favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Graham Greene: G. K. Chesterton

08/08/2025 23:38

Graham Greene - người nắm giữ những bình luận quan trọng nhất về tác động khủng khiếp kéo theo sau cái chết của Henry James đối với ý thức tôn giáo trong tiểu thuyết Anh - đồng thời cũng là một người đọc Chesterton thần sầu, cặn kẽ. Trong hồi ký, Greene kể rằng người đầu tiên mình xin chữ ký là Chesterton và đã ngưỡng mộ ông trước khi chọn đi theo Công Giáo Rô-ma. Greene đặc biệt ấn tượng và bị khuấy động bởi một tập tiểu luận không mấy nổi tiếng của Chesterton, cuốn “The Thing: Why I Am A Catholic.” Ở tập sách này, Chesterton đã chạm đến nhiều khía cạnh then chốt mà Greene luôn tìm cách tìm tòi, tái hiện trong các tác phẩm hư cấu của mình, chẳng hạn như mối liên hệ giữa lòng trắc ẩn và sự bình đẳng, tôn giáo như tinh thần cần thiết cho nghệ thuật và tư duy vĩ đại, tính hợp lẽ của Công giáo, v.v..

Văn bản này được trích ra từ Tuyển tập tiểu luận của Greene, nơi ông chia sẻ góc nhìn về rất nhiều hiện tượng nghệ thuật, từ François Mauriac, Bernanos cho tới phim hoạt hình Ba chú lợn con của Xưởng Disney, tất cả đều thể hiện tầm vóc của một người biết nhìn, biết cảm và biết bình. Trong bài viết này, ông bình luận về hai cuốn tiểu sử nổi tiếng nhất viết cho G. K. Chesterton, của Maisie Ward và em dâu G.K., bà Cecil Chesterton.

 

G. K. CHESTERTON

- Graham Greene

 

1.

Có thể lập luận rằng, những cuốn tiểu sử hay nhất đều đi ra từ đối kháng, không phải khuất phục. Hãy hình dung một nhà viết tiểu sử, dù ban đầu anh ta có hồ hởi nhận công việc ấy tới mấy, sau rốt cũng phải nhăn mặt cố dựng dậy quyết tâm héo úa cùng nỗi bực bội xâm lấn trước đống tài liệu vô tận mà bất kỳ cuộc đời nào cũng có thể để lại. Bảy mươi năm trần thế: việc sắp xếp lại sao cho mạch lạc những mảnh ghép của cuộc đời ấy còn gian nan hơn bốn năm ròng ra thực địa ghi chép chiến trận. Thế nên, việc giản lược đi cũng là điều không tránh khỏi: Boswell gói gọn hơn nửa đời nhân vật trong mấy trang, Lytton Strachey chỉ chọn lấy một câu đắt giá xỏ luồn qua mê cung tiểu sử.

[Maisie] Ward lại quá yêu và gần gũi với nhân vật nên không thể chắt lọc tư liệu thành một bức chân dung phù hợp cho đại chúng chiêm ngưỡng. Cuốn tiểu sử của bà [Gilbert Keith Chesterton, 1944], tuy có nhiều chi tiết thú vị và là lời đính chính cần thiết cho nghiên cứu cẩu thả của bà Cecil Chesterton về gia tộc Chesterton, lại quá dài dòng và chật ních những kỷ niệm vặt vãnh. Yêu ai, ta hay giữ lại từng mẩu đối thoại, bưu thiếp, đồng xu ngoại quốc gợi ta về họ - nhưng “những thứ tầm phào” ấy khi đi vào tiểu sử viết cho công chúng đọc lại cần phải bị loại bỏ. Ward ngây thơ khi cho rằng độc giả ai cũng là bạn thân của nhân vật: cuốn sách của họ đã có thể tốt hơn rất nhiều, giá mà bà - cùng những tiểu sử gia của Stevenson - nhận ra một điều rằng, khi thời gian mở ra một độ lùi đủ dài, danh cao tất hữu địch. Thêm một ‘giá mà’ nữa: giá mà bà nhớ tới những người đọc không theo Công giáo của mình thường xuyên hơn. Những nhận xét kiểu “có lẽ cụm từ ‘bánh thánh-hơn’ (holier bread) nảy sinh trong tâm trí Chesterton do tỷ lệ rước lễ hàng ngày tại Nhà thờ Đức Bà rất cao” cho thấy tư duy giáo xứ lỗi thời thường thấy trong văn chương Công giáo ở Anh Quốc.

Một trăm tác phẩm của Chesterton, như lời Ward thực tài tình viết, là “sự thực hành yên ắng và bền bỉ của tự do tư tưởng.” Thời gian sẽ sàng lọc thứ di sản khổng lồ ấy - có lúc theo cách ta thấy kỳ quặc, nhưng kỳ thực chính thị hiếu đại chúng mới bất thường vậy. Ta đã chứng minh sự kỳ quặc của mình ở trường hợp Chesterton rồi đây: chúng ta có cả một thế hệ mê đắm Joyce nhưng lại xem lối chơi chữ say mê không kém của Chesterton là quẩn quanh, gây mệt mỏi. Có lẽ ông vẫn bị xem là khinh bạc, trong khi giới độc giả trung niên ngày nay lại đặc biệt ưa sốt sắng. Ít nhất, Ward đã điều chỉnh lại thành kiến ấy: bà dành nhiều trang phân tích kỹ lưỡng quan điểm chính trị của Chesterton. Ông say mê bảo vệ tự do cá nhân và tinh thần bản địa, nhưng thứ đảng phái được ông truyền cảm hứng cho giờ đây lại mang vẻ thủ-công-mỹ-nghệ quá. Ông quá lương thiện, không làm chính trị được: ta có cảm giác rằng ông chưa bao giờ đào sâu vào những thủ đoạn chính trị thâm sâu. Làm chính sách cầm am tường tâm lý học, mà Chesterton thì không - các tiểu thuyết của ông đã chứng minh điều đó. Ông nhìn đời theo hướng tuyệt đối: bằng định nghĩa thứ gì là Thiện-Ác, và lòng nhân ái bao la khiến ông không chấp nhận những toan tính nhỏ nhen trong cuộc sống. Với ông, ngay cả chính trị gia tồi tệ nhất cũng chỉ như thiên thần sa ngã mà thôi.

Nhưng chính vì thất bại trong vai trò nhà văn chính trị lại giúp ông toả sáng khi viết về tôn giáo, bởi tôn giáo vốn giản đơn, giáo điều cốt minh bạch. Những phức tạp trong thần học thường xuất phát từ nỗ lực của những người không chuyên viết lách khi cố gắng phân tích một ý tưởng đơn giản với mong đợi về chính xác tuyệt đối. Chesterton tái khẳng định tư tưởng nguyên thuỷ với sự tươi mới, giản đơn và hào hứng của kẻ khám phá. Thực chất, đó chính là khám phá đấy: ông đào xới qua lớp đất định nghĩa để tìm về bản chất, khiến độc giả phải giật mình tự hỏi sao lúc trước người ta lại cần viện vào những định nghĩa rườm rà làm gì. Orthodoxy, The Thing [Why I Am A Catholic] và The Everlasting Man đều là những kiệt tác thời đại. Tất nhiên, sẽ thật đáng tiếc nếu thời gian không lưu giữ thêm những tác phẩm khác từ khối di sản đồ sộ ấy: The Ballad of the White Horse, những vần thơ châm biếm, những áng văn kỳ ảo như Một người tên là Thứ Năm hay The Napoleon of Notting Hill, lẫn nhưng cuốn sách phê bình văn học về Browning và Dickens viết đầu văn nghiệp. Nhưng chính ba tác phẩm tôn giáo ấy, cả ba đều thấm đẫm chủ nghĩa lạc quan đại đồng và niềm tin mãnh liệt rằng “sống thôi đã là chuyện tốt”, đã đóng góp điều mà một nhà văn tôn giáo vĩ đại khác - người có tư tưởng chính trị và văn phong rất gần ông - đã nhận ra là thứ mà thời đại chúnhg ta thiếu vắng nhất. Péguy đã đặt những lời này vào miệng Đấng Tạo Hoá:

Có sẵn bao người: mộ, ái, tuẫn

Hy sinh, lao ải, chẳng phai mầu
Tín Chúa khôn lay, dầu dâu bể

Nhưng hy vọng? Hỡi ôi, bất khả cầu![1]

2.

Không phải lúc nào kẻ thù cũng xứng tầm. Người ta không có quyền lựa chọn họ hàng bên vợ. Cuốn sách của bà Cecil Chesterton [vợ em trai Chesterton, người viết cuốn tiểu sử The Chestertons] viết ẩn chứa một dòng chảy ngấm ngầm nhưng hiển nhiên và dễ thấy của lòng căm ghét khá hẹp hòi: căm ghét người chị dâu đã đưa G. K. Chesterton rời khỏi London, xa những đêm rượu chè phóng túng ở Fleet Street về với sự tĩnh lặng của Beaconfield. Từ góc nhìn cá nhân, bà Chesterton vẽ nên bức tranh một người đàn ông bất hạnh - bị cắt lìa khỏi bạn bè đồng điệu, tâm trí mụ mị, sự nghiệp tiêu tan. Nhưng ta có thể lập tức đặt nghi vấn rằng những kẻ ồn ào ở quán rượu trên Fleet Street như Crosland có thực sự là người bạn tri âm của ông? Và liệu ông có viết tác phẩm nào xuất sắc hơn The Everlasting Man, The Thing cùng Tự truyện - những tác phẩm đều được hoàn thành ở Beaconfield? Lòng ghét bỏ có thể tạo nên cuốn sách hay, nhưng không phải khi nó được bộc lộ một cách úp mở như thế này - từ nụ cười khẩy giữa dòng ngay trang đầu, rằng Chesterton “là một nhân vật ấn tượng của những ngày xưa đó” (ý bà Cecil muốn nói tới hồi ông chưa kết hôn, nhưng có lúc nào ông không ấn tượng đâu?) cho đến cuối sách, khi bà phàn nàn về việc thiếu cỗ thết hậu tang G. K. không đủ đồ ăn thức uống. Trang 26, bà Cecil miêu tả Frances Chesterton: “Chị ấy rất hợp màu xanh dương hay xanh lá, nhưng ít khi vận, thường chỉ chọn những tông nâu xám nhạt nhoà”; trang 70:“Một bi kịch ập xuống gia đình nhà Blogg khiến Frances đau đớn. Chị ấy dành tình cảm yêu thương vô bờ cho gia đình - nơi cả chị ấy và chồng chị đều tôn thờ như ban thờ hiến tế.”; trang 72: “Chị ta không thích ăn uống gì ngoài bánh ngọt, sô-cô-la và ba thứ đồ ăn vặt tương tự, còn thức uống yêu thích của chị ta thì dừng lại ở trà.”; trang 69: “Frances ghét báo chí đại chúng, chỉ quan tâm đến những tờ tạp chí nhỏ và nội san giáo xứ - nơi chị ta hay gửi bài cho đăng những vần thơ duyên dáng của mình.” Những đả kích vụn vặt ấy nhắm vào người đàn bà đã khuất, người đã không màng đến Fleet Street, vốn chỉ là trò nhảm nhí vô hại, nếu không có một đoạn văn thô tục đến kinh ngạc tả đêm tân hôn của Chesterton bằng ngôn từ rẻ tiền kiểu tiểu thuyết diễm tình ba xu mà bà Cecil từng viết. Bà khẳng định Chesterton đã đem chuyện ấy kháo lại với em trai - nếu đúng thì quả là nhà văn chúng ta đã đặt niềm tin sai chỗ. Bà Cecil tưởng rằng đoạn văn ấy sẽ hạ bệ Frances vĩnh viễn, nào ngờ nó chỉ phơi bày sự vô sỉ của chính người dám viết và đem đi in nó.

Cần phải nói không chỉ những kẻ bà ghét mới là đối tượng cho sự trơ trẽn nơi bà. Chính tuần trăng mật của hai vợ chồng chính bà, bà cũng không tha:

“Nhân dịp này, tôi mặc chiếc váy xanh lục điểm vàng - phối màu yêu thích của ông chồng Cecil. Tôi đã sẵn sàng khi anh bước ra từ phòng ngủ, bảnh bao đến khó tin. Anh nhìn tôi từ cửa, mặt rạng rỡ như vừa thấy cảnh tiên. ‘... Bởi em là vương quốc, sức mạnh và vinh quang của anh, hỡi em yêu,’ anh ấy thì thầm, ánh mắt tôn thờ làm tôi sững sờ.”

Đọc sao thấy nhớ tới ca khúc Literary Widows trong vở diễn nào đó thời kỳ đầu của Farjeon quá. Nó có một đoạn điệp như vầy:

“Lấp mồ phủ bụi cho xong

Giờ ta cầm bút, phiền lòng cổ nhân!”

Người ta không khỏi so sánh những hồi ký dài dòng, vụng về, thiếu kiềm chế này với sự im lặng của Frances Chesterton - người vợ của một nhân vật vĩ đại hơn, người se còn còn sống mãi trong thơ chồng khi những giai thoại độc địa kia đã chìm vào quên lãng:

“Lá trên đầu, lá rơi chân

Men theo vòm lá vô ngần xanh cây.
Tìm ra một mái nhà nầy

Chính người yêu ấy, ngụ ngày lang thang.”

 

[1] Dịch thoát ý bài thơ “Le Porche du Mystère de la Deuxième Vertu” của Péguy. Nguyên gốc tiếng Pháp: “On peut lui demander beaucoup de coeur, beaucoup de charité, beaucoup de sacrifice. / Il a beaucoup de foi et beaucoup de charité. / Mais ce qu’on ne peut pas lui demander, sacredié, c’est un peu d’espérance.”

Bùi Gia Bin dịch 

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công