favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Hồi đáp “Không đi khỏi”

21/12/2025 13:31

          Anh Hoa, trong bài Không đi khỏi, dường như cho rằng Bạch của Quê hương không phải một anh hùng theo lối Byron như tôi đã nghĩ. Bạch, như bạn nói, là “dạng nhân vật băn khoăn”, không hề “hừng hực phản kháng hay quyết tâm”. Nếu tôi hiểu đúng ý bạn, thì đây là một con người có tâm thuật bình thường, chịu những ràng buộc bình thường từ vợ, con nhỏ và cha già. Nhưng anh ta khao khát đi từ nơi này qua nơi khác, anh ta thấy “cuộc đời ở đâu chứ chắc chắn không ở đây” - bất luận “ở đây” là Hàng Gai hay San Francisco. Chính một con người bị giằng kéo giữa một bên là luân thường, còn bên kia là khát vọng lang bạt, lang bạt và lang bạt, mới là con người của tác phẩm. Đây, như bạn nói, “mới là địa điểm cho những tìm tòi thật sự sâu sắc.”

Tôi đồng ý rằng tạng người băn khoăn có thể là đề tài rất hay cho một tác phẩm. Nếu tôi hiểu không nhầm thì Dương Nghiễm Mậu rất ưa loại nhân vật này. Trong số những truyện của ông mà tôi đã đọc, tôi cũng thích nhất loại nhân vật ấy. Làm sao tôi lại không thích anh chàng của “Người con trai ngoại tình”, cái anh chàng vừa tiếc nuối vừa dửng dưng trước lời mời cưới của người yêu cũ? Sao tôi không thấy được anh là người vừa vô cảm, vừa tiếc nuối đau thương; vừa muốn nhiều, vừa không muốn thứ gì? Làm sao tôi quên được cái vẻ nhơn nhơn vô tích sự khi anh tắm táp, chải đầu, thắt cà vạt để chuẩn bị dự tiệc cưới? Sao tôi không mường tượng ra chầu la-de tuỳ tiện ngay trước đám cưới ấy: anh ngồi với bạn, trong đầu vẫn ẩn hiện hình hài người yêu, dù hoàn cảnh của anh hẳn đang là “uống rồi đi đái, đi đái vào uống tiếp”? Làm sao tôi bỏ qua được chi tiết anh cầm theo hòn bi từ đầu truyện, để rồi cuối cùng, khi tiệc đã vãn, bàn ghế và cốc chén đã dọn dẹp, anh ra về, ném đúng cái hòn bi đó vào một ngôi nhà xây dở, chấm hết cho một câu chuyện thật hoàn chỉnh! Mà đâu chỉ là câu chuyện hoàn chỉnh: còn có một nhân vật đúng tầm cho câu chuyện ấy.

Nhưng cũng chính vì rất thích kiểu nhân vật này, cho nên tôi phải khẳng định rằng Bạch của Nguyễn Tuân, nếu không phải là người ngạo nghễ đi ngược lại thói thường và cái tầm thường của chúng nhân, thì cũng không phải là nhân vật bình thường, bị giằng xé giữa các luân thường và khát vọng cá nhân (có lẽ cũng tầm thường thôi) theo phong cách mà Dương Nghiễm Mậu là một ví dụ. Xin kiên nhẫn cùng tôi điểm qua các tình tiết sau.

Bạch nói với anh Hồ bạn đường như thế này: “Mày hèn lắm, Hồ. Không những mày là một thằng hèn mà mày lại còn là hành khách thiếu kỷ luật trong sự giao thông công cộng nữa.” Nhìn anh chàng Hồ không hề giang hồ đó, Bạch “nhún vai lắc đầu”, “bắt đầu bực mình về những dáng điệu đớn hèn của người bạn đồng hành.” Nghe đến nệm êm ở nhà ông huyện, tác giả nhét ngay vào đầu Hồ cái “yên lòng và sung sướng tràn ngập thân xác mình đã mệt mỏi với đường xa”, trong khi với Bạch thì “được đi, tức là không bao giờ ngừng.” Chúng ta có cần phải kể lại hoạt cảnh của bữa cơm nhà ông huyện, nơi mà Hồ đã chê đủ thứ mắm sắc màu, còn Bạch thì thầm chê Hồ?

“Muốn tìm hạnh phúc ở đời, đứng vẫn không bằng ngồi. Và bay lắm không bằng đậu nhiều. Và nếu cứ nằng nặc đòi bay thì hai ta cùng bay.” Nghe câu ấy, Bạch đã “muốn cười vào mặt những người đàn bà rất đẹp và rất ngu ấy.” Khi đã thôi nhìn những người đàn bà van lạy chồng với ý “chàng đừng xa thiếp”, Bạch đảo mắt qua đám hướng đạo sinh; trước sự sôi nổi của họ, ông Bạch không biết bao nhiêu tuổi đời đã nhuốm những ưu tư: “Làm cách gì cho sức tín ngưỡng trước cuộc sống có thể bằng như lòng yêu đời của người đàn bà hướng đạo đoàn Triệu Ẩu kia?”

Trước Phối, đứa em ngây thơ “từ trước đến giờ quá quyến luyến với gia đình”, Bạch giải thích rằng quần áo đẹp sắm không để làm gì, bởi “người lữ khách đường trường chỉ có quyền dùng những màu chết, cho nó điều hoà với đất với cỏ, với hạt bụi, với lá khô. Như cái màu rêu phân ngựa mà nhà binh hay may áo sơ mi chẳng hạn.” Những quần áo cồng kềnh, Bạch nói, sẽ làm phiền lữ khách “gấp mấy mươi cái địu thê nhi quấn vướng vào chân.” (Bạch quên cái địu thê nhi của chính mình nó nặng gấp mấy lần quần áo đẹp rồi sao?) Nhờ anh chọn tẩu, nhưng bị anh khước từ “vì tính em chưa vững” và do đó tẩu em nên hút cũng chưa định hình, Phối - bấy giờ tác giả đột ngột đổi điểm nhìn từ Bạch sang em trai - đã sa sầm nét mặt: “Anh ta thực khinh ta nhiều quá. Chuyến này ta đi cho rõ lâu và nếu có cơ hội […] sẽ tạt sang các nước lân cận.” Còn Bạch, hỡi ôi, dù biết đã phạm vào tự ái của em, thì tinh nghịch nghĩ đến “mọi cái kết quả hay của những câu nói khích trong nhân loại.” Trong bữa cơm cao lâu đầu tiên, Phối bỡ ngỡ gọi món “thật là thừa thãi và thiếu trật tự như thực đơn của kẻ tiểu trưởng giả gặp được ngày lành tháng tốt để tiêu tiền.” Phối, cái đứa em mà Nguyễn Tuân khiến độc giả tin là ngoan lành ấy, đột nhiên “hạch sách hầu sáng nhiều quá và gọi chúng có khi to tiếng hơn cả tiếng bọn này hô tiền.” Đây lại là dịp cho Bạch lịch duyệt nhớ đến ngày anh “mới tập tõng giang hồ” và tưởng tượng ra những tiệm nhảy, quán rượu, nhà chứa sẽ “khối kinh động vì thằng em mình.”

Dung của Bạch, nằm cạnh người chồng đang tức ách nỗi niềm đường trường, “cứ dửng dưng, cứ thản nhiên, bởi vì nàng là một người đàn bà đơn giản.” Dung xem trộm thư từ, giấy má của Bạch - nàng bị đẩy cho ngu đến mức “phạm vào cái tội do thám rất bỉ ổi mà một người đàn bà có chồng, có giáo dục một chút không khi nào lại vướng phải” chỉ vì “Dung có một người chồng khó hiểu quá”. “Gió đã lên”, câu hò mới ngấp nghé tầm Thoreau ấy, là câu nàng đọc trong thư Bạch, mà lại trót không hiểu. Bên mâm cơm, như một người đàn bà nhạt nhẽo, Dung đặt con vào lòng Bạch, để nhắc nhở Bạch về trách nhiệm người cha, người đàn ông của gia đình. Rạp hết vé, thành thử ba người Bạch, Hoà và Dung phải đi xem phim lấy bối cảnh San Francisco. Nhưng đó là thiệt thòi cho Dung, bởi xứng hợp hơn với nàng là một phim “khôi hài dễ hiểu, không cần có đến chữ nghĩa là Dung cũng mua vui được”. Còn chỉ có Hoà với Bạch, chứ không phải Dung, mới là hai kẻ “hứng thú với truyện ảnh San Francisco đang quay”. Nhưng lòng Bạch thì hễ phim “tuôn thêm một thước băng nhựa nào” là lòng Bạch “lại thêm nhộn nhạo đến đấy”. Cho Bạch xem “phim tuyệt tác này”, Hoà đã phạm “tội hành thích đến đời tâm tưởng của một bệnh nhân giang hồ bất đắc chí”. Xin lưu ý, không ai rõ các hoạt cảnh trong phim họ xem là gì.

Ông Đức Trần béo tốt bị Bạch từ chối vì “ý nghĩ rất trừu tượng của tôi về mục đích du lịch thì giàu lắm, nhưng phiền một nỗi là ông không dùng được vào cái mục sách của ông nó cần phải thiết thực có những bản thống kê, những bản đồ, những dòng toát yếu chen vào rất nhiều con số.” (Thông tin về Đức Trần không cho thấy ông ta đưa ra một mô tả công việc cứng rắn nào.) Bạch không sợ thiếu tiền, không cần tiền của ông đại gia vì anh “tuỳ cơ ứng biến”, anh trả “bằng những thành kính trong tâm đối với sự rộng rãi của cả mặt trái đất”. Và Đức Trần là phú ông không hiểu lòng kẻ sĩ; ông phản ứng với Hoà: “Ông Bạch […] thật là một người điên. Tôi không hiểu ông ta định nói những cái gì.” Ông nghiệm ra rằng thanh niên Việt đi nước ngoài về, đâm “dở dở ương ương như người loạn óc, nói không ai hiểu, mà có làm gì cũng không ai hiểu.” Ông tự nhận, người “thực nghiệp chân phương” như ông không thể hiểu được tâm sự biển hồ gió bụi của Bạch.

Xin lượng thứ cho lượng trích dẫn như trên, bởi tôi sợ nếu không trích ra, tôi sẽ được xem là quá vội vã và vô cớ mà chấm rớt một nhân vật của cuốn tiểu thuyết được coi trọng. Tôi không bịa đặt đâu: Nguyễn Tuân đã viết rất nhiều câu văn có nội dung sống sượng, như thể rút ra từ lớp tập viết content nào. Nhưng đó là chủ đề của bài trước. Điều tôi muốn khẳng định trong bài này, là Bạch không ngồi được trên chiếc ghế nào, falls between two stools. Tôi muốn khẳng định, rằng nếu độc giả không chấp nhận Bạch là người “hừng hực phản kháng hay quyết tâm”, nhân vật đứng trên người bình thường mà tôi thấy là tác giả muốn chúng ta đọc ra, thì độc giả cũng không thể xem anh như một con người bình thường với nhiều băn khoăn được. Đọc các đoạn trên, hoặc ta phải thú nhận rằng Nguyễn đã dựng anh lên là kẻ ngạo ngược và khác người, một anh hùng và triết gia đứng trong hoàn cảnh éo le nhưng cả triết lý lẫn nhân cách đều không đến tầm - vốn là điều tôi đã khẳng định; còn không, thì thế giới mà Nguyễn nhúng anh vào là thế giới có vấn đề. Không những nó là thế giới tầm thường, đơn giản và nhạt nhẽo; mà nó còn được tác giả dựng lên một cách tầm thường, đơn giản và nhạt nhẽo - đến nỗi nó không xứng đáng gây băn khoăn và loay hoay cho ai hết, đến nỗi mọi băn khoăn của nhân vật trong tiểu thuyết, nếu có, sẽ là băn khoăn không nông cạn thì nguỵ tạo.

Thật là khác xa với các truyện của Dương Nghiễm Mậu, chứ không chỉ truyện tôi đã nêu tên. Thế giới, qua điểm nhìn của hero Dương Nghiễm Mậu, không ngu đần như thế giới trong Quê hương. Đúng như cái thế giới phức tạp mà chúng ta đang sống chứ không hề phẳng nhạt, thế giới bên ngoài của truyện Dương Nghiễm Mậu có những đòi hỏi cũng mạnh mẽ không thua gì những đòi hỏi bên trong nhân vật chính. Anh muốn dự vào những việc lớn lao ư? Ừ, nhưng có một lẽ lớn lao không kém, đó là thanh xuân của em có thì, và thanh xuân đã đi không trở lại. Anh muốn bay nhảy, rày đây mai đó ư? Em biết, em hiểu anh bằng lòng em tha thiết; nhưng lòng ấy mong mỏi cái hạnh phúc chính đáng của một gia đình cũng tha thiết như thế. Hay trong “Tiếng sáo người em út”: em hiểu, em hiểu anh cần thế giới kia, thế giới kia gọi anh bằng những tiếng gọi gì em chưa hề nghe biết. Nhưng đã có anh bỏ mình vào những cuộc lớn lao, thì cũng phải có em đây, phải có em làm những việc được xem là nhỏ bé - cha, mẹ, chị, mộ phần của họ và căn nhà này. Là bởi thế giới hình như có Đạo của nó; nó đòi hỏi công việc lớn lao của anh bao nhiêu, thì nó cũng bấy nhiêu nghiêm khắc đòi hỏi tình cảm và trách nhiệm của những người như em.

Dương Nghiễm Mậu là thế đấy. Còn Bạch thì sao? Anh quá nhiều kêu ca, phán xét vặt vãnh và triết lý xoàng xĩnh để là một anh hùng. Mặt khác, nhân và vật quanh anh cũng không đủ phức tạp hay phẩm giá trí tuệ để tạo cho anh các mối băn khoăn đáng giá, để anh làm địa điểm cho những tìm tòi sâu sắc.

Khác biệt trong quan điểm về nhân vật của Quê hương dường như cho thấy một khác biệt sâu xa hơn giữa tôi và Anh Hoa. Có hiểu đúng nếu tôi nói rằng, với bạn, giá trị của tác phẩm - hay hoặc dở - nằm ở giá trị của ý tưởng bao trùm lên nó, thậm chí là ý tưởng xuyên suốt không những tác phẩm ấy, mà luôn những sách truyện khác của cùng một tác giả? Xa hơn, tác phẩm ấy cần được đánh giá dựa trên một phả hệ; phả hệ ấy bao gồm các tác phẩm khám phá cùng một ý tưởng, bất luận đi trước hay sau nó. Tác phẩm của Nguyễn Tuân cần được chấm dựa trên ý tưởng ám ảnh Nguyễn Tuân, vốn là ý tưởng vốn đã khởi từ Khái Hưng, và sau đó định hình Thanh Tâm Tuyền.

Tôi quả thật có thấy, rằng khi am tường hơn những ý tưởng chủ đạo trong oeuvre của một tác giả, thì sự thưởng thức của chúng ta sâu sắc hơn. Tôi trải nghiệm rõ rệt điều này ở một tác giả khác: Kim Dung. Đọc đi đọc lại vài bộ của ông, tôi biết ông thích những ý tưởng sau: các cuộc tình thanh mai trúc mã tuy hữu danh mà chẳng có thực; khác biệt chính vs. tà; võ công chọn người, chứ người không tìm được nó; các vị chưởng môn độc ác nhưng biết giữ gìn phẩm giá của bậc tôn sư. Tôi biết ông thích dùng các nhân vật thiên tư ngu độn hoặc thuần phác; các nhân vật tưởng khôn mà ngờ nghệch, nhầm lẫn độc ác với “cun ngầu”, gian dâm với phong lưu. Tôi biết ông thích trả lời cho các vấn đề về người Hán vs. các dân tộc chung quanh. Vì biết ông sở trường những chủ đề này, nên khi đọc đến phần nào động đến một trong số chúng, tôi thấy tôi háo hức. Tôi háo hức như một cổ động viên biết cầu thủ mình thích sắp sửa xử lý bóng như thế nào; như một người bạn “biết ngay” bạn mình sắp sửa đối đáp hay hành động ra sao trước một tình huống. Sự đoán trước này - đương nhiên đọc lại càng nhiều lần, tôi càng đoán được trước - không những không làm mất đi háo hức của tôi, mà còn thêm lên sự thích thú của tôi với những câu chuyện hay, những chỗ xử lý khéo. Nhưng đây là một phân biệt quan trọng: sự am tường đó thêm vào niềm thích thú mà tôi sẵn có với một tình huống hoặc mạch truyện xử lý khéo, chứ nó không biến một tình huống hay mạch truyện từ vụng thành khéo. Xin để tôi đưa ví dụ. Tôi thấy khoan khoái khi theo dõi cuộc đời của Diệt Tuyệt và Đồng Mỗ: họ là những nhân vật cao ngạo, ương bướng, độc ác nhưng không bao giờ hèn hạ. Đúng như logic cho loại nhân vật ấy, họ chết không hiên ngang thì bi tráng. Thế nhưng cú ngã của Tả Lãnh Thiền thì hơi khác, bởi họ Tả đã dám làm cả những điều hèn hạ. Kim Dung có nói Tả Lãnh Thiền, với hai mắt đã mù, bước xuống Phong Thiền Đài mà “vẫn giữ phong độ bậc tôn sư”. Nhưng tôi thấy Kim Dung đã hơi ngã ngựa ở đây; tôi không tín ông ở đoạn ấy nữa. Tôi thấy ông đã không làm được điều mà ở những bộ khác ông làm được, và không vì nắm được ý tưởng chủ đạo và thói quen sáng tác của ông mà tôi thay đổi được thất bại đó. Tương tự, nếu cầu thủ nọ panenka tài tình và bóng vào lưới, tôi khoái không những bàn thắng thôi, tôi khoái bàn thắng mà tôi biết sẽ được thực hiện như thế. Nhưng nếu anh sút hỏng, thì tôi không thể vì chút hiểu biết kia mà biến quả phạt đền hỏng thành bàn thắng.

Tôi thấy Nguyễn Tuân đã sút hỏng trong Quê hương. Giả sử tôi trước tiên đọc hết các tuỳ bút của ông, rồi sau đó mới đọc Quê hương với hiểu biết về ý tưởng như sợi chỉ chạy xuyên suốt (mà Anh Hoa đã trình bày), tôi sẽ vẫn nhận xét rằng Nguyễn Tuân không làm tốt thứ mà ông thường làm tốt; rằng Tuân của Một chuyến đi, bất chấp các hạn chế của anh, là nhân vật hay hơn Bạch. Không vì hiểu biết về ý tưởng và phong độ bình thường của Nguyễn mà tôi đánh giá cao cuốn tiểu thuyết nơi các năng lực thường có của Nguyễn không được triển khai, hoặc không triển khai được. Trái lại: chính vì tôi thấy các tuỳ bút, phóng sự, thậm chí các truyện ngắn “Một người cha về ăn Tết” và “Lửa trại”, là những tác phẩm không hay thì cũng tạm, mà tôi phải đánh hỏng cuốn Quê hương trong cơn ngỡ ngàng về người viết ra nó.

Về Quê hương, tôi chỉ nói thêm như vậy. Nhưng tôi e cách đọc “lần theo ý tưởng xuyên suốt” rồi sẽ đưa đến một hệ quả không hay. Từ câu hỏi “Cái này hay hay dở?”, vốn là câu hỏi chính đáng cho phê bình vì nó tập trung vào tác phẩm, ta sẽ lạc sang “Cái này có quan trọng không?” Thay vì đọc tác phẩm, tưởng tượng và cảm động theo nó để xem nó có giá trị gì, ta sẽ tập trung vào lịch sử trước nó và sau nó. Ta sẽ chấm ý tưởng mà nó chứa đựng: ảnh hưởng hay “không tiếng vang gì”, đột phá hay nhai lại, tiên phong hay thừa kế, v.v. Nói ngắn gọn, chúng ta tập trung vào vị tác giả đứng sau. Ta không đánh giá người nghệ nhân dựa trên công việc của anh ta nữa, mà dựa trên ám ảnh cá nhân, tuyên ngôn, lời đồn và cái “quần hùng” văn chương đứng sau lưng anh ta. Không những đây là trôi dạt từ phê bình qua tiểu sử và lịch sử, nó còn là cách để lờ đi hoặc bỏ lỡ câu chuyện về tài năng văn chương đích thực. Một cách vô căn cứ, ta xếp vào các bậc thấp, cao các thứ người Lớn và Nhỏ, trong khi không hề xét đến công việc bởi tay họ mà ra. Lo sợ xa xôi của tôi, là bằng cách lợi dụng điểm yếu này, sự mạo danh và thói hoặc-chúng (charlatanry) sẽ thâm nhập vào các lĩnh vực. Các tác phẩm hay, các tài năng có thật sẽ vì nó mà bị lu mờ hoặc bỏ lỡ.

Nếu ta tập trung vào tác phẩm và từ tác phẩm mà thôi đi đến đánh giá tác giả, ta sẽ có một bối cảnh hoàn toàn khác. Mở ra với ta là con đường dẫn đến điều tốt đẹp nhất, cái đích của mọi văn học: enjoyment, mà tôi tạm gọi là niềm thích thú với thứ mình được đọc. Chính đây - chứ không phải một đại sảnh danh vọng, một top 10 hay top 5, một “thất tinh” hay “tứ kiệt” - chính đây mới là đích đến của sáng tạo văn chương. Chúng ta chọn trải nghiệm nào: một bên là vừa đọc “Đường về quê hương, về quê hương/không thấy quê hương, chỉ thấy đường”, vừa tưởng tượng ra cái vô tận của chuyến đi; còn bên kia là điều tra lý lịch của Quang Dũng, xem ông thuộc vòng tròn nào, văn đoàn nào, hội văn nghệ nào, so sánh ông với những người sau và trước, ngõ hầu xếp ông lên một bực thang nào đó, dưới vài người, trên vài người. Và chúng ta cũng chớ quên, rằng niềm thích thú này gần như không thể mở ra với nhóm người đọc thứ hai. Còn ai kém vui hơn người vừa đọc một trang giấy, vừa lo ý nghĩa của trang giấy ấy nằm ở đâu, chứ không phải những con chữ mình đang đọc? Có ai bất hạnh hơn người vừa đọc, vừa căng thẳng truy tìm “tư tưởng chủ đạo” thay vì hưởng lấy những tưởng tượng mà văn bản ban tặng cho mình? Thử nghĩ xem: trải nghiệm của họ thua kém bao nhiêu trải nghiệm của những người thả mình theo câu văn và lời thơ, để rồi (nói như Trollope) đến khi đầu ta tựa lên gối, thì “chân lý và sức mạnh” của tác phẩm - tức ý tưởng của nó - mới loé lên trong tâm tưởng ta? Lại nữa, có ai tội nghiệp cho bằng vị độc giả không dám chê cuốn sách anh ta thực sự thấy dở - chỉ vì lo sợ biết đâu có một tư tưởng, một truyền thống lớn lao hơn chạy xuyên qua hoặc bao trùm lên tác giả của nó? Và chẳng phải chính những người kém vui này đồng thời là những người ngăn chặn cả niềm thích thú lẫn lời phê bình đích đáng của bao nhiêu người khác? Họ “đóng nước thiên đàng trước mặt người ta”, họ “chẳng vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở”.

Chắc chắn, với cách đọc mà tôi ủng hộ, tác giả vẫn sẽ được vinh danh, nhưng danh ấy thật là danh thơm, chứ không phải sự phù phiếm. Vì rằng tác giả ấy đã nhận được sự vinh hiển theo cách - tôi xin nói với sự thành kính tuyệt đối, dù là của một người chưa tin - mà Đấng Sáng Tạo được vinh hiển. Chúng ta biết đến Ngài nào phải qua tuyên ngôn suông; chính công việc Ngài đã làm chứng cho vinh hiển của Ngài, đã khiến loài người tập tọng nói lên những phẩm chất có nơi Ngài. Trong sáng tạo, loài người học cách làm của Ngài, bắt chước công việc bởi tay Ngài, nhưng sự bắt chước ấy nhiều và trọn vẹn bao nhiêu, thì ở đó - khác hẳn nhiều nghệ sĩ thời nay - Ngài dường như lại giấu mình đi bấy nhiêu. Với tư cách Nghệ Nhân, Ngài cho thấy rằng tác phẩm của Ngài sống động bao nhiêu, thật bao nhiêu, hoàn chỉnh và trọn vẹn bao nhiêu - nó nổi bật trong đời sống riêng của mình bao nhiêu - thì nó minh chứng bấy nhiêu cho tài hoa và quyền năng của Đấng đã cho nó sự sống.

Nguyễn Công Nam

Lại nói về Nguyễn Tuân

Không đi khỏi

Về Trên và Dưới trong truyện 

Phiếm luận về chênh lệch đẳng cấp

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công