả người vĩ đại nhất, soạn ra được một bản fugue hoàn hảo, kể cả Bach, người hiển nhiên là hiện thân của sự tĩnh tại và trong suốt trong âm nhạc. Không có bức tranh hoàn hảo, không có cuốn sách hoàn hảo, không có bản nhạc hoàn hảo, Reger nói, đó là sự thật, và sự thật này khiến một tinh thần như tôi, cả đời triền miên tuyệt vọng, có thể tiếp tục tồn tại. Tinh thần con người phải là một tinh thần khôn nguôi tìm kiếm, tìm kiếm sai lầm, sai lầm con người, tinh thần tìm kiếm thất bại. Tinh thần con người chỉ có thể là chính nó khi nó đi tìm sai lầm con người. Tinh thần con người không thể nào là tinh thần con người trừ khi nó khởi sự đi tìm sai lầm con người, Reger nói. Một tinh thần khỏe là một tinh thần biết đi tìm sai lầm con người, một tinh thần xuất chúng là một tinh thần tìm ra được những sai lầm ấy, và một tinh thần thiên tài là một tinh thần sau khi tìm ra chúng thì chỉ chúng ra và bằng mọi cách có thể, vượt qua chúng. Theo nghĩa ấy, Reger nói, cái câu lúc nào cũng được thốt ra một cách vô tri, Cứ tìm là sẽ thấy, đúng là đúng. Bất kỳ ai đi tìm các sai lầm trong hàng trăm tác phẩm được gọi là kiệt tác của bảo tàng này cũng sẽ tìm thấy chúng. Tôi đã nói là không có tác phẩm nào trong bảo tàng này không sai lầm. Anh có thể cười, ông ấy nói, anh có thể hoảng hốt, và điều đó làm tôi vui. Và tất nhiên là có lý do để suốt hơn ba mươi năm qua, tôi cứ đến Bảo tàng Kunsthistorisches chứ không phải Bảo tàng Khoa học bên kia đường. Ông ấy vẫn ngồi trên ghế, mũ đen trùm đầu, bất động, rõ ràng đã thôi nghĩ về Người Râu Trắng từ lâu và đang nghĩ về một điều gì khác hẳn đằng sau Người Râu Trắng, không phải Tintoretto mà một điều gì đó xa hẳn bảo tàng này, trong khi tôi dù đang nhìn Reger và Người râu trắng nhưng cũng nhìn đằng sau đó, nhìn thấy Reger đang giảng về fugue cho tôi hôm qua. Trước đây tôi đã nghe ông ấy giảng về fugue nhiều đến nỗi hôm qua tôi không thật chú tâm nghe ông ấy nữa, và dù tôi vẫn theo dõi những gì ông ấy nói, toàn những chuyện thú vị - chẳng hạn những lần Schumann thử viết fugue - suy nghĩ của tôi đã ở chỗ khác. Tôi nhìn Reger ngồi trên ghế, đằng sau là Người râu trắng, và tôi lại thấy Reger lần nữa, còn nồng nhiệt hơn trước, đang cố giảng cho tôi hiểu nghệ thuật fugue, tôi thấy tôi nghe Reger nói nhưng tôi cũng thấy tôi đang mải nhìn suốt tuổi thơ tôi và nghe những giọng vọng từ tuổi thơ, giọng các anh chị em tôi, giọng mẹ tôi, giọng ông bà tôi ở nông thôn. Khi còn nhỏ, tôi từng khá hạnh phúc khi ở nông thôn nhưng tôi luôn hạnh phúc khi quay lại thành phố, cũng như sau này và cho đến ngày nay tôi vẫn hạnh phúc hơn ở thành phố so với ở nông thôn. Giống như tôi luôn hạnh phúc trong nghệ thuật hơn trong tự nhiên, tự nhiên luôn là một sự kỳ dị với tôi, cả đời, trong khi tôi luôn cảm thấy an toàn trong nghệ thuật. Cả quãng thơ ấu, thời kỳ tôi chủ yếu sống trong vòng tay ông bà ngoại và nhìn chung thực sự hạnh phúc, tôi vẫn luôn thấy an toàn, như ở nhà trong cái gọi là thế giới nghệ thuật chứ không phải trong tự nhiên, thứ mà tôi luôn luôn ngưỡng mộ nhưng cũng luôn luôn sợ hãi, và điều ấy đến giờ vẫn không thay đổi, tôi chưa bao giờ thấy ở nhà trong tự nhiên nhưng luôn luôn thấy thế trong nghệ thuật và nhất là trong âm nhạc. Từ khi nhớ được, tôi đã chẳng yêu gì hơn âm nhạc, tôi ngẫm nghĩ, nhìn xuyên qua Reger, nhìn xa khỏi bảo tàng, nhìn hút thời thơ ấu. Tôi luôn yêu những cú nhìn như thế vào tuổi thơ đã qua từ lâu, tôi tuân phục chúng và khai thác chúng bằng mọi cách có thể, không ngừng cầu cho cái nhìn vào tuổi thơ đừng tắt mất, tôi luôn luôn nghĩ thế. Tuổi thơ của Reger thì thế nào? Tôi không biết nhiều về nó, tôi ngẫm nghĩ, Reger không kể về thời thơ ấu. Còn Irrsigler? Ông ta không thích nói về nó, cũng không thích nhìn lại nó. Càng về trưa, càng nhiều nhóm người đến bảo tàng, một loạt khách từ các nước Đông Âu vừa đổ bộ gần đây, suốt nhiều ngày, tôi thấy các nhóm khách từ Georgia thuộc Liên Xô, được hướng dẫn viên nói tiếng Nga ủn qua phòng trưng bày, đúng là ủn qua vì bọn họ đâu có đi được, họ líu ríu hớt hải, về cơ bản là hoàn toàn chẳng chú tâm, đờ đẫn suy kiệt bởi những ấn tượng cứ không ngớt dội bom lên đầu suốt hành trình đi Vienna. Tuần trước tôi thấy một người đàn ông từ Tbilisi tách khỏi một trong các nhóm Cáp-ca và cố gắng tự vạch đường cho mình trong bảo tàng, ra là một họa sĩ, anh ta hỏi tôi về Gainsborough, tôi giúp anh ta và cho anh ta biết phải tìm Gainsborough ở đâu. Cuối cùng, sau khi nhóm của anh ta đã rời bảo tàng, anh ta tiến lại hỏi tôi về Khách sạn Wandl, nơi nhóm của anh ta đang ở. Anh ta đã dành nửa giờ trước Phong cảnh Suffolk mà chẳng nghĩ tới nhóm của mình lấy nửa giây, đây là lần đầu tiên lần đầu tiên anh ta đến Trung Âu và lần đầu tiên anh ta nhìn thấy một bức Gainsborough nguyên bản. Gainsborough là đỉnh cao của chuyến đi, anh ta nói bằng một thứ tiếng Đức tốt bất ngờ rồi quay đi và rời khỏi bảo tàng. Tôi đề nghị giúp anh ta tìm Khách sạn Wandl nhưng anh ta từ chối. Một họa sĩ trẻ, khoảng ba mươi tuổi, đi cùng một nhóm du khách đến Vienna, ngắm Phong cảnh Suffolk và nói rằng ngắm Phong cảnh Suffolk là đỉnh cao của cả chuyến đi. Việc này khiến tôi suy nghĩ suốt buổi chiều hôm sau, tràn sang cả buổi tối. Ở Tbilisi, anh ta vẽ như thế nào? tôi không ngớt tự hỏi mình rồi cuối cùng gạt câu hỏi ấy đi, thấy nó thật ngớ ngẩn. Gần đây đã có nhiều người Ý hơn người Pháp, nhiều người Anh hơn người Mỹ đến thăm Bảo tàng Kunsthistorisches. Người Ý, với sự am hiểu bẩm sinh về nghệ thuật, luôn làm như thể bọn họ đã được khai tâm ngay từ lúc chào đời. Người Pháp thích mang bộ mặt chán đời lượn lờ quanh bảo tàng còn người Anh thì làm như cái gì cũng đã biết, đã thấy. Người Nga lúc nào cũng tràn trề ngưỡng mộ, trong khi người Ba Lan nhìn mọi thứ bằng nửa con mắt. Người Đức ở Bảo tàng Kunsthistorisches vừa lê chân qua các phòng vừa săm soi catalogue, hiếm khi kịp nhìn bản gốc treo trên tường, càng đi càng bò sâu vào catalogue, đến trang cuối thì cũng vừa tới lối ra. Người Áo, đặc biệt là người Vienna, hiếm khi đến Bảo tàng Kunsthistorisches, trừ khi là vì bắt buộc, như nghĩa vụ hằng năm của hàng nghìn lớp học Áo. Các lớp học được lũ giáo viên dắt theo, cả một công cuộc phá hoại kinh hoàng bởi vì, trong vô vàn chuyến thăm Bảo tàng Kunsthistorisches ấy, lũ giáo viên, với cái đầu trường lớp chật hẹp, đã bóp nghẹt mọi tri nhận mà học sinh có thể cảm thấy với những bức tranh và những người tạo ra chúng. Đần và xuẩn, giáo viên sớm giết sạch mọi tình cảm nhen nhóm nơi những học sinh do bọn chúng phụ trách, và không chỉ là tình cảm đối với hội họa. Chuyến thăm bảo tàng, nơi chúng bắt những những nạn nhân vô tội của mình phải chịu đựng sự đần độn và ba hoa đần độn của chúng, do đó trở thành chuyến thăm bảo tàng cuối cùng của bất kỳ học sinh nào. Chỉ một lần bị lôi đến Bảo tàng Kunsthistorisches cùng giáo viên, những học sinh ấy sẽ không bao giờ quay lại đó nữa chừng nào còn sống. Chuyến thăm đầu tiên của những người trẻ tuổi ấy là chuyến thăm cuối cùng. Trong những chuyến thăm ấy, giáo viên hủy hoại vĩnh viễn tình yêu nghệ thuật của những học sinh mà mình phụ trách, đó là sự thật. Giáo viên nắn hỏng học sinh, đó là sự thật, một sự thật có độ dài thế kỷ, nhất là giáo viên Áo, bọn họ đã hủy hoại toàn bộ cảm năng nghệ thuật nơi học sinh, ngay từ đầu; tất cả người trẻ tuổi đều có khả năng tiếp thu mọi thứ, bao gồm nghệ thuật, nhưng giáo viên đã đuổi sạch nghệ thuật ra khỏi họ; những cái đầu đặc cứng của lũ giáo viên Áo vẫn tiếp tục húc cho vỡ nát khát khao nghệ thuật của học sinh, khát khao bất cứ thứ gì mang tính nghệ thuật mà tất cả người trẻ tuổi vốn say mê và thích thú theo lối tự nhiên nhất. Thế nhưng giáo viên là loài petit-bourgeois từ trong ra ngoài và theo bản năng, chúng chống lại sự hào hứng và nhiệt tình của học sinh đối với nghệ thuật bằng cách bóp nghiến nghệ thuật và nói chung bất cứ cái gì mang tính nghệ thuật ở trường thành một dạng thu âm kinh tởm cùng thứ hợp xướng kinh tởm và kém cỏi không kém, chỉ có tác dụng khiến học sinh chán ngán. Tức là, ngay từ đầu, chúng đã chặn mọi tiếp xúc nghệ thuật của học sinh. Chính giáo viên cũng đâu biết nghệ thuật là gì, nên làm sao có thể giải thích hay dạy cho học sinh biết nghệ thuật là gì, chúng không dẫn học sinh đến với nghệ thuật mà đẩy học sinh văng khỏi nghệ thuật, quăng học sinh vào cái thứ nghệ thuật ứng dụng của nhạc cụ và hát hò sướt mướt, tởm lợm, chỉ khiến học sinh chán ngán. Trên đời không có cảm năng nghệ thuật nào rẻ mạt hơn gu nghệ thuật của giáo viên. Giáo viên hủy hoại cảm năng nghệ thuật của học sinh từ tiểu học, triệt hạ mọi mầm mống nghệ thuật trong học sinh ngay từ đầu thay vì mở ra con đường nghệ thuật, đặc biệt là con đường âm nhạc và biến nó thành một niềm vui có thể theo đuổi suốt đời. Nhưng giáo viên vốn là bọn phá hoại và cản đường, đâu riêng trong nghệ thuật, lúc nào bọn đi dạy chẳng là bọn cản đường trong cuộc sống và tồn tại, thay vì dạy cho những người trẻ tuổi biết phải sống thế nào, giải mã cuộc sống cho họ, biến cuộc sống thành một kho tàng không thể cạn kiệt, chúng chỉ chăm chăm giết chết cái sống trong những người trẻ tuổi, làm mọi cách để giết và giết. Hầu hết các giáo viên của chúng ta là những tạo vật khốn khổ, sứ mệnh của bọn họ dường như chỉ là cản trở cái sống của những người trẻ tuổi và cuối cùng biến cuộc sống thành một sự vỡ mộng kinh hoàng. Cũng đúng thôi, chỉ những bộ óc nhỏ mọn, ủy mị và méo mó của tầng lớp trung lưu thấp mới rúc vào nghề dạy học. Giáo viên là tay sai của nhà nước, và thấy rằng nhà nước Áo ngày nay là một nhà nước hoàn toàn tê liệt về tinh thần và đạo đức, một nhà nước không dạy gì ngoài sự tàn bạo, tha hóa và hỗn loạn, giáo viên, rất tự nhiên, cũng để cho mình biến dạng về tinh thần và đạo đức, cũng tàn bạo, tha hóa và hỗn loạn. Nhà nước Công giáo này không hiểu gì về nghệ thuật và do đó giáo viên của nhà nước này cũng không hiểu, hoặc không cần hiểu về nghệ thuật. Giáo viên dạy răm rắp theo nhà nước Công giáo, theo những gì nó hướng dẫn họ dạy: hẹp hòi và tàn bạo, xấu xa và bần tiện, tha hóa và hỗn loạn. Học sinh chẳng thể mong chờ gì từ bè lũ đi dạy ấy ngoài sự dối trá của nhà nước Công giáo và quyền lực của nhà nước Công giáo, tôi ngẫm nghĩ khi nhìn Reger và đồng thời, xuyên qua Người râu trắng của Tintoretro, nhìn thời thơ ấu của tôi. Chính tôi cũng có những thầy cô vô đạo đức như thế, ở nông thôn rồi thành thị, rồi vòng lại, ở thành thị rồi nông thôn, bọn họ hủy hoại tôi đến tận tuổi trung niên; bọn họ sẽ còn hủy hoại nhiều chục năm nữa của tôi, cả cái đám dạy dỗ ấy, tôi ngẫm nghĩ. Bọn họ chẳng mang lại cho tôi và thế hệ tôi điều gì ngoài sự xấu xa của nhà nước và của một thế giới bị nhà nước ấy làm băng hoại. Bọn họ chẳng mang lại cho tôi và thế hệ tôi điều gì ngoài sự tởm lợm của nhà nước và của một thế giới hằn dấu nhà nước ấy. Bọn họ chẳng cho tôi và cả những người trẻ tuổi ngày nay điều gì ngoài sự phản lý trí, sự vô năng, sự đần, sự xuẩn của họ. Các thầy cô của tôi chẳng cho tôi gì ngoài sự kém cỏi của họ, tôi ngẫm nghĩ. Họ không dạy tôi gì ngoài sự hỗn loạn. Họ đã, với sự tàn nhẫn tột cùng, phá hủy từ trước mấy chục năm tiếp theo của đời tôi, hủy hoại trong tôi tất cả những gì ban đầu vốn có thể được phát triển, với tất cả tiềm năng trí tuệ của tôi, vì thế giới của tôi. Cả tôi cũng có những thầy cô kinh tởm, hẹp hòi, bần tiện, với cái nhìn đê hạ về phẩm chất con người và thế giới con người, cái nhìn tối đê hạ mà nhà nước ấn lên họ, theo đó bản tính của những người trẻ tuổi phải luôn bị đè nén và cuối cùng phải bị hủy hoại cho các công việc của nhà nước. Cả tôi cũng có những thầy cô với thứ âm nhạc méo mó của cái máy thu âm và tiếng guitar méo mó, bọn họ bắt tôi thuộc lòng bài thơ mười sáu khổ của Schiller, tôi luôn thấy đó là thứ hình phạt tàn khốc nhất. Cả tôi cũng có những thầy cô âm thầm nuôi dưỡng niềm khinh bỉ con người như một phương pháp vis-a-vis đám học sinh khốn khổ của bọn họ, lũ tay sai ba hoa chuyên chỉ tay năm ngón của nhà nước. Cả tôi cũng có những kẻ trung gian rất hèn của nhà nước, cứ mấy tuần một lần họ lại lấy cây roi phỉ quất vào các ngón tay tôi cho đến khi chúng sưng tấy và túm tai kéo ngược tôi lên, thành thử chẳng bao giờ tôi vượt qua được những cơn khóc rấm rứt âm thầm. Bây giờ giáo viên không còn kéo tai hay quật roi phỉ lên ngón tay học sinh nữa, nhưng đầu óc bệnh hoạn của bọn họ vẫn thế, tôi chẳng thấy gì thay đổi khi nhìn họ diễu hành qua những nhân vật mà người ta gọi là các bậc thầy cùng đàn học sinh, trước thế nào thì nay vẫn thế, tôi ngẫm nghĩ, vẫn những người đã hủy hoại cả đời tôi. Là như thế, phải thế thôi, giáo viên nói, bọn họ không dung dù một li phản kháng vì nhà nước Công giáo không dung dù một li phản kháng, và họ chẳng để lại cho học sinh được gì của mình, hoàn toàn chẳng có gì. Học sinh của bọn họ bị nhồi, bị tọng rác thải nhà nước, không khác lũ ngỗng bị tọng ngô, và rác thải nhà nước bị nhồi vào những cái đầu bé nhỏ cho đến khi nghẹn ứ. Nhà nước tin rằng trẻ con là trẻ con nhà nước và làm đúng như thế, để rồi hủy hoại chúng suốt bao nhiêu thế kỷ. Chính nhà nước đẻ ra trẻ con, chỉ có trẻ con nhà nước được ra đời, đó là sự thật. Không có đứa trẻ nào tự do hết, chỉ có trẻ con nhà nước, với chúng nhà nước thích làm gì thì làm, chính nhà nước mang lũ trẻ đến thế giới này, mẹ của chúng bị dụ cho tin là bọn họ mang lũ trẻ đến thế giới này nhưng thực ra lũ trẻ chui ra từ bụng nhà nước, đó là sự thật. Hàng trăm nghìn đứa sòn sòn chui ra từ bụng nhà nước mỗi năm, chúng đi học trường nhà nước, nơi chúng bị gò vào khuôn bởi các giáo viên nhà nước. Chính nhà nước đẻ ra trẻ con, đẻ vào nhà nước, đó là sự thật, và nhà nước nắm chắc cái vòng kim cô trên đầu bọn chúng. Nhìn đâu ta cũng chỉ thấy trẻ con nhà nước, học sinh nhà nước, công nhân nhà nước, cán bộ nhà nước, hưu trí nhà nước, người chết cũng nhà nước nốt, đó là sự thật. Nhà nước chỉ tạo ra và cho phép tồn tại người nhà nước, đó là sự thật. Người tự nhiên không còn tồn tại, chỉ còn người nhà nước, và nơi nào người tự nhiên còn tồn tại, anh ta bị bức hại, bị săn đuổi đến chết và/ hoặc bị biến thành người nhà nước. Thời thơ ấu của tôi đẹp, sự đẹp cùng mức với sự tàn bạo và tởm lợm, tôi ngẫm nghĩ, lúc ở cùng ông bà, tôi được cho làm người tự nhiên còn lúc ở trường, tôi phải làm người nhà nước, ở nhà với ông bà tôi là người tự nhiên, ở trường tôi là người nhà nước, nửa ngày tôi là người tự nhiên, nửa ngày tôi là người nhà nước, nửa ngày buổi chiều tôi là người tự nhiên và do đó hạnh phúc, nửa ngày buổi sáng tôi là người nhà nước và do đó bất hạnh. Buổi chiều tôi là người hạnh phúc nhất và buổi sáng tôi là người bất hạnh nhất có thể hình dung. Nhiều năm trời, cứ chiều là tôi lại thành người hạnh phúc nhất có thể tồn tại được, và cứ sáng tôi lại thành người bất hạnh nhất, tôi ngẫm nghĩ. Ở nhà với ông bà, tôi là người tự nhiên và hạnh phúc, ở trường, trong thị trấn tỉnh chật chội, tôi là người mất tự nhiên và bất hạnh. Đi xuống thị trấn tỉnh, tôi đi vào nỗi bất hạnh (nhà nước!), đi lên núi, về nhà với ông bà, tôi đi vào hạnh phúc. Đi lên núi, về với ông bà, tôi đi vào tự nhiên và hạnh phúc, đi xuống núi, vào thị trấn tỉnh, đến trường, tôi đi và cái phi tự nhiên và bất hạnh. Buổi sáng tôi đi thẳng vào bất hạnh, buổi trưa hay chiều tôi quay về với hạnh phúc. Trường học là trường nhà nước, ở đó những người trẻ tuổi bị biến thành người nhà nước, tức là thành tay sai của nhà nước. Đi đến trường, tôi đi vào nhà nước và, vì nhà nước hủy hoại con người, tôi đi vào chỗ hủy hoại con người. Nhiều năm trời tôi đi thẳng từ hạnh phúc (của ông bà tôi) vào bất hạnh (của nhà nước) rồi vòng ngược lại, từ tự nhiên vào phi tự nhiên rồi vòng ngược lại, toàn bộ tuổi thơ tôi chẳng có gì ngoài những vòng xuôi vòng ngược ấy. Giữa những vòng xuôi vòng ngược ấy, tôi lớn lên. Nhưng kẻ chiến thắng trong trò chơi ma quỷ này không phải là tự nhiên mà là phi tự nhiên, là trường học và nhà nước, không phải ngôi nhà của ông bà. Nhà nước nén ép tôi vào nó, giống như tất cả mọi người, bắt tôi phải quy thuận nó, nhà nước, và biến tôi thành người nhà nước, đã nắn chỉnh, đã ghi vào hệ thống, đã đào tạo và hoàn thiện, đã băng hoại và tuyệt vọng, giống như tất cả mọi người. Nhìn con người, ta chỉ thấy toàn người nhà nước, toàn nô bộc nhà nước,[1] cái từ rất chuẩn, cả đời nô bộc nhà nước, nghĩa là cả đời nô bộc cái phi tự nhiên. Nhìn con người, ta chỉ thấy những người chịu đầu hàng nhà nước, tức là cả đời chịu nô bộc cái phi tự nhiên. Nhìn con người, ta chỉ thấy những người nhà nước, tức là những người phi tự nhiên chịu đầu hàng sự đần độn nhà nước. Nhìn con người, ta chỉ thấy những người chịu đầu hàng nhà nước và nô bộc nhà nước, nạn nhân của nhà nước. Những người ta thấy là nạn nhân của nhà nước và tính người ta thấy chỉ là thứ thức ăn gia súc đang được tống vào cái dạ dày nhà nước càng lúc càng tham lam. Tính người giờ chỉ còn là tính người nhà nước và đã mất nghĩa hàng mấy thế kỷ nay, đúng hơn là kể từ khi có nhà nước, tôi ngẫm nghĩ. Nhân tính giờ chỉ là sự phi nhân tính, tức là nhà nước, tôi ngẫm nghĩ. Con người giờ chỉ là người nhà nước và do đó chỉ là con người bị hủy hoại, người nhà nước là thứ người duy nhất khả dĩ, tôi thấy thế. Người tự nhiên thậm chí không còn khả dĩ nữa, tôi nghĩ thế. Nhìn cái khối lúc nhúc hàng triệu người nhà nước trong các thành phố lớn, ta phát buồn nôn vì ta cũng phát buồn nôn khi ta nhìn nhà nước. Sáng nào tỉnh dậy, ta cũng phát buồn nôn vì nhà nước của mình và khi bước ra đường, ta phát buồn nôn vì những người nhà nước lúc nhúc trong cái nhà nước ấy. Nhân tính là một nhà nước khổng lồ, và nếu thành thực, ta sẽ nhận rằng nó khiến ta phát buồn nôn mỗi khi thức dậy. Giống tất cả những người khác, tôi sống trong một nhà nước khiến tôi phát buồn nôn mỗi khi thức dậy. Các thầy cô mà mà ta có truyền dạy nhà nước cho những người trẻ tuổi, truyền dạy cho họ toàn bộ sự tởm lợm và kinh hoàng của nhà nước, toàn bộ sự dối trá của nhà nước, nhưng thầy cô không dạy họ rằng nhà nước là tất cả những tởm lợm, kinh hoàng và dối trá này. Suốt hàng thế kỷ, các thầy cô lùa từng đàn học sinh vào gọng kìm nhà nước, hành hạ chúng hàng năm, hàng thập kỷ, rồi nghiền nát chúng. Và đây các thầy cô diễu qua bảo tàng cùng đàn học sinh, đúng theo chỉ thị của nhà nước, sự đần độn của bọn họ hủy hoại cảm năng nghệ thuật của học sinh. Nhưng thứ nghệ thuật treo trên tường kia có thể là gì đây ngoài nghệ thuật nhà nước, tôi thấy thế. Reger chỉ nói về nghệ thuật nhà nước khi ông ấy nói về nghệ thuật, và khi nói về những nhân vật mà người ta gọi là các bậc thầy, ông ấy cũng chỉ nói về các thầy nhà nước. Thứ nghệ thuật treo trên tường kia toàn là nghệ thuật nhà nước, ít nhất là những thứ treo trong phòng tranh của Bảo tàng Kunsthistorisches. Tranh treo trên tường kia đều là tranh của thứ họa sĩ nhà nước. Ve vuốt nghệ thuật nhà nước Công giáo, chỉ có thế. Lúc nào cũng chỉ có ảnh tượng, như Reger nói, chẳng bao giờ là khuôn mặt thực. Lúc nào cũng chỉ có các nét, chẳng bao giờ có các đặc điểm đúng nghĩa. Lúc nào cũng chỉ có một mặt mà không có mặt bên kia, lúc nào cũng chỉ có dối trá, không có thực tại hay sự thật. Tất cả họa gia ở đây đều là thứ nghệ sĩ nhà nước lươn lẹo chỉ chăm chăm ve vuốt sĩ diện của khách hàng, Rembrandt cũng không ngoại lệ, Reger nói. Nhìn Velazquez mà xem, có gì ngoài nghệ thuật nhà nước đâu, hay Lotto, Giotto, toàn là nghệ thuật nhà nước, hệt như Durer, cái thứ tiền phát xít và tiền Quốc xã tởm lợm ấy, kẻ ấn tự nhiên lên toan vải để giết chết nó, Durer kinh tởm, Reger thường xuyên nói thế vì ông ấy ghét cay ghét đắng Durer, thứ thợ khắc Nuremberg. Thứ nghệ thuật được nhà nước đặt hàng, Reger gọi những bức tranh trên tường như thế, kể cả Người Râu Trắng. Những nhân vật mà người ta vẫn gọi là bậc thầy chỉ chăm chăm nô bộc cho nhà nước hay Giáo hội, mà xét cho cùng là một, Reger nói đi nói lại điều lại điều đó, bọn họ phục vụ một hoàng đế hay một Giáo hoàng, một công tước hay một tổng giám mục. Người tự do là phi lai, nghệ sĩ tự do cũng là phi lai, đã như thế từ đầu, Reger thường nói. Nghệ sĩ, nhất là những kẻ được coi là nghệ sĩ lớn, Reger nói, là hạng vô đạo đức nhất trong số con người, còn vô đạo hơn lũ chính trị gia. Cái dối trá của đám nghệ sĩ vị nghệ thuật còn ác hại hơn cái dối trá của đám nghệ sĩ nhà nước, tôi có thể nghe giọng Reger vang vang. Thứ nghệ thuật của chúng chỉ chăm chăm hướng về những kẻ có quyền, toàn quyền, quay lưng lại với thế giới, Reger thường nói, cái đê tiện của nó nằm ở đó. Đó là thứ nghệ thuật thảm hại, không hơn không kém, tôi có thể nghe giọng Reger nói thế, hôm qua, khi nhìn ông ấy từ Phòng Sebastiano hôm nay. Tại sao họa sĩ còn phải vẽ, trong khi đã có tự nhiên? Hôm qua Reger tự hỏi mình như thế, không phải lần đầu. Tác phẩm nghệ thuật trác tuyệt nhất cũng vẫn chỉ là một nỗ lực thảm hại, vô ích và vô nghĩa hòng bắt chước tự nhiên, đúng hơn là nhại lại nó, ông ấy nói. Khuôn mặt bà mẹ mà Rembrandt vẽ có là gì so với khuôn mặt thật của tôi? Ông lại hỏi. Làm sao so sánh được những đồng cỏ sông Danube mà tôi có thể vừa bước qua vừa ngắm nhìn với những đồng cỏ vẽ? Ông ấy nói. Ghi lại, người ta nói, giữ lại làm bằng, nhưng ai cũng biết là chỉ cái dối trá, cái không đúng mới được ghi lại, giữ lại, hậu thế chỉ có toàn dối trá treo trên tường, chỉ toàn dối trá trong những cuốn sách để lại cho chúng ta bởi những người vẫn được gọi là tác giả bậc thầy, chỉ toàn dối trá trong những bức vẽ treo trên tường. Người đàn ông treo trên tường kia không bao giờ là người mà họa sĩ đã vẽ, hôm qua Reger nói. Người đàn ông treo trên tường kia không phải là con người đã sống, ông ấy nói. Tất nhiên, ông ấy nói, anh có thể bảo rằng đó là cái nhìn của người nghệ sĩ đã tạo ra bức tranh, đúng thế, dù đó là một cái nhìn dối trá, ít nhất là với đống tranh trong bảo tàng này, đó luôn luôn chỉ là cái nhìn của nhà nước Công giáo về nghệ sĩ ấy vì ở đây chẳng có gì ngoài nghệ thuật của nhà nước Công giáo và do đó, tôi buộc phải nói, là một nghệ thuật đê tiện, nó có thể vô cùng rực rỡ nhưng vẫn là nghệ thuật nhà nước Công giáo đê tiện. Những nhân vật hay được gọi là bậc thầy, nhất là nếu người ta đặt vài vị cạnh nhau, ý tôi là nếu ta đặt vài tác phẩm của họ cạnh nhau, đều là những kẻ dối trá nhiệt thành, thun thút húp ân sủng của nhà nước Công giáo và bán mình cho nó, Reger nói. Thế nghĩa là chúng ta có một lịch sử nghệ thuật đẫm Công giáo và tuyệt đối đáng tởm, một lịch sử hội họa đẫm Công giáo và tuyệt đối đáng tởm cứ chăm chăm tìm chủ đề không ở thiên đường hay địa ngục chứ không bao giờ tìm nơi mặt đất, ông ấy nói. Họa sĩ không vẽ cái họ đáng ra phải vẽ mà chỉ vẽ những thứ được đặt hàng hoặc những thứ có thể mang danh vọng, tiền tài, ông ấy nói. Họa sĩ, tất tật các bậc thầy kia hầu như lúc nào cũng làm tôi buồn nôn, tôi kinh tởm bọn họ, ông ấy nói, bọn họ chỉ biết phục vụ một ông chủ, không bao giờ phục vụ chính mình và do đó cũng không biết phục vụ con người. Họ vẽ một thế giới giả, họ làm giả nó từ trong chính mình, họ trông chờ nó mang danh vọng, tiền tài cho họ; tất tật họ đều vẽ như thế, vẽ vì hám tiền hám danh, hoàn toàn không phải vì muốn làm họa sĩ mà chỉ vì muốn danh, muốn tiền hoặc muốn cả danh lẫn tiền. Ở Châu Âu họ chỉ vẽ vào tay của một Chúa Công giáo hoặc vẽ lên mặt Chúa ấy, ông nói, một Chúa Công giáo và các thần Công giáo của ông ta. Từng nét cọ của những vị được coi là bậc thầy này, dẫu có thần hứng đến thế nào, đều dối trá, ông ấy nói. Lũ trang trí thế giới, đó là từ hôm qua ông ấy dùng để gọi những kẻ mà ông ấy căm đến xương tủy, đồng thời lại là những kẻ mà suốt cuộc đời khốn khổ của mình, ông ấy tò mò. Lũ phụ tá trang trí dối trá lối tôn giáo của các nhà cai trị Công giáo Châu Âu, các bậc thầy là thế đấy, không hơn, anh có thể thấy điều đó trong từng vệt màu mà bọn họ đã trơ tráo phệt lên toan, Atzbacher yêu quý của tôi ạ, ông ấy nói. Tất nhiên anh buộc phải nói rằng đây là nghệ thuật hội họa đỉnh cao, hôm qua ông ấy bảo, nhưng đừng quên nói, ít nhất là nghĩ, ít nhất phải tự nghĩ được rằng đó cũng là nghệ thuật hội họa ô nhục, cái ô nhục ở thứ nghệ thuật này cũng đồng thời là tôn giáo, chính vì thế nó mới đáng tởm đến thế. Nếu anh ghim mình trước Mantegna một tiếng đồng hồ, giống hôm qua, anh sẽ đột nhiên thấy muốn giật tung Mantegna khỏi tường vì đột nhiên anh thấy nó là một sự ô nhục được tô màu cho đẹp. Cũng vậy nếu anh đứng trước Biliverti hay Campagnola đủ lâu. Suy cho cùng bọn họ chỉ vẽ để sống, vẽ để kiếm tiền, để lên thiên đường thay vì xuống địa ngục, điều mà cả đời họ sợ hơn hết thảy vì họ rất thông minh nhưng cũng rất yếu đuối. Nhân cách của các họa sĩ nhìn chung không tốt, thực tế là thường rất tồi và do đó có gu rất tệ, hôm qua Reger nói, anh sẽ không tìm được một họa sĩ mà người ta bảo là vĩ đại, hay ta có thể gọi là một bậc thầy có nhân cách và gu đâu, nhân cách ý tôi đơn giản là không tha hóa. Tất cả các nghệ sĩ đã được xưng tụng là bậc thầy đều tha hóa và điều đó khiến nghệ thuật của họ đáng tởm đến thế. Mọi thứ họ vẽ và được treo ở đây đều đáng tởm, tôi thường nghĩ thế, hôm qua ông ấy nói, vậy nhưng nhiều thập kỷ tôi đã không thể tránh nghiền ngẫm chúng. Đó là chuyện kinh khủng nhất, hôm qua ông ấy nói, chuyện tôi thấy những thầy cũ này thật đáng tởm nhưng vẫn tiếp tục nghiền ngẫm bọn họ, hết lần này đến lần khác. Nhưng họ đúng là đáng kinh tởm, cái đó đã quá rõ ràng, hôm qua ông ấy nói. Các bậc thầy, như người ta đã gọi họ hàng thế kỷ, chỉ trụ được cái nhìn qua loa; chỉ cần nhìn thật kỹ, bọn họ sẽ bé lại và khi thực sự nghiền ngẫm họ, kỹ và lâu hết mức, thì họ biến mất luôn, họ tan rã và đổ sụp, chẳng để lại lại gì ngoài dư vị nhạt thếch, thường thì rất gớm, nơi cuống lưỡi. Tác phẩm nghệ thuật lớn nhất, quan trọng nhất đè lên đầu chúng ta giống như một khối hèn hạ và dối trá khổng lồ, đúng hơn là như một tảng thịt phì nộn đè lên dạ dày. Chúng ta bị nó làm mê hoặc và xét cho cùng điều đó thật lố bịch. Nếu chịu khó một lần đọc Goethe chăm chú hơn bình thường, anh sẽ nhận ra rằng những gì mình đọc, dù là gì, cũng thật lố bịch, chỉ cần đọc nhiều hơn bình thường, nó sẽ thành lố bịch, không thể khác, đến những thứ sáng sủa nhất cũng thành nhảm nhí. Thế đấy, chỉ cần đọc thật chăm chú, anh sẽ phá hủy mọi thứ, tất cả những gì anh đọc. Dù cái anh đọc có là gì đi nữa, cuối cùng nó cũng sẽ thành lố bịch, thành vứt đi. Cẩn thận đừng đi sâu, ông ấy nói, anh sẽ phá hủy hết đấy, kể cả những tác phẩm anh yêu quý nhất. Đừng ngắm một bức tranh quá lâu, đừng đọc một cuốn sách quá chăm chú, đừng nghe một bản nhạc quá tập trung. Anh sẽ phá hủy hết, tất cả những gì đẹp nhất, hữu dụng nhất trên đời. Cứ đọc những gì anh thích nhưng đừng hoàn toàn đi vào nó, cứ nghe những gì anh thích nhưng đừng nghe với toàn bộ chú tâm, cứ ngắm những gì anh thích nhưng đừng dành cho nó cái nhìn hoàn toàn. Tôi đã luôn nhìn triệt để, nghe triệt để, đọc triệt để, ít nhất thì tôi luôn cố nghe và đọc và nhìn triệt để, vậy nên cuối cùng tôi biến mọi thứ thành ra đáng tởm, chính bằng cách ấy tôi đã biến toàn bộ nghệ thuật, âm nhạc và văn chương thành ra đáng tởm với tôi, hôm qua ông ấy nói. Cũng vậy, cùng phương pháp, tôi đã biến toàn bộ thế giới thành đáng tởm, không sót thứ gì. Bao nhiêu năm trời tôi đã chẳng làm gì ngoài biến mọi thứ thành đáng tởm với tôi và, điều này tôi hối hận vô cùng, biến chúng thành đáng tởm với cả vợ tôi nữa. Bao nhiêu năm trời, ông ấy nói, tôi đã chỉ sống được nhờ thế, nhờ biến mọi thứ thành đáng tởm. Giờ tôi đã biết là nếu muốn sống tiếp thì không được đọc triệt để, nghe triệt để, nhìn hay nghĩ triệt để nữa. Có một nghệ thuật trong việc không đọc, không nghe hay nhìn triệt để, ông ấy nói. Tôi vẫn chưa làm chủ được nghệ thuật ấy, ông ấy nói, vì thiên hướng của tôi là tiếp cận mọi thứ triệt để, lưu giữ chúng triệt để và đẩy chúng đến giới hạn triệt để, đó là bất hạnh thực sự của tôi, anh nên biết thế, ông ấy nói. Hàng thập kỷ nay tôi đã muốn làm mọi thứ triệt để, đó là bất hạnh của tôi, ông ấy nói. Cơ chế phá hủy rất cá nhân này đã luôn tập trung vào tổng thể, triệt để, ông ấy nói. Nhưng các bậc thầy đâu có vẽ cho những người như tôi, các nhà soạn nhạc lớn và các tác gia lớn cũng không sáng tác cho những người như tôi, chuyện đó hết sức tự nhiên, và sẽ chẳng bao giờ có chuyện bất kỳ ai trong số đó vẽ, viết hay sáng tác nhạc cho người như tôi, ông ấy nói. Nghệ thuật không được tạo ra cho sự nhìn triệt để, nghe triệt để, đọc triệt để, ông ấy nói. Thứ nghệ thuật này được tạo ra cho phần thảm hại của con người, cho cái hằng ngày, bình thường, tôi buộc phải nói là cho phần cả tin, không gì khác đâu. Phần lớn kiến trúc co hẳn lại dưới cái nhìn của những đôi mắt như tôi, ông ấy nói, dẫu nổi tiếng đến thế nào, và nhất là nếu nổi tiếng thì sớm muộn nó cũng co lại thành một mẩu lố bịch. Tôi đã đi, ông ấy nói, để thấy những kiến trúc lớn, tất nhiên đầu tiên là đến Ý, rồi Hy Lạp và Tây Ban Nha, nhưng các thánh đường luôn co lại dưới mắt tôi, thành chẳng còn gì ngoài những toan tính thảm hại và thực sự lố bịch, toan tính đặt cạnh thiên đường một cái gì đó giống thiên đường thứ hai, hết thánh đường này đến thánh đường khác, lúc nào cũng là một thiên đường thứ hai, càng lúc càng lộng lẫy, hết ngôi đền này đến ngôi đền khác, càng lúc càng lộng lẫy, ông ấy nói, vậy nhưng kết quả luôn là một mớ hổ lốn. Tất nhiên tôi đã đi những bảo tàng lớn nhất, và không chỉ ở Châu Âu, đã nghiên cứu xem chúng chứa những gì với sự chú tâm cao nhất, tin tôi đi, và tôi sớm nhận ra rằng những bảo tàng này có vẻ chẳng chưa gì ngoài sự thảm hại được họa ra, sự vô năng được họa ra, thất bại được họa ra, cái phần hỏng bét của thế giới, mọi thứ ở những bảo tàng này đều là thất bại và hỏng bét, hôm qua ông ấy nói, dù anh có vào bảo tàng nào, xem gì, nghiên cứu gì, anh cũng chẳng thấy gì ngoài thất bại và hỏng bét. Đúng là Prado, ông ấy nói, chắc chắn là bảo tàng quan trọng nhất thế giới về các bậc thầy nhưng lần nào ngồi ở Ritz bên kia đường, uống trà, tôi cũng nghĩ rằng đến cả Prado cũng chỉ chứa toàn những thứ thất bại và về cơ bản là lố bịch cùng tập tọng. Một số nghệ sĩ, ông ấy nói, ở một số thời điểm, khi đang phất, được thổi lên thành một sự quái dị chấn động địa cầu; rồi bỗng vài đầu óc không bị tha hóa châm vào cái bong bóng quái dị chấn động địa cầu ấy và bong bóng quái dị chấn động địa cầu nổ bụp, chẳng còn gì nữa, tan biến cũng đột ngột như khi xuất hiện, ông ấy nói. Velazquez, Rembrandt, Giorgione, Bach, Handel, Mozart, Goethe, ông ấy nói, cũng như Pascal, Voltaire, tất cả bọn họ đều là những thứ quái dị bị thổi phồng. Lão Stifter ấy, hôm qua ông ấy nói, một tác giả mà tôi tôn kính như bị nghiện, nếu nhìn cho kỹ thì hóa ra cũng dở tệ, giống như Bruckner nghe kỹ hóa ra chỉ là một nhà soạn nhạc tồi, nếu không muốn nói là thảm hại. Phong cách của Stifter thực sự tệ, ngữ pháp ngớ ngẩn kinh hoàng; tương tự, Bruckner cũng mất cương vì chứng ngộ độc âm thanh, đến già vẫn rồ lên như một chứng dậy thì tôn giáo. Suốt hàng chục năm tôi đã tôn kính Stifter mà không thực sự nghiên cứu ông ta một cách đúng đắn và triệt để. Khi, chừng một năm trước, tôi nghiên cứu Stifter một cách đúng đắn và triệt để thì tôi không tin được vào mắt, vào tai mình nữa. Một thứ tiếng Đức (hay tiếng Áo, tùy anh) nhôm nhoam, sai đầy rẫy, trong toàn bộ phần đời dùng đến trí năng của mình, tôi chưa bao giờ đọc thấy thứ gì tồi như vậy, nhất là lại ở một tác giả nổi tiếng vì ngôn ngữ sáng sủa và chuẩn xác. Văn xuôi của Stifter hoàn toàn không chuẩn xác và là thứ ít sáng sủa nhất tôi từng đọc, rặt những ẩn dụ méo mó, những ý lỗi, rối mù, và tôi thực sự không hiểu tại sao tên tập tọng tỉnh lẻ này, thứ thanh tra giáo dục vùng Thượng Áo, ngày nay lại được các nhà văn kính trọng đến thế, nhất là các nhà văn trẻ, hoàn toàn không phải hạng ít tiếng tăm. Tôi tin là chẳng ai trong số này từng thực sự đọc Stifter, bọn họ chỉ mù quáng tôn sùng ông ta, bọn họ chỉ nghe về ông ta chứ chưa bao giờ thực sự đọc, giống tôi khi trước. Khi tôi bắt đầu thực sự đọc Stifter một năm trước, đọc bậc thầy lớn về văn xuôi như ông ta thường được gọi, tôi thấy ghê tởm với chính mình vì từng kính trọng cái thứ nhà văn tạp nham này, thậm chí còn yêu ông ta. Tôi đã đọc Stifter hồi trẻ và ký ức của tôi về ông ta dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm đọc ấy. Tôi đọc Stifter giữa khoảng mười hai và mười sáu tuổi, thời điểm vẫn chưa có tí ý thức phê phán nào. Sau quãng ấy tôi không bao giờ còn đụng vào Stifter nữa. Stifter, với những quãng văn dài thườn thượt, là một cái máy hót không chịu thấu, ông ta viết kém cỏi và, điều này còn đáng khinh hơn, là viết cẩu thả lem nhem; quả thật đó là người nhạt nhẽo và lươn lẹo nhất trong toàn bộ văn chương Đức. Ngôn ngữ văn xuôi Stifter, vẫn thường được ngợi ca là chuẩn xác và có chiều sâu, thực tế thì nặng và cùn, bất lực, vô trách nhiệm, bị xâm lấn bởi thói ủy mị petit-bourgeois và sự ngẫn petit-bourgeois khiến người ta lộn ruột khi đọc Witiko hay Giấy tờ của cụ cố tôi. Nhất là Giấy tờ của cụ cố tôi, ngay từ những dòng đầu, đã là một toan tính phóng ra một thứ văn xuôi kéo lê liều lĩnh, nhão nhợt và nhạt nhẽo, đầy rẫy sai lầm bên trong lẫn bên ngoài, làm dáng nghệ thuật trong khi thực chất nó chẳng là gì ngoài một mớ hổ lốn petit-bourgeois bốc ra từ Linz. Nhưng một cái lỗ petit-bourgeois tỉnh lẻ như Linz, vẫn nguyên cái lỗ tỉnh lẻ gào oai oái lên trời từ thời Kepler, nơi có một nhà hát opera mà người ta không biết hát, một nhà hát kịch không biết diễn, những họa sĩ không biết vẽ và nhà văn không biết viết, làm sao một cái lỗ như thế có thể bất thình lình đẻ ra được một thiên tài - thế mà Stifter lại được đồng thanh ca tụng là thiên tài. Stifter thì thiên tài gì, Stifter là thứ philistine sống một đời chật chội, thứ petit bourgeois và thầy giáo ôi mốc viết thứ văn chật chội thậm chí còn chẳng đạt yêu cầu tối thiểu của ngôn ngữ chứ đừng nói là đủ sức tạo ra tác phẩm nghệ thuật, Reger nói. Gút lại, ông ấy nói, Stifter là một trong những nỗi thất vọng lớn nhất trong cuộc đời nghệ thuật của tôi. Một phần ba, ít nhất một phần bốn các câu của Stifter là sai, một phần hai hay một phần ba các ẩn dụ là thất bại, còn tinh thần Stifter nhìn chung, ít nhất trong văn chương, là một tinh thần tầm thường. Stifter là một trong những người thiếu tưởng tượng nhất từng đặt bút viết bất cứ thứ gì, một trong những kẻ phản thơ, phi thơ nhất trên đời. Nhưng các độc giả và học giả bị lóa mắt vì con người Stifter. Việc con người ấy cuối cùng tự tử cũng chẳng thay đổi được sự tầm thường tuyệt đối của ông ta. Tôi không biết trên đời còn nhà văn nào vừa tập tọng và tạp nham, lại vừa thiển cận và chật chội đến như Stifter nhưng lại nổi tiếng khắp thế giới. Anton Bruckner cũng thế, Reger nói; với nỗi sợ Chúa quái đản cùng nỗi ám ảnh với Công giáo, ông ta rời Thượng Áo để đến Vienna và hoàn toàn giao nộp mình cho hoàng đế và cho Chúa. Bruckner cũng chẳng có tí gì gọi là thiên tài. Âm nhạc ông ta rối mù, cũng thiếu sáng sủa và tạp nham chẳng kém văn xuôi Stifter. Nhưng nếu Stifter giờ chỉ còn là thứ giấy lộn của các học giả văn chương Đức thì Bruckner vẫn khiến người ta trào nước mắt. Vọt trào âm thanh của Bruckner đã chinh phục thế giới; thậm chí có thể nói sự ủy mị nhão nhợt cùng lối rình rang vờ vịt đang ăn mừng chiến thắng nhờ Bruckner. Bruckner là một nhà soạn nhạc cẩu thả, cũng như Stifter là một nhà văn cẩu thả, cả hai cùng chung thói cẩu thả vùng Thượng Áo. Cả hai cùng tạo ra cái thứ gọi là nghệ thuật sùng kính mà thực ra là mối nguy lớn cho cộng đồng, Reger nói. Kepler, tất nhiên, cũng khá ra gì, hôm qua Reger nói, nhưng ông ta không phải người thượng Áo mà là người Wiirttemberg; Adalbert Stifter và Anton Bruckner chỉ sản xuất ra rác, rác âm nhạc và rác văn chương. Bất cứ ai biết ngưỡng mộ Bach cùng Mozart, Handel cùng Haydn, ông ấy nói, phải thẳng thừng cự tuyệt những thứ như Bruckner, không cần khinh bỉ nhưng phải cự tuyệt. Và bất cứ ai biết ngưỡng mộ Goethe, Kleist, Novalis và Schopenhauer phải cự tuyệt Stifter nhưng cũng chẳng cần khinh bỉ Stifter. Ai đã yêu Goethe thì không thể cùng lúc yêu Stifter được nữa, Goethe tự làm khó mình còn Stifter chỉ biết chọn dễ. Đáng tởm nhất, Reger nói hôm qua, là Stifter đồng thời lại là một quan chức giáo dục được nể sợ, lại còn quan to, thế mà cái lối viết cẩu thả của ông ta, không một học trò nào có thể viết như thế mà không bị phạt. Một trang Stifter nếu được một học sinh nộp cho Stifter thì sẽ bị chính Stifter tàn sát bằng chì đỏ, ông ấy nói, đó là sự thật. Một khi ta bắt đầu đọc Stifter với một cây chì đỏ thì phải sửa không biết đâu là cùng, Reger nói. Thiên tài gì? Thứ vô năng bần cùng thì có. Nếu có khái niệm văn chương vô vị, lờ đờ, ủy mị và vô nghĩa thì nó ứng đúng vào những gì Stifter đã viết. Cái đó không phải là nghệ thuật và tất tật ông ta nói ra đều giả dối theo lối đáng ghê tởm nhất. Không phải tự nhiên mà Stifter chủ yếu được đọc ở nhà, độc giả là vợ cùng góa phụ của các viên chức, những kẻ ngáp ngắn ngáp dài cho qua ngày, ông ấy nói, thêm cả các y tá ngoài giờ làm và nữ tu trong tu viện. Một người thực sự biết suy nghĩ không thể đọc Stifter được. Tôi tin rằng những ai đánh giá cao, quá cao Stifter thực ra chẳng biết gì về Stifter. Tất cả nhà văn ngày nay, không ngoại lệ, đều nói và viết rất nhiệt thành về Sifer và theo gót ông ta như thể đó là ông thần văn chương thời chúng ta. Hoặc là bọn họ ngu thật và hoàn toàn không biết thưởng thức nghệ thuật, hoặc là bọn họ không hiểu gì về văn chương, hoặc nữa, và rất tiếc tôi buộc phải tin điều này, là bọn họ chưa bao giờ đọc Stifter, ông ấy nói. Anh đừng có nói với tôi về Stifter hay Bruckner, ông ấy nói, đừng nói gì liên quan đến nghệ thuật hay cái tôi hiểu là nghệ thuật. Một tay bôi nhoe văn xuôi, ông ấy nói, tay kia thì bôi nhoe âm nhạc. Cái vùng Thượng Áo khốn khổ, ông ấy nói, thực sự tin rằng nó đã tạo ra hai trong số những thiên tài lớn nhất trong khi thực tế nó chỉ tạo ra được hai con lợn được tâng bốc quá đà, văn chương một bên âm nhạc một bên. Khi tôi hình dung các nữ hiệu trưởng và nữ tu người Áo đặt Stifter lên bàn cạnh giường ngủ như một biểu tượng nghệ thuật, cạnh những lược cùng cắt móc tay của họ, khi tôi hình dung các nguyên thủ quốc gia bật khóc khi nghe một bản giao hưởng của Bruckner, tôi phát buồn nôn, ông ấy nói. Nghệ thuật là thứ trác tuyệt nhất, đồng thời cũng là thứ tởm lợm nhất, ông ấy nói. Nhưng ta phải làm mình tin rằng có nghệ thuật cao và nghệ thuật tối cao, ông ấy nói, nếu không thì chẳng còn gì ngoài tuyệt vọng. Dù ta biết mọi nghệ thuật cuối cùng đều thành lòe loẹt, lố bịch, thành rác của lịch sử như mọi thứ khác, ta vẫn phải, với xác tín cả quyết, tin vào nghệ thuật cao và nghệ thuật tối cao, ông ấy nói. Chúng ta nhận ra đó là gì, là nghệ thuật thất bại, nghệ thuật hổ lốn, nhưng chúng ta không cần lúc nào cũng giữ cái ý ấy lừ lừ trước mặt vì như thế ta chắc chắn sẽ xong đời, ông ấy nói. Quay lại với Stifter lần nữa, ông ấy nói, ngày nay có rất nhiều nhà văn réo tên Stifter. Những nhà văn này réo tên một tay tập tọng hoàn toàn, cả đời viết văn chẳng làm gì ngoài nhục mạ tự nhiên. Có thể khép Stifter vào tội nhục mạ tự nhiên, hôm qua Reger nói. Ông ta muốn làm người nhìn cầm bút nhưng sự thật ông ta chỉ là người mù cầm bút, Reger nói. Tất cả về Stifter đều đạo mạo, vụng về như gái đồng trinh; Stifter chẳng viết được gì ngoài thứ văn chỉ tay năm ngón kiểu tỉnh lẻ không thể nuốt nổi, Reger nói. Miêu tả tự nhiên của Stifter lúc nào cũng được khen tít mù, nhưng hưa bao giờ tự nhiên bị hiểu lệch lạc đến như trong các miêu tả của Stifter, cũng chưa bao giờ nó nhạt nhẽo như ông ta bắt chúng ta phải tin trong những trang chật vật của ông ta, Reger nói. Stifter chính xác là một thứ chấp sự văn chương, ngòi bút tuyệt không nghệ thuật của ông ta làm tê liệt tự nhiên và cả độc giả, nhưng trong thực tại và sự thật, tự nhiên là chuyển động và sức sống. Stifter trùm lên tất cả tấm màn petit-bourgeois của ông ta và gần như bóp nghẹt hết, đó là sự thật. Thực tế là ông ta còn không tả nổi một cái cây, một con chim hót, một dòng sông chảy xiết, đó là sự thật. Ông ta cố làm sống dậy một cái gì trước mắt chúng ta nhưng cuối cùng chỉ làm tê bại nó, ông ta muốn tạo ra ánh sáng nhưng lại chỉ khiến mọi thứ xỉn đi, đó là sự thật. Stifter khiến tự nhiên thành đơn điệu, mọi nhân vật thành đờ đẫn và dớ dẩn, ông ta chẳng biết gì, chẳng sáng tạo được gì, và những gì ông ta tả, bởi ông ta chỉ tả mà chẳng làm gì hết, hiện lên với ngòi bút chao ôi là ngây vụng. Ông ta có tất tật đặc điểm của các họa sĩ tồi, Reger nói, những kẻ mà chỉ Chúa mới biết tại sao lại nổi tiếng và được treo khắp nơi trong bảo tàng này, anh chỉ cần nghĩ tới Durer cùng hàng trăm sản phẩm tầm thường giá trị còn không bằng một phần cái khung treo chúng. Tất cả tranh ấy đều được ngưỡng mộ, nhưng những kẻ ngưỡng mộ chúng cũng chẳng hiểu tại sao, giống như Stifter được đọc và ngưỡng mộ nhưng người đọc ông ta chẳng hiểu sao lại thế. Thứ bí ẩn nhất về Stifter là danh tiếng của ông ta, Reger nói, vì văn chương của ông ta hoàn toàn không có gì bí ẩn. Có những nhân vật được coi là lớn, chúng ta phân rã họ và thu nhỏ họ, ông ấy nói, các họa sĩ lớn, nhà soạn nhạc lớn, nhà văn lớn, vì chúng ta không thể sống với cái lớn của họ, vì ta nghĩ và nghĩ mọi thứ cho đến tận cùng, ông ấy nói. Nhưng Stifter không lớn, chưa bao giờ lớn và do đó không thể coi là ví dụ cho quá trình này được. Stifter chỉ là một nghệ sĩ được tôn lớn suốt hàng thập kỷ, thậm chí còn được yêu bởi một người, một người nghiện sự tôn sùng và tình yêu mà chưa bao giờ đạt được mức nhà văn lớn. Trong sự chán chường ta cảm thấy khi phát hiện ra rằng cái lớn lao của nhân vật ta hằng dành tình yêu và sự tôn sùng hóa ra chẳng có gì lớn, chưa bao giờ lớn mà chỉ là cái lớn lao tưởng tượng, còn sự thật thì nhỏ hèn, thậm chí đê tiện, ta cảm thấy cái nhói buốt không khoan nhượng của kẻ bị lừa. Ta chỉ trả giá, Reger nói, cho việc đã mù quáng chấp nhận hàng năm, hàng chục năm trời, có khi còn cả đời, thậm chí còn tôn sùng và yêu, mà không thỉnh thoảng kiểm tra. Giá mà tôi kiểm tra Stifter, chẳng hạn ba mươi, hai mươi hay chỉ mười lăm năm trước cũng được, như thế tôi đã tránh được nỗi thất vọng muộn màng này. Nhìn chung ta không bao giờ nên nói người này hay người kia đúng là cái đó rồi và sẽ là cái đó mãi mãi, ta nên kiểm tra tất cả các nghệ sĩ, kiểm tra lại và lại, vì ta vẫn phát triển hiểu biết cùng cảm năng nghệ thuật của mình, cái đó là bất khả tư nghị. Thứ duy nhất có giá trị ở Stifter là thư của ông ta, Reger nói, còn lại đều vô giá trị. Nhưng nghiên cứu văn chương chắc chắn sẽ còn tiếp tục luẩn quẩn với Stifter một thời gian dài, suy cho cùng nó toàn bị ám bởi các idol văn chương dạng như Adalbert Stifter, những kẻ dù không chìm được vào văn chương vĩnh cửu cũng vẫn giúp các học giả kiếm cơm một cách rất dễ chịu. Một hay hai lần, tôi còn cố công đưa cho vài người, những người rất sáng láng cũng như những người kém sáng láng hơn, những người rất nhạy cũng như những người không nhạy mấy, một cuốn sách của Stifter để đọc, chẳng hạn Đá màu, Kền kền, Brigitta, hay cả Giấy tờ của cụ cố tôi rồi hỏi xem họ có thích những gì họ đọc không, đòi một câu trả lời thành thực. Và tất cả những người này, bị tôi đòi một câu trả lời thành thực, đều đáp là không thích, rằng họ thất vọng vô vàn, rằng về cơ bản nó chẳng nói gì, tuyệt đối chẳng nói gì với họ, và họ không hiểu nổi làm sao người ta có thể viết những thứ thiểu năng đến thế, nhất là làm sao một người chẳng có gì để nói lại nổi tiếng đến thế. Thí nghiệm Stifter ấy một thời gian dài khiến tôi rất khoái, hết lần này đến lần khác, ông ấy nói, cái việc tôi thực hiện phép thử Stifter này, như tôi gọi. Vẫn cách ấy, tôi hỏi nhiều người xem họ có thực sự thích Titian, chẳng hạn bức Madonna với những quả anh đào, không. Không một ai tôi từng hỏi đáp là có, bọn họ ngưỡng mộ nó chỉ vì nó nổi tiếng, nó chẳng thực sự nói gì với bất kỳ ai trong số họ. Nhưng tôi không muốn nói là tôi đang nối Stifter với Titian, như thế sẽ thật dở hơi, Reger bảo. Các học giả văn chương không chỉ mê mệt Stifter thôi đâu, bọn họ thực sự phát cuồng vì Stifter. Tôi nghĩ đám học giả văn chương dùng một thước đo tuyệt đối lệch lạc cho Stifter. Họ viết nhiều về Stifter hơn về bất cứ tác giả nào cùng thời, và khi ta đọc cái thứ họ viết về Stifter, ta đành phải luận rằng hoặc họ chưa từng đọc Stifter hoặc cái gì họ cũng đọc nhưng chỉ láng cháng. Thiên nhiên giờ đang mốt, hôm qua Reger bảo, thế nên Stifter cũng đang mốt. Cái gì liên quan đến thiên nhiên cũng thành mốt, hôm qua Reger bảo, rừng đang rất mốt, suối trên núi đang rất mốt. Stifter làm người ta ngán đến chết nhưng theo một cách thức quái đản nào đó lại đang rất mốt, Reger bảo. Kinh khủng nhất là cái kiểu uỷ mị nhão nhợt cũng thành mốt, giống như mọi thứ kitsch đang rất mốt; từ giữa thập niên bảy mươi đến tận bây giờ, giữa thập niên tám mươi, ủy mị và kitsch đã thành mốt - rất mốt trong văn chương, hội họa, cả âm nhạc nữa. Chưa bao giờ kitsch ủy mị xối ra ồ ồ trong văn chương như bây giờ, ngay giữa thập niên tám mươi, chưa bao giờ có nhiều tranh vừa kitsch vừa ủy mị đến thế, các nhà soạn nhạc cũng thi nhau tạo ra kitsch ủy mị; anh chỉ cần đến nhà hát kịch, ở đó giờ không diễn gì ngoài thứ kitsch nguy hiểm, không gì ngoài ủy mị nhão nhợt và kể cả khi trên sân khấu có tàn bạo và man dã thì cũng vẫn là kitsch nhão nhợt. Chỉ cần đến một cuộc triển lãm, anh sẽ thấy tất cả những gì được bày ra là kitsch đỉnh cao và ủy mị thuộc loại đáng tởm nhất. Chỉ cần đến phòng hòa nhạc, cả ở đó anh cũng sẽ chẳng nghe thấy gì ngoài kitsch và ủy mị. Sách giờ cũng chật ứ kitsch và ủy mị, vì thế mấy năm nay Stifter mới mốt đến thế. Stifter là vua kitsch, Reger bảo. Mở bất cứ trang nào của Stifter, anh cũng sẽ thấy đủ kitsch để làm thỏa thuê vài thế hệ nữ tu và y tá thèm thơ, ông ấy bảo. Thực tế là cả Bruckner cũng chỉ toàn kitsch và ủy mị, một thứ ráy tai bệnh hoạn, ngu xuẩn, được hòa âm hoành tráng. Các nhà văn trẻ và rất trẻ ngày nay cơ bản chẳng viết gì ngoài thứ kitsch dặt dẹo, mất tinh thần, bọn họ dung dưỡng trong sách của mình một thứ ủy mị báng bổ, và thật dễ hiểu tại sao Stifter lại là đỉnh cao của mốt đối với họ. Stifter, kẻ tiêm thứ kitsch dặt dẹo, mất tinh thần vào văn chương lớn và cao quý, cuối cùng đã làm một pha tự tử không thể kitsch hơn, giờ đang là đỉnh cao của mốt, Reger bảo. Đâu có gì lạ khi chính lúc này, khi từ rừng và chết rừng trở thành mốt, khi toàn bộ ý rừng bị dùng lấy dùng để và dùng sai tới tấp, Rừng Cao của Stifter lại được húp ồ ồ. Người ta chưa bao giờ thèm khát tự nhiên đến thế, và vì ai cũng tin rằng Stifter biết tả tự nhiên, bọn họ bèn đổ xô vào Stifter. Nhưng Stifter có tả tự nhiên đâu, ông ta chỉ biến nó thành kitsch. Toàn bộ sự ngu xuẩn của con người phơi bày trong việc hồ hởi hành hương về Stifter, cả trăm nghìn người quỳ lạy từng cuốn sách của ông ta như quỳ trước ban thờ. Chính cái kiểu hăng hái rởm này làm tôi tởm con người hơn bất cứ điều gì khác, Reger bảo, chịu không thấu. Cuối cùng thì cái gì, dù lớn và quan trọng đến đâu, cũng trở thành mồi cho sự lố bịch, ít nhất là sự tầm thường hóa. Thực tế, Stifter lúc nào cũng khiến tôi nghĩ đến Heidegger, thứ philistine Nazi lố bịch mặc quần chẽn ấy. Stifter thì kitsch hóa văn chương lớn theo lối đê tiện và tàn hại nhất, còn Heidegger, triết gia Rừng Đen Heidegger, thì kitsch hóa triết học, Heidegger một bên và Stifter một bên, kitsch hóa triết học và văn chương vô phương cứu chữa. Heidegger, cái kẻ mà bao nhiêu thế hệ thời chiến lẫn hậu chiến hồ hởi bám gót, tưới đẫm những luận án tiến sĩ ngu xuẩn và tởm lợm từ khi ông ta còn sống - tôi luôn luôn hình dung ông ta ngồi trên cái ghế gỗ bên ngoài ngôi nhà Rừng Đen, cạnh mụ vợ đang lên cơn cuồng đan lát, đan cho ông ta hết cái tất này đến cái tất khác từ thứ len mà chính mụ lấy từ lũ cừu Heidegger. Tôi chẳng thể hình dung Heidegger trong bất kỳ tư thế nào ngoài ngồi trên băng ghế bên ngoài ngôi nhà Rừng Đen, cạnh mụ vợ cả đời áp chế ông ta, một tay mụ đan toàn bộ tất của ông ta, móc toàn bộ mũ của ông ta, nướng toàn bộ bánh của ông ta, dệt toàn bộ khăn trải giường và thậm chí còn khâu giày cho ông ta. Heidegger là thứ não kitsch, Reger nói, Stifter cũng thế, nhưng ông ta còn lố bịch hơn Stifter nhiều, lão này dù sao vẫn là một pho bi kịch, khác hẳn Heidegger không đến nổi bi kịch mà chỉ comical, cũng petit-bourgeois như Stifter, cũng hoang tưởng y như thế, thứ suy nghĩ èo uột chui ra từ chân dãy Alps, tôi tin thế, rất thích hợp cho thứ lẩu triết Đức tạp pí lù. Hàng chục năm nay người ta hau háu tọng Heidegger và ních ứ ông ta vào những dạ dày triết học và ngữ văn Đức. Mặt Heidegger là thứ mặt nghệt, chẳng có chút tinh thần, Reger nói, hoàn toàn là con người không tinh thần, vắng mọi phăng te di, mọi cảm năng, đích thị là loài nhai lại triết Đức, một con bò triết Đức, Reger nói, nhai triết Đức và hàng chục năm trời thả xuống đó từng cục phân bò xinh xẻo. Heidegger, nói theo cách nào đó, là một thứ lừa đảo triết học, Reger nói, lừa cho cả một thế hệ triết gia Đức đứng chổng lên đầu. Heidegger là một pha tởm lợm trong lịch sử triết học Đức, hôm qua Reger nói, tất cả bọn người Đức theo đuổi triết học đã tham gia và vẫn tham gia vào pha ấy. Đến giờ Heidegger vẫn chưa hoàn toàn bị lật tẩy; con bò Heidegger đúng là đã gầy đi nhưng con bò Heidegger vẫn được vắt sữa đều đều. Heidegger mặc quần chẽn bạc màu đứng trước túp lều giả dối ở Todtnauberg, đó là tất cả những gì còn lại, một hình ảnh lột mặt nạ, thứ philistine triết triếc với cái mũ đan Rừng Đen trên đầu, bên dưới đó xét cho cùng chẳng có gì ngoài thứ trì độn Đức được hâm nóng hết lần này đến lần khác, Reger nói. Khi đã già, đã kinh qua vô số thứ mốt giết người, tất cả những mốt giết người trong nghệ thuật, trong triết học, trong hàng tiêu dùng. Heidegger là ví dụ tiêu biểu cho việc cuối cùng chẳng còn lại gì từ thứ mốt triết học từng khuấy đảo cả nước Đức, chẳng còn gì ngoài vài bức ảnh lố bịch và vài thứ văn bản còn lố bịch hơn. Heidegger là thứ rao hàng triết học chỉ biết đem đồ ăn cắp ra chợ bán, và toàn hàng dùng rồi, đã và vẫn là mẫu chuẩn của thứ suy nghĩ nhai lại lại, mà mọi thứ, quả thật là mọi thứ, cần cho suy nghĩ độc lập đều thiếu thốn. Phương pháp của Heidegger là biến những ý vĩ đại của người khác thành những ý tầm thường của mình, đó là sự thật. Heidegger đã thu nhỏ tất cả những gì là lớn chỉ còn mức vừa vặn cho người Đức, anh hiểu chứ, vừa vặn cho người Đức, Reger nói. Heidegger là thứ petit bourgeois của triết học Đức, trùm lên triết học Đức cái mũ ngủ kitsch ủy mị của ông ta, cái mũ ngủ len đen kitsch ủy mị mà Heidegger lúc nào cũng đội khư khư, trong mọi hoàn cảnh. Heidegger là triết gia giày băng tuýp và mũ ngủ của người Đức, chỉ có thế. Tôi chẳng hiểu tại sao, hôm qua Reger nói, bất cứ khi nào nghĩ về Stifter, tôi cũng nghĩ ngay tới Heidegger và ngược lại. Chắc chắn không ngẫu nhiên, Reger bảo, khi sự nổi tiếng cùng tìm đến, Heidegger một bên và Stifter một bên, xưa thế và nay vẫn thế, chủ yếu là với những nữ nhân lúc nào cũng căng cứng, giống hệt các nữ tu nhặng xị và các y tá nhặng xị tọng lấy tọng để Stifter. Đến giờ Heidegger vẫn là triết gia yêu thích của phụ nữ Đức. Heidegger là triết gia của phụ nữ, thứ triết triếc nóng hổi từ chảo rán của lũ học giả. Đến một bữa tiệc petit-bourgeois hay cả một bữa tiệc petit-bourgeois quý tộc, anh sẽ được phục vụ món Heidegger trước cả món khai vị, chưa kịp cởi áo khoác anh đã được mời một miếng Heidegger rồi, và chưa kịp ngồi, bà chủ đã bưng Heidegger cùng ly sherry trên khay bạc đến mời anh. Thì đúng Heidegger là thứ triết Đức nấu kỹ có thể dọn lên bất kỳ đâu, bất cứ lúc nào, Reger nói, trong bất cứ nhà nào. Tôi không biết triết gia nào ngày nay được tôn kính hơn đâu, Reger nói. Dù gì, Heidegger cũng đã xong về mặt triết học, mười năm trước vẫn còn là triết gia lớn, giờ thì chỉ còn ám những nhà trí thức rởm và các tiệc tri thức rởm, thêm thứ giả dối nhân tạo vào thứ giả dối tự nhiên của chúng. Giống Stifter, Heidegger là thứ pudding vô vị dễ nuốt với tinh thần Đức tầm thường. Heidegger chẳng liên quan đến trí năng hơn Stifter liên quan đến thơ, tin tôi đi, và cả hai zê rô giá trị như nhau, thơ lẫn triết, tuy tôi vẫn đánh giá cao Stifter hơn Heidegger kẻ lúc nào cũng làm tôi ghê tởm, vì mọi thứ về Heidegger đã luôn đáng tởm đối với tôi, không chỉ cái mũ ngủ trên đầu và bộ đồ lót len dệt nhà treo lên lò sưởi tự tay nhóm ở Todtnauberg, không chỉ cái gậy đi bộ Rừng Đen tự tay gọt mà toàn bộ thứ triết học Rừng Đen tự đẽo gọt ấy, mọi thứ về con người bi kịch khôi hài ấy, tôi đều thấy đáng tởm, lúc nào cũng vậy khi nghĩ tới; chỉ cần biết một dòng Heidegger tôi đã thấy quá tởm, chứ đừng nói là phải đọc Heidegger, Reger nói tôi đã luôn thấy Heidegger là cái thứ lang băm chỉ biết hùng hục lợi dụng mọi thứ xung quanh, vừa lợi dụng vừa sưởi nắng trên ghế băng ở Todtnauberg. Khi tôi nghĩ rằng cả những người thông minh nhất cũng bị Heidegger lừa và một trong những bạn gái thân thiết nhất của tôi còn viết hẳn luận án về Heidegger, mà viết rất nghiêm túc, tôi lại thấy ớn, đến giờ vẫn ớn, Reger nói. Cái thứ chẳng gì là không có lý của ông ta đúng là thứ ngớ ngẩn nhất trên đời, Reger nói. Nhưng người Đức vốn dễ bị ấn tượng bởi trò làm dáng, Reger nói, người Đức ưa làm dáng, đó là đặc điểm chính yếu của bọn họ. Người Áo thì còn tệ hơn, trên mọi phương diện. Tôi đã thấy xê ri ảnh mà một nữ nhiếp ảnh gia nữ hết sức tài năng chụp Heidegger, ảnh nào ông ta cũng trông như một sĩ quan tham mưu già phệ, Reger nói; trong những ảnh ấy, Heidegger vừa ra khỏi giường, Heidegger leo lên giường, Heidegger ngủ, Heidegger dậy, Heidegger mặc quần lót, Heidegger kéo tất lên, Heidegger nhấp một ngụm nước nho, Heidegger bước ra khỏi cái lều gỗ và nhìn ra chân trời, Heidegger gọt gậy đi đường, Heidegger đội mũ, Heidegger cởi mũ, Heidegger giữ mũ trong tay, Heidegger giạng chân, Heidegger ngẩng đầu, Heidegger cúi đầu, Heidegger đặt tay phải lên tay trái của vợ còn vợ thì đặt tay trái lên tay phải, Heidegger đi trước nhà, Heidegger đi sau nhà, Heidegger đi về nhà, Heidegger đi khỏi nhà, Heidegger đọc, Heidegger ăn, Heidegger dùng thìa múc súp, Heidegger xẻ bánh mì (tự nướng), Heidegger mở cuốn sách (tự viết), Heidegger đóng cuốn sách (tự viết), Heidegger cúi người, Heidegger thẳng người, vân vân, Reger nói. Đủ để phát mửa. Nếu đám cuồng Wagner đã là quá sức chịu đựng của xương thịt con người, thì thử nghĩ đến đám cuồng Heidegger xem, Reger nói. Nhưng tất nhiên không thể đem so Heidegger với Wagner, Wagner là thiên tài, người đúng với khái niệm thiên tài hơn bất kỳ ai, còn Heidegger chỉ là một thứ lính hạng bét của triết học. Heidegger, cái này thì quá rõ, là triết gia Đức được cưng chiều nhất thế kỷ, đồng thời là triết gia phọt phẹt nhất. Những kẻ hành hương về Heidegger chủ yếu nhầm lẫn triết học với ẩm thực, bọn họ coi triết học là thứ gì đã rán, đã nướng, đã nấu nhừ cho hợp khẩu vị Đức. Heidegger từng triệu tập quần thần ở Todtnauberg và chịu để mình được xưng tụng khi ngồi trên cái bệ thờ triết học Rừng Đen như một con bò thiêng. Cả nhà xuất bản Bắc Đức khiến bao nhiêu người khiếp hãi cũng quỳ sụp trước ông ta, mồm miệng há hốc ngây đờ cứ như chờ bánh thánh từ Heidegger ngồi đó trong mặt trời lặn trên cái ghế trước nhà. Tất tật những người này hành hương về Todtnauberg để diện kiến Heidegger và để biến mình thành lũ ngẫn, Reger nói. Bọn họ hành hương vào Rừng Đen triến học, vào Núi Heidegger thần thánh và quỳ trước idol của họ. Idol của họ là một thứ phá sản tinh thần toàn diện mà họ, với sự ngẫn của mình, không thể nhận ra. Họ còn chẳng nghi ngờ, Reger nói. Nhưng sự kiện Heidegger nói lên rất nhiều về lối thờ phụng triết gia của người Đức. Bọn họ lúc nào cũng bám dính lấy đồ giả, Reger nói, những thứ vừa vặn nhất với họ, ngu xuẩn và đáng ngờ. Nhưng kinh dị nhất là tôi lại họ hàng với cả hai, Stifter bên mẹ, Heidegger bên bố, chuyện tuyệt đối đáng tởm, hôm qua Reger nói. Tôi còn họ hàng với cả Bruckner, dù rất vòng vèo, nhưng người ta thường nói, nhưng vẫn có. Khỏi phải nói, tôi cũng không ngu đến mức thấy xấu hổ vì những quan hệ đó, như thế mới thậm ngu, Reger nói, dù tôi cũng không hồ hởi phấn khởi về chúng như bố mẹ họ hàng tôi. Hầu hết tổ tiên tôi, bất kể là nhánh Thượng Áo hay nhánh Áo hoặc Đức chung, là thương nhân và nhà công nghiệp giống bố tôi, thời xa hơn thì tất nhiên là nông dân, thường là từ Bohemia, không hẳn là từ vùng núi Alps mà phần nhiều từ chân dãy Alps, trong đó Do Thái đóng góp phần to lớn. Trong số tổ tiên tôi còn có một tổng giám mục và một kẻ giết cùng lúc hai mạng người. Sẽ không bao giờ, tôi thường tự nhủ, mình tra cứu nguồn gốc kỹ hơn, vì ai mà biết còn bới ra được bao nhiêu sự kinh hoàng nữa, và tôi thú thật là tôi hãi lắm. Người ta đào bới tổ tiên, bới mãi bới mãi đống tổ tiên chất chồng cho đến khi xong hết và chỉ càng bất mãn cùng tuyệt vọng, ông ấy nói. Tôi chưa bao giờ chơi cái trò bới tổ tiên ấy, tôi không có thiên hướng, nhưng cả một người như tôi cũng vẫn bất đồ gặp những mẫu vật tổ tiên quái đản nhất, chuyện đó thì chẳng ai tránh được, bất kể người ta né trò khai quật tổ tiên ra sao, người ta vẫn tiếp tục đào. Tóm lại tôi nảy ra từ một hỗn hợp cực kỳ hay, một lát cắt ngang, có thể nói vậy, của tất cả những gì tạo thành tôi. Về phương diện này, biết ít hơn tôi biết sẽ tốt hơn, nhưng tuổi tác vẫn khiến nhiều thứ không mời mà bị phơi ra, ông ấy nói. Tổ tiên tôi thích nhất là một thợ mộc tập sự, hồi năm 1848 đã học đọc học viết ở Cattaro và trong một bức thư đã hớn hở thông báo điều đó với cha mẹ mình ở Linz, ông ấy nói. Thợ mộc tập sự này, thuộc họ ngoại tôi, được bố trí làm xạ thủ pháo binh ở pháo đài Cattaro, tức Kotor ngày nay, và tôi vẫn còn giữ bức thư mà con người mười tám tuổi ấy hớn hở viết từ Cattaro cho cha mẹ ở Linz, ở đó có ghi chú của bưu điện hoàng gia rằng nội dung thư là không phù hợp. Chúng ta là tất cả những gì có trong tổ tiên mình, toàn bộ, thêm vào những gì ta tự có. Làm họ hàng với Stifter với tôi đã là một sự lớn lao quý giá, cho đến khi tôi phát hiện rằng Stifter chẳng phải nhà văn hay nhà thơ lớn như tôi đã tôn thờ cả đời. Chuyện họ hàng với Heidegger thì tôi đã biết từ lâu vì bố mẹ tôi cứ có dịp là lại đem ra kể. Chúng tôi bà con với Stifter, chúng tôi bà con với Heidegger, và cả Bruckner nữa, bố mẹ tôi cứ có dịp là khoe, đến nỗi tôi phát ngượng. Làm họ hàng với Stifter vẫn được coi là oách, ở Thượng Áo đã hẳn nhưng cả nước Áo nữa, và trong xã hội, chuyện đó không khác gì bảo mình là họ hàng hoàng đế Francis Joseph, nhưng họ hàng với cả Stifter lẫnHeidegger, cái đó đúng là thứ hách nhất người ta có thể hình dung ở Áo, và cả ở Đức nữa. Và nếu, đợi lúc thuận tiện, Reger nói, ta bỏ nhỏ thêm rằng mình cũng họ hàng với Bruckner luôn thì trời ơi, người ta sốc không dậy được đâu. Làm họ hàng với một nhà thơ nổi tiếng đã tuyệt, làm họ hàng với một triết gia nổi tiếng càng tuyệt hơn, Reger nói, và lại phết thêm tí bà con với Anton Bruckner thì đúng là tuyệt đỉnh. Bố mẹ tôi cứ có dịp là ca bài đó và tất nhiên được lợi cũng nhiều.
(còn nhiều)
Anh Hoa dịch
[1] State servants: cũng có nghĩa là công chức nhà nước.
chẳng hạn, nếu đích ngắm là Goethe