James Baldwin tự nói về mình
Phần tự bạch dưới đây là một mẩu tự truyện được James Baldwin (1924-1987) - một nhà văn người Mỹ gốc Phi - đặt làm lời tựa cho cuốn Ghi chép của một người con bản xứ (Notes of a Native Son), cũng là cuốn sách thể loại non-fiction đầu tiên Baldwin viết (ở tuổi ba mươi mốt), gồm nhiều bài tiểu luận xoay quanh các vấn đề chính, mà trong hầu hết các tác phẩm của mình ông đã tập trung khai thác: sắc tộc, căn cước, kinh nghiệm của người da đen tại Mỹ và châu Âu, phong trào Dân quyền của người Mỹ gốc Phi. Trong mẩu tự truyện dưới đây, Baldwin nhắc tới Hai Kinh thành (A Tales of Two Cities), một trong những cuốn sách đầu tiên ông đọc, và đọc rất nhiều lần. Sau này trong một bài luận dài của mình, đã được xuất bản thành sách với nhan đề Quỷ Dữ không ngủ yên (The Devil finds work), Baldwin nhắc tới nhân vật Thérèse Defarge trong Hai Kinh Thành, người phụ nữ đầy hận thù cứ ngồi đó đan len, trong góc khuất sau máy chém, lặng lẽ nhìn những cái đầu rơi xuống. Baldwin viết: “Tôi nhận ra cái nhìn đầy hận thù ấy vì nó hiện diện khắp nơi, khu phố tôi sống.” Những phố mà ông nhắc tới chính là Harlem - nơi ông sinh ra, nơi tràn đầy sự thù hận sinh ra từ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và cũng là nơi sự túng quẫn của cái nghèo bao phủ lấy cuộc đời của những dân cư. Đọc chính là cách duy nhất để Baldwin thoát khỏi hiện thực, như ông từng viết: I read myself out of Harlem.
Điều mà chúng ta có thể hy vọng lấy được từ các tác phẩm của Baldwin không phải là một sự thật tàn nhẫn, khó xoay chuyển của xã hội bất công: ông chưa từng cho rằng mình thuộc về bất kỳ định danh nào trên con đường tìm kiếm sự thật trong nghiệp viết của mình. Có lẽ điều đáng nói hơn cả trong những tác phẩm của James Baldwin là thái độ đối diện với sự thật, với cái ác, với những câu hỏi về đạo đức, với những điều tưởng chừng không bao giờ được khai mở và đón nhận, đó chính là thái độ nhìn vào chính mình, tìm kiếm những điều mình không thể và không muốn thấy.
Ghi chép tự truyện (Autobiographical notes)
- James Baldwin
Ba mươi mốt năm trước đây, tôi được sinh ra tại Harlem. Tôi đã bắt đầu có các ý tưởng để viết tiểu thuyết vào lúc học đọc. Câu chuyện tuổi thơ của tôi là sự mộng tưởng ảm đạm thường thấy, và chúng ta có thể gác nó sang một bên với một nhận định dè dặt, rằng tôi chắc chắn không muốn sống lại nó. Thời điểm ấy, mẹ tôi có một thói quen gây bực bội và đầy bí ẩn: liên tục đẻ. Khi những đứa bé ra đời, một tay bế em, tay còn lại tôi vẫn cầm quyển sách. Lũ trẻ chắc hẳn đã phải chịu đựng, dù sau này chúng tử tế đến độ phủ nhận điều đó, và trong hoàn cảnh ấy tôi đã đọc Túp lều bác Tom, Hai Kinh thành hết lần này đến lần khác; và cũng thế, sự thật là tôi đã đọc mọi thứ mà tôi vớ được - ngoại trừ Kinh Thánh, có lẽ vì đó là cuốn sách duy nhất mà tôi được bảo phải đọc. Cũng phải thú nhận rằng, tôi viết - rất nhiều - và khải hoàn nghề nghiệp đầu tiên của tôi, dẫu thế nào thì cũng là nỗ lực đầu tiên của tôi được in ra trên giấy, xảy ra vào lúc tôi khoảng mười hai tuổi, đó là khi một truyện ngắn tôi viết về Cách mạng Tây Ban Nha nhận một dạng giải thưởng từ một tờ báo nhà thờ có tuổi thọ vô cùng ngắn ngủi. Tôi còn nhớ, truyện ngắn ấy bị bà biên tập kiểm duyệt ít nhiều, dẫu tôi chẳng thể nhớ nổi lý do, và tôi thấy tức lắm.
Tôi cũng sáng tác kịch và viết nhạc, một trong số đó đã khiến tôi nhận được một bức thư chúc mừng từ thị trưởng La Guardia, và cả thơ, nhưng về thơ thì, nói càng ít càng tốt. Mẹ tôi lấy làm vui mừng trước những chuyện đó, còn bố thì không; ông muốn tôi trở thành một nhà thuyết giáo. Năm mười bốn tuổi, tôi trở thành một nhà thuyết giáo, và khi mười bảy, tôi đã không còn là một nhà thuyết giáo nữa. Sau đó không bao lâu, tôi rời khỏi nhà. Chỉ có Chúa mới biết tôi đã vật lộn bao nhiêu lâu với thế giới của kinh doanh và sản xuất - tôi đoán là họ sẽ nói, họ mới đang phải vật lộn với tôi - và khoảng hai mươi mốt tuổi thì tôi đã viết được một phần của một cuốn tiểu thuyết, đủ để nhận được học bổng Saxton. Sang tuổi hăm hai thì hết học bổng, cuốn tiểu thuyết chẳng ai mua cho, tôi bắt đầu chạy bàn tại một quán ăn ở Village và viết các bài điểm sách - có thể nói hầu hết là về những vấn đề của người da đen, liên quan đến điều này màu da tôi mang đã khiến tôi tự động trở thành một chuyên gia. Viết một cuốn sách khác, có sự đồng hành của nhiếp ảnh gia Theodore Pelatowski về những nhà thờ kiểu store-front ở Harlem1. Cuốn sách ấy gặp phải số phận giống hệt cuốn sách đầu tiên của tôi, nhưng không phải chuyện bán chác. (Nó thuộc học bổng Rosenwald.) Bước sang tuổi hai mươi tư, tôi quyết định dừng công việc viết điểm sách về những vấn đề của người da đen - chúng, ở thời điểm đó, chỉ kém khủng khiếp ở những gì in ra hơn một chút so với những gì đang diễn ra ngoài đời thực - và thu dọn đồ đạc, lên đường tới Pháp, nơi tôi đã hoàn thành một cuốn tiểu thuyết, Chúa mới biết là bằng cách nào, Go Tell It on the Mountain2.
Tôi nghĩ rằng, bất kỳ tác giả nào cũng cảm thấy, thế giới nơi anh ta sinh ra chẳng là gì khác ngoài một âm mưu chống lại sự nuôi dưỡng tài năng của chính anh ra - và thái độ ấy giúp ích cho tài năng của anh ta không ít. Mặt khác, chỉ vì thế giới đón nhận tài năng của anh ta với một vẻ thờ ơ đáng kinh hãi cho nên chính người nghệ sĩ buộc phải làm cho tài năng của anh ta trở nên quan trọng. Bởi vậy, bất kỳ tác giả nào, khi ngoái nhìn lại, thậm chí chỉ là một quãng thời gian ngắn ngủi như tôi đang buộc phải nhận định ở đây, sẽ thấy những thứ từng gây tổn thương cho anh ta và những thứ cứu giúp anh ta không thể tách biệt khỏi nhau; anh ta chỉ có thể được nâng đỡ theo một cách nhất định bởi vì anh ta đã bị tổn thương theo một cách nhất định; và sự cứu giúp chỉ đơn giản là tạo điều kiện để anh ta bước từ mớ rối bời này sang mớ rối bời khác - cũng có thể nói, để anh ta đi từ tai họa này sang tai họa khác. Khi một người bắt đầu tìm kiếm những sự ảnh hưởng, họ sẽ tìm thấy vô số chúng. Tôi chưa từng nghĩ quá nhiều về điều ấy, hoặc ít nhất là chưa đủ nhiều; tôi mạn phép đoán rằng cuốn Kinh Thánh bản King James, thứ tu từ học của các nhà thờ kiểu store-front, một chút gì đó mỉa mai, dữ dội nhưng luôn luôn được truyền đạt khiêm tốn trong sự nói năng của người da đen - và một chút gì đó từ tình yêu của Dickens cho việc phô bày sự tài hoa - là những thứ có tác động nhất định lên tôi ngày hôm nay; nhưng tôi không dám lấy thân mình ra thề thốt về điều đó. Tương tự, đã có vô số người nâng đỡ tôi bằng nhiều cách thức; nhưng rốt cuộc, tôi nghĩ rằng, điều khó khăn nhất (cũng là điều khiến tôi thỏa mãn nhất) trong đời nằm ở chỗ tôi sinh ra là một người da đen và vì thế, tôi bị buộc phải thiết lập một điều gì đó như là một sự đình chiến với thực tại này. (Nhân tiện thì, một thỏa thuận đình chiến là điều tốt đẹp nhất mà người ta có thể hy vọng.)
Một trong những khó khăn của một tác giả da đen (và đây không phải để biện hộ cho điều gì đặc biệt, bởi tôi không có ý rằng trường hợp của anh ta tệ hại hơn người khác) là những vấn đề của người da đen đã được viết rất nhiều. Các tủ sách rên rỉ oằn mình dưới trọng lượng của thông tin, và vì thế ai cũng nghĩ mình đã có được thông tin. Và những thông tin này, hơn nữa, vận hành (một cách chung chung và phổ biến) nhằm củng cố các quan điểm truyền thống. Theo quan điểm truyền thống, chỉ có hai thái độ - ủng hộ và chống đối - và với cá nhân tôi, tôi cảm thấy khó xác định quan điểm nào khiến tôi đau đớn hơn. Tôi đang nói với tư cách là một nhà văn; nhìn từ góc độ xã hội tôi hoàn toàn nhận thức được rằng sự thay đổi từ ác ý sang thiện chí, dù động cơ là gì, dù còn nhiều khiếm khuyết, dù được thể hiện ra sao, vẫn tốt hơn là không có bất kỳ sự thay đổi nào.
Nhưng một phần công việc của nhà văn - như tôi nhìn nhận - là phải xem xét những quan điểm, đi xuống bên dưới bề mặt, chạm tới nguồn gốc của chúng. Từ góc nhìn này, vấn đề của người da đen gần như không thể chạm vào. Không chỉ được viết rất nhiều, mà còn bị viết rất tệ. Gần như có thể khẳng định rằng, cái giá mà một người da đen phải trả để trở nên có tiếng nói là nhận ra, rốt cuộc, anh ta chẳng có gì để nói. (“Ông dạy ta ngôn ngữ, Caliban nói với Prospero, và thứ tôi học được là sự nguyền rủa3”). Thử nghĩ mà xem: hoạt động xã hội lớn lao mà vấn đề này tạo ra buộc cả người da trắng và da đen cùng hướng về phía trước, phải nỗ lực mang lại một ngày mai tốt đẹp hơn. Điều này thật tuyệt vời, nó giữ cho nước luôn sôi sục; và chính điều đó là tất cả những gì làm nên sự tiến bộ của người da đen. Dẫu vậy, những vấn đề xã hội nói chung không phải là mối bận tâm hàng đầu của nhà văn, chuyện chúng nên hay không nên như thế; điều tuyệt đối cần thiết nằm ở chỗ anh ta phải thiết lập một khoảng cách giữa mình và các vấn đề đó, và điều ấy sẽ cho phép, ít nhất là sự rõ ràng để trước khi anh ta có thể hướng về phía trước - nhìn tương lai một cách có ý nghĩa, anh ta trước tiên phải được cho phép ngoái lại phía sau - nhìn quá khứ một cách sâu sắc. Trong bối cảnh các vấn đề của người da đen, không một ai, cả người da trắng lẫn người da đen, vì những lý do đáng chấp nhận của riêng họ, có lấy một mong muốn mờ nhạt nhất về ngoái nhìn lại; nhưng tôi tin rằng chính quá khứ là toàn bộ những gì khiến cho hiện tại trở nên thống nhất, và hơn thế, quá khứ sẽ tiếp tục là một thứ gớm ghiếc chừng nào chúng ta còn khước từ đối mặt với nó một cách trung thực.
Dù sao đi nữa, tôi biết rằng thời khắc quan trọng nhất trong quá trình phát triển của tôi đã tới khi tôi buộc phải nhận ra mình là một dạng con hoang của phương Tây; khi lần theo dòng quá khứ của mình, tôi không thấy mình ở châu Âu mà ở châu Phi. Và điều đó có nghĩa là bằng một cách khéo léo và sâu sắc, tôi mang theo một thái độ đặc biệt khi đến với Shakespeare, Bach, Rembrandt, tới những viên đá lát đường trên các phố Paris, tới nhà thờ Đại giáo đường Chartres, và cả tòa nhà Empire State. Những thứ này không phải các tạo tác của tôi, chúng không chứa đựng lịch sử của tôi; tôi không thể tìm kiếm một sự phản chiếu nào của bản thân trong những thứ đó, mãi mãi trong vô vọng. Tôi là kẻ không mời mà đến; đây không phải di sản của tôi. Cùng lúc đó, tôi không có lấy một di sản nào khác để có thể hy vọng dùng được - và tôi chắc chắn mình không phù hợp với bất kỳ rừng rậm hay bộ lạc nào. Tôi sẽ phải thừa nhận các thế kỷ da trắng, tôi sẽ phải làm cho chúng trở thành của mình - tôi sẽ phải chấp nhận thái độ đặc biệt của mình, vị trí đặc biệt của mình trong cái đồ hình này, bằng không tôi sẽ không thể có chỗ cho mình ở bất kỳ đồ hình nào. Điều khó khăn hơn cả là việc tôi bị buộc phải thừa nhận một điều tôi luôn luôn giấu giếm với chính mình, điều mà người Mỹ gốc Phi đã che giấu với chính bản thân họ như cái giá phải trả cho sự tiến bộ công khai; đó là tôi ghét và sợ những người da trắng. Điều này không có nghĩa tôi yêu người da đen; ngược lại, tôi khinh thường họ, có lẽ vì họ không tạo ra được Rembrandt. Quả thật, tôi ghét và sợ thế giới. Và thế thì có nghĩa, không chỉ do vậy mà tôi trao cho thế giới quyền năng giết chóc tối cao đối với mình, mà còn là, tại một vùng rìa tự hủy hoại như thế chẳng bao giờ tôi có thể hy vọng mình viết được.
Người ta viết bằng một thứ duy nhất - các kinh nghiệm của bản thân. Mọi thứ phụ thuộc vào việc người ta kiên trì đến mức nào trong việc khai thác tới những giọt cuối cùng của những kinh nghiệm đó, tất cả những gì chúng có thể đem lại, dẫu ngọt ngào hay cay đắng. Đây là mối bận tâm duy nhất của người nghệ sĩ, tái tạo một trật tự từ đời sống không trật tự, thứ chính là nghệ thuật. Vì thế, điều khó khăn của tôi, với tư cách một nhà văn người da đen, là thực tế rằng tôi bị cấm xem xét những kinh nghiệm cá nhân quá kỹ lưỡng bởi những yêu cầu to lớn và những nguy hiểm rất thật từ hoàn cảnh xã hội của mình.
Tôi không cho rằng sự tiến thoái lưỡng nan được nhắc đến ở trên có gì đặc biệt. Tôi tin, vì nhà văn làm việc với một phương tiện ngôn ngữ rõ ràng đến mức có thể coi là thảm họa, điều này phần nào giải thích được tại sao, dẫu có kho tàng đồ sộ ngôn ngữ nói và đời sống của người da đen, và mặc cho tấm gương âm nhạc của người da đen, các tác phẩm văn xuôi của người da đen lại, nhìn chung, vô vị và khô khan. Tôi không dài dòng về việc là một người da đen vì tôi nghĩ đó là chủ đề duy nhất của tôi, mà chỉ bởi đó là cánh cổng duy nhất tôi cần phá mở trước khi có thể hy vọng sẽ viết về bất kỳ điều gì khác. Tôi không tin rằng những vấn đề của người da đen tại nước Mỹ có thể được bàn luận một cách thống nhất mà không có sự cân nhắc về bối cảnh của nó; bối cảnh đó là lịch sử, phong tục, tập quán, những mặc định về đạo đức, những mối bận tâm của đất nước; hay ngắn gọn, cấu trúc chung của xã hội. Mặc dù trông bề ngoài không hẳn như thế nhưng không ai trên đất Mỹ thoát khỏi sự ảnh hưởng của nó, và tất cả mọi người đều chịu trách nhiệm một phần nào đó về điều này. Tôi càng tin vào điều ấy vì xu hướng áp đảo khi nói tới vấn đề này như thể nó là một điều hoàn toàn riêng biệt. Nhưng trong những tác phẩm của Faulkner, thái độ chung và một số đoạn cụ thể của Robert Penn Warren, và quan trọng hơn cả, ở sự xuất hiện của Ralph Ellison, người ta có thể thấy những khởi đầu - đấy là nói ít nhất - cho một cuộc tìm kiếm chân thực, đi sâu vào bản chất hơn. Nhân tiện, Mr. Ellison là tiểu thuyết gia đầu tiên, người da đen, tôi đọc, và là người đầu tiên tận dụng tài tình ngôn ngữ, sự mơ hồ và trớ trêu của đời sống người da đen4.
Về những gì tôi hứng thú: tôi không chắc là mình có hứng thú với điều gì, trừ phi ham muốn bệnh hoạn - sở hữu một máy quay 16mm và làm phim thể nghiệm - có thể được xếp vào mục đó. Nếu không, tôi thích ăn và uống - chấp niệm u sầu của tôi là tôi gần như chưa bao giờ được ăn đầy đủ (điều này là bởi vì không thể ăn đủ nếu như bạn luôn luôn lo lắng về bữa tiếp theo) - và tôi thích tranh luận với những người nào không phản đối tôi quá mức sâu sắc, và tôi thích cười. Tôi không thích Bohemia, hay những người sống theo kiểu bohemia, tôi không thích những người mà mục đích tối hậu là hướng tới khoái lạc, tôi cũng không thích những người quá say sưa với bất cứ điều gì, tôi không thích những người thích tôi bởi vì tôi là một người da đen, và cũng không thích những người cũng coi đó là lý do để khinh rẻ tôi. Tôi yêu nước Mỹ hơn bất kỳ đâu trên thế giới và, cũng vì lý do này, tôi kiên quyết không ngừng chỉ trích đất nước ấy. Tôi nghĩ mọi lý thuyết đều đáng ngờ, và mọi nguyên tắc đúng đắn nhất đều có thể phải sửa đổi, hoặc thậm chí là bị nghiền ra thành bột bởi những đòi hỏi của đời sống, và vì thế người ta phải tự tìm lấy một cái trục đạo đức cho mình và bước qua thế giới này với hy vọng rằng cái trục đó sẽ dẫn đường cho họ một cách đúng đắn. Tôi nhìn nhận bản thân là một người mang nhiều trách nhiệm, nhưng không có gì lớn lao hơn việc này: sao cho lâu dài được, như Hemingway nói5, và hoàn thành những gì tôi phải làm.
Tôi muốn là một người trung thực và một nhà văn đúng nghĩa.
Hoàng Hiền dịch
1 Store-front church: nơi tụ tập các nhóm có chung tôn giáo (thường là Ki-tô giáo) trong các tòa nhà được dùng cho mục đích thương mại. Hình thức tụ tập tôn giáo này phổ biến ở Mỹ và Canada, tại những khu dân cư thu nhập thấp.
2 Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của James Baldwin.
3 Nguồn: từ vở kịch Cơn bão của Shakespeare.
4 Ngược lại, khi James Baldwin mới xuất hiện, Ralph Ellison là một trong những người đầu tiên để ý và bình luận, nhất là với Richard Wright.
5 Văn xuôi của James Baldwin, nhất là ở giai đoạn đầu tiên, có nhiều dấu ấn của Hemingway.
tự nói về mình
Houellebecq: Cả đời, tôi đã đọc