favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Hạ 2025
Next

Max Scheler: Ressentiment, hai phương pháp

07/09/2025 23:15

Max Scheler, nhân vật xuất chúng của hiện tượng luận, người đã tiếp nối Husserl trên nhiều phương diện, đặc biệt quan tâm đến những điều như đau đớn, thẹn thùng, v.v..., ngoài các vấn đề gắn liền với thời đại.

Dưới đây là phần nhập đề cho cuốn sách về "ressentiment" của Max Scheler - xuất hiện dưới hình thức đầu tiên vào năm 1912, sau vài lần tái bản kèm sửa chữa, từ "ressentiment" (một từ tiếng Pháp, có thể hiểu là sự oán giận) vẫn được giữ nguyên trong nhan đề.

 

Ressentiment, hai phương pháp

- Max Scheler
 

Để nghiên cứu tâm lý con người, có hai phương pháp. Thứ nhất, người ta có thể quan sát theo lối trừu tượng các dữ kiện tâm lý nhằm định danh một số tập hợp phức tạp rồi đưa chúng về những yếu tố "đơn giản", sau đó, xuất phát từ các kinh nghiệm và biến tấu nhân tạo, xác định những điều kiện cùng kết quả của các kết hợp ấy. Thứ hai, lúc này chuyện khác hẳn, người ta có thể miêu tả và hiểu các tập hợp khác nhau của kinh nghiệm và biểu nghĩa dồn tụ lại trong vòng một cuộc đời, và do vậy chúng không được tạo ra nhờ một quá trình nhân tạo, "phân chia" và "tổng hợp". Phương pháp thứ nhất, được truyền cảm hứng từ các khoa học tự nhiên, là phương pháp của tâm lý học xây dựng-tổng hợp, mục đích của nó là giải thích. Phương pháp thứ hai là đặc trưng của tâm lý học phân tích và miêu tả, với mục đích là hiểu.

Phương pháp thứ nhất sử dụng các "đơn vị" tinh thần được tạo ra một cách nhân tạo. Chính vì thế không hề quan trọng việc nắm bắt chúng trong cùng một thể động của kinh nghiệm: những yếu tố cấu thành nên chúng có thể thuộc về các thể động kinh nghiệm sở nghiệm khác nhau ở nền tảng. Chẳng hạn, các dữ kiện thuộc giác quan mà tôi ý thức được vào khoảnh khắc này thuộc về những tập hợp kinh nghiệm sở nghiệm rất khác với nhau: tôi tri nhận tờ giấy của tôi, tôi đang ngồi, tôi đang ở trong căn phòng này, tôi viết, v.v... Tuy nhiên, tôi có thể, tùy theo lựa chọn, tập hợp những tri nhận ấy lại thành một tổng thể, hoặc giả, ngược lại, phân nhỏ những tập hợp đó ra thành các yếu tố đơn giản hơn. Ngoài ra, có lẽ còn có các tiến trình, chúng lại quy định những tiến trình khác, nhưng về chúng tôi không có kinh nghiệm. Những nhân quả này hẳn có thể được thiết lập thông qua việc quan sát một số chuỗi tiếp nối, vừa làm như vậy vừa biến đổi theo lối nhân tạo các vế ban đầu hay cuối cùng. Như vậy, cảm giác về cân bằng của tôi phát xuất từ sự vận hành bình thường của cái tai bên trong tôi, tương ứng với sự cân bằng của những đá tai có ở trong đó. Theo cách tương đồng, những cảm tri cùng ấn tượng có thể đi vào tri giác về cuốn sách này, chẳng hạn, không thuộc một đơn vị kinh nghiệm. Chỉ riêng hiện diện về mặt sự vị của các yếu tố ấy không ngăn cản chúng bị loại trừ khỏi kinh nghiệm đã được tập hợp lại về những gì mà tôi tri nhận được.

Mặt khác, những dữ kiện tinh thần mà phương pháp thứ nhất sẽ đánh giá là quá phức tạp thực tế sẽ có thể hiện ra như là một cái gì đó đơn giản đối với phương pháp thứ hai, bởi chúng có thể được mang tới trong đơn vị của cùng một thể động kinh nghiệm sở nghiệm. Theo cách này, các tập hợp phức tạp xét về khía cạnh phân tích đôi khi lại đơn giản về mặt hiện tượng luận. Một tình bạn, một tình yêu, một nỗi đau nào đó, một phản ứng tổng thể nào đó trước môi trường của tôi vào một khoảnh khắc nào đó trong tuổi thơ của tôi, mỗi "tập hợp" ấy đều bày ra, theo quan điểm của phương pháp phân tích, một nội dung thuộc vào số những gì ít đồng chất hơn cả: các cảm tri, các trình hiện, các lập luận, các đánh giá, các thể động của tình yêu và của căm ghét, các tình cảm, trạng thái tinh thần, v.v... Hơn nữa, những yếu tố đó đã được tạo ra vào các khoảnh khắc khác nhau trong thời gian khách quan, và chúng đã bị ngắt ngang bởi các yếu tố sở nghiệm có một bản tính và nhất thể hoàn toàn khác, và cũng bởi giấc ngủ, trạng thái thức, bệnh tật, v.v... Tuy nhiên, tôi cảm thấy những yếu tố thuộc hiện tượng luận ấy như là tích cực - chứ không phải như các nguyên nhân khách quan - và chúng ảnh hưởng lên các hành động của tôi theo cách thức quyết định.

Chắc chắn tôi có thể phân nhỏ mỗi cái trong số những đơn vị sở nghiệm kia thành các tiểu đơn vị, nói đến một sự cố nào đó, một hoàn cảnh nào đó, trong một tình bạn nào đó, đến một ánh mắt nào đó, một nụ cười nào đó, v.v... Nhưng những tiểu đơn vị đó bao giờ cũng chỉ có biểu nghĩa nhờ chỉ một thể động kinh nghiệm. Nhất thể và nghĩa của chúng phát xuất từ chỗ chúng được tri nhận trong cùng một thể động sở nghiệm, chúng không sinh ra từ một phân chia hay một tổng hợp nhân tạo. Ngay cả ở tư cách các bộ phận, vấn đề luôn luôn là những tiểu đơn vị sở nghiệm, chứ không bao giờ là các yếu tố trừu tượng khởi đi từ đó suy nghĩ hẳn có thể tái xây dựng nhất thể của kinh nghiệm toàn thể.

Các phần cùng các viễn kiến tổng thể mà người ta tới được, một phần nhờ phương pháp phân tích, và một phần khác nhờ phương pháp hiện tượng luận, sẽ không bao giờ trùng hợp với nhau, và những kết quả của chúng sẽ không bao giờ trùm lên nhau. Ở đây chúng tôi sẽ bỏ qua các quan hệ triết học tối hậu giữa những đóng góp của mỗi phương pháp.

Đối tượng của tiểu luận này sẽ là nghiên cứu ressentiment, ở tư cách một trong các tổng thể ấy của kinh nghiệm và hành động sở nghiệm. Ở đây chúng tôi sử dụng từ "ressentiment" không phải vì thích tiếng Pháp hơn, mà vì tiếng Đức không mang lại từ tương đương nào. Ngoài ra, Nietzsche đã biến từ đó thành một thuật ngữ kỹ thuật. Trong nghĩa thông dụng của nó, ở tiếng Pháp, người ta ghi nhận hai khía cạnh. Một mặt, ressentiment chỉ kinh nghiệm và sự ngấm nghĩ của một phản ứng thuộc tình cảm nào đó chống lại một người khác. Sự ngẫm nghĩ liên tục ấy cho phép tình cảm có được sự sâu sắc và dần dà xâm nhập chính trái tim của con người, trong lúc bỏ rơi địa hạt thuộc ý thức của biểu đạt và hành động. Sự ngẫm nghĩ [giống như "nhai lại"] đó, sự sống lại liên tục đó, như vậy, rất khác với kỷ niệm thuộc trí năng thuần túy về tình cảm ấy cùng những hoàn cảnh đã làm nó sinh ra. Đấy là một sự sống lại của chính cảm xúc, một re-sentiment.

Thứ hai, từ này cũng gợi ý cả một khía cạnh của phủ nhận và ác cảm. Trên phương diện ấy, từ tiếng Đức phù hợp hơn cả hẳn là Groll ["căm hận"], nó chỉ ra rất rõ nỗi tức tối đen, nhiều gầm gào, bị trấn áp kia, vốn dĩ độc lập với hoạt động của cái tôi, thứ dần dà sinh ra một ngẫm nghĩ dài của căm ghét hoặc ác cảm không kèm thù địch xác định rõ nào, nhưng chứa đựng một vô biên của các ý định thù địch.
 

Lê Công Tăng dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công