favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

John Cheever: Thế giới của những trái táo

11/06/2025 14:50

Nếu Raymond Carver hay được gọi là "Chekhov của nước Mỹ" thì John Cheever lại thường được mệnh danh "Chekhov của các vùng ngoại ô". Tất nhiên, những cách định danh như vậy về cơ bản không đem lại nhiều điều cho sự nhìn nhận, nhưng nếu đọc các câu chuyện của Cheever người ta có thể có một số hình dung về việc tại sao lại có cái tên đó.
 

Thế giới của những trái táo

- John Cheever

Asa Bascomb, lão thi nhân danh giá, lang thang quanh căn nhà làm việc, hay chốn nghiên cứu của mình - ông chưa bao giờ quyết định được nên gọi một nơi để người ta viết thơ là gì cho đúng - vừa quật những con ong bắp cày bằng một tờ La Stampa, vừa tự hỏi tại sao mình chưa bao giờ được trao giải Nobel. Ông đã nhận được hầu như mọi biểu trưng của danh vọng. Trong một chiếc rương nơi góc nhà là những huy chương, bằng khen, tràng hoa, bó hoa, ruy băng và huy hiệu. Chiếc lò sưởi ấm gian làm việc của ông là do Câu lạc bộ P.E.N. Oslo trao tặng, cái bàn viết là quà của Liên đoàn Nhà văn Kiev, và chính căn nhà này đã được xây bởi một hiệp hội quốc tế những người hâm mộ ông. Cả tổng thống Ý và tổng thống Hoa Kỳ đều gửi điện chúc mừng vào ngày ông được trao chìa khóa nhà. Thế mà vì sao vẫn không có Giải Nobel? Quật, quật. Căn nhà xây giống như một chuồng trại lồ lộ xà ngang, với một ô cửa sổ lớn phía bắc trông ra dãy Abruzzi. Ông thích có một nơi nhỏ hơn với những ô cửa sổ nhỏ hơn, nhưng chẳng ai hỏi ý ông cả. Dường như có gì đó mâu thuẫn giữa độ cao của núi non và khuôn phép của thi ca. Vào thời điểm tôi đang viết những dòng này, ông đã tám mươi hai tuổi và sống trong một căn biệt thự dưới thị trấn đồi Monte Carbone, phía nam Rome.

Ông có mái tóc trắng dày, khỏe, rủ một lọn qua trán. Hai hay nhiều xoáy tóc trên đỉnh đầu thường rối bời và dựng ngược. Ông dùng xà phòng vuốt chúng xuống trong các buổi tiếp khách trang trọng, nhưng chúng chưa bao giờ chịu nằm yên quá một hai tiếng đồng hồ và thường lại vểnh ngược lên ngay khi rượu champagne được rót. Đó là một phần trong ấn tượng mà ông để lại. Giống như người ta nhớ đến ai đó vì chiếc mũi dài, nụ cười, vết bớt hay vết sẹo, người ta nhớ về Bascomb với những xoáy tóc ngỗ nghịch ấy. Ông được ví von mơ hồ như là Cézanne của thi ca. Phần nào nét mực thước trong tác phẩm của ông có thể được cho là giống với Cézanne, nhưng viễn kiến ẩn sau các bức tranh của Cézanne thì không có nơi ông. So sánh khập khiễng này có lẽ bắt nguồn từ việc tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có tên là Thế giới của những trái táo - tập thơ mà người hâm mộ ông tìm thấy vị hăng nồng, thiên biến, màu và nỗi hoài niệm về những trái táo vùng bắc New England mà ông đã không còn thấy suốt bốn mươi năm.

Tại sao ông - một con người tỉnh lẻ và nổi tiếng vì sự giản dị - lại rời Vermont để đến Ý? Đó có phải là lựa chọn của người vợ yêu dấu, Amelia, đã mất mười năm nay? Bà đã đưa ra nhiều quyết định cho hai người. Hay chính ông, con trai của một người nông dân, ngây thơ đến mức tưởng rằng sống ở nước ngoài có thể mang lại chút sắc màu cho khởi đầu khắc khổ của mình? Hay đó chỉ đơn giản là một tính toán thiết thực, một cách trốn tránh dư luận mà nếu ở lại quê nhà sẽ chỉ đem lại phiền toái? Người hâm mộ vẫn tìm thấy ông ở Monte Carbone, họ ghé gần như mỗi ngày, nhưng với số lượng vừa phải. Ông được chụp ảnh một hai lần hằng năm cho các tạp chí Match hay Epoca - thường là vào dịp sinh nhật - nhưng nhìn chung ông có thể sống một cuộc đời yên ả hơn so với cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong lần cuối cùng trở về quê hương, khi bước dọc Fifth Avenue, ông bị đám người lạ chặn lại xin chữ ký lên những mảnh giấy vụn. Còn trên đường phố Rome, chẳng ai biết hay bận tâm ông là ai, và đây chính là điều ông muốn.

Monte Carbone là một thị trấn của người Saracen, được dựng xây trên đỉnh một mỏm đá granite xù xì hình thù như ổ bánh mì. Trên cao nhất của thị trấn là ba con suối trong vắt tuôn tràn, nước từ đó đổ vào các hồ hay len theo những mạch dẫn, chảy dọc sườn núi. Biệt thự của ông nằm phía dưới thị trấn và trong khu vườn nơi đây là nhiều đài phun nước, được dẫn từ các mạch trên đỉnh. Tiếng nước tuôn ầm ào và chẳng hề du dương - thứ âm thanh chát chúa, lộp bộp. Dòng nước lạnh buốt, ngay cả vào giữa mùa hè, và ông thường trữ những chai gin, vang và vermouth trong hồ nước ngoài sân hiên. Buổi sáng, ông làm việc trong nhà viết, sau bữa trưa thì nghỉ ngơi, rồi lại leo lên các bậc thang để vào làng.

Đá Tufa, pepperoni cùng những gam màu xỉn đắng của địa y bám trên tường và mái ngói đều không thuộc về tâm thức người Mỹ, ngay cả khi con người ấy đã, như Bascomb, sống nhiều năm giữa cái đắng chát này. Việc leo lên hàng bậc thang khiến ông mệt nhoài. Ông phải tạm nghỉ hết lần này đến lần khác để lấy lại hơi. Ai cũng vẫy chào ông. Salve, maestro, salve! Khi nhìn thấy phần gian ngang xây bịt kín bằng gạch nơi nhà thờ thế kỷ XII, ông luôn lẩm bẩm các mốc thời gian, như thể đang giới thiệu vẻ đẹp nơi đây cho một người bạn đồng hành. Vẻ đẹp ấy thật đa đoan và u uẩn. Ông sẽ mãi là kẻ xa lạ, nhưng cái dị biệt ấy dường như gợi cho ông một phép ẩn dụ về thời gian, như thể, khi leo lên những bậc thang lạ lẫm, đi ngang qua những bức tường xa lạ, ông đã băng qua từng giờ, từng tháng, từng năm và từng thập kỷ. Tại quảng trường, ông uống một ly rượu vang và nhận thư. Bất kể ngày nào, ông cũng nhận được nhiều thư hơn tổng số dân làng cộng lại. Đó là những bức thư của người hâm mộ, những lời mời đọc diễn văn, đọc thơ, hay đơn giản chỉ là xuất hiện, và dường như ông có tên trong danh sách mời của mọi hội đồng danh dự thuộc thế giới phương Tây, ngoại trừ, dĩ nhiên, hội của những người từng đoạt giải Nobel. Thư từ được đựng hết trong một cái bao, và nếu quá nặng không vác nổi thì Antonio, con trai của bà đưa thư, sẽ xách giúp ông về tận biệt thự. Ông xử lý đống thư đến năm, sáu giờ chiều. Vài ba lần một tuần, vài khách hành hương sẽ lặn lội đến được biệt thự ông, và nếu ưa vẻ mặt họ, ông sẽ mời họ một ly trong lúc ký tặng họ một bản Thế giới của những trái táo. Họ gần như chẳng bao giờ mang theo những cuốn sách khác của ông, dù ông đã xuất bản đến cả tá tập. Hai hay ba buổi tối một tuần, ông chơi backgammon với Carbone, ông trùm làng. Cả hai đều nghĩ người kia gian lận, và không ai chịu rời bàn cờ giữa chừng, ngay cả khi bàng quang họ như muốn vỡ tung. Thế rồi ông thiếp vào giấc ngủ.

Trong bốn thi sĩ mà Bascomb thường được xếp chung nhóm, một người đã tự bắn mình, một người trẫm mình, một người treo cổ, và người thứ tư "chết vì chứng mê sảng do nghiện rượu". Bascomb quen biết tất cả, yêu mến phần nhiều, và đã chăm sóc hai người trong số họ khi lâm bệnh, nhưng đứng trước sự quy chụp rằng ông, một khi chọn làm thơ, cũng chọn tự hủy hoại bản thân, ông lại phản kháng quyết liệt. Ông hiểu những cám dỗ của việc tự sát như cách ông thấu những cám dỗ của mọi loại tội lỗi khác trên đời, và ông cẩn trọng không để bất cứ thứ vũ khí nào, một sợi dây thừng đủ dài, thuốc độc hay thuốc ngủ lọt vào căn biệt thự. Ông đã thấy ở Z - người gần gũi nhất trong bốn thi nhân - một mối liên hệ không thể tách rời giữa trí tưởng tượng phi thường và năng lực huỷ hoại bản thân đến siêu phàm, thế nhưng Bascomb, theo lối cứng đầu, quê mùa của mình, đã quyết tâm phá vỡ hoặc phớt lờ mối liên hệ ấy - hòng lật đổ Marsyas và Orpheus. Thơ ca là một vinh quang trường cửu và ông kiên quyết rằng hành động cuối cùng trong cuộc đời một thi nhân không nên - như Z - diễn ra trong một căn phòng bẩn thỉu với hai mươi ba vỏ chai gin rỗng. Vì không thể phủ nhận mối liên hệ giữa thiên tài và bi kịch, ông dường như quyết tâm đập tan nó.

Bascomb tin, như Cocteau từng nói, rằng việc làm thơ là khai thác một tầng ký ức ẩn sâu mà ta chỉ hiểu được phần nào. Tác phẩm của ông dường như là một cuộc gọi về ký ức. Khi sáng tác, ông không bắt trí nhớ mình đảm đương bất kỳ nhiệm vụ gì mang tính thực dụng, nhưng chắc chắn ký ức nơi ông đã được triệu hồi - ký ức về cảm giác, phong cảnh, về những gương mặt và kho tàng từ vựng bao la của tiếng mẹ đẻ. Ông có thể dành cả tháng, thậm chí lâu hơn cho một bài thơ ngắn, nhưng “kỷ luật” hay “cần cù” đều không phải những từ miêu tả lối làm việc ấy. Ông dường như không chọn chữ, mà gọi lại chúng từ hàng tỷ âm thanh đã từng nghe từ thuở đầu hiểu được ngôn từ. Phụ thuộc vào dòng ký ức như vậy để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời, đôi khi ông tự hỏi liệu trí nhớ mình có đang sa sút. Khi trò chuyện với bạn bè và người hâm mộ, ông phải gắng sức để không lặp lại những gì đã nói. Khi tỉnh dậy lúc hai ba giờ sáng để rồi nghe thấy thứ âm thanh chát chúa chẳng hề du dương của đài phun nước, ông sẽ tự tra vấn mình suốt một tiếng đồng hồ về những cái tên và mốc thời gian. Ai là kẻ đã đối đấu với Bá tước xứ Cardigan tại Balaklava? Phải mất một phút để cái tên Bá tước Lucan vật lộn trồi ra từ thăm thẳm, nhưng cuối cùng nó cũng hiện lên. Ông đi chia thì quá khứ của động từ esse, đếm đến năm mươi bằng tiếng Nga, đọc thuộc các bài thơ của Donne, Eliot, Thomas và Wordsworth, lần theo diễn biến của phong trào Risorgimento, bắt đầu từ cuộc bạo loạn ở Milan năm 1812 cho đến lễ đăng quang của Vittorio Emanuele, liệt kê các thời kỳ tiền sử, số kilômét trong một dặm, các hành tinh trong hệ Mặt Trời và vận tốc ánh sáng. Phản xạ trí nhớ của ông rõ ràng đã chậm lại, nhưng vẫn đủ dùng, ông thầm nghĩ. Thứ duy nhất suy yếu chính là nỗi bất an. Ông đã chứng kiến ​​thời gian tàn phá quá nhiều, đến mức tự hỏi liệu trí nhớ của một ông lão có thể có thể bền bỉ hơn một thân sồi không; nhưng cây sồi ghim ông trồng ở hiên từ ba mươi năm trước đang héo tàn, còn ông thì vẫn nhớ rõ từng đường cắt và màu sắc chiếc váy mà nàng Amelia yêu dấu của ông đã mặc khi họ lần đầu gặp nhau. Ông đã vắt kiệt trí nhớ của mình để dò đường băng qua các thành phố. Ông hình dung mình đang đi bộ từ ga xe lửa ở Indianapolis đến "đài phun nước tưởng niệm", từ Khách sạn Europe ở Leningrad đến Cung điện Mùa Đông, từ Eden-Roma băng qua Trastevere đến San Pietro ở Montori. Bạc nhược, hoài nghi bản thân, chính sự đơn độc của cuộc tra vấn này đã khiến nó trở nên giày vò.

Ký ức dường như đã đánh thức ông vào một đêm hay một sáng, và hỏi ông tên thật của Nam tước Byron là gì. Ông không thể nhớ ra. Ông quyết định tách mình khỏi ký ức trong giây lát, để may ra bắt gặp lại nó đang nắm giữ cái tên này, nhưng khi ông quay lại, dè dặt bước vào kho chứa ấy, nó vẫn rỗng không. Sidney? Percy? James? Ông ra khỏi giường - trời lạnh - xỏ giày, khoác áo rồi bước lên cầu thang băng qua khu vườn tới nhà làm việc của mình. Ông vớ lấy một bản Manfred, nhưng tên tác giả chỉ được ghi đơn giản là Lord Byron. Childe Harold cũng vậy. Cuối cùng, ông tìm thấy trong cuốn bách khoa toàn thư rằng vị Nam tước này tên thật là George. Ông tự cho mình một cái cớ phần nào để tha thứ cho sự suy giảm này của trí nhớ, rồi trở lại cái giường ấm áp của mình. Giống như bao ông già khác, ông đã âm thầm bắt đầu một danh mục thực phẩm tưởng như thắp lại được trong ông chút sinh lực. Cá hồi tươi. Ô liu đen. Thịt cừu non nướng cỏ xạ hương. Nấm dại, thịt gấu, nai và thỏ rừng. Ở phía đối diện của bảng kê ấy là tất cả các loại thực phẩm đông lạnh, rau trồng công nghiệp, mì Ý nấu quá kỹ, và súp đóng hộp.

Vào mùa xuân, một người hâm mộ đến từ Scandinavia đã viết thư hỏi rằng liệu anh có thể được vinh dự đưa Bascomb đi chơi một ngày giữa các thị trấn trên đồi hay không. Bascomb, khi đó không có xe hơi riêng, đã rất vui vẻ nhận lời. Con người đến từ Scandinavia ấy là một chàng trai trẻ tuổi dễ mến và họ đã phấn khởi lên đường đến Monte Felici. Từ thế kỷ XIV và XV, những con suối từng cung cấp nước cho thị trấn đã khô cạn, khiến cư dân phải di chuyển xuống lưng chừng núi. Tất cả những gì còn lại của thị trấn bỏ hoang trên đỉnh núi là hai thánh đường lớn với vẻ huy hoàng hiếm thấy. Bascomb say mê những công trình này. Chúng sừng sững giữa những cánh đồng trải đầy hoa dại, các bức tranh trên tường vẫn còn rực rỡ, mặt tiền được trang trí bằng những con kỳ lân, thiên nga và sư tử với gương mặt và chi thể người, những con rồng bị xiên giáo, rắn có cánh và bao hoá thân diệu kỳ khác. Những thánh đường kỳ vĩ và bao la ấy đã gợi nhắc Bascomb về sự vô biên của trí tưởng tượng con người, rồi ông bỗng cảm thấy vui tươi và đầy phấn khởi. Từ Monte Felici, họ đi tiếp đến San Giorgio, nơi có một vài ngôi mộ được sơn vẽ và một nhà hát La Mã nhỏ. Họ dừng lại trong một lùm cây dưới thị trấn để ăn trưa. Bascomb vào rừng để đi tiểu và tình cờ bắt gặp một cặp đôi đang làm tình. Họ không buồn cởi đồ và phần da thịt duy nhất có thể nhìn thấy là cặp mông lông lá của người lạ. Tanti, scusi, Bascomb lẩm bẩm, rồi ông rút lui đến một phía khác của khu rừng, nhưng khi quay lại với chàng trai người Scandinavia, ông thấy mình bứt rứt. Hình ảnh cặp đôi đang vật lộn ấy dường như đã làm mờ đi ký ức của ông về những thánh đường. Khi ông trở về biệt thự, có vài nữ tu từ một tu viện La Mã đang chờ ông để xin chữ ký vào cuốn Thế giới của những trái táo. Ông ký và nhờ bà quản gia Maria mời họ ít rượu vang.

Họ dành cho ông những lời ngợi ca thường tình - rằng ông “đã tạo ra một vũ trụ dường hoà ái với con người, rằng ông đã linh cảm được thanh âm của cái đẹp đạo đức trong gió mưa” - nhưng tất cả những gì ông có thể nghĩ đến chỉ là tấm lưng của người lạ. Nó dường như hừng hực nhiệt huyết và ý nghĩa hơn hành trình truy cầu chân lý được tán tụng của ông. Nó như thống trị tất cả những gì ông thấy ngày hôm đó - những toà lâu đài, mây trời, thánh đường, núi non và những cánh đồng hoa. Khi các nữ tu rời đi, ông ngước nhìn lên những ngọn núi để gột rửa tinh thần, nhưng núi lúc ấy lại hiện ra như bầu ngực đàn bà. Tâm trí ông đã vấy bẩn. Ông như tách mình ra khỏi sự ương bướng ấy của tâm trí để đứng bên mà quan sát xem nó đi tới đâu. Ở đằng xa, ông nghe thấy tiếng còi tàu, và tâm trí hoang đàng kia sẽ nghĩ gì đây? Những hân hoan của chuyến đi, thực đơn chọn sẵn trong toa ăn, loại rượu vang mà họ phục vụ trên tàu? Mọi thứ dường như vẫn vô hại cho đến khi ông bắt gặp tâm trí mình len lén rời khỏi toa ăn để trườn sang các khoang giường ngủ của tàu Wagon-Lit, và từ đó lạc vào một thứ tục tĩu thô lậu. Ông nghĩ ông biết mình cần gì, và ông đã nói chuyện với Maria sau bữa tối. Bà luôn vui vẻ chiều theo, dù ông lúc nào cũng khăng khăng bảo bà phải đi tắm trước. Việc ấy, cộng thêm chuyện rửa bát, khiến mọi thứ bị trì hoãn ít nhiều, nhưng khi bà rời đi, ông quả thực cảm thấy khá hơn, dù chắc chắn vẫn chưa hết hẳn.

Trong đêm, những giấc mơ của ông thật ô uế, và ông tỉnh dậy nhiều lần, cố gắng rũ bỏ lớp màn dâm dật hay cơn u mê xác thịt. Nhưng rồi ánh sáng ban mai cũng chẳng khiến mọi thứ khá hơn. Tục tĩu - sự tục tĩu đến tột cùng - dường như là yếu tố duy nhất trong đời sống còn mang sắc màu và hoan lạc. Sau bữa sáng, ông leo lên nhà làm việc và ngồi vào bàn. Cái vũ trụ rộng mở, tiếng gió mưa vang vọng giữa thế giới của những trái táo ngày nào đã biến mất. Tà uế là định mệnh của ông, là bản ngã hay nhất của ông, và ông khoái trá chắp bút một bản trường ca mang tên Cái Rắm Cứu Lấy Athens. Ông đã hoàn thành trường ca ấy trong buổi sáng, và mang đi đốt trong chiếc lò sưởi mà Oslo P.E.N. đã tặng. Bản trường ca ấy, hoặc thứ đã từng là trường ca, trước khi bị thiêu huỷ, là một màn phô diễn tận cùng và kinh tởm của nghệ thuật bài tiết. Khi đi xuống sân hiên, ông thực sự cảm thấy hối hận. Ông đã dành buổi chiều để viết một bản thú tội kinh tởm mang tên Sủng Thần Của Tiberio. Đến năm giờ, có hai người hâm mộ ghé qua - một cặp vợ chồng trẻ. Họ đã gặp nhau trên một chuyến tàu, mỗi người đều mang theo một bản tập thơ về Trái táo của ông. Họ đã yêu nhau theo đúng tình yêu thuần khiết và mãnh liệt ông từng tả. Nghĩ đến công việc của mình cả ngày hôm ấy, Bascomb chỉ biết cúi gằm.

Ngày hôm sau, ông viết Lời Xưng Tội Của Một Hiệu Trưởng Trường Công. Đến trưa, ông đem bản thảo đi đốt. Khi buồn bã bước xuống bậc thềm ra sân hiên, ông trông thấy mười bốn sinh viên Đại học Rome đang đợi, và ngay khi ông xuất hiện, họ đồng thanh xướng lên ‘Vườn Địa Đàng’ - bài sonnet mở đầu tập Thế giới của những trái táo. Ông rùng mình. Mắt ông ngấn lệ. Ông nhờ Maria mang ít rượu cho họ trong khi ký tặng lên sách. Sau đó, họ xếp hàng lần lượt để bắt tay ông - đôi tay nhơ nhuốc ấy, rồi quay trở lại chiếc xe buýt đậu trên cánh đồng, thứ đã đưa họ từ Rome tới. Ông liếc nhìn lên những ngọn núi chẳng còn chút khả năng xoa dịu - rồi ngước mắt lên bầu trời xanh lơ vô tình. Sức mạnh của “đoan chính” đang ở đâu? Liệu nó có thực thể nào không? Phải chăng cái thú tính hạ đẳng ám ảnh ông mới là sự thật tuyệt đối? Khía cạnh đau đớn nhất của sự tục tĩu, mà ông đã sớm nhận ra trước cuối tuần, là tính thô lậu của nó. Dù ông bắt tay vào các dự án dung tục ấy với sự hăng hái, ông lại luôn kết thúc trong chán chường và tủi nhục. Con đường sáng tạo của một tay viết dâm thư có vẻ cứng nhắc, và ông thấy mình cứ lặp đi lặp lại những thứ rẻ rúng tẻ nhạt được truyền tay giữa bọn trẻ ranh và những kẻ bệnh hoạn. Ông viết Lời xưng tội của một hầu gái, Tuần trăng mật của một cầu thủ bóng chàyMột đêm trong công viên. Sau mười ngày, ông đã chạm đến đáy thùng rác của văn thơ truỵ lạc: ông bắt đầu viết những bài limerick bẩn thỉu. Viết được sáu mươi bài, ông đem đốt hết. Sáng hôm sau, ông bắt xe buýt đến Rome.

Ông làm thủ tục nhận phòng tại Minerva, nơi ông vẫn thường ở, và gọi điện thoại cho một danh sách dài bạn bè, nhưng ông biết rằng đến một thành phố lớn mà không báo trước thì chẳng khác nào không có bè bạn, và không có ai ở nhà. Ông lang thang trên những con phố, bước vào một nhà vệ sinh công cộng, và bỗng chạm mặt với một gã trai mại dâm đang trưng bày “hàng hóa” của mình. Ông nhìn chằm chằm vào gã trai ấy với vẻ ngờ nghệch hoặc chậm chạp của một người rất già. Khuôn mặt gã ta thật ngốc nghếch - mê man, phê thuốc và xấu xí - nhưng, khi đứng trong căn buồng cầu kinh bẩn thỉu ấy, hắn lại trông như một thiên thần với Bascomb già khọm, vũ trang bằng một thanh kiếm rực lửa có thể chế ngự sự tầm thường và đập vỡ rào cản của những tập tục. Ông vội vã bỏ đi. Trời đang tối dần và tiếng xe cộ ồn ào hỗn loạn như địa ngục vang vọng khắp các bức tường của Rome lúc hoàng hôn lên đến đỉnh điểm. Ông đi lang thang vào một phòng tranh trên đường Via Sistina, nơi một họa sĩ kiêm nhiếp ảnh gia - vừa làm cả hai nghề - dường như đang chịu cùng một căn bệnh với Bascomb, chỉ là ở thể nặng hơn. Trở lại đường phố, ông tự hỏi liệu có sự phổ quát nào ở cái buổi hoàng hôn dâm uế hủ lậu này đang phủ bóng lên tâm hồn mình. Có phải thế gian, cũng như chính ông, đã lạc lối? Ông đi ngang qua một phòng hòa nhạc có treo quảng cáo chương trình ca nhạc, nghĩ rằng âm nhạc có thể thanh lọc những nghĩ suy trong tâm hồn, nên mua vé và bước vào. Buổi hòa nhạc vắng khách. Khi nghệ sĩ đệm đàn xuất hiện, chỉ một phần ba số ghế là có người ngồi. Rồi giọng nữ cao bước lên, một cô gái tóc vàng tro lộng lẫy trong chiếc váy đỏ thẫm, và khi cô cất lời hát “Die Liebhaber der Brücken”, lão Bascomb già bắt đầu thói quen kinh tởm và tội nghiệp là tưởng tượng mình đang cởi váy cô gái. Dây móc hay khoá cài? Ông tự hỏi. Khoá kéo chăng? Khi cô hát tiếp “Die Feldspar rồi sang Le Temps des lilas et le temps des roses ne reviendra”, ông chốt hạ là khoá kéo và tưởng tượng mình đang mở khoá váy cô ở phía sau và nhẹ nhàng nâng nó khỏi vai cô.

Ông đã kịp kéo chiếc váy qua đầu khi cô hát “L’Amore Nascondere” và tháo từng chiếc móc cùng mắt khoá nơi áo ngực trong lúc cô hát “Les Rêves de Pierrot”. Cơn mộng tưởng của ông bị gián đoạn khi cô bước vào cánh gà để súc miệng, nhưng ngay khi cô trở lại bên cây đàn, ông lại tiếp tục công việc còn dang dở với chiếc đai giữ tất và tất cả những gì nó ôm chứa. Khi cô cúi chào khán giả trong giờ nghỉ giữa buổi, ông vỗ tay ầm ĩ nhưng không phải vì kiến ​​thức âm nhạc hay giọng hát trời phú của cô. Thế rồi nỗi xấu hổ, trong suốt và tàn nhẫn như bất kỳ cảm xúc nào, dường như trùm lấy ông, và ông rời khỏi phòng hòa nhạc để quay về khách sạn Minerva, nhưng cơn động kinh trong ông vẫn chưa hề chấm dứt. Ông ngồi vào bàn viết trong khách sạn và làm một bài sonnet dâng lên Giáo hoàng Joan huyền thoại. Về mặt kỹ thuật, bài thơ có sự cải thiện so với những câu limerick ông từng viết, nhưng không có gì tiến bộ về mặt đạo đức cả. Sáng hôm sau, ông bắt xe buýt trở lại Monte Carbone và tiếp vài người hâm mộ đợi mình ngoài sân hiên. Hôm kế, ông lại leo lên thư phòng, viết vài câu limerick nữa, rồi lôi Petronius và Juvenal xuống khỏi kệ để xem những bậc tiền bối ấy đã làm được gì trong cái lĩnh vực ấy.

Ở đây là những ghi chép chân thực và hồn nhiên về niềm vui xác thịt. Không ở đâu có cảm giác suy đồi ông vẫn thường nếm trải mỗi buổi chiều khi thiêu rụi các bản thảo của mình trong lò sưởi. Có phải chỉ đơn giản là thế giới trong ông đã già cỗi đi nhiều, những trách nhiệm xã hội trở nên nặng nề hơn, và sự dâm dục trở thành câu trả lời duy nhất cho nỗi bất an ngày một lớn? Rốt cuộc ông đã đánh mất điều gì? Có vẻ như đó là niềm kiêu hãnh, một vầng hào quang thanh thoát và quả cảm, một loại vương miện. Ông dường như giơ vương miện ấy lên để soi xét, và ông thấy gì? Có phải chỉ là nỗi sợ xa xưa về dây lưng dao cạo râu của Cha và cái cau mày của Mẹ, một sự phục tùng đầy con trẻ đối với thế gian áp chế? Ông biết rõ bản năng của mình là bất trị, mãnh liệt và không giữ kẽ, vậy chẳng lẽ ông đã để thế giới và miệng lưỡi thiên hạ áp đặt lên mình một hệ giá trị rỗng tuếch, chỉ để thuận tiện cho nền kinh tế bảo thủ, một giáo hội chính thống và một quân đội hiếu chiến? Ông như thể đang cầm chiếc vương miện, giơ nó lên trước ánh sáng, nó dường như được kết từ ánh quang minh, và ý nghĩa nó gợi lên là hương vị chân thực, thanh tẩy của niềm hoan ca cùng nỗi đau buồn. Những bài thơ limerick mà ông vừa viết xong cũng hồn nhiên, đời thực và hoan hỷ. Chúng cũng tục tĩu, nhưng từ khi nào sự thật đời sống lại trở nên tục tĩu? Và đâu là hiện thực của cái gọi là đức hạnh mà ông phải đau đớn tước bỏ khỏi mình mỗi sớm mai? Chúng dường như là hiện thực của nỗi khắc khoải và tình yêu: nàng Amelia đứng trong chùm sáng xiên chéo, đêm giông bão mà con trai ông chào đời, ngày con gái ông đi lấy chồng. Người ta có thể chê chúng là tầm thường, nhưng đó là những điều đẹp đẽ nhất mà ông biết về cuộc đời - khắc khoải và yêu thương - và cách xa hàng thế giới so với bài limerick còn nằm trên bàn làm việc, mở đầu bằng: Có một viên quan trẻ tên là Caesar / Người có một cái khe to đến lạ... ' Ông ném bài limerick của mình vào lò sưởi và bước xuống cầu thang.

Ngày hôm sau là tồi tệ nhất. Ông chỉ viết đi viết lại từ Đ - T kín hết sáu bảy tờ giấy. Đến trưa, ông ném tất cả vào lò sưởi. Trong bữa ăn, Maria bị bỏng ngón tay, chửi thề một tràng rồi nói: 'Tôi nên đi lễ thiên thần thiêng ở Monte Giordano.' 'Thiên thần thiêng là gì?' ông hỏi. 'Thiên thần có thể thanh tẩy những ý nghĩ trong tâm hồn con người,' Maria đáp. 'Ngài ngự trong nhà thờ cổ ở Monte Giordano. Ngài được tạc từ gỗ ô liu mọc trên Núi Ô liu và do chính tay một vị thánh điêu khắc. Nếu ông hành hương đến đó, ngài sẽ thanh tẩy tâm trí ông.' Tất cả những gì Bascomb biết về hành hương là người ta phải cuốc bộ và vì lý do nào đó phải mang theo một vỏ sò. Khi Maria lên phòng ngủ trưa, ông lục trong những di vật của Amelia và tìm thấy một vỏ sò. Thiên thần hẳn sẽ chờ mong một lễ vật, ông đoán vậy, và từ chiếc hộp trong phòng làm việc, ông chọn ra chiếc huy chương vàng mà chính phủ Liên Xô đã trao tặng ông nhân Lễ kỷ niệm Lermontov. Ông không đánh thức Maria hay để lại một tờ giấy nhắn nào. Điều này dường như mang sắc thái lẩm cẩm rõ ràng. Xưa nay ông chưa bao giờ hành xử mập mờ tai quái như lũ già vẫn thường, và lẽ ra ông nên nói với Maria mình định đi đâu nhưng ông đã không làm vậy. Ông bắt đầu đi xuống qua những vườn nho, về phía con đường cái ở dưới cùng thung lũng.

Khi ông tiến gần đến bờ sông, một chiếc Fiat nhỏ rẽ khỏi con đường chính và đỗ lại giữa mấy hàng cây. Một người đàn ông, vợ và ba cô con gái ăn mặc chỉnh tề bước ra khỏi xe; Bascomb dừng lại quan sát khi thấy người đàn ông mang theo một khẩu súng săn. Hắn định làm gì? Giết người? Tự sát? Có phải Bascomb sắp chứng kiến ​​một nghi lễ hiến tế người? Ông ngồi xuống, ẩn mình dưới đám cỏ rậm, và theo dõi. Người mẹ và ba cô con gái rất phấn khích. Người cha dường như đang tận hưởng quyền uy tuyệt đối. Họ nói một phương ngữ và Bascomb hầu như không hiểu gì. Người đàn ông rút súng ra khỏi bao, nạp một viên đạn vào ổ. Sau đó, ông ta xếp vợ và ba con thành một hàng và bịt tai họ lại. Họ đang ré lên. Khi tất cả đã đâu vào đấy, ông ta đứng quay lưng về phía họ, giương khẩu súng lên trời và bắn. Ba đứa trẻ vỗ tay tán thưởng và reo hò trước tiếng nổ lớn cùng lòng dũng cảm của người cha thân yêu. Ông bố cất khẩu súng trở lại vào bao, cả nhà lại lên chiếc Fiat và lái đi, theo Bascomb đoán, là trở về căn hộ của họ ở Rome.

Bascomb nằm dài trên thảm cỏ và thiếp đi. Ông mơ thấy mình trở về quê hương. Ông thấy một chiếc xe tải Ford cũ kỹ với bốn lốp bánh lép xẹp, đậu giữa cánh đồng hoa mao lương vàng. Một đứa trẻ đội vương miện giấy và khoác khăn tắm như thể chiếc áo choàng chạy vội quanh góc một ngôi nhà sơn rắng. Một ông già rút ra từ chiếc túi giấy một khúc xương và đưa cho con chó hoang. Lá mùa thu âm ỉ cháy trong một cái bồn tắm có chân hình sư tử. Tiếng sấm đánh thức ông dậy, xa xa vang vọng, và theo ông nghĩ, có dáng hình giống như một quả bầu. Ông bước xuống đường lớn, một con chó đến nhập bọn. Con chó run rẩy và ông tự hỏi liệu nó có ốm, có dại, hay nguy hiểm không, rồi ông nhận ra nó đang sợ sấm. Mỗi tiếng sấm lại khiến nó run lên bần bật và Bascomb vuốt đầu nó. Ông chưa từng thấy một con vật nào sợ hãi tự nhiên. Rồi gió nổi lên, lay động những cành cây và ông bèn ngẩng chiếc mũi già nua của mình lên để ngửi mùi mưa trong phút giây sắp đổ. Đó là mùi của những nhà thờ nông thôn ẩm thấp, những căn phòng bỏ không trong những ngôi nhà cổ, những nhà tiêu đất, những bộ đồ bơi được phơi khô – một mùi hương hân hoan nồng nàn đến nỗi ông phải hít mạnh. Tuy nhiên, giữa dòng cảm xúc ấy, ông vẫn không quên nhu cầu thiết thực của mình là phải tìm chỗ trú mưa. Bên đường có một mái che nhỏ cho những người đợi xe buýt, ông cùng chú chó hoảng hốt bèn bước vào. Bên trong vách đầy những thứ nhơ nhớp mà ông từng khát khao trốn chạy, nên ông lại bước ra ngoài. Phía trên con đường là một căn nhà nông trại - một kiểu nhà chắp vá phân liệt người ta thường gặp ở Ý. Trông nó như thể từng bị đánh bom, san phẳng rồi ghép lại, không phải ngẫu nhiên mà trông như một sự chống đối cố tình với logic. Một bên nhà có cái lán gỗ - nơi một ông lão đang ngồi. Bascomb đã xin chỗ trú mưa và ông lão mời ông vào.

Ông lão có vẻ trạc tuổi Bascomb, nhưng trong mắt Bascomb, ông mang một vẻ điềm nhiên đáng ghen tị. Nụ cười ông dịu dàng và gương mặt ông trong sáng. Rõ ràng là ông chưa từng bị quấy quả bởi ham muốn viết một bài limerick tục tĩu. Ông sẽ chẳng bao giờ bị buộc phải thực hiện một cuộc hành hương với chiếc vỏ sò trong túi. Trên đùi ông là một quyển sách - một tập album tem - và trong lán gỗ ấy là đầy những chậu cây. Ông không yêu cầu tâm hồn mình phải vỗ tay và ca hát, vậy mà dường như ông đã đạt được một an vui tự thân trong tâm trí mà Bascomb hằng ao ước. Phải chăng lẽ ra Bascomb nên sưu tầm tem và trồng cây cảnh? Dù sao thì cũng đã quá muộn. Thế rồi cơn mưa đến, sấm sét rung chuyển mặt đất, con chó rên rỉ và run rẩy, và Bascomb vuốt ve nó. Cơn bão trôi qua trong vài phút, và Bascomb cảm ơn người chủ nhà rồi bắt đầu lên đường.

Ông có dáng đi đẹp so với một người già đến thế, và ông bước đi, như tất cả chúng ta, trong ký ức về một thời oanh liệt nào đó - tình yêu hoặc bóng đá, Amelia, hay một cú đá rơi hoàn hảo - nhưng sau một hai dặm, ông nhận ra mình sẽ không thể tới Monte Giordano cho đến khi trời đã tối mịt. Khi một chiếc xe dừng lại và ngỏ ý cho ông quá giang tới làng, ông đã đồng ý, thầm hy vọng rằng điều này sẽ không cản trở quá trình chữa bệnh của mình. Trời vẫn còn sáng khi ông đặt chân đến Monte Giordano. Ngôi làng có quy mô tương đương với làng ông đang ở, với cùng những bức tường đá tufa và lớp địa y xỉn đắng. Nhà thờ cổ đứng giữa trung tâm quảng trường, nhưng cửa đã khóa. Ông hỏi thăm cha xứ và thấy cha trong một vườn nho, đang đốt cành cắt tỉa. Ông giải thích rằng mình muốn dâng lễ vật lên thiên thần hiển thánh, và đưa cha xem tấm huy chương vàng của mình. Cha xứ hỏi liệu đó có phải là vàng thật không và Bascomb lập tức hối hận về lựa chọn ấy. Tại sao ông không chọn huy chương do chính phủ Pháp trao tặng, hoặc huy chương từ Oxford? Người Nga đã không khắc dấu kiểm định vàng và ông chẳng có cách nào chứng minh được giá trị của nó. Rồi cha xứ để ý dòng chữ được khắc bằng tiếng Nga. Không chỉ là vàng giả, đó còn là vàng của Cộng sản, và không phù hợp làm lễ vật dâng lên thiên thần hiển thánh. Đúng lúc đó, những đám mây tản ra và một tia sáng đơn độc chiếu xuống vườn nho, rọi sáng tấm huy chương. Đó là một dấu hiệu. Cha xứ làm dấu thánh giá trong không trung và họ cùng quay trở lại nhà thờ.

Đó là một nhà thờ thôn quê cũ kỹ, bé nhỏ và nghèo nàn. Thiên thần ngự trong một nguyện đường bên trái, nơi cha xứ thắp sáng đèn. Bức tượng, vùi giữa những món đồ trang sức, đứng trong một chiếc lồng sắt có cánh cửa khóa chặt. Cha xứ mở khoá và Bascomb đặt huy chương Lermontov của mình dưới chân thiên thần. Thế rồi ông quỳ xuống và dõng dạc: 'Cầu Chúa ban phúc cho Walt Whitman. Cầu Chúa ban phúc cho Hart Crane. Cầu Chúa ban phúc cho Dylan Thomas. Cầu Chúa ban phúc cho William Faulkner, Scott Fitzgerald và nhất là Ernest Hemingway.' Cha xứ khóa lại thánh tích thiêng liêng và họ cùng nhau rời khỏi nhà thờ. Có một quán cà phê trên quảng trường, ông vào ăn tối và thuê một chiếc giường. Chiếc giường đó là một cỗ máy kỳ lạ bằng đồng thau, với bốn thiên thần đồng ở bốn góc, nhưng chúng dường như mang theo một vẻ thiêng liêng ánh lên từ sắc đồng, bởi ông đã mơ về sự bình an và tỉnh dậy giữa đêm, thấy nơi mình một thứ hào quang từng hiện diện khi ông còn trẻ. Có điều gì đó như toả rạng trong tâm trí, tứ chi, ánh sáng và toàn bộ sinh khí của ông, và ông lại chìm vào giấc ngủ và ngủ yên đến tận sáng.

Ngày hôm sau, trên đường đi bộ từ Monte Giordano xuống con lộ chính, ông nghe thấy tiếng thác nước vang vọng. Ông đi theo vào rừng. Đó là một thác nước tự nhiên, một tấm đá với bức màn nước xanh ngọc, khiến ông nhớ về con thác ở rìa trang trại tại Vermont, nơi ông lớn lên. Ông đã đến đó vào một chiều chủ nhật khi còn là một cậu bé, và ngồi trên ngọn đồi hướng xuống mặt hồ. Khi ngồi đó, ông đã trông thấy một ông già, với mái tóc dày và bạc trắng như tóc mình bây giờ, băng qua khu rừng. Ông đã quan sát người đàn ông cởi dây giày, rồi cởi quần áo với sự vội vã như thể một kẻ si tình. Trước tiên, ông ta vốc nước lên rửa tay, cánh tay và bờ vai, rồi bước vào dòng nước xiết, rống lên trong niềm hân hoan. Xong xuôi, ông ta dùng chiếc quần lót để lau khô người, mặc lại quần áo và quay trở lại vào rừng, và mãi đến khi ông ta khuất bóng, Bascomb mới nhận ra người đàn ông ấy chính là cha mình.

Giờ đây, ông làm điều cha mình đã từng làm - cởi dây giày, xé bung hàng cúc áo, và biết rằng một phiến đá rêu trơn hay sức mạnh của dòng nước có thể kết liễu đời mình, ông trần truồng bước xuống dòng nước xiết, gầm lên như cha mình năm xưa. Ông chỉ chịu được cái lạnh trong một phút nhưng khi bước ra khỏi dòng thác, ông cảm giác cuối cùng đã là chính mình. Ông tiếp tục đi xuống đường cái, nơi bị cảnh sát kỵ binh chặn lại, vì Maria đã báo động và cả tỉnh đang truy tìm vị maestro. Cuộc trở về Monte Carbone của ông là một khúc khải hoàn, và sáng hôm sau, ông bắt tay vào viết một bài thơ dài về phẩm giá bất khả xâm phạm của ánh sáng và không khí, dẫu không mang về cho ông Giải Nobel, nhưng sẽ điểm tô cho những tháng ngày cuối đời ông.

Tâm Nguyên dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công