Joseph Conrad: Gaspar Ruiz (phần cuối)
Vậy là đã xong báp têm Joseph Conrad, bắt đầu từ kia. Project Conrad sẽ là một project lớn (tức là nặng), với vai trò tương đương project Henry James bắt đầu vào mùa Đông 2022 (và vẫn đang tiếp tục, pha mới nhất ở kia).
Gaspar Ruiz
- Joseph Conrad
“‘Nào, nào, chico1. Tôi hứa với anh là sẽ giữ mạng sống cho anh ta nếu anh ta không kháng cự. Và rất có khả năng là như vậy đấy. Chúng ta không loại bỏ một người lính tốt nếu không phải làm thế. Tôi nói cho anh biết điều này nhé! Tôi tò mò muốn thấy người đàn ông khỏe mạnh của anh đấy. Picaro2 lại muốn một ông tướng - chà, anh ta sẽ được nói chuyện với một ông tướng. Ha! ha! Đích thân tôi sẽ đi tóm, và anh sẽ đi với tôi, dĩ nhiên rồi.’
“Và việc đã được làm xong cũng trong đêm hôm đó. Tối sớm, ngôi nhà và vườn cây ăn quả đã bị lặng lẽ bao vây. Sau đó ông tướng và tôi rời khỏi một cuộc khiêu vũ mà chúng tôi đang dự trong thị trấn và ung dung cưỡi ngựa ra. Chúng tôi dừng lại cách ngôi nhà một quãng ngắn. Một lính liên lạc cưỡi ngựa giữ ngựa cho chúng tôi. Một tiếng huýt sáo khẽ cảnh báo những người lính đang phục suốt dọc khe núi, và chúng tôi nhẹ nhàng bước đi lên hiên. Ngôi nhà bị chặn đường dường như trống trải dưới ánh trăng.
“Ông tướng gõ cửa. Lát sau có một giọng phụ nữ ở bên trong hỏi ai đấy. Cấp trên của tôi đẩy mạnh tôi. Tôi hổn hển.
“‘Tôi đây, Trung úy Santierra,’ tôi lắp bắp nói, như thể bị nghẹn. ‘Mở cửa ra.’
“Cửa từ từ mở. Cô gái, cầm một cây nến nhỏ trong bàn tay, thấy còn một người đàn ông nữa ở bên cạnh tôi, bắt đầu từ từ lùi lại, bàn tay che ánh sáng. Khuôn mặt bình thản trắng trẻo của cô nom ma quái. Tôi theo sau Tướng Robles. Mắt cô nhìn không rời mắt tôi. Tôi phác một động tác bất lực sau lưng cấp trên, đồng thời cố gắng lấy vẻ mặt trấn an. Không ai trong số ba chúng tôi thốt ra âm thanh nào.
“Chúng tôi vào một căn phòng sàn và tường trần trụi. Trong đó chỉ có một cái bàn thô và đôi ghế đẩu, ngoài ra không còn gì nữa. Một bà già tóc bạc buông xõa vặn vẹo hai bàn tay khi chúng tôi xuất hiện. Một tràng cười lớn rền vang xuyên ngôi nhà trống trải, rất đáng kinh ngạc và kỳ quái. Bà già cố gắng đi qua chúng tôi khi nghe tràng cười này.
“‘Không ai được rời khỏi căn phòng này,’ Tướng Robles nói với tôi.
“Tôi đóng cửa lại, nghe tiếng then đánh cạch, và tiếng cười nhỏ lại trong tai chúng tôi.
“Trước khi một lời nữa có thể được nói trong căn phòng đó tôi kinh ngạc vì nghe tiếng sấm ở nơi xa.
“Tôi đã mang vào ngôi nhà đó cái ấn tượng sinh động về một đêm sáng trăng tuyệt đẹp, trong trẻo, bầu trời không một gợn mây. Tôi không thể tin vào tai mình. Được đưa ra nước ngoài học từ nhỏ, tôi không quen thuộc với hiện tượng tự nhiên bị e ngại hơn cả trên quê hương tôi. Tôi thấy, với nỗi kinh ngạc không được thể hiện ra, một ánh kinh hãi trong mắt cấp trên của tôi. Bất thình lình tôi cảm thấy lảo đảo! Ông tướng nặng nề ngả vào người tôi; cô gái dường như quay tròn ở giữa phòng, cây nến rơi khỏi bàn tay cô và ánh sáng tắt; tiếng kêu rít lên Misericordia3! từ bà già chọc vào tai tôi. Trong bóng tối đen như hắc ín tôi nghe tiếng vữa rơi khỏi tường xuống sàn. May mà không có trần. Giữ then cửa, tôi nghe tiếng nghiến ken két của mái ngói tắt đi ở trên đầu. Cú rung chuyển đã qua.
“‘Ra khỏi nhà! Cánh cửa! Chạy, Santierra, chạy!’ ông tướng gào lên. Các vị biết không, senores, ở đất nước chúng tôi người can đảm nhất cũng không xấu hổ vì nỗi sợ mà một trận động đất gây ra cho con người. Người ta không bao giờ quen được với nó.
“Kinh nghiệm được nhắc đi nhắc lại chỉ càng làm tăng thêm cường lực của nỗi kinh hãi không tên đó.
“Đó là trận động đất đầu tiên tôi biết, nên tôi là người bình tĩnh nhất trong số tất cả bọn họ. Tôi hiểu rằng tiếng rầm rầm ở bên ngoài được gây ra bởi hiên nhà, với những cây cột gỗ và mái lợp chìa ra của nó, đang đổ vỡ. Cú rung chuyển tiếp theo sẽ đánh sụp ngôi nhà, có thể. Tiếng ầm ầm như sấm lại đang đến gần. Ông tướng chạy quanh phòng, để tìm cánh cửa, có lẽ. Ông gây ra tiếng động như thể đang cố leo lên các bức tường, và tôi nghe rõ tiếng ông cầu khẩn tên vài vị thánh. ‘Ra, ra, Santierra!’ ông gào.
“Giọng cô gái là giọng duy nhất tôi không nghe thấy.
“‘Tướng quân,’ tôi kêu, ‘tôi không thể đẩy cánh cửa. Chúng ta hẳn bị nhốt rồi.’
“Tôi không nhận ra giọng ông trong tiếng hét của sự nguyền rủa và nỗi tuyệt vọng mà ông để thoát ra. Senores, tôi biết nhiều người đàn ông trên đất nước tôi, đặc biệt là ở những tỉnh hay bị động đất nhất, sẽ không cả ăn, lẫn ngủ, lẫn cầu nguyện, thậm chí không cả ngồi xuống chơi bài với các cánh cửa đóng. Nguy hiểm không ở trong sự mất thời gian, mà trong điều sau đây: sự dịch chuyển của những bức tường có thể hoàn toàn ngăn một cánh cửa mở ra. Đây là chuyện đã xảy ra với chúng tôi. Chúng tôi bị mắc bẫy, và không có sự giúp đỡ nào để trông mong từ bất cứ ai. Không người nào trên đất nước chúng tôi sẽ đi vào nhà khi quả đất run rẩy. Không hề có ai - trừ một người: Gaspar Ruiz.
“Anh chui không biết từ cái lỗ nơi anh trốn ở bên ngoài nào ra, và trèo qua đống gỗ của cái hiên đổ nát. Bên trên tiếng rì rầm ngầm đáng sợ của sự phá hoại sắp đến tôi nghe một giọng nói đầy sức mạnh hét lên, ‘Erminia!’ với buồng phổi của một người khổng lồ. Một trận động đất là một người san bằng khác biệt vĩ đại. Tôi thu gom tất cả nghị lực đương đầu với cảnh tượng kinh hãi đó. ‘Cô ấy ở đây,’ tôi hét trả. Một tiếng gầm như của con thú hoang dã giận dữ trả lời tôi - trong khi đầu tôi bơi, tim tôi chìm, và mồ hôi của nỗi thống khổ chảy ròng ròng như mưa xuống trán tôi.
“Anh đủ sức mạnh nhặt một trong những cây trụ nặng nề ngoài hiên lên. Kẹp nó dưới nách như cây giáo, nhưng bằng cả hai bàn tay, anh điên cuồng đột kích ngôi nhà đang rung chuyển với sức mạnh của một súc gỗ phá thành, làm cửa bật mở và lao vào trong, liều mạng, trên những thân xác phủ phục của chúng tôi. Tôi và ông tướng, sau khi đứng dậy, cùng nhau chạy ra ngoài, không ngoái nhìn lại một lần nào cho tới khi đã băng ngang qua con đường. Rồi, bám vào nhau, chúng tôi thấy ngôi nhà thay đổi bất thình lình thành một đống rác rưởi vô hình hài đằng sau lưng của một người đàn ông, hai cánh tay ôm chặt cơ thể một người phụ nữ lảo đảo đi về phía chúng tôi. Mái tóc đen dài của cô gần chấm bàn chân anh. Anh tôn kính đặt cô xuống mặt đất đang nhấp nhô, và ánh trăng soi chiếu đôi mắt khép của cô.
“Senores, chúng tôi khó khăn leo lên ngựa. Ngựa của chúng tôi đang lồng hết cả lên, được giữ một cách chật vật bởi những người lính đã chạy đến từ mọi phía. Bấy giờ không ai nghĩ đến việc tóm Gaspar Ruiz. Đôi mắt những người đàn ông và những con thú đó lóe lên ánh sợ hãi hoang dã. Ông tướng của tôi tiến lại gần Gaspar Ruiz, đang đứng bất động như tượng bên trên cô gái. Anh để cho người ta lắc vai mình mà không rời mắt khỏi khuôn mặt cô.
“‘Que guape4!’ ông tướng hét vào tai anh. ‘Anh là người đàn ông can đảm nhất hiện đang sống. Anh đã cứu mạng tôi. Tôi là Tướng Robles. Ngày mai hãy đến chỗ tôi, nếu Chúa cho chúng ta cái ơn huệ là còn được thấy thêm một ngày nữa.’
“Anh không nhúc nhích - như thể bị điếc, không có cảm xúc, bất tỉnh.
“Chúng tôi cưỡi ngựa đi thị trấn, nơi có đầy bà con họ hàng của chúng tôi, bạn bè của chúng tôi, mà số phận chúng tôi hầu như không dám nghĩ đến. Những người lính chạy bên cạnh ngựa của chúng tôi. Mọi chuyện đều bị quên lãng trong sự mênh mông của thảm họa mà toàn bộ đất nước đang phải gánh chịu.”
Gaspar Ruiz thấy cô gái mở mắt. Mí mắt cô nhấc lên dường như gọi anh trở về từ một giấc hôn mê. Chỉ có họ; những tiếng kêu gào kinh hãi và đau buồn của những người mất nhà tràn ngập dải đất bằng phẳng ven biển, xa xôi và mênh mông, vào nỗi cô đơn của họ như một tiếng thì thầm.
Cô vội vàng đứng dậy, sợ hãi liếc nhìn khắp xung quanh. “Có chuyện gì vậy?” cô khẽ kêu lên, và săm soi nhìn vào mặt anh. “Tôi đang ở đâu thế này?”
Anh buồn bã cúi đầu, mà không nói một lời.
“... Anh là ai?”
Anh từ từ quỳ gối xuống trước mặt cô, và chạm vào đường viền chiếc váy vải len tuyết dày đen thô của cô. “Nô lệ của cô,” anh nói.
Bây giờ cô đã thấy đống đổ nát từng là ngôi nhà, tất cả mù sương trong mây bụi. “A!” cô kêu lên, áp bàn tay lên trán.
“Tôi đã đưa cô ra ngoài từ đó,” anh thì thầm dưới chân cô.
“Còn họ thì sao?” cô hỏi, khóc nức nở.
Anh đứng lên, và sau khi nắm lấy hai cánh tay cô, nhẹ nhàng đưa cô về phía đống hoang tàn vô hình thù bị lấp một nửa bởi một trận trượt đất. “Hãy đến và lắng nghe,” anh nói.
Trăng thanh thấy họ trèo qua đống đá, rầm và đá lát, nó là một nấm mồ. Họ áp tai vào các khe hở, lắng nghe một tiếng rên rỉ, một tiếng thở dài đau đớn.
Cuối cùng anh nói, “Họ chết ngay lập tức. Cô chỉ còn lại một mình.”
Cô ngồi xuống một khúc gỗ gãy và đưa cánh tay lên ngang mặt. Anh chờ - rồi, sau khi đưa đôi môi mình lại gần tai cô, “Chúng ta đi thôi,” anh thì thầm.
“Không bao giờ - không bao giờ rời khỏi đây,” cô kêu lên, đưa hai cánh tay lên quá đầu.
Anh cúi xuống cô, và hai cánh tay đã đưa lên của cô rơi xuống đôi vai anh. Anh nhấc cô dậy, tự giúp mình vững vàng và bắt đầu bước đi, nhìn thẳng phía trước.
“Anh đang làm gì vậy?” cô yếu ớt hỏi.
“Tôi đang trốn những kẻ thù của tôi,” anh nói, không một lần liếc nhìn cái gánh nặng nhẹ nhàng của anh.
“Với tôi?” cô bất lực thở dài.
“Không bao giờ bỏ rơi cô,” anh nói. “Cô là sức mạnh của tôi.”
Anh ôm chặt cô. Mặt anh nghiêm trang và bước chân anh vững chãi. Các đám cháy lớn bùng lên từ những đống hoang tàn của những ngôi làng bị tàn phá lốm đốm trên đồng bằng với những ngọn lửa đỏ; và tiếng khóc than xa xa, tiếng kêu “Misericordia! Misericordia!” tạo nên một tiếng rì rầm sầu não trong tai anh. Anh bước đi tiếp, trang nghiêm và tự chủ, tựa hồ đang mang thứ gì đó thiêng liêng, mỏng manh và quý giá.
Mặt đất chốc chốc lại rung lên dưới đôi bàn chân anh.
IX
Bằng những động tác cẩn thận máy móc và với vẻ lơ đãng, Tướng Santierra già châm một điếu xì gà dài và to.
“Phải nhiều giờ sau chúng tôi mới có thể cử một toán quay trở lại khe núi,” ông nói với khách khứa của ông. “Chúng tôi thấy một phần ba thị trấn bị sụp xuống thấp, phần còn lại bị nâng lên cao; và cư dân, cả giàu lẫn nghèo, đều quẫn trí vì thảm họa chung. Niềm vui thiếu tự nhiên của một số người tương phản với nỗi tuyệt vọng của những người khác. Trong cảnh rối loạn chung một số tên trộm cả gan, không sợ cả Chúa lẫn con người, đã trở nên một mối nguy hiểm với những người đi tìm các đồ vật có giá trị trong đống đổ nát từng là nhà họ. Tiếng kêu ‘Misericordia’ lớn hơn bất cứ tiếng kêu nào trước mỗi lần rung chuyển, và một bàn tay đập ngực, những tên vô lại này cướp của các nạn nhân tội nghiệp bằng bàn tay kia, thậm chí không chùn bước trước việc giết người.
“Cả sư đoàn của Tướng Robles chỉ có nhiệm vụ canh gác không cho lũ quái vật vô nhân tính này cướp bóc khu vực bị tàn phá của thị trấn. Nhận các bổn phận của sĩ quan trực nhật, chỉ trong buổi sáng tôi đã có thể yên tâm rằng gia đình tôi được an toàn.
“Mẹ và các chị em tôi sống sót thoát khỏi phòng khiêu vũ đó, nơi tôi đã bỏ họ lại vào lúc tối sớm. Tôi còn nhớ hai người phụ nữ trẻ xinh đẹp - cầu Chúa cho linh hồn họ được yên nghỉ - như thể đang thấy họ vào ngay khoảnh khắc này, trong vườn ngôi nhà bị tàn phá của chúng tôi, tái nhợt nhưng hoạt bát, đang phụ giúp cho một số người hàng xóm tội nghiệp, trong bộ váy khiêu vũ lấm bẩn và với bụi của những bức tường đổ ở trên tóc. Về mẹ tôi, bà có linh hồn khắc kỷ trong một thân xác yểu điệu. Được che một nửa bởi chiếc khăn choàng đắt tiền, bà nằm trên chỗ ngồi thô sơ bên cạnh bể trang trí mà đài phun nước đã ngừng chơi mãi mãi kể từ đêm hôm đó.
“Tôi hầu như chưa kịp ôm tất cả bọn họ với những biểu lộ mãnh liệt của niềm vui, thì cấp trên của tôi, sau khi đến, điều tôi tới khe núi với một ít lính, để đón người đàn ông khỏe mạnh của tôi, như ông gọi anh, và cô gái xanh xao đó.
“Nhưng không có ai cho chúng tôi đón. Một trận trượt đất đã lấp ngôi nhà đổ nát; và nó giống như ụ đất lớn đó đây chỉ còn có thể thấy các đầu của một số khúc gỗ - không còn gì hơn.
“Những phiền khổ của hai vợ chồng Bảo Hoàng già ấy đã kết thúc như thế đấy. Một nấm mồ khổng lồ và không được thờ cúng đã nuốt sống họ, trong sự bướng bỉnh không hạnh phúc chống lại ý chí của một dân tộc muốn được tự do. Và con gái họ đã đi mất.
“Việc Gaspar Ruiz đã đưa cô đi thì tôi hiểu rất rõ. Nhưng vì trường hợp này không được dự liệu, nên tôi không có những sự hướng dẫn để đuổi theo họ. Và tất nhiên là tôi không khát khao muốn làm thế. Tôi đã trở nên hết sức thiếu tin tưởng vào sự can thiệp của tôi. Nó chưa bao giờ thành công, và thậm chí không có vẻ đáng khen ngợi. Anh đã đi. Được, cứ để cho anh đi. Và anh mang theo cô gái Bảo Hoàng! Không có gì hay hơn. Vaya con Dios5. Đây không phải lúc bận tâm đến một tên đào ngũ, kẻ, công bằng hay không công bằng, đáng ra đã chết rồi, và một cô gái sẽ tốt hơn nhiều nếu chưa bao giờ được sinh ra đời.
“Nên tôi ra lệnh cho lính của tôi quay về thị trấn.
“Sau một ít ngày, trật tự được tái thiết lập, tất cả các gia đình chính yếu, bao gồm cả gia đình tôi, đi Santiago. Chúng tôi có một ngôi nhà đẹp ở đó. Đồng thời sư đoàn của Robles cũng di chuyển đến những điểm đóng quân mới gần kinh đô. Sự thay đổi này rất phù hợp với trạng thái cảm xúc gia đình và ái tình của tôi.
“Một đêm, đã khá muộn, tôi được gọi đến gặp cấp trên. Tôi thấy Tướng Robles ở chỗ của ông, thoải mái, không mặc quân phục, đang uống rượu mạnh nguyên chất từ một cái cốc vại - như một sự phòng ngừa, ông từng nói, trước sự mất ngủ vì bị muỗi đốt. Ông là một người lính tốt, và ông dạy tôi nghệ thuật và sự thực hành chiến tranh.
“Không còn nghi ngờ gì nữa là Chúa đã nhân từ với linh hồn ông; vì những động cơ của ông không bao giờ khác hơn ái quốc, cho dù tính cách ông nóng nảy. Về việc dùng màn ngăn muỗi, ông cho là đàn bà, đáng xấu hổ - không đáng mặt một người lính.
“Tôi nhận thấy ngay từ cái liếc mắt đầu tiên là mặt ông, đã đỏ gay, có vẻ rất hài hước.
“‘A ha! senor teniente,’ ông kêu lớn, khi tôi chào tại cửa. ‘Nhìn xem! Người đàn ông khỏe mạnh của anh lại đến rồi đấy.’
“Ông chìa cho tôi một bức thư gập lại, mà tôi thấy được viết bên ngoài, ‘Gửi Tổng Tư Lệnh quân đội Cộng Hòa.’
“‘Cái này,’ Tướng Robles nói tiếp bằng giọng nói lớn của ông, ‘đã được một thằng bé nhét vào bàn tay của một lính gác tại sở chỉ huy, trong khi gã đó đứng nghĩ về cô gái của hắn, không còn nghi ngờ gì nữa - vì trước khi gã kịp trấn tĩnh lại, thì thằng bé đã biến mất giữa đám đông người, và gã cả quyết là gã không thể nhận ra nó để cứu mạng nó.’
“Cấp trên của tôi còn cho tôi biết thêm rằng gã lính đã trao bức thư cho trung sĩ của đội gác, và rằng cuối cùng nó cũng đến tay tổng tư lệnh của chúng tôi. Ngài đã hạ cố trông thấy nó bằng chính đôi mắt ngài. Sau đó ngài đã nói chuyện riêng với Tướng Robles về vấn đề này.
“Bức thư, senores, giờ đây tôi không thể nhớ nguyên văn. Tôi thấy chữ ký của Gaspar Ruiz. Anh là một gã gan góc. Anh đã chộp lấy một linh hồn cho mình từ tai họa địa chất, xin hãy nhớ cho. Và bây giờ chính linh hồn đó đã đọc cho anh viết những chữ trong bức thư của anh. Giọng điệu của nó rất độc lập. Tôi nhớ lúc đó tôi đã có ấn tượng là nó cao quý - đầy phẩm giá. Đó là, không còn nghi ngờ gì nữa, bức thư của cô. Bây giờ tôi rùng mình trước tính hai mặt sâu xa của nó. Gaspar Ruiz được bảo phải phàn nàn về sự bất công mà anh là một nạn nhân. Anh viện dẫn lý lịch trung thành và dũng cảm trước đó của mình. Sau khi được sự can thiệp thần diệu của Thượng Đế cứu thoát chết, anh không thể nghĩ về chuyện gì ngoài khôi phục phẩm giá của anh. Việc này, anh viết, anh không thể hy vọng làm ở các cấp bậc như một người lính không được tin tưởng vẫn còn bị nghi ngờ. Anh có các phương tiện đưa ra một bằng chứng đanh thép chứng minh cho lòng trung thành của anh. Và anh kết thúc bằng việc đề nghị với Tổng Tư Lệnh một cuộc gặp vào lúc nửa đêm ở giữa Plaza trước Moneta. Tín hiệu sẽ là đánh lửa bằng đá lửa và thép ba lần, việc sẽ không quá lộ liễu nhưng vẫn đủ rõ ràng để nhận ra.
“San Martin, Nhà Giải Phóng vĩ đại, yêu những người đàn ông gan góc và can đảm. Ngoài ra, ngài còn công bằng và trắc ẩn. Tôi kể cho ngài nghe câu chuyện về người đàn ông đó nhiều hết sức tôi biết, và được ra lệnh phải hộ tống ngài vào đêm đã định. Các tín hiệu đã được trao đổi đúng kế hoạch. Đó là nửa đêm, và toàn bộ thị trấn đều tối tăm và im lìm. Hai hình bóng mặc áo choàng không tay của họ đến trung tâm Plaza mênh mông cùng nhau, và, thận trọng giữ một khoảng cách, tôi lắng nghe tiếng giọng nói của họ rì rầm trong vòng một tiếng hoặc hơn. Đoạn ông tướng ra hiệu cho tôi tiến lại gần; tôi tiến lại gần thì nghe San Martin, người lịch sự hiền dịu bao nhiêu thì cũng đơn giản bấy nhiêu, hiếu khách đề nghị Gaspar Ruiz đến qua đêm tại sở chỉ huy của ngài. Nhưng người lính từ chối, nói rằng anh sẽ không xứng đáng với vinh dự ấy cho đến khi đã làm được việc gì đó.
“‘Ngài không thể tiếp một tên đào ngũ bình thường như khách được, thưa ngài,’ anh phản đối với một tiếng cười khẽ, và bước giật lùi, từ từ biến vào trong đêm tối.
“Tổng Tư Lệnh nói với tôi, lúc chúng tôi quay đi: ‘Anh bạn Ruiz của chúng ta, anh ấy đi cùng với ai đó. Tôi đã thoáng thấy hai bóng người. Đó là một bạn đồng hành không khoa trương.’
“Cả tôi cũng đã quan sát thấy một hình bóng khác hòa vào hình hài đang khuất dạng của Gaspar Ruiz. Nó có vẻ bề ngoài của một gã thấp bé mặc áo poncho và đội một cái mũ to. Và tôi ngu ngốc tự hỏi người anh dám tin cậy đó có thể là ai. Đáng ra tôi phải đoán được đó không thể là ai khác ngoài cô gái định mệnh ấy - than ôi!
“Tôi không biết anh giấu cô ở đâu. Anh có - sau đó chúng tôi được biết - một ông cậu, em trai của mẹ anh, một chủ hiệu nhỏ ở Santiago. Có lẽ tại đó cô đã tìm thấy một mái nhà và thức ăn. Dù cô có tìm được gì, thì nó cũng đủ nghèo nàn để khiêu khích lòng kiêu hãnh và duy trì nỗi tức giận và sự ghét bỏ trong cô. Chắc chắn cô không cùng anh đi thực hiện kỳ tích đầu tiên trong tất cả các kỳ tích mà anh đã nhận hoàn thành. Đấy là việc phá hoại một kho vật liệu chiến tranh được bí mật thu thập bởi chính quyền Tây Ban Nha ở miền Nam, trong một thị trấn được gọi là Linares. Gaspar Ruiz chỉ được giao cho một nhóm người nhỏ, nhưng họ đã chứng minh là mình xứng đáng với lòng tin cậy của San Martin. Thời tiết không thuận lợi. Họ phải bơi trên những dòng sông đầy nước. Tuy nhiên, dường như họ phi nước đại cả đêm lẫn ngày, đi nhanh hơn tin tức về các vụ cướp phá của họ, và nhắm thẳng thị trấn, một trăm dặm trong đất của quân thù, cho đến rạng ngày, kiếm cầm tay, họ cưỡi ngựa đi vào đó, làm đơn vị đồn trú nhỏ phải sửng sốt. Nó bỏ chạy mà không chống cự, để hầu hết sĩ quan lại cho Gaspar Ruiz bắt.
“Vụ nổ kho thuốc súng lớn quàng vòng hoa lên đám cháy của tổng kho, mà những người đột kích đã châm lửa đốt không để mất thời gian. Trong chưa đầy sáu tiếng họ đã cưỡi ngựa bỏ đi cũng với tốc độ điên rồ như vậy, mà không mất một người nào. Họ giỏi là thế, nhưng một kỳ công như vậy sẽ không được thực hiện nếu không có người chỉ huy còn giỏi hơn.
“Tôi đang ăn tối tại sở chỉ huy thì đích thân Gaspar Ruiz mang tin thành công của anh đến. Và đó là một cú đánh mạnh vào quân Bảo Hoàng. Anh cho chúng tôi xem cờ của đơn vị đồn trú ấy để làm bằng chứng. Anh lấy nó ra từ dưới áo poncho của mình rồi ném nó lên bàn ăn. Người đàn ông đó rất đẹp; có gì đó hân hoan và hăm dọa trên vẻ mặt anh. Anh đứng đằng sau ghế của Tướng San Martin và kiêu hãnh nhìn tất cả chúng tôi. Đầu anh đội một cái mũ tròn màu xanh dương mép viền bạc, và tất cả chúng tôi đều có thể thấy một vết sẹo trắng lớn trên cái gáy rám nắng của anh.
“Có ai đó hỏi anh đã làm gì với những sĩ quan Tây Ban Nha bị bắt.
“Anh khinh khỉnh nhún vai. ‘Hỏi gì mà lạ thế! Trong một cuộc chiến tranh phe phái ta không vác cái gánh nặng tù binh. Tôi thả họ đi - và đây là những dây tua buộc gươm của họ.’
“Anh ném một bó dây lên lá cờ trên bàn ăn. Đoạn Tướng Robles, cũng đang có mặt ở đó, nói bằng giọng to, ồm ồm của ông: ‘Thế ư! Thế thì, anh bạn can đảm của tôi ạ, anh chưa biết một cuộc chiến tranh như của chúng ta nên được tiến hành như thế nào rồi. Anh nên làm - thế này.’ Và ông đưa cạnh bàn tay ngang qua cổ họng mình.
“Than ôi, senores! Thật là quá đúng, cái việc với cả hai phe cuộc giao tranh này, trong bản chất anh hùng như vậy của nó, đã bị vấy bẩn bởi sự tàn bạo. Những tiếng xì xào vang lên vì các lời nói của Tướng Robles không hề tỏ ý bất tán thành. Nhưng San Martin rộng lượng và dũng cảm khen ngợi hành động nhân từ đó, và chỉ cho Ruiz một chỗ ở bên tay phải ông. Rồi sau khi đứng lên với một ly rượu đầy ông đề nghị uống mừng: ‘Caballeros và các đồng ngũ, hãy uống chúc sức khỏe Đại úy Gaspar Ruiz.’ Và khi chúng tôi đã uống cạn ly: ‘Tôi dự định,’ Tổng Tư Lệnh tiếp tục, ‘giao cho anh ấy nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Nam của chúng ta, trong khi chúng ta đi xa giải phóng đạo hữu bên Peru. Anh ấy là người mà kẻ thù không thể khiến cho trở nên tàn bạo sẽ biết cách bảo vệ sự bình yên cho những người dân chúng ta bỏ lại đằng sau để theo đuổi nhiệm vụ thiêng liêng.’ Và ông ôm Gaspar Ruiz lặng lẽ ở bên cạnh.
“Sau đó, khi tất cả chúng tôi đã đứng dậy khỏi bàn ăn, tôi tiến lại gần người sĩ quan mới nhất trong quân đội với những lời chúc mừng của tôi. ‘Và, Đại úy Ruiz,’ tôi nói thêm, ‘có lẽ anh không phiền cho một người đàn ông vẫn luôn luôn tin vào sự ngay thẳng của tính cách anh, biết chuyện gì đã xảy ra với Dona Erminia vào đêm hôm ấy chứ?’
“Diện mạo anh thay đổi trước câu hỏi thân thiện trên. Anh nhìn tôi từ dưới hai hàng lông mày bằng cái nhìn nặng nề, mờ đục của một guasso - của một nông dân.
“‘Senor teniente,’ anh nói ồm ồm, và như thể rất buồn rầu, ‘đừng hỏi tôi về senorita, vì tôi thích không nghĩ về nàng chút nào khi đang ở giữa các ngài.’
“Anh nhìn, với một cái nhíu mày, khắp quanh căn phòng, đầy khói thuốc và những sĩ quan đang chuyện trò. Dĩ nhiên tôi không nài hỏi.
“Đó, senores, là những lời cuối cùng tôi nghe anh thốt ra trong một khoảng thời gian rất dài. Ngay hôm sau chúng tôi lên tàu đi viễn chinh gian khổ đến Peru, và chỉ nghe nói đến những việc làm của Gaspar Ruiz giữa các trận đánh của chính mình. Anh đã được bổ nhiệm làm người bảo vệ quân sự cho tỉnh miền Nam của chúng tôi. Anh thành lập một partida. Nhưng sự nhân từ với kẻ thù bị chinh phục của anh không làm hài lòng Thống Đốc Dân Sự, một người long trọng, không yên, đầy nghi ngờ. Ông ta chuyển tiếp những báo cáo không tốt về Gaspar Ruiz lên Chính Phủ Tối Cao; một trong số đó là anh đã kết hôn công khai, với một người rất phù phiếm, một người đàn bà có các xu hướng Bảo Hoàng. Những cuộc cãi nhau chắc chắn sẽ nổ ra giữa hai người đàn ông có tính cách rất khác nhau này. Cuối cùng Thống Đốc Dân Sự bắt đầu phàn nàn về việc anh thiếu hoạt động, và ám chỉ đến một sự phản bội, điều, ông ta viết, hẳn sẽ không có gì đáng ngạc nhiên ở một người đàn ông có những tiền lệ như thế. Gaspar Ruiz biết chuyện. Anh đùng đùng phẫn nộ, và người phụ nữ lúc nào cũng ở bên cạnh anh biết cách đổ thêm dầu vào lửa bằng những lời dối trá. Tôi không biết có bao giờ Chính Phủ Tối Cao - như sau đó anh đã phàn nàn - thực sự gửi lệnh bắt anh không. Dường như chắc chắn là Thống Đốc Dân Sự đã bắt đầu mua chuộc các sĩ quan của anh, và Gaspar Ruiz biết chuyện đó.
“Một tối, khi Thống Đốc đang tertullia6 thì Gaspar Ruiz, theo sau là sáu người lính mà anh có thể tin cậy, cưỡi ngựa xuyên qua thị trấn đến cửa Nhà Chính Phủ, và mang vũ khí, mũ đội đầu, vào sala. Khi Thống Đốc, đầy bực bội, tiến lên để gặp anh, thì anh ôm lấy người đàn ông bất hạnh đó, đưa ông ta đi giữa đám khách khứa đang thất kinh, như thể ông ta là một đứa trẻ, và ném ông ta xuống những bậc tam cấp bên ngoài ra phố. Một cái ôm tức giận từ Gaspar Ruiz là đủ để bóp bay cuộc sống ra khỏi một người khổng lồ; thế mà những kỵ sĩ của Gaspar Ruiz còn bắn súng lục vào xác Thống Đốc khi nó nằm bất động dưới chân cầu thang nữa.”
X
“Sau - như anh gọi nó - hành động của công lý này, Ruiz qua sông Rio Blanco, theo sau bởi phần lớn hơn trong toán của anh, và đào hào xung quanh mình trên một ngọn đồi. Một đại đội lính chính quy được cử đến đánh anh, đầy ngu ngốc, bị bao vây, và bị tiêu diệt hầu như không còn một mống. Những cuộc viễn chinh khác, dù được tổ chức tốt hơn, cũng không thành công hơn.
“Chính trong những cuộc chạm trán nhỏ đẫm máu này mà vợ anh bắt đầu lần đầu tiên xuất hiện trên lưng ngựa ở bên tay phải anh. Trở nên kiêu hãnh và tự tin nhờ các thành công của mình, Ruiz không còn dẫn đầu partida của anh xông lên nữa, mà, đầy tự phụ, như ông tướng chỉ huy những hoạt động của một đạo quân, anh ở lại đằng sau, vững vàng và bất động trên một chỗ cao, ban ra những mệnh lệnh. Người ta hay thấy cô ở bên cạnh anh, và trong một thời gian dài đã nhầm tưởng đó là một người đàn ông. Bấy giờ có nhiều lời bàn tán về một thủ lĩnh mặt-trắng bí ẩn, mà người ta quy cho những thất bại của quân chúng tôi. Cô cưỡi ngựa như một phụ nữ da đỏ, hai chân hai bên, đội mũ rộng vành của đàn ông và mặc áo poncho sẫm màu. Sau đó, trong ngày thịnh vượng nhất của họ, chiếc áo poncho này được thêu vàng, và lúc đó cô còn mang cả thanh gươm của Don Antonio de Leyva tội nghiệp. Sĩ quan Chile kỳ cựu đó, sau khi không may bị bao vây với một lực lượng nhỏ, và hết đạn, đã chết do tay của những người da đỏ Arauco, đồng minh và quân trợ lực của Gaspar Ruiz. Đây là vụ việc định mệnh lâu sau đó vẫn còn được nhớ đến như ‘Vụ thảm sát ngoài Đảo’. Peneleo, thủ lĩnh Arauco, đã tặng thanh gươm của người sĩ quan bất hạnh ấy cho cô; vì những người da đỏ này, ấn tượng trước diện mạo, khuôn mặt tái nhợt chết chóc, mà không có sự dãi dầu mưa nắng nào dường như tác động được, và thái độ thờ ơ bình tĩnh của cô dưới lửa đạn, xem cô như người siêu nhiên, hay ít nhất là như một phù thủy. Nhờ sự mê tín dị đoan này mà uy tín và uy quyền của Gaspar Ruiz giữa những người dốt nát ấy càng tăng thêm nhiều. Chắc hẳn cô phải đầy ý định trả thù vào ngày mang thanh gươm của Don Antonio de Leyva. Nó luôn luôn ở bên cạnh cô, chỉ trừ những khi cô mặc trang phục phụ nữ - không phải vì cô sẽ hay có thể phải dùng đến nó, mà cô yêu cái cảm giác khi nó đập vào đùi mình như lời nhắc nhở vĩnh viễn và biểu tượng nỗi ô nhục với quân đội của phe Cộng Hòa. Cô tham lam vô độ. Thêm nữa, trên con đường cô dẫn Gaspar Ruiz đi, đã không có chỗ dừng chân. Những tù binh trốn thoát - và họ không đông - từng kể chuyện bằng ít lời thì thầm cô có thể làm thay đổi vẻ mặt anh và làm sống lại lòng hận thù đang suy yếu của anh như thế nào. Họ kể chuyện sau mỗi trận giao tranh nhỏ, sau mỗi cuộc đột kích, sau mỗi hành động thành công, anh cưỡi ngựa lên gặp cô và nhìn vào mặt cô như thế nào. Khuôn mặt đó luôn luôn có vẻ bình tĩnh kiêu căng. Cái ôm của cô, senores, hẳn phải lạnh như cái ôm của một pho tượng. Anh cố gắng làm tan chảy trái tim băng giá của cô bằng dòng máu nóng. Một số sĩ quan hải quân Anh đến thăm anh vào lúc đó đã nhận thấy tính chất lạ lùng trong mối tình say đắm của anh.”
Thấy thính giả của mình ồ lên vì ngạc nhiên và tò mò, Tướng Santierra dừng lời một lát.
“Vâng - các sĩ quan hải quân Anh,” ông nhắc lại. “Ruiz đã đồng ý tiếp họ để sắp xếp việc trả tự do cho một số tù binh cùng quốc tịch với các vị. Trên lãnh thổ mà anh đi khắp, từ bờ biển đến Cordillera, có một cái vịnh nơi những con tàu thời đó, sau khi vòng Mũi Sừng, từng vào để lấy gỗ và nước. Ở đó, sau khi nhử thủy thủ lên bờ, trước hết anh bắt con thuyền hai buồm Hersalia đi săn cá voi, và sau đó tự biến mình thành chủ nhân tình cờ của thêm hai con tàu nữa, một của Anh và một của Mỹ.
“Lúc bấy giờ có tin đồn rằng anh mơ đến việc thành lập hải quân của riêng mình. Nhưng việc đó, dĩ nhiên, là không thể. Song, sau khi cung cấp người cho con thuyền hai buồm ấy với một phần đội thủy thủ của chính nó, đưa một sĩ quan và nhiều lính của mình lên boong, anh cử nó đến gặp Thống Đốc Tây Ban Nha của đảo Chiloe với một bản báo cáo những kỳ tích của anh, và một yêu cầu viện trợ trong cuộc chiến tranh với quân phiến loạn. Thống Đốc không thể giúp anh được nhiều; nhưng ông ta đã gửi đáp lại hai khẩu trái phá hạng nhẹ, một bức thư khen ngợi, kèm giấy phong quân hàm đại tá trong lực lượng bảo hoàng, và một lá cờ Tây Ban Nha lớn. Lá cờ này với nhiều nghi lễ đã được kéo lên trên nhà anh ở giữa vùng đất của người Arauco. Hẳn là vào ngày hôm đó có thể cô đã mỉm cười với người chồng guasso của mình bớt ngạo nghễ hơn.
“Sĩ quan cấp cao của liên đội tàu Anh trên bờ biển thay mặt cho Chính Phủ của chúng tôi phản đối về những người bị bắt này. Nhưng Gaspar Ruiz từ chối điều đình với chúng tôi. Rồi một tàu khu trục nhỏ của Anh tiến vào vịnh, và thuyền trưởng, bác sĩ, và hai đại úy của nó đi vào đất liền dưới một tấm giấy thông hành an toàn. Họ được đón tiếp tốt, và qua ba ngày như khách của thủ lĩnh phe. Một dạng trạng thái quân sự, man rợ được duy trì ở nơi ở đó. Nó được trang bị của cướp được nơi các thị trấn biên giới. Khi mới được đưa vào sala chính, họ thấy vợ anh đang nằm (lúc đó cô không được khỏe), với Gaspar Ruiz ngồi dưới chân trường kỷ. Mũ của anh nằm dưới sàn, và hai bàn tay anh nghỉ ngơi trên cán gươm.
“Trong cuộc nói chuyện đầu tiên ấy hai bàn tay to của anh không lúc nào rời khỏi cán gươm, trừ một lần, để sửa mền đắp quanh người cô, bằng những cái vuốt ve hiền dịu, đầy cẩn thận. Họ nhận thấy mỗi khi cô nói là anh lại nhìn dán mắt vào cô trong một sự chú ý mong chờ, nín thở, và dường như quên sự tồn tại của thế giới và cả sự tồn tại của chính mình. Trong bữa tiệc chia tay, tại đó cô nằm trên trường kỷ, anh bùng lên phàn nàn về sự đối xử mà mình đã nhận. Sau khi Tướng San Martin ra đi anh đã bị quấy rầy bởi những tên gián điệp, bị vu khống bởi các viên chức dân sự, những sự phục vụ của anh bị lờ đi, tự do của anh và thậm chí cả mạng sống của anh cũng bị đe dọa bởi Chính Phủ Chilê. Anh đứng dậy khỏi bàn ăn, vừa chửi rủa như sấm rền vừa hoang dã đi đi lại lại trong phòng, rồi ngồi xuống trường kỷ dưới chân vợ, ngực phập phồng, đôi mắt nhìn không rời khỏi sàn nhà. Cô nằm tựa lưng, gối đầu lên những tấm đệm, đôi mắt gần như khép.
“‘Và bây giờ tôi là một sĩ quan Tây Ban Nha danh giá,’ anh nói thêm bằng giọng bình tĩnh.
“Bấy giờ viên thuyền trưởng tàu khu trục nhỏ của Anh mới thừa cơ nhẹ nhàng thông tin cho anh biết rằng Lima đã thất thủ, và bởi những điều khoản của một hiệp định mà người Tây Ban Nha đang rút khỏi toàn bộ lục địa này.
“Gaspar Ruiz ngước đầu lên, và không do dự, nói bằng giọng kịch liệt kìm nén, tuyên bố, rằng nếu trên toàn bộ Nam Mỹ còn một người lính Tây Ban Nha nào thì anh sẽ kiên trì tiếp tục chiến đấu chống lại Chilê cho đến giọt máu cuối cùng. Khi anh đã nói xong tràng chửi rủa điên rồ đó thì bàn tay dài trắng trẻo của vợ anh giơ lên, và cô chỉ vuốt ve đầu gối anh bằng những đầu ngón tay mình trong chưa đầy một giây.
“Trong phần còn lại của chuyến lưu lại của các sĩ quan đó, nó không kéo dài quá nửa giờ sau bữa tiệc, người thủ lĩnh dữ tợn của một partida tuyệt vọng ấy tràn trề hòa nhã và tử tế. Trước đó anh đã hiếu khách, nhưng bây giờ cứ như anh loay hoay đủ mọi cách hòng giúp cho khách của mình trở về tàu được thoải mái và an toàn.
“Không gì, tôi đã được cho biết, có thể cho thấy một sự tương phản lớn hơn với sự bạo lực hay dè dặt ít nói quen thuộc trong cung cách gần đấy của anh. Như người phấn chấn quá mức nhờ một niềm hạnh phúc bất ngờ, anh tràn đầy thiện ý, tốt bụng, và lưu tâm. Anh ôm các sĩ quan như những người anh em, hầu như với những giọt lệ trong đôi mắt. Những tù binh được thả được tặng mỗi người một đồng vàng. Vào khoảnh khắc cuối cùng, bất thình lình, anh tuyên bố mình không thể làm ít hơn việc trả lại tất cả tài sản riêng của họ cho chủ nhân của các tàu buôn. Sự hào phóng bất ngờ này trì hoãn việc lên đường của nhóm người đó một thời gian, và chuyến đầu tiên họ đi được chẳng bao xa.
“Đến tối muộn Gaspar Ruiz cưỡi ngựa với một đội hộ tống, đi đến những đống lửa trại của họ, dẫn theo một con la chở nặng các thùng rượu vang. Anh đã đến, anh nói, để uống một ly chia tay với những người bạn Anh, mà anh sẽ không bao giờ gặp lại. Anh dịu ngọt và vui vẻ trong tính khí. Anh kể chuyện về các kỳ tích của mình, cười như một cậu bé, mượn cây ghi ta của người dắt la trưởng cho người Anh, và ngồi tréo chân trên chiếc áo poncho thượng hạng trải trước đống than hồng rực rỡ, dịu dàng hát một bản tình ca guasso. Rồi đầu anh gục xuống ngực, hai bàn tay hạ xuống đất; cây ghi ta lăn xuống hai đầu gối - và trại đã im lặng tuyệt đối sau bản tình ca của người phe phái không biết mủi lòng đã làm cho rất nhiều người dân của chúng tôi phải khóc vì phá hoại gia đình và chia lìa tình yêu.
“Trước khi có ai kịp nói lời nào anh đã nhảy bật dậy khỏi mặt đất và gọi ngựa của anh. ‘Adios7, các bạn của tôi!’ anh kêu lên, ‘Hãy đi cùng Chúa. Tôi yêu các bạn. Hãy nói cho những người ở Santiago biết rằng giữa Gaspar Ruiz, đại tá của Vua Tây Ban Nha, và lũ quạ ăn xác thối của cộng hòa Chilê sẽ là chiến tranh cho đến hơi thở cuối cùng - chiến tranh! chiến tranh! chiến tranh!’
“Với những tiếng ‘Chiến tranh! chiến tranh! chiến tranh!’ lớn mà đội hộ tống của anh gào lên, họ cưỡi ngựa đi, rồi tiếng móng ngựa và những giọng nói xa dần giữa các sườn đồi.
“Hai sĩ quan Anh trẻ tuổi đoan chắc là Ruiz điên. Các vị gọi điều đó thế nào nhỉ? - loạn óc - hả? Nhưng ông bác sĩ, một người Scotland tinh tường với nhiều sắc sảo và triết học trong tính cách, nói với tôi rằng đó là một trường hợp rất kỳ lạ của sự chiếm hữu. Nhiều năm sau đó tôi đã gặp ông, nhưng ông vẫn còn nhớ kinh nghiệm trên rất rõ. Ông cũng nói với tôi là theo quan điểm của ông thì người phụ nữ đó dẫn Gaspar Ruiz vào con đường phản bội đẫm máu không phải bằng cách trực tiếp thuyết phục, mà tinh vi đánh thức và giữ cho sống trong tâm trí giản đơn của anh cái ý thức cháy bỏng về một điều sai trái không thể sửa chữa. Có thể, có thể. Nhưng tôi sẽ nói cô rót một nửa linh hồn đầy thù hận của mình vào thứ đất sét khỏe mạnh của người đàn ông ấy, như các vị có thể rót rượu, sự điên rồ, thuốc độc vào một chiếc tách rỗng.
“Nếu muốn chiến tranh thì anh sẽ có nó ra trò khi quân đội chiến thắng của chúng tôi bắt đầu trở về từ Peru. Những hoạt động có hệ thống đã được lên kế hoạch nhằm xóa bỏ vết nhơ trên danh dự và sự thịnh vượng của nền độc lập khó khăn mới giành được của chúng tôi. Tướng Robles chỉ huy, với sự nghiêm khắc nhẫn tâm nổi tiếng của ông. Các cuộc trả thù man rợ được tiến hành với cả hai phe, và không ai được tha mạng ở ngoài chiến trường. Sau khi được thăng cấp trong chiến dịch Peru, tôi là đại úy của ban tham mưu.
“Gaspar Ruiz bị dồn ép ghê gớm; đồng thời chúng tôi được biết nhờ một linh mục chạy trốn khỏi chính điện trong làng ông ta, và phi nước đại tám mươi dặm vào những ngọn đồi để thực hiện nghi lễ rửa tội, rằng họ đã sinh hạ được một cô con gái. Để kỷ niệm sự kiện, tôi cho rằng vậy, Ruiz thực hiện một hai vụ cướp sạch đẹp mắt đằng sau các lực lượng của chúng tôi, và đánh bại những chi đội được cử đi chặn đường rút lui của anh. Tướng Robles gần như đột quỵ vì phẫn nộ. Ông tìm được một nguyên nhân mất ngủ nữa, ngoài bị muỗi đốt; nhưng để chống lại nguyên nhân này, senores, những cốc vại rượu mạnh nguyên chất không tác dụng gì hơn chừng đó nước. Ông bắt đầu mắng nhiếc và chửi bới tôi về người đàn ông khỏe mạnh của tôi. Và vì nóng lòng muốn kết thúc chiến dịch thiếu vẻ vang này, tôi e rằng các sĩ quan trẻ chúng tôi đã trở nên khinh suất và dễ làm các việc quá liều lĩnh.
“Tuy vậy, một cách chậm chạp, có thể nói là từng li một, những đoàn binh của chúng tôi bắt đầu khép chặt vòng vây Gaspar Ruiz, dù anh đã tìm cách kêu gọi toàn bộ tộc người da đỏ Arauco hoang dã chống lại chúng tôi. Rồi một năm hoặc hơn sau đó Chính Phủ biết nhờ các đặc vụ và gián điệp của nó rằng anh đã thực sự liên minh với Carreras, người được gọi là nhà độc tài của cái gọi là nước cộng hòa Mendoza, ở bên kia rặng núi. Gaspar Ruiz có một ý định chính trị sâu sắc, hay chỉ muốn vợ con mình rút lui an toàn trong khi anh tiếp tục không hối hận tiến hành chiến tranh đánh úp và thảm sát với chúng tôi, tôi không biết. Tuy nhiên, liên minh đó là có thật. Thất bại trong nỗ lực chặn không cho chúng tôi tiến vào từ ngoài biển, anh rút lui nhanh như thường lệ, và chuẩn bị thêm một trận đánh ác liệt và mạo hiểm bắt đầu bằng việc đưa vợ con sang bên kia rặng núi Pequena, trên biên giới Mendoza.”
XI
“Bây giờ Carreras, dưới chiêu bài chính trị và chủ nghĩa tự do, là tên vô lại nhất, và tình trạng không hạnh phúc của Mendoza là con mồi cho những tên trộm, cướp, phản bội và giết người, những kẻ hình thành nên phe của hắn. Hắn ở trong cái vẻ ngoài cao quý của một gã đàn ông không có trái tim, lòng thương xót, danh dự, hay lương tâm. Chỉ thèm muốn bạo ngược, và dù sẽ dùng Gaspar Ruiz vào các mưu đồ bất chính, song hắn vẫn nhanh chóng biết rằng làm lành với Chính Phủ Chilê sẽ có lợi cho mục đích của hắn hơn. Tôi xấu hổ mà nói hắn đã đề nghị với Chính Phủ chúng tôi giao, theo các điều kiện nhất định, vợ và con của người đàn ông đã tin vào danh dự của hắn, và lời đề nghị này đã được chấp nhận.
“Trong khi trên đường đến Mendoza trên đèo Pequena cô đã bị phản bội bởi đội lính hộ tống mình của Carreras, và giao cho sĩ quan chỉ huy một pháo đài Chilê trên vùng cao dưới chân rặng Cordillera chính. Giao dịch tàn ác này có thể khiến tôi phải trả giá đắt, vì trong thực tế tôi là tù binh trong trại của Gaspar Ruiz khi anh nhận được tin. Tôi đã bị bắt trong một chuyến đi trinh sát, đội hộ tống tôi gồm một ít lính kỵ binh bị đội vệ sĩ người da đỏ của anh đâm bằng giáo. Tôi được cứu thoát khỏi phải chịu chung số phận nhờ anh nhận ra mặt tôi đúng lúc. Không còn nghi ngờ gì nữa là các bạn tôi nghĩ tôi chết rồi, và tôi chưa bao giờ quá tiếc cái mạng sống của tôi. Nhưng người đàn ông khỏe mạnh đó đối xử với tôi rất tốt, vì, anh nói, tôi vẫn luôn luôn tin anh vô tội và cố gắng phục vụ anh khi anh là nạn nhân của sự bất công.
“‘Và bây giờ,’ đó là lời anh nói với tôi, ‘anh sẽ thấy tôi luôn luôn nói thật. Anh được an toàn.’
“Tôi không nghĩ mình được thực sự an toàn khi một đêm tôi được gọi đi gặp anh. Anh đi đi lại
lại như con thú hoang, vừa la lên, ‘Phản bội! Phản bội!’
“Anh tiến lại gần tôi với hai nắm đấm siết chặt. ‘Tôi có thể cắt họng anh.’
“‘Việc đó sẽ đưa vợ anh về với anh sao?’ tôi nói lặng lẽ hết sức.
“‘Và con tôi!’ anh gào lên, như thể đã phát điên. Anh ngồi phịch xuống một cái ghế và cười một cách đáng sợ, hung dữ. ‘Ồ, không, anh được an toàn.’
“Tôi đảm bảo với anh rằng tính mạng của vợ anh cũng được an toàn; nhưng tôi không nói điều tôi đoan chắc - đó là anh sẽ không bao giờ được gặp lại cô nữa. Anh muốn chiến tranh đến chết, và chiến tranh chỉ có thể kết thúc với cái chết của anh.
“Anh nhìn tôi một cách lạ lùng, không thể lý giải, và ngồi thẫn thờ lầm bầm. ‘Trong tay chúng. Trong tay chúng.’
“Tôi giữ mình bất động như con chuột trước con mèo. Bất thình lình anh nhảy bật dậy. ‘Tôi đang làm gì ở đây?’ anh kêu; và sau khi mở cửa, anh gào lên ra lệnh dẫn ngựa đến và leo lên ngựa. ‘Cái gì vậy?’ anh lắp bắp, tiến lại gần tôi. ‘Pháo đài Paquena; pháo đài có hàng rào cọc nhọn! Không có gì. Tôi sẽ đưa nàng về ngay nếu nàng có bị giấu giữa lòng núi.’ Anh làm tôi kinh ngạc bằng cách nỗ lực nói thêm: ‘Tôi đã đưa nàng đi trên hai cánh tay tôi khi mặt đất rung chuyển. Và ít nhất con tôi là của tôi. Ít nhất nàng là của tôi!’
“Đó là những lời nói kỳ quái; nhưng tôi không có thời gian để lấy làm lạ.
“‘Anh sẽ đi với tôi;’ anh dữ dội nói. ‘Tôi có thể cần một cuộc hòa đàm, và bất cứ sứ giả nào khác từ Ruiz, kẻ ngoài vòng pháp luật, cũng đều sẽ bị cắt họng.’
“Điều này khá đúng. Giữa anh và phần còn lại của nhân loại không thể có bất cứ mối liên hệ nào, theo tập quán của chiến tranh có danh dự.
“Trong vòng chưa đầy nửa tiếng chúng tôi đã ở trên yên ngựa, điên cuồng phi xuyên qua màn đêm. Đội hộ tống anh chỉ có hai mươi lính tại trại, nhưng không chịu chờ thêm. Tuy nhiên, anh đã cử các sứ giả đến gặp Peneleo, thủ lĩnh da đỏ bấy giờ đang đóng dưới chân đồi, chỉ đạo ông ta đưa các chiến binh của mình lên vùng đất cao và gặp anh tại con hồ được gọi là Mắt Nước, mà bờ gần nơi pháo đài biên giới Pequena được xây dựng.
“Chúng tôi băng ngang qua vùng đất thấp với sự di chuyển nhanh chóng không biết mệt mỏi, thứ đã giúp cho những cuộc đột kích của Gaspar Ruiz trở nên rất nổi tiếng. Chúng tôi theo những thung lũng thấp hơn lên các đầu vách đá. Chuyến đi ngựa này không thiếu hiểm nguy. Một con đường trong vách núi ba-zan thẳng đứng vòng quanh một tảng hoành sơn, và cuối cùng chúng tôi hiện ra từ bóng tối trong hẻm núi sâu trên cao nguyên Pequena.
“Đó là đồng bằng cỏ xanh thô và xoăn có những bụi hoa thưa; nhưng cao trên đầu chúng tôi các mảng tuyết lơ lửng trong những nếp gấp và kẽ hở của các bức tường đá lớn. Một hồ nước nhỏ tròn như con mắt nhìn chòng chọc. Đơn vị đồn trú của pháo đài đang lùa đàn gia súc nhỏ của họ vào khi chúng tôi xuất hiện. Rồi cánh cổng gỗ lớn mở ra, và mảnh đất bốn cạnh hình vuông được rào bởi những cây cọc đen to đỉnh nhọn và chỉ che giấu mái cỏ của những túp lều ở bên trong, dường như bị bỏ rơi, trống trải, không một bóng người.
“Nhưng khi được kêu gọi đầu hàng, bởi một người lính nghe lệnh Gaspar Ruiz mà không sợ hãi cưỡi ngựa tiến lên, thì những người ở bên trong trả lời bằng loạt đạn hạ gục anh ta và con ngựa. Tôi nghe tiếng Ruiz nghiến răng ở bên cạnh. ‘Không sao,’ anh nói. ‘Bây giờ anh đi.’
“Tả tơi và bạc màu như giẻ rách, thế mà vết tích bộ quân phục của tôi vẫn được nhận ra, và tôi được phép tiến lại gần trong vòng nghe được giọng nói; và rồi tôi phải chờ, vì giọng nói hét qua lỗ châu mai với niềm vui và nỗi kinh ngạc không cho tôi được nói lời nào. Đó là giọng Thiếu Tá Pajol, một người bạn cũ. Ông ta, như các đồng chí khác của tôi, nghĩ tôi đã bị giết chết từ lâu rồi.
“‘Thúc con ngựa của anh nào, anh bạn!’ ông hét lên, trong niềm phấn khích to lớn nhất; ‘chúng tôi sẽ mở cổng cho anh.’
“Tôi buông cương rơi khỏi bàn tay và lắc đầu. ‘Tôi đã thề danh dự,’ tôi kêu lên.
“‘Với hắn ư!’ ông hét, bằng giọng vô cùng ghê tởm.
“‘Anh ta hứa sẽ tha mạng cho ông.’
“‘Mạng của chúng tôi là của chúng tôi. Và anh, Santierra, khuyên chúng tôi nên đầu hàng rastrero8 đó sao?’
“‘Không!’ tôi hét. ‘Nhưng anh ta muốn vợ con anh ta, và có thể cắt nguồn nước của ông đấy.’
“‘Thế thì cô ta sẽ là người đầu tiên phải chịu khổ. Anh có thể nói với hắn như thế. Nghe đây - toàn bộ chuyện này thật vớ vẩn: chúng tôi sẽ lao ra bắt anh.
“‘Ông sẽ không bắt sống được tôi đâu,’ tôi nói vững.
“‘Dại khờ!’
“‘Vì Chúa,’ tôi vội vàng tiếp tục, ‘đừng mở cổng.’ Và tôi chỉ vào vô số người da đỏ của Peneleo đang che phủ bờ hồ.
“Tôi chưa bao giờ thấy những tên man rợ này ở bên cạnh nhau nhiều đến thế. Những ngọn giáo của chúng dày đặc như kiến cỏ. Những giọng nói cộc cằn tạo thành một âm thanh mênh mông, không rõ như tiếng rì rào của biển.
“Ông bạn Pajol của tôi chửi thề một mình. ‘Chà, thế thì - đi đến với quỷ đi!’ ông hét, cáu tiết. Nhưng khi tôi quay lại thì ông hối hận, vì tôi nghe ông vội vàng nói, ‘Bắn con ngựa của thằng ngốc trước khi hắn bỏ đi.’
“Ông ta có những lính bắn súng giỏi. Hai phát súng nổ, và con ngựa của tôi lảo đảo trong lúc quay lại, ngã và nằm im tựa hồ bị sét đánh. Tôi rút chân khỏi bàn đạp rồi lăn khỏi nó; nhưng tôi không nỗ lực đứng dậy. Họ cũng không dám lao ra lôi tôi vào.
“Những đám người da đỏ bắt đầu di chuyển lên pháo đài. Họ cưỡi ngựa lên trong những đội ngũ, kéo theo chuzo9 dài; rồi xuống ngựa vì phát súng hỏa mai và, sau khi ném áo choàng không tay lông thú đi, trần truồng tiến lên tấn công, giẫm chân và hét theo nhịp. Một tấm lửa chạy ba lần dọc mặt pháo đài mà không ngăn được cuộc hành quân vững vàng của họ. Họ tập trung ngay trên chính các cây cọc, khua dao rộng bản. Nhưng hàng rào cọc này không được buộc vào nhau bằng nhiều dây da theo cách thông thường, mà bằng đinh sắt dài, nên họ không thể cắt. Mất nhuệ khí trước thất bại của phương pháp mở lối vào thông thường, lũ người man rợ, đã hành quân vững vàng như vậy trước hỏa lực súng hỏa mai, bỏ chạy tán loạn dưới những loạt đạn của quân bị bao vây.
“Ngay sau khi họ vượt qua tôi trên đường tiến lên, tôi liền đứng dậy đến bên Gaspar Ruiz trên một chỏm thấp nhô ra trên đồng bằng. Lính của anh đã yểm hộ cuộc tấn công bằng hỏa lực súng hỏa mai, nhưng bây giờ anh ra hiệu cho một người thổi kèn trumpet thổi hiệu lệnh ‘Ngừng bắn’. Chúng tôi cùng nhau im lặng nhìn đám người man rợ tuyệt vọng đó.
“‘Thế thì, đó hẳn phải là một cuộc vây hãm,’ anh lẩm bẩm. Và tôi phát hiện thấy anh lén vặn hai bàn tay vào nhau.
“Nhưng đó có thể là loại vây hãm nào? Tôi hoàn toàn không cần phải nhắc lại thông điệp của ông bạn Pajol của tôi, anh không dám cắt nước khỏi những người bị bao vây. Họ có rất nhiều thịt. Và, quả thật, nếu họ thiếu thốn, anh cũng sẽ nóng lòng gửi ngay thức ăn vào bên trong hàng rào cọc nếu có thể. Nhưng, trên thực tế, chính những người ở ngoài đồng bằng chúng tôi mới bắt đầu cảm thấy hơi đói.
“Peneleo, thủ lĩnh da đỏ, ngồi bên cạnh đống lửa của chúng tôi, gập mình trong chiếc áo choàng không tay lùng thùng bằng da guanaco10. Hắn là tên man rợ lực lưỡng, với cái đầu vuông khổng lồ tóc rối bù giống tổ ong rơm trong hình hài và kích thước, và những nét mặt nghiêm trang, cáu kỉnh, nhăn nhúm. Bằng thứ tiếng Tây Ban Nha đứt đoạn của mình hắn nhắc đi nhắc lại, tru lên như con thú hoang xấu tính, rằng nếu đục được một lỗ mở dù nhỏ trong cổng của hàng rào cọc nhọn thì lính của hắn sẽ vào cứu senora - không thể khác được.
“Gaspar Ruiz, ngồi đối diện hắn, có thể nói là ngày đêm nhìn không rời mắt khỏi pháo đài, trong sự im lặng và bất động đáng kinh sợ. Trong khi đó, nhờ những người đưa tin từ vùng đất thấp đến gần như hằng ngày, mà chúng tôi được biết thất bại của một trong những trung úy của anh tại thung lũng Maipu. Nhưng trinh sát được cử đi xa mang các tin tức về một đội bộ binh hàng dọc đang đi trên những ngọn đèo xa để đến giải vây cho pháo đài. Họ đi chậm, nhưng chúng tôi có thể thấy chuyến đi vất vả lên những thung lũng thấp của họ. Tôi tự hỏi tại sao Ruiz không kéo quân đi tấn công và tiêu diệt cái lực lượng đang đe dọa này, trong một hẻm núi hoang nào đó thích hợp cho một trận phục kích, phù hợp với thiên tài chiến tranh du kích của anh. Nhưng thiên tài của anh dường như đã bỏ mặc cho anh tuyệt vọng.
“Tôi thấy rõ là anh không thể không trông thấy pháo đài. Xin cam đoan với các vị, senores, rằng tôi đã xúc động đến hầu như thương hại trước cảnh tượng người đàn ông khỏe mạnh này bất lực ngồi trên chỏm núi, thờ ơ với mặt trời, với mưa, với lạnh, với gió; với hai bàn tay đan chặt vào nhau quanh hai chân và cằm tựa trên hai đầu gối, nhìn chằm chằm - nhìn chằm chằm - nhìn chằm chằm.
“Và cái pháo đài anh nhìn dán mắt cũng tĩnh lặng và im lìm như chính anh. Đơn vị đồn trú không tỏ ra một dấu hiệu của sự sống nào. Thậm chí họ không đáp trả lại hỏa lực rời rạc nhắm vào những lỗ châu mai.
“Một đêm, khi tôi đi qua anh, anh, không thay đổi thái độ, bất ngờ nói với tôi, ‘Tôi đã cử người đi lấy súng,’ anh nói. ‘Tôi sẽ đủ thời gian đưa nàng ra và rút lui trước khi Robles của anh kịp bò lên được đến đây.’
“Anh đã cử người đi xuống bình nguyên để lấy một khẩu đại bác.
“Lâu, nhưng cuối cùng nó cũng đến. Đó là một khẩu pháo dã chiến bắn đạn nặng bảy pound. Được khuân xuống và buộc chéo vào hai cây sào dài, người ta thoải mái đưa nó lên những lối mòn hẹp giữa hai con la. Tiếng kêu hân hoan hoang dã của anh vào lúc ngày rạng khi thấy đội đi lấy súng hiện ra từ thung lũng bây giờ vẫn còn reo vang trong tai tôi.
“Nhưng, senores, tôi không có lời nào để tả vẻ sửng sốt, sự thịnh nộ, nỗi tuyệt vọng và quẫn trí của anh, khi anh nghe nói rằng con vật tải giá đỡ súng, trong đêm đi đường cuối cùng, không biết làm sao đã rơi xuống một vách đứng. Anh bùng lên đe dọa sẽ giết chết và tra tấn đội đi lấy súng. Tôi tránh đường anh suốt ngày hôm đó, nằm đằng sau mấy bụi cây, và tự hỏi bây giờ anh sẽ làm gì. Anh có đường rút lui; nhưng không thể rút lui.
“Tôi thấy pháo thủ Jorge của anh ở bên dưới mình, đó là một người lính Tây Ban Nha già, đang chất đống yên ngựa để dựng lên cái gì đó. Khẩu súng, đã nạp đạn, được đưa lên đấy, nhưng khi bắn thì tất cả đổ sụp làm viên đạn bay cao quá cổng rào cọc nhọn.
“Người ta thôi cố làm gì nữa. Một trong những con la tải đạn cũng đi lạc, và họ còn không hơn sáu phát đạn để bắn; dư sức bắn sụp cổng, miễn là khẩu súng được chống đỡ tốt. Việc này là không thể nếu nó không được nâng lên đúng tầm. Không có thời gian hay phương tiện để dựng một giá đỡ súng. Tôi đã chờ đợi nghe những tiếng kèn gọi của Robles vang lên giữa những vách đá cheo leo vào bất cứ khoảnh khắc nào.
“Peneleo, bồn chồn đi đi lại lại, quấn mình trong tấm da, ngồi xuống một lát gần tôi gầm gừ kể câu chuyện muôn thuở của hắn.
“‘Mở một entrada11 - một cái lỗ. Nếu đục được một cái lỗ, bueno12. Nếu không đục được một cái lỗ, thì vemos13 - chúng ta phải đi khỏi đây thôi.’
“Sau khi mặt trời lặn tôi ngạc nhiên thấy quân da đỏ chuẩn bị như thể sắp đột kích thêm một lần nữa. Đội hình của họ đứng xếp hàng trong bóng núi. Trên đồng bằng trước cổng pháo đài tôi thấp một tốp lính lắc lư một chỗ.
“Tôi liều lĩnh đi bộ xuống chỏm núi. Ánh trăng thanh giữa không khí trong trẻo nơi cao nguyên sáng như ban ngày, nhưng những cái bóng đen kịt làm bối rối thị lực của tôi, vì tôi không thể thấy việc họ đang làm. Tôi nghe giọng Jorge, pháo thủ, nói trong một âm điệu kỳ quặc, đầy nghi ngờ, ‘Nó đã được nạp đạn, senores.’
“Rồi một giọng nói khác trong tốp đó kiên quyết phát âm mấy chữ, ‘Đưa thòng lọng đây.’ Đó là giọng Gaspar Ruiz.
“Một sự im lặng rơi xuống, trong đó nghe rõ tiếng súng bắn cành cạch của đơn vị đồn trú bị bao vây. Họ cũng đã thấy tốp lính. Nhưng khoảng cách quá xa, và dưới làn đạn súng hỏa mai cày xới mặt đất, tốp lính mở ra, khép lại, đu đưa, cho tôi thoáng thấy những bóng người bận rộn đang cúi xuống ở giữa. Tôi tiến lại gần hơn, nghi ngờ không biết đây có phải là một cảnh tượng kỳ lạ, một giấc mơ đáng nhớ và rồ dại hay không.
“Một giọng nói tắc nghẹn lạ lùng chỉ huy, ‘Siết chặt thòng lọng.’
“‘Si, senor,’ vài giọng khác kính sợ vội vàng trả lời.
“Rồi giọng tắc nghẹn nói: ‘Như thế. Cởi ra cho tôi thở.’
“Rồi có một sự ồn ào lo âu của nhiều người cùng nhau. ‘Nâng ông ấy dậy, hombres14. Giữ vững! Dưới cánh tay kia.’
“Giọng bị bóp nghẹt ra lệnh: ‘Bueno! Đứng xa tôi ra, các bạn.’
“Tôi chen đường đi xuyên qua vòng tròn người đang lùi lại, và thêm một lần nữa lại nghe vẫn giọng nói tắc nghẹn đó hăng hái nói: ‘Quên tôi là người đang sống đi, Jorge. Quên hẳn tôi đi, và nghĩ đến việc ông phải làm.’
“‘Đừng lo, senor. Với tôi ông chỉ là giá đỡ súng, và tôi sẽ không để phí một phát đạn nào.’
“Tôi nghe tiếng xì xèo của dây cháy, và ngửi thấy mùi thuốc súng của ngòi đạn. Bất thình lình tôi thấy ở trước mặt mình một thứ không ra hình thù gì trên cả tứ chi như một con thú, nhưng với cái đầu người đang cúi xuống bên dưới một thứ hướng lên hình ống ở trên gáy, và ánh sáng bóng của một đống đồng tròn ở trên lưng.
“Trước một hình bán nguyệt người nó ngồi xổm một mình với Jorge ở đằng sau và một lính kèn bất động, kèn trong bàn tay, ở bên cạnh nó.
“Jorge, gập đôi người, lẩm bẩm, dây cháy trong bàn tay: ‘Qua trái một chút, senor. Quá nhiều. Thế. Bây giờ, nếu ông hạ thấp mình xuống một chút bằng cách gập khuỷu tay, tôi sẽ...’
“Ông ta nhảy sang một bên, hạ thấp dây cháy, và lửa phụt ra từ miệng khẩu súng được buộc trên lưng người đàn ông.
“Rồi Gaspar Ruiz từ từ hạ thấp mình. ‘Trúng không?’ anh hỏi.
“‘Trúng phóc, senor.’
“‘Thế thì nạp lại đạn đi nào.’
“Anh nằm sấp ngực ở đó trước mặt tôi dưới khối đồng sáng mờ của gánh nặng gớm guốc, không có tình yêu hay sức mạnh của người đàn ông nào từng phải vác một gánh nặng như thế trong lịch sử đau thương của thế giới. Hai cánh tay anh dang ra, và anh giống như một người sám hối phủ phục trên mặt đất được ánh trăng chiếu sáng.
“Tôi lại thấy anh quỳ chống hai bàn tay và hai đầu gối, và những người lính đứng cách xa anh, và Jorge già cúi xuống, nhìn dọc khẩu súng.
“‘Qua trái một chút. Phải một tí. Por Dios, senor, đừng run nữa. Sức mạnh của ông đâu?’
“Giọng lão pháo thủ già vỡ ra vì xúc động. Ông ta bước sang một bên, và nhanh như chớp làm tóe lửa lỗ điểm hỏa.
“‘Xuất sắc!’ ông ta nức nở kêu lên; nhưng Gaspar Ruiz nằm im hồi lâu, bẹp dưới đất.
“‘Tôi mệt,’ cuối cùng anh cũng nói rì rầm. ‘Một phát nữa được chưa?’
“‘Không còn nghi ngờ gì nữa,’ Jorge nói, sau khi cúi xuống gần bên tai anh.
“‘Thế thì - nạp đạn,’ tôi nghe rõ lời anh. ‘Lính kèn!’
“‘Tôi đây, senor, sẵn sàng nghe lệnh ngài.’
“‘Hãy thổi một tiếng kèn sẽ được nghe thấy từ đầu này sang đầu kia Chilê khi tôi bảo,’ anh nói, bằng giọng khỏe khác thường. ‘Và những người khác đứng sẵn sàng cắt sợi dây thòng lọng đáng nguyền rủa này, vì đó sẽ là lúc tôi dẫn các bạn xông lên. Bây giờ hãy đỡ tôi dậy, và, ông, Jorge - nhằm bắn nhanh lên nào.’
“Tiếng cành cạch của hỏa lực súng hỏa mai từ pháo đài gần như át giọng anh. Rào cọc nhọn đầy khói lửa.
“‘Gồng người chồm tới trước khi súng dội lại, mi amo15,’ lão pháo thủ già run run nói. ‘Đào những ngón tay của ông vào đất. Thế. Nào!’
“Ông ta hân hoan kêu lên sau phát súng. Người lính kèn đưa kèn lên miệng chờ. Nhưng không một lời nào phát ra từ người đàn ông phủ phục. Tôi quỳ một đầu gối, và nghe tất cả những gì anh có để nói vào lúc đó.
“‘Cái gì đó đã gãy,’ anh thì thầm, sau khi hơi ngước đầu lên một chút, và quay đôi mắt về phía tôi trong một tư thế bị đè bẹp vô vọng.
“‘Cổng chỉ còn đứng nhờ những mảnh vụn,’ Jorge gào.
“Gaspar Ruiz cố gắng nói, nhưng giọng anh tắc trong họng, và tôi giúp lăn khẩu súng khỏi cái lưng gãy của anh. Anh bất tỉnh.
“Tôi ngậm miệng, dĩ nhiên. Tín hiệu cho những người da đỏ tấn công không bao giờ phát ra. Thay vào đó, những tiếng kèn gọi của quân cứu viện, mà tai tôi đã thèm nghe từ lâu, vang lên, đáng sợ như tiếng gọi của Ngày Cuối Cùng với đám kẻ thù ngạc nhiên của chúng tôi.
“Một cơn lốc xoáy, senores, một cơn bão táp đích thực của những người đàn ông điên cuồng, ngựa hoang dã, những người da đỏ cưỡi ngựa, quét qua tôi khi tôi nằm co mình dưới đất bên cạnh Gaspar Ruiz, vẫn nằm dang tay úp mặt trong hình hài của một cây thánh giá. Peneleo, phi nước đại để giữ mạng, đánh mạnh vào tôi bằng cây chuzo dài lúc lao qua - vì mối quen biết cũ, tôi đồ là thế. Làm sao tôi thoát được kẻ dẫn đầu đang lao đi đó là điều khó giải thích hơn. Liều lĩnh chống đầu gối dậy quá sớm, một số lính của trung đoàn Taltal thứ 17, trong khi vội vàng tóm được gì đó còn sống, gần như đã đâm giáo vào tôi ở đó. Họ cũng có vẻ rất thất vọng khi một số sĩ quan phi nước đại lên đuổi họ đi bằng bản gươm.
“Đó là Tướng Robles với quân của ông. Ông rất muốn bắt một số tù binh. Cả ông dường như cũng thất vọng một lát. ‘Cái gì? Anh đấy ư?’ ông kêu. Nhưng ông xuống ngựa tức thì để ôm tôi, vì ông là một người bạn cũ của gia đình tôi. Tôi chỉ vào cái xác dưới chân chúng tôi, và chỉ nói hai chữ thế này:
“‘Gaspar Ruiz.’
“Ông vung hai cánh tay lên trong nỗi kinh ngạc.
“‘A ha! Người đàn ông khỏe mạnh của anh! Luôn luôn đến cùng với người đàn ông khỏe mạnh của anh. Không vấn đề gì. Anh ta đã cứu mạng chúng ta khi quả đất run rẩy đủ để làm cho người dũng cảm nhất cũng phải ngất vì sợ. Tôi đã hoảng sợ đến phát cuồng. Nhưng anh ta - không! Que guape! Người anh hùng làm anh ta cố hết sức đâu? Ha! ha! ha! Cái gì đã giết chết anh ta vậy, chico?’
“‘Chính sức mạnh của anh ta, tướng quân ạ,’ tôi trả lời.”
XII
“Nhưng Gaspar Ruiz vẫn còn thở. Tôi bảo người đưa anh trong chiếc áo poncho của anh vào núp trong mấy bụi cây ngay trên chính chỏm núi từ đó anh đã nhìn chằm chằm không rời mắt khỏi pháo đài trong khi cái chết không được trông thấy bay lơ lửng trên đầu anh.
“Quân chúng tôi đóng trại buổi tối quanh pháo đài. Gần lúc ngày rạng tôi đã không ngạc nhiên khi nghe nói rằng tôi được chỉ định chỉ huy đội hộ tống một tù binh sẽ được đưa ngay lập tức đến Santiago. Dĩ nhiên người tù binh này là vợ Gaspar Ruiz.
“‘Tôi đã nêu tên anh vì lưu tâm đến các cảm xúc của anh,’ Tướng Robles nói. ‘Dẫu người phụ nữ đó thực sự đáng bị bắn vì tất cả những tổn hại mà cô ta đã gây ra với Nước Cộng Hòa.’
“Và khi tôi làm động tác cực lực phản đối, thì ông tiếp tục:
“‘Bây giờ anh ta cũng như đã chết, cô ta không còn quan trọng nữa. Không ai sẽ biết phải làm gì với cô ta. Tuy nhiên, Chính Phủ muốn có cô ta.’ Ông nhún vai. ‘Tôi cho rằng anh ta hẳn phải chôn những số lượng lớn của cướp được ở các nơi chỉ mình cô ta biết.’
“Lúc bình minh tôi thấy cô bế con lên chỏm núi, bị canh gác bởi hai người lính.
“Tôi đến gặp cô.
“‘Anh ta còn sống không?’ cô hỏi, đối diện tôi bằng khuôn mặt trắng, bình thản mà anh từng nhìn một cách tôn thờ.
“Tôi cúi đầu, và dẫn cô đi quanh một lùm bụi cây mà không nói một lời. Đôi mắt anh mở. Anh thở khó nhọc, và phải rất nỗ lực mới gọi được tên cô.
“‘Erminia!’
“Cô quỳ gối xuống bên đầu anh. Em bé, không biết anh, và với đôi mắt to, nhìn quanh quẩn, bất thình lình bắt đầu líu lo, bằng giọng mừng vui, lảnh lót. Nó chỉ ngón tay bé tí vào mặt trời đang mọc rực rỡ màu hoa hồng đằng sau những hình hài màu đen của các chóp núi. Và trong khi cuộc chuyện trò của em bé đó, không thể hiểu nổi và nghe thật ngọt ngào, vẫn đang tiếp diễn, thì hai người kia, người đàn ông hấp hối và người phụ nữ quỳ gối, im lặng không nói gì, nhìn vào mắt nhau, lắng nghe âm thanh mỏng manh đó. Rồi tiếng bi bô dừng lại. Em bé tựa đầu vào ngực mẹ và thôi không líu lo nữa.
“‘Đó là vì cô,’ anh mở lời. ‘Tha thứ.’ Anh nói không ra hơi. Ngay sau đó tôi nghe tiếng lẩm bẩm nói những lời đáng thương thế này: ‘Không đủ khỏe.’
“Cô nhìn anh chăm chú lạ thường. Anh cố gắng mỉm cười, và bằng âm điệu nhún nhường, ‘Thứ lỗi cho tôi,’ anh nhắc lại. ‘Giao cô...’
“Cô cúi xuống, mắt khô, và bằng một giọng vững vàng: ‘Trên cả trần gian này tôi không yêu ai ngoài anh, Gaspar ạ,’ cô nói.
“Đầu anh động đậy. Đôi mắt anh hồi sinh. ‘Cuối cùng!’ anh thở dài ra. Rồi, một cách lo âu, ‘Nhưng thật sao... thật sao?’
“‘Thật như không có lòng thương và công lý trên cõi đời này,’ cô nồng nhiệt trả lời. Cô cúi xuống khuôn mặt anh. Anh cố gắng ngước đầu dậy, nhưng nó lại rơi xuống, và khi cô hôn đôi môi anh thì anh đã chết. Đôi mắt thẫn thờ của anh nhìn đăm đăm bầu trời, rất cao trên đó là nơi những áng mây hồng trôi dạt. Nhưng tôi nhận thấy đôi mí mắt của em bé, nép vào ngực mẹ, cụp xuống và từ từ khép lại. Nó đã ngủ.
“Vợ góa của Gaspar Ruiz, người đàn ông khỏe mạnh, cho phép tôi dẫn cô đi mà không rỏ một giọt lệ.
“Chúng tôi đã sắp xếp cho cô một yên ngựa ở bên cạnh rất giống như cái ghế để đi đường, với tấm ván để chân đu đưa bên dưới. Và ngày đầu tiên cô đi mà không thốt ra lời nào, và hầu như không khoảnh khắc nào rời mắt khỏi em bé, mà cô ôm trong lòng. Vào lần đầu tiên chúng tôi hạ trại tôi thấy cô đi bộ quanh quẩn trong đêm, vừa đu đưa em bé trong vòng tay vừa đăm đăm nhìn xuống nó nhờ ánh sáng trăng. Sau khi chúng tôi đã lên đường hành quân ngày thứ hai cô hỏi tôi bao lâu nữa sẽ đến ngôi làng đầu tiên của vùng nông thôn có người ở.
“Tôi nói chúng tôi sẽ đến đó vào khoảng trưa.
“‘Và ở đó sẽ có phụ nữ chứ?’ cô hỏi.
“Tôi bảo cô đó là một ngôi làng lớn. ‘Sẽ có đàn ông và phụ nữ ở đó, senora,’ tôi nói, ‘mà trái tim sẽ vui mừng khi nghe tin tất cả những sự bồn chồn và chiến tranh bây giờ đã qua.’
“‘Phải, bây giờ tất cả đã qua,’ cô nhắc lại. Rồi, một lúc sau: ‘senor sĩ quan, Chính Phủ của ông sẽ làm gì tôi?’
“‘Tôi không biết, senora,’ tôi nói. ‘Họ sẽ đối xử tốt với cô, không còn nghi ngờ gì nữa. Những người cộng hòa chúng tôi không phải quân man rợ, và không giáng đòn trả thù lên đầu phụ nữ.’
“Khi nghe mấy chữ ‘những người cộng hòa’ cô tặng cho tôi cái nhìn mà tôi tưởng là đầy niềm ghét bỏ vô tận. Nhưng khoảng một tiếng sau, khi chúng tôi dừng lại để những con la thồ hành lý đi trước trên một lối mòn hẹp men theo vách đá, cô nhìn tôi với khuôn mặt trắng, băn khoăn đến nỗi tôi thấy rất thương.
“‘Senor sĩ quan,’ cô nói, ‘tôi mệt, tôi run. Tôi sợ lắm.’ Và quả thật đôi môi cô run rẩy, trong khi cô vừa cố gắng mỉm cười vừa liếc đoạn đầu lối mòn hẹp nó rốt cuộc là không quá hiểm nguy. ‘Tôi sợ tôi đánh rơi con tôi mất. Gaspar đã cứu mạng ngài, ngài còn nhớ đấy... Hãy bế nó hộ tôi.’
“Tôi nhận đứa trẻ từ hai cánh tay chìa ra của cô. ‘Hãy khép mắt lại, senora, và phó thác cho con la của cô,’ tôi khuyên.
“Cô làm thế, và trông cô như chết rồi với sắc tái nhợt và khuôn mặt hao gầy. Tại một chỗ rẽ trên lối mòn, nơi vách đá porphyry cheo leo lớn màu tím khép tầm nhìn xuống vùng đất thấp, tôi thấy cô mở mắt. Tôi bế em bé bằng cánh tay phải cưỡi ngựa đi ngay đằng sau. ‘Đứa bé ổn cả,’ tôi khích lệ kêu lên.
“‘Vâng,’ cô yếu ớt trả lời; và rồi, trước nỗi kinh hãi tột cùng của tôi, tôi thấy cô đứng lên trên chỗ để chân, nhìn chòng chọc một cách khủng khiếp, và lao mình tới trước xuống vực thẳm ở bên tay phải của chúng tôi.
“Tôi không thể miêu tả với các vị nỗi sợ hãi đột ngột và kinh khủng mà tôi đã cảm thấy trước cảnh tượng đáng sợ ấy. Đó là sợ hố sâu, sợ vách đá cheo leo dường như sắp đổ xuống. Đầu tôi quay cuồng. Tôi ôm chặt đứa bé vào người và ngồi im trên lưng ngựa như pho tượng. Tôi câm lặng và ớn lạnh khắp toàn thân. Con la của cô lảo đảo, nép sát vào vách đá, và rồi đi tiếp. Con ngựa của tôi chỉ vểnh tai lên với một tiếng khịt khẽ. Trái tim tôi chết lặng, và từ vực sâu đá rơi rầm rầm xuống lòng suối cuồn cuộn làm tôi hầu như phát điên vì âm thanh của chúng.
“Ngay sau đó chúng tôi rẽ và ở trên con dốc rộng mọc đầy cỏ. Và rồi tôi gào lên. Lính của tôi vô cùng hốt hoảng chạy ngược lại với tôi. Dường như thoạt đầu tôi chỉ hét, ‘Cô ấy đã giao đứa bé vào đôi bàn tay tôi! Cô ấy đã giao đứa bé vào đôi bàn tay tôi!’ Đội hộ tống nghĩ tôi điên rồi.”
Tướng Santierra dừng lời và đứng dậy khỏi bàn ăn. “Và đó là tất cả, senores,” ông kết luận, nhã nhặn liếc nhìn những vị khách cũng đang đứng dậy của ông.
“Nhưng chuyện gì đã xảy ra với đứa bé, thưa Tướng quân?” chúng tôi hỏi.
“A, đứa bé, đứa bé.”
Ông bước đến một trong những ô cửa sổ mở ra khu vườn tuyệt đẹp, nơi tuổi già của ông ẩn náu. Nó rất nổi tiếng trên đất này. Sau khi đưa một cánh tay lên ngăn không cho chúng tôi lại gần, ông gọi lớn, “Erminia, Erminia!” và chờ. Rồi ông hạ cánh tay ngăn chặn xuống, và chúng tôi tụ tập quanh các ô cửa sổ.
Từ một lùm cây một người phụ nữ đã lên lối đi bộ rộng hai bên trồng hoa. Chúng tôi có thể nghe những chiếc váy lót dài hồ bột sột soạt và thấy chiếc váy lụa đen lỗi thời rộng lùng thùng của cô. Cô nhìn lên, và sau khi thấy tất cả những con mắt này đang chòng chọc nhìn mình, dừng lại, nhíu mày, mỉm cười, lắc lắc ngón tay trỏ ông Tướng, ông cười ha hả, và kéo tấm khăn ren đen trên đầu che một phần khuôn mặt nhìn nghiêng kiêu kỳ, ra khỏi tầm mắt chúng tôi, bước đi với phẩm giá cứng nhắc.
“Các vị vừa thấy thiên thần hộ vệ của ông già - và nhờ cô ấy mà các vị được hưởng tất cả những gì là lịch sự và thoải mái trong lòng hiếu khách của tôi đấy. Dù sao, senores, dẫu ngọn lửa của tình yêu đã nhen nhóm sớm trong ngực tôi, tôi chưa bao giờ kết hôn. Và bởi vì thế mà có lẽ những tia lửa thiêng vẫn chưa tắt ở đây.” Ông vỗ bộ ngực rộng. “Vẫn còn sống, vẫn còn sống,” ông nói, với sự nhấn mạnh vừa nghiêm túc vừa khôi hài. “Nhưng bây giờ tôi sẽ không kết hôn. Nó là con nuôi và người thừa kế của Tướng Santierra.”
Một trong những người khách chúng tôi, một sĩ quan hải quân trẻ, sau đó đã miêu tả cô “thấp, béo, gái già khoảng bốn mươi tuổi.” Tất cả chúng tôi đều thấy tóc cô đang ngả bạc, và cô có đôi mắt đen tuyệt đẹp.
“Và,” Tướng Santierra tiếp tục, “cả nó cũng sẽ không bao giờ nghe nói đến chuyện kết hôn với bất cứ ai. Một tai ương đích thực! Tốt, kiên nhẫn, tận tụy với ông già. Một linh hồn đơn giản. Nhưng tôi sẽ không khuyên bất cứ ai trong các vị cầu hôn nó, vì nếu nó nắm bàn tay các vị trong bàn tay nó thì đó chỉ là để bẻ tan xương các vị mà thôi. A! nó không đùa ở chủ đề đó đâu. Và nó là con gái cha nó, người đàn ông khỏe mạnh đã chết vì chính sức mạnh của mình: sức mạnh của cơ thể, tính đơn giản - sức mạnh của tình yêu!”
1 Đứa bé (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
2 Có thể hiểu là "thằng đểu" (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
3 Xin rủ lòng thương (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
4 Rất đẹp (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
5 Hãy đi cùng Chúa (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
6 Họp (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
7 Tạm biệt (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
8 Tên đê hèn (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
9 Cây giáo (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
10 Loài động vật cổ dài ở Nam Mỹ, trông hơi giống lạc đà nhưng không có bướu (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
11 Lối vào (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
12 Thì tốt (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
13 Chúng ta sẽ thấy (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
14 Chúng mày (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
15 Thưa ông chủ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên văn) - ND.
Nguyễn Đặng Hồng Chương dịch
Project Joseph Conrad
Project Henry James
James viết
Con quái vật trong rừng & Ban thờ người chết
James đọc
đọc Balzac
đọc James
Gertrude Stein