Goodbye to all that (tiếp)
Tiếp tục Goodbye to all that, ba chương tiếp theo. Giống ở kia và ở kia, đây sẽ là một văn bản inédit.
Goodbye to all that
- Robert Graves
2
Mẹ tôi lấy cha tôi, xem ra, chủ yếu để giúp ông chăm nom năm đứa con không mẹ. Có thêm con cho riêng mình chỉ là chuyện thứ yếu. Song trước tiên bà sinh một bé gái, rồi thêm một bé gái nữa, và dĩ nhiên có hai đứa ấy cũng là điều đẹp lòng thôi, chỉ là hơi thất vọng, bởi bà thuộc về cái thế hệ và truyền thống xem việc sinh con trai mới là sự kiện trọng đại trong đời; rồi đến tôi, một đứa kháu khỉnh. Khi ấy bà đã bốn mươi, còn cha tôi bốn chín. Bốn năm sau bà lại thêm một trai, bốn năm sau bà lại thêm một trai nữa. Tỷ lệ sinh trội con trai như mong muốn rốt cũng được đến, và hai lần năm là vừa tròn mười. Tôi nhận ra rằng khoảng cách hai thế hệ giữa tôi với cha mẹ mình, theo một lối nào đó, dễ vượt qua hơn so với chỉ một. Trẻ con hiếm lúc cãi cự ông bà, và tôi đã nghĩ về cha mẹ tôi như ông bà vậy. Vả, một gia đình mười người đồng nghĩa với việc tình cảm cha mẹ phải pha loãng ra; các thành viên trong nhà dễ thường bị lộn với nhau. Tôi thường bị gọi nhầm: “Philip, Richard, Charles, không, ý là Robert.”
Cha tôi rất bận, làm thanh tra học chính cho quận Southwark ở London, thành nên bọn trẻ chúng tôi hầu chẳng mấy lúc thấy ông, chỉ trừ những kỳ nghỉ. Hồi ấy ông cư xử dễ thương lắm, còn kể chuyện cho chúng tôi nghe với lời đầu thường lệ, không phải “ngày xửa ngày xưa”, là: “Thế rồi già làm vườn mới xì mũi bằng cái khăn tay màu đỏ...” Thi thoảng ông chơi trò với chúng tôi, nhưng chủ yếu, khi không vướng công việc giáo dục, ông viết thơ, hoặc tham gia các hội văn chương hoặc tiết độ[1] với tư cách chủ tịch. Mẹ tôi, bận lo việc nhà và chu toàn các phận sự xã hội của một người vợ quan chức, chẳng mấy lúc thấy chúng tôi, trừ Chủ nhật hoặc khi nào có đứa bị bệnh. Bọn tôi có bảo mẫu, và có nhau, và chừng ấy là đã đủ cho chuyện bầu bạn. Phần chính của cha tôi trong chuyện giáo dưỡng là bắt chúng tôi nói chuyện có ngữ pháp, phát âm cho đúng, và không được dùng từ lóng. Ông để toàn bộ phần chỉ dạy thờ phượng lại cho mẹ tôi, dầu ông vẫn làm chủ lễ cầu nguyện trước mỗi bữa sáng, đến cả người giúp việc cũng phải dự vô. Các hình phạt nhẹ, chẳng hạn như bắt đi ngủ sớm hoặc đứng vào góc, cũng do mẹ tôi giáng lấy; nhưng những đòn phạt xác, tuy không nặng và chỉ dùng dép, bà lại để cho cha tôi. Chúng tôi học cách lớn nên những luân lý gia nghiêm khắc, và dành thời gian chủ yếu cho sự tự xét mình và lập những quyết định tốt. Chị Rosaleen tôi treo một tấm bảng in lên góc phòng trẻ - mà tôi cũng đã có thể là người treo, rằng: “Mình không được phép nói ‘bang pust’ hay ‘pig bucket’, vì nói vậy là thô lỗ.”
Chúng tôi được cho rất ít tiền tiêu vặt – một xu mỗi tuần rồi sau lên thành hai năm mười hai tuổi hoặc tầm tầm đó – và được khuyến khích dành ra ít nhất một phần tiền lặt vặt nhận được từ mấy người chú hoặc khách viếng để quyên cho Nhà mở của Dr. Barnardo, và cho người ăn xin. Có một người ăn xin mù xưa thường ngồi trên hè phố Wimbledon Hill, đọc Kinh Thánh chữ Braille thành tiếng; ông ta không mù lắm, nhưng có thể trợn mắt lên và giấu con ngươi đi dưới mí mắt rủ trong vài phút, mí mắt thì được xát sao cho đỏ lên. Chúng tôi thường cho tiền ông ta. Ông chết trong cảnh giàu, lại còn đủ để chu cấp cho con trai ăn học đến đại học.
Nhà văn nổi tiếng đầu tiên mà tôi nhớ mình từng gặp sau Swinburne chính là P. G. Wodehouse, bạn của anh Perceval tôi. Wodehouse khi ấy chỉ mới ngoài hai mươi, làm nhân viên cho tờ The Globe, và viết truyện học trò cho tạp chí The Captain. Anh từng cho tôi một xu, bảo đem mua marshmallow mà ăn. Dầu lúc đó quá ngại để tỏ lòng cảm kích, từ bấy tôi chẳng bao giờ cho mình quyền phê bình tác phẩm của anh.
Tôi từng có một lòng sốt sắng tôn giáo sôi sục, lục bục mãi cho đến ngay sau lễ Thêm Sức năm mười sáu, và còn nhớ cảm giác ngỡ ngàng khi lần đầu nghe đến tai rằng thực có người, những người đã chịu báp-têm như tôi để vào Hội thánh Anh giáo, không tin thần tính của Đức Jesus. Tôi chưa từng gặp một người vô tín nào.
Dù đã nhiều lần hỏi người quen rằng họ bắt đầu có ý thức giai cấp vào đoạn nào của tuổi thiếu nhi hoặc thiếu niên, chưa một ai từng cho tôi câu trả lời thỏa đáng. Còn tôi thì lại nhớ chuyện ấy đã xảy đến với mình ra sao. Hồi bốn tuổi rưỡi tôi mắc sốt tinh hồng nhiệt; em trai tôi thì vừa mới chào đời, tôi chẳng thể dưỡng bệnh tại nhà, nên cha mẹ bèn gửi tôi vào một bệnh viện nhiệt đới công. Khu tôi nằm có hai mươi đứa vô sản, và chỉ có một đứa là bourgeois, ngoài tôi. Tôi không tinh ý mấy trước việc các y tá và đồng bệnh mang một thái độ khác với tôi; tôi thoải mái chấp nhận lòng tốt và sự nuông chiều, bởi vốn quen. Nhưng sự tôn trọng và thậm chí là kính trọng mà người ta dành cho cậu nhỏ kia, con trai một ông mục sư, mới làm tôi kinh ngạc lắm thay. “Ôi,” vị y tá kêu lên ngay sau khi cậu được rước đi, “ôi, cậu bé trông mới ra dáng công tử trong chiếc pelisse làm sao khi họ đưa cậu ấy đi!” “Cậu Matthew ấy đúng là dân thượng lưu chính hiệu,” đám trẻ vô sản ồ ào theo. Đoạn về nhà sau hai tháng viện trú, tôi bị rầy về giọng mình, và còn được cho hay rằng bọn trai trong khu bệnh ấy tuyền là bọn thô tục. Tôi chẳng biết “thô tục” nghĩa là gì đâu; phải có người giải thích. Độ một năm sau tôi gặp Arthur, một cậu trai chín tuổi, từng nằm cùng khu và từng dạy tôi chơi cricket lúc cả hai vào đoạn bình phục. Cậu hóa ra chỉ là một thằng bé chạy mấy công việc tay chân lặt vặt. Trong viện, bọn chúng tôi ai nấy đều mặc cùng một kiểu áo ngủ, và tôi thì chớ hề biết rằng tầng lớp của bọn tôi cách biệt nhau cao đến thế. Nhưng bỗng dưng tôi nhận ra trong cái rùng mình đầu về thế trâm anh, rằng có hai hạng Ki-tô hữu tồn tại – bọn tôi, và những người hạ lưu. Gia nhân trong nhà được luyện cho gọi bọn trẻ chúng tôi, dù còn đang nhỏ xíu, là “cậu chủ Robert,” “cô Rosaleen,” và “cô Clarissa”, nhưng chưa lần nào tôi nhận ra rằng chúng là danh xưng thể hiện sự kính trọng. Tôi cứ ngỡ rằng “Cậu chủ” và “Cô” chỉ là những tiền tố dùng gọi con nhà người ta; giờ tôi mới biết rằng gia nhân thuộc vào tầng lớp dưới, còn chúng tôi là “bọn ta đây”.
Tôi chấp nhận sự phân chia tầng lớp ấy tự nhiên chẳng kém chi các giáo điều, và phải đến gần hai mươi năm sau mới vứt hẳn nó đi. Cha mẹ tôi không phải kiểu hung hăng, kiểu “bắn-bỏ-chúng”, nhưng là những người Tự do hay, nói chính xác hơn, những nhà Tự do-Liên hiệp. Về mặt lý thuyết tôn giáo, chí ít, họ đối đãi với người làm công cho họ như là đồng-loại; nhưng các ranh giới xã hội vẫn hằn ra rất rõ. Sách thánh ca cũng thừa nhận những ranh giới ấy:
Ngài dựng kẻ thấp người cao
Định cho mỗi người một chỗ vào...
Tôi vẫn hoài nhớ tông mẹ tôi dùng để báo cho mấy cô hầu biết rằng họ có thể ăn phần pudding thừa, hay mắng nhà bếp vì lỡ làm gì đó. Tông ấy gằng lại, làm như gắt gỏng lên vì gượng gạo. Mẹ tôi, vốn gemütlich[2] tự bản tính, nên hẳn, tôi tin vậy, cũng mong sao cho mình khỏi phải cần đến gia nhân trong nhà. Họ như một chi phần rụng ra giữa nhà chúng tôi vậy. Tôi còn nhớ rõ buồng ngủ của gia nhân. Chúng nằm trên áp mái, phần tù túng nhất trong nhà và, theo quy ước hồi ấy, là những phòng duy nhất không được lót thảm hay linoleum. Mấy chiếc giường thô trơ, trông lạnh mắt cùng mấy ngăn tủ tường che rèm bông, không phải tủ đứng cửa kính như những phòng khác. Hết thảy sự thô kệch này làm tôi nghĩ đến gia nhân như những thứ chi chẳng phải người. Huống hồ, những người đến ở nhà tôi lại thường dưới mức trung bình; chỉ những ai không có giấy giới thiệu đàng hoàng mới xin vào nhà mười con. Và bởi nhà chúng tôi lớn, mà chẳng có lấy một người trong hộ chịu giữ cho phòng mình gọn ghẽ, nên gia nhân cứ nghỉ miết thôi. Lắm việc quá, họ bảo vậy.
Bảo mẫu bọn tôi làm nên cây cầu nối chúng tôi lại với gia nhân. Bà đưa giấy thông hành của mình ra ngay khi đến nhà: “Tên tôi là Emily Dykes; Quê ở Anh; Trú ở Nethevaron; Sự cứu rỗi tôi là Đấng Christ.” Tuy vẫn gọi bọn tôi là Cô cùng Cậu chủ, bà lại chẳng dụng đến tông đầy tớ. Xét theo thực tế thì Emily ở gần chúng tôi nhiều hơn là mẹ. Tôi không khinh bà cho đến độ mười hai – tầm ấy bà quay sang chăm các em trai tôi – lúc tôi nhận ra rằng sự giáo dưỡng tôi đã được vượt quá bà, rằng nếu như tôi vùng vằng với bà thì có khi tôi làm bà té bầm dập mất. Vả, bà đi nhà nguyện Báp-tít; còn tôi khi ấy thì được dạy rằng Báp-tít, cũng như dòng Giám lý Wesley và Công lý, là phái hạ đẳng hơn Hội thánh Anh giáo.
Mẹ tôi dạy tôi biết hãi hùng Công giáo La Mã, và tôi cầm lòng nỗi ấy suốt cả một quãng dài. Thật ra, tôi bỏ Kháng cách không phải vì tôi đã vượt lên khỏi hệ đạo đức của nó, mà chính vì kinh hãi yếu tố Công giáo trong nó. Việc đào luyện tôn giáo đã ươm nở cho tôi một sức sợ lớn – tôi luôn bị hành hạ bởi nỗi sợ địa ngục – một lương tâm dị đoan, cùng một sự xấu hổ dục tình mà tôi đã phải chật vật đủ đường mới có thể thoát ra.
Thứ cuối cùng mà người Kháng cách đánh mất khi họ thôi tin là khải tượng Đấng Christ như con người hoàn-toàn. Khải tượng ấy vẫn còn hằn trong tôi, cách tình cảm, suốt nhiều năm. Năm mười tám tuổi tôi viết một bài thơ tên “Giữa hoang địa”, về Đấng Christ đón con dê gánh tội đương khi nó lang thang ngoài sa mạc[3] - chuyện này, dĩ nhiên, hẳn là bất khả hữu, bởi con dê gánh tội luôn bị các thầy Lê-vi đẩy xuống vực. “Giữa hoang địa” từ bấy đã xuất hiện trong ít nhất bảy mươi tuyển tập thơ. Nhiều người vẫn thường viết cho tôi để bày tỏ rằng bài thơ ấy đã trao cho họ nhiều nghị lực ra sao, và liệu tôi có thể, v.v.?[4]
3
Tôi từng theo học nhiều trường dự bị, bắt đầu từ năm sáu tuổi. Trường đầu tiên là một trường bà giáo[5] ở Wimbledon, nhưng cha tôi, là một chuyên gia giáo dục, không để tôi học lâu. Một hôm nọ ông thấy tôi dàn dụa do không làm nổi bảng cửu chương hăm ba, và khó chịu trước một quyển lịch sử Hỏi Đáp mà chúng tôi dùng, đầu sách mở ra như sau:
Hỏi: Tại sao gọi người Briton là Briton?
Đáp: Vì họ vẽ mình màu chàm.[6]
Chưa kể, họ còn bắt tôi làm toán số theo tiếng của một cái máy đếm nhịp; có lần tôi són ướt quần vì độ căng của cơn cực hình này. Thế là cha tôi gửi tôi sang Trường King’s College, Wimbledon. Lúc dó tôi vừa tròn bảy tuổi, cậu học trò nhỏ nhất trong trường, các cậu kia thì lớn hơn và đến cả mười chín. Cha lại rút tôi ra chỉ sau một hai học kỳ, ông nghe thấy tôi dùng những từ tục, và cũng vì tôi không hiểu bài giảng. Tôi bắt đầu học tiếng Latin, nhưng chẳng ai giải thích xem “Latin” có nghĩa là gì; cách chia danh từ và động từ của nó tôi thấy chẳng khác gì vẽ bùa. Mà thực ra, chuỗi những từ tục cũng có khác chi đâu. Tôi thấy mình bị đại thính đường, đám trai to xác, đống ỏm tỏi đến kinh hồn trong các đường lang, kèm thêm môn bóng bầu dục bắt buộc không ai chỉ tôi luật chơi, dí bẹp xuống. Vậy là tôi sang trường Rokeby, một trường dự bị kiểu thường, lại cũng ở Wimbledon, nơi tôi theo học khoảng ba năm. Tại đây tôi bắt đầu chơi thể thao nghiêm túc, giở mạnh mồm, điêu ngoa, hống hách, giành nhiều thưởng, và bắt đầu chơi sưu tầm. Khác biệt chính giữa tôi với lũ học sinh còn lại là tôi sưu tầm xu thay vì tem. Giá trị của xu đồng dường đỡ hư cấu hơn so với tem manh. Ông hiệu trường chỉ phạt roi tôi một lần: vì quên mang giày thể dục đến trường, và ông đánh tôi không quá hai roi vào tay. Thế mà đến giờ tôi vẫn sôi máu mỗi khi nhớ lại. Việc đào luyện để thành một tôn ông của tôi đã bắt đầu tại đây.
Hình như tôi để sót mất một trường – Penrallt, sâu trong dãy đồi sau làng Llandbedr. Trước đó tôi chưa từng xa nhà lần nào. Tôi đến chỉ để học một kỳ dưỡng sức. Đây là nơi tôi lĩnh trận đòn đầu tiên. Hiệu trưởng, một mục sư, lấy roi đánh mông tôi vì đọc nhầm bài nguyện vào một Chúa nhật nọ. Đó giờ tôi chưa từng trải qua chuyện cưỡng luyện trong tôn giáo. Ở trường bà giáo chúng tôi cũng học mấy bài nguyện, nhưng không bị phạt khi đọc nhầm; chúng tôi thi nhau giành thưởng – những bản văn trang hoa điểm hòe để đem về treo đầu giường. Ronny nọ ở Penrallt là vị anh hùng vĩ đại nhất tôi từng gặp. Cậu có một căn chòi trên ngọn cây thông mà chẳng ai trèo lên được, và một con dao to tướng, làm từ mũi lưỡi gặt mà cậu ăn trộm được; cậu săn bò câu bằng ná cao su, nướng xong lại ăn trong căn chòi. Ronny rất tử tế với tôi; sau này cậu vào Hải quân, đào ngũ ngay trong chuyến hải trình đầu tiên, và, người ta kể, không ai nghe tin gì về cậu nữa. Cậu từng cưỡi trộm bò và ngựa cậu thấy trên đồng. Ở Penrallt, tôi tìm thấy một quyển sách có in các bài ballad của “Chevy Chase” và của “Sir Andrew Barton”; đó là hai bài thơ đúng nghĩa mà tôi nhớ mình đọc đầu tiên. Tôi nhận ra ngay chúng hay đến nhường nào. Song, cạnh đó, có một hồ bơi ngoài trời nơi tất tật bọn con trai cùng nhau ào vào tắm truồng, và cảnh ấy ập một trận đại hãi đến tôi. Một ông mười chín có tóc màu hung, hung đến tợn ấy, kiểu Ireland ấy, phủ xồm cả người ông ấy. Tôi đâu hay biết rằng tóc có thể mọc đến những hai nơi như thế đâu chứ. Vả, hiệu trưởng có một cô con gái nhỏ có một cô bạn nhỏ, và tôi luôn toát mồ hôi rợn rùng mỗi khi gặp chúng; bởi, không có anh em trai, bọn chúng có lần cố giải phẫu cơ thể con đực qua mẫu vật tôi bằng cách luồn tay vào cổ áo tôi đương khi chúng tôi đào lạc lợn trong vườn.
Lại một kinh nghiệm đáng hãi khác từ đoạn đời này. Có lần tôi phải ở trong phòng mũ áo trường Nữ Trung Học Wimbledon chờ hai chị tôi. Sau đấy chúng tôi sẽ đi chụp ảnh cùng nhau. Tôi chờ trong chắc có lẽ mười lăm phút trong một góc phòng mũ áo. Hồi ấy tôi chắc chừng mười tuổi, và trăm trăm cô gái ngang dọc tới lui; ai cũng nhìn tôi rồi khúc kha khúc khích, xì xào với nhau. Tôi biết họ không ưa tôi vì là một thằng con trai ngồi trong phòng mũ áo của một trường nữ sinh; và hai chị tôi, khi họ đến, nhìn nhau vẻ xấu hổ vì tôi, trông bộ như chẳng phải hai bà chị tôi biết ở nhà. Tôi đã bước quàng vào một cõi mật, và suốt nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm sau, những cơn ác mộng tệ nhất tôi thấy đều là về trường nữ sinh kia, nơi chứa ngập bóng bay đủ sắc đủ màu. “Rất Freud”, như nay người ta hay nói. Những xung động tự nhiên trong tôi đã bị dồn nén suốt nhiều năm sau chính vì hai kinh nghiệm đó. Hồi 1912, chúng tôi đón kỳ Giáng sinh tại Brussels. Một cô gái Ireland ở cùng nhà trọ đã làm tình với tôi theo cách, giờ nghĩ lại, tôi thấy thực ra rất đáng yêu. Việc ấy làm tôi khiếp đến độ tôi đã muốn giết cô ta.
Ở các trường dự bị và trung học công lập Anh, chuyện yêu đương nhất thiết phải là đồng tính. Giới tính kia bị khinh bỉ và bị xem như sự gì đó nhơ nhuốc. Nhiều cậu chẳng bao giờ nắn lại sự lệch lạc ấy được. Hễ cứ một người sinh ra đồng tính, thì có ít nhất mười người ngụy đồng tính do hệ thống trường công lập tạo ra: chín trong mười người đó thì đều khiết bạch và đa cảm như tôi từng.
Tôi rời trường bán trú tại Wimbledon vì cha tôi cho rằng trình độ dạy học ở đó không đủ cao để giúp tôi giành học bổng vào trường công. Ông gửi tôi vào một trường dự bị khác ở Rugby, vợ ông hiệu trưởng trường này tình cờ là chị của một người bạn văn cũ ông quen. Tôi không ưa chỗ này. Có một bí ẩn nào đó về ông hiệu trưởng mà chỉ những học sinh lớn biết với nhau – một bí ẩn hung hiểm. Không ai cho tôi biết, nhưng một hôm ông bước vào lớp, vừa đấm đầu mình vừa rên: “Giá mà mình không làm vậy! Giá mà mình không làm vậy!” Cha đột ngột rút tôi khỏi trường ngay tuần thứ hai. Ông hiệu trưởng, bị buộc phải rời nước trong vòng hăm bốn tiếng, được thay thế bằng ông thứ hai – một thiện nhân, từng dạy tôi viết văn Anh bằng cách bỏ hết những cụm nào có thể bỏ được, và dùng động cùng danh từ thay cho tính và trạng từ ở bất cứ chỗ nào có thể. Và khi nào thì nên bắt đầu viết một đoạn mới, đâu là khác biệt giữa “O” với “Oh”. Ông Lush là một người rất nặng ký, xưa thường đứng bên bàn giáo viên và đằng tay lên bàn cho đến khi các ngón hợp thành một góc nhọn nào đỡ nổi ông. Một đôi tuần sau khi đảm nhiệm ngôi trường, một lần xuống tàu hỏa, đầu ông ngã xuống mặt đất trước, và đời ông như vậy đã xong; nhưng ngôi trường ấy dường vẫn còn. Thi thoảng tôi vẫn được mời quyên góp cho quỹ Cựu Học sinh, chi cho các cửa kính tưởng niệm hoặc sân tập bắn súng mini, v.v.
Tôi học chơi bóng bầu dục lần đầu tại đây. Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất ấy là khi một cậu nọ chừng mười hai tuổi, có cha và mẹ cư trú ở Ấn Độ, nhận qua điện tín tin cha mẹ mình đều chết bất đắc kỳ tử vì dịch tả. Bọn tôi đều thông cảm mà canh chừng cậu suốt mấy tuần liền sau đó, trông xem cậu có chết vì đau buồn, hay mặt mày có biến sắc, hay làm gì đó kịch tính cho vừa sự biến hay không. Vậy mà cậu dường cứ bất động như không, và bởi chẳng ai dám lạm bàn bi kịch ấy với cậu, cậu cứ tỉnh bơ – vẫn chơi đùa, vẫn nghịch phá như bao giờ. Chúng tôi thấy chuyện ấy quái đản thì đúng hơn. Nhưng cậu đã hai năm không gặp cha mẹ mình; và lũ trai trường dự bị thì sống trong một thế giới tách rời biền biệt khỏi đời sống gia đình. Chúng có một lớp từ ngữ riêng, một hệ luân lý riêng, đến cả giọng cũng riêng nốt. Mỗi lần quay lại trường sau kỳ nghỉ, quá trình biến đổi từ con người ở nhà sang con người ở trường diễn ra gần như chỉ trong chớp mắt, còn như muốn biến ngược lại thì tốn ít nhất phải hai tuần. Một học sinh trường dự bị, nếu chẳng may bị bắt chợt, sẽ gọi mẹ mình là “Xin phép, thưa bà quản,” và luôn gọi bất kỳ người nam nào trong nhà hoặc bạn hữu với gia đình là “Thưa ông”, như gọi thầy. Tôi cũng từng vậy. Đời sống ở trường hóa nên thực tại, và cuộc sống ở nhà là ảo ảnh. Ở Anh, cha mẹ thuộc tầng lớp thống trị gần như mất trắng tình thân với con từ độ chúng lên tám, và bất cứ gắng gượng nào đặng thổi chút cảm giác gia đình vào trường đều bị hắt lại.
Kế đến tôi sang Copdiorne, một trường tốt điển hình ở Sussex. Vị hiệu trưởng lúc đầu còn nhón tay không muốn nhận tôi, phần vì tuổi, phần vì tôi đến từ một ngôi trường mới có bê bối. Nhưng rồi các mối quan hệ văn chương trong gia đình đã đỡ lấy tôi, và hiệu trưởng thấy rằng tôi vẫn có thể giành được học bổng nếu ông chịu khó với tôi chút. Tình trạng buồn chán tôi mang theo liền chấm dứt ngay khắc đặt chân đến đây. Em Charles tôi cũng được đưa từ trường bán trú ở Wimbledon vào đây học; và sau đó là út John, từ nhà vào. Ngôi trường này tốt và điển hình ra sao thì có thể thấy rõ ở ca của John – một con người tốt lành, bình thường, điển hình, như tôi vừa nói, từ nhà vào thẳng đây. Cậu học năm sáu năm gì đấy ở Copthorne – chơi trong đội thể thao mười một người – giành học bổng hạng tốp ở trường công, trở thành trưởng trường với thể thao làm nên sự ưu tú, đoạt học bổng Oxford và thêm nhiều thành tích thể thao nữa – kèm một bằng giỏi – rồi cậu làm gì nữa đây? Là một người thường, tốt điển hình như thế, dĩ nhiên cậu phải quay về làm thầy ở chính ngôi trường dự bị xưa kia của mình, và nay, sau mấy năm làm việc và cần được đổi gió, cậu đang nộp đơn vào làm giáo viên tại chính trường công lập xưa kia của mình. Nếu được nhận, và nên chủ nhiệm sau một vài năm, cuối cùng cậu sẽ, tôi đoán, thành hiệu trưởng và đi bước cuối là đứng đầu trường cũ của mình tại Oxford. Đấy, trường dự bị điển hình là kiểu như thế đấy.
Tại đây tôi học cách cầm chắc gậy cricket, và phải có một lương tri cao; và học được cách phát âm tiếng Latin lần thứ năm, và cách làm toán số sơ cấp lần thứ sáu thứ năm gì đó. Họ cho tôi vào lớp hạng đầu, và tôi giành được một học bổng – thực ra là học bổng đầu tiên trong năm. Của trường Charterhouse. Vì sao lại là tại Charterhouse? Vì hai từ íστημι và íημι. Charterhouse là trường công duy nhất có kỳ thi học bổng không thi ngữ pháp Hy Lạp và, dù đủ thôngsáng ở môn dịch Hy ngữ không minh họa trước và viết Hy ngữ, tôi không thể chia hai động từ íστημι và íημι theo cách truyền thống được.[7] Không vì hai động từ này thì tôi đã vào được bầu khí hậu khác hẳn của Winchester rồi.
4
Mẹ đưa chúng tôi đi ra ngoài nước để đến nhà ông ngoại bên Đức ở năm lần từ khi tôi lên hai cho đến năm mười hai tuổi. Rồi ông mất, chúng tôi không bao giờ sang đó nữa. Ông sở hữu cả một tòa trang viên cổ lớn ở Deisenhofen, cách Munich mười dặm; tòa ấy tên “Laufzorn”, nghĩa là “Biến đi, sự giận!” Hè ở đây là điều tuyệt nhất của tuổi ấu thơ tôi. Rừng thông và nắng cháy, hươu đỏ, sóc đỏ sóc đen, mấy mẫu dâu dại cùng việt quất; chín mười loại nấm ăn được mà chúng tôi thường vào rừng hái, và nhiều loài hoa lạ trong đồng – Munich nằm trên cao, và thi thoảng có mấy khóm hoa núi Alps mọc xen đây đó; một nông trang với đủ loại thú vật thường thấy ngoại trừ cừu; những chuyến brake dong qua miền quê đằng sau đôi ngựa xám của ông; và tắm trong dòng Isar ngay dưới thác nước. Dòng Isar sáng sắc lục, mệnh danh là dòng xiết nhất châu Âu. Chúng tôi từng đến thăm mấy người cậu cùng nuôi một chú công trong trại cách xa mấy dặm; và một ông-cậu, Johannes von Ranke, nhà dân tộc học, sống ven hồ Tegernsee, nơi tóc mọi người đều vàng một màu mao lương; có mấy lúc lại đi thăm dì Agnes, Freifrau Baronin von Aufsess[8] của Lâu đài Aufsess, nằm sâu trên dãy Alps vùng Bavaria, cách vài giờ tàu hỏa.
Aufsess, xây hồi thế kỷ thứ chín, nằm hun hút sâu đến độ chưa bị cướp phá một lần nào từ bấy, và vẫn thuộc về gia sản nhà Aufsess đến nay. Từ cốt một tòa tháp canh, vốn chỉ có một chiếc thang làm thành lối vào, một lâu đài trung cổ đã được đắp lên. Từ chỗ bảo vật bạc sáng đến khôi giáp ở đó mới tuyệt biết dường nào. Cậu Siegfried dẫn lũ trẻ chúng tôi đến nhà nguyện: trên các vách treo khiên pháp lam của từng vị nam tước nhà Aufsess, phối với huy hiệu của từng dòng quý tộc mà những vị ấy kết hôn. Cậu chỉ xuống một phiến đá có khoen móc dưới sàn, rồi bèn rằng: “Đó là hầm mộ gia tộc, nơi tất cả người nhà Aufsess sẽ đến khi họ đã đi. Cậu cũng sẽ xuống dưới vào một ngày nào đó.” Rồi cậu nhăn mặt làm điệu ma quái. (Nhưng sau này cậu tử trận trong quân đội Đế quốc Đức và tôi tin là đã mất xác không ai tìm ra.) Cậu Siegfried có khiếu hài rất lạ. Một hôm bọn trẻ nít chúng tôi thấy ông trên lối vườn, đang ăn sỏi. Cậu xua chúng tôi đi chỗ khác, nhưng dĩ nhiên bọn tôi ở lại, ngồi phịch xuống, và cũng cố ăn sỏi theo; để rồi bị cậu răn rằng trẻ con thì không nên ăn sỏi: chúng sẽ làm vỡ răng. Bọn tôi tán thành, sau khi thử một hai viên; thế rồi cậu chọn cho mỗi đứa một viên, trông viên nào cũng như viên nấy, nhưng dễ vỡ và còn có sô cô la trong nhân. Với điều kiện phải biến hút đi, để cho cậu vừa rà tìm sỏi vừa rồm rộp chúng. Lối chiều, chúng tôi trở lại, bọn tôi cứ bới và tìm mãi, nhưng chỉ thấy toàn sỏi cứng. Cậu chưa bao giờ làm chúng tôi thất vọng với những miếng đùa.
Trong số bảo vật ở lâu đài còn có một chiếc mũ đăng ten em bé ngốn hai năm để làm ra; và một ly uống vang mà thân phụ già của cậu tôi để ý thấy trong chiến tranh Pháp – Phổ, nguyên thân thẳng dáng đứng giữa quảng trường một ngôi làng Pháp đã tan. Mỗi lần đến dùng bữa tối, chúng tôi ăn đến mấy con cá hồi dẫy thây. Cha tôi, một tay câu lão luyện, sững sờ hỏi cậu chúng đến từ đâu. Cậu giải thích rằng có một dòng sông ngầm phát lộ kề ngay lâu đài, cá từ trong đó bơi ra thì trắng bềnh bệch vì sống trong bóng tối, thân hình cực lớn và mắt thì mù căm.
Họ cũng cho bọn tôi ăn mứt tầm xuân dại, thứ họ gọi là “Hetchi-Petch”[9], và cho xem một chiếc rương sắt trong một căn phòng nhỏ, vách dày, trắng vôi ở trên cùng tháp canh – một cái rương to tướng, to gấp đôi cửa vào, và hiển nhiên là đã được đóng ngay trong căn phòng không có cửa sổ nào ngoài những khe bắn tên ấy. Chiếc rương cần hai chìa, và hẳn phải là tạo phẩm của thế kỷ mười hai mười ba. Cổ lệ định rằng rương không được mở, trừ phi lâu đài trong thế tột cùng nguy nan. Nam tước giữ một chìa; quản gia chìa còn lại. Rương chỉ mở được khi dùng cả hai, không một ai biết bên trong chứa gì; thậm chí người ta còn cho là sẽ gặp xui xẻo nếu cố đoán mò. Cố nhiên, chúng tôi vẫn đoán. Có thể là vàng; hơn là đựng mấy vò ngũ cốc niêm kín; hoặc thậm chí là một món vũ khí – lửa Hy Lạp chẳng hạn. Theo những gì tôi biết về nhà Aufsess cùng các quản gia của họ, thật khó tin là cái rương ấy lại thắng được tính tò mò của họ. Một hồn ma vất vưởng trong lâu đài, của một vị nam tước xưa kia gọi là “Hồng Kỵ Sĩ”; bức chân dung hãi hùng của ông treo giữa lối cầu thang lên phòng ngủ chúng tôi. Lần đầu tiên trong đời chúng tôi được ngủ trên giường đệm lông vũ.
Laufzorn, nơi ông ngoại tôi mua và tu bổ lại từ đống đổ nát, chẳng thể đem ra so về bề dày truyền thống với Aufsess, dầu có một thời làm nhà nghỉ săn của các vua Bavaria. Song, vẫn có hai hồn ma gắn liền với nơi ấy, các tá điền vẫn thường bắt gặp chúng. Một trong số đó là cỗ xa không mã lao phóng điên cuồng và, vào thời chưa có xe hơi, bấy nhiêu thôi cũng đã đủ kinh khiếp. Đã lâu không đặt chân vào sảnh yến, tôi không sao nhớ nổi kích thước đúng của nó. Dường rộng ngang nhà thờ chính tòa, với cửa sổ kính màu ghép hình giáp huy, sàn lát gỗ trơ với bốn cụm bàn ghế kê trong bốn góc; lũ én làm hàng tổ dọc theo viền tường với trần. Những vệt màu tròn từ cửa kính hắt xuống bừng lên trên sàn, những bộ gạc nai nhiều chạc (do ông tôi bắn hạ) giá trên các tường, phân én rải dọc dưới tổ, và một cây harmonium kê trong góc cho chúng tôi hát những bài tiếng Đức. Đó là những gì kết thành ký ức về Laufzorn của tôi. Tầng trệt làm thành một phần của trang trại. Đường xa mã đi chạy xuyên qua nó, dẫn vào một sân rộng, che lại ở trung tâm, nơi xưa kia gia súc được lùa vào lánh những lần lãnh chúa giao tranh. Một bên đường ấy là khu ở của quản gia điền trang, bên kia là chỗ trọ của gia nhân và nhà bếp. Tầng giữa là nơi ông ngoại và gia đình sống. Trên cùng dùng để chứa ngũ cốc, táo, và các nông phẩm khác; và trên đây, anh họ Wilhelm tôi – sau này bị bạn học tôi bắn rơi trong một trận không chiến – thường nằm hàng giờ rình bắn chuột bằng súng hơi.
Đồ ăn Bavaria có một độ ngậy và cay thơm mà bọn tôi luôn nhớ mỗi lần về lại Anh. Chúng tôi ưng bánh mì đen, mật ong thông đen, những bánh pudding kem lạnh khổng lồ đẫy đà rưới cốt mâm xôi tươi phủ tuyết trữ từ hầm băng, thịt nai ông ngoại săn, bánh ga tô mật ong, các loại bánh mứt nướng, và nhất là món sốt nấu từ đủ thứ nấm khác nhau. Còn có pretzel, cà rốt rim đường, pudding mùa hè từ nam việt quất và việt quất xanh. Ngoài vườn ăn quả ngay vách nhà bọn tôi muốn ăn táo, lê, mận xanh bao nhiêu cũng được. Lại còn có lý chua đen và phúc bồn tử trắng mọc san sát nhau ngoài rẫy. Điền trang, dù ông ngoại nhận quyền sở hữu chưa lâu, lại còn theo chủ nghĩa tự do và có nhiều thử nghiệm về phương pháp canh nông hiện đại, vẫn cứ giữ nguyên tính phong kiến. Những tá điền nghèo khó, đầm đìa mồ hôi, vẻ man di, nói thứ phương ngữ chúng tôi không hiểu, làm bọn tôi kinh sợ. Thứ bậc họ còn thấp hơn đàng gia nhân; còn đám khách trú người Ý, định cư cách trang viên tầm nửa dặm, những người ông ngoại tôi thuê làm nguồn lao động giá rẻ cho xưởng gạch – làm chúng tôi liên tưởng đến “những người gypsy trong rừng” của một bài ca nọ. Một hôm nọ ông đưa chúng tôi đi coi xưởng và bắt tôi nếm một cục polenta Ý. Sau này – tại Wimbledon, khi món cháo sữa được dọn lên nhưng bị cháy, và bọn tôi ca cẩm – mẹ bèn bảo chúng tôi rằng “Mấy ông Ý nghèo ở xưởng gạch ông ngoại các con thi thoảng còn cố ý làm cháy polenta để đổi vị cho đỡ ngán kia mà.”
Xa xa ngoài dãy nhà trại ở Laufzorn có một ao lớn, ven bờ mọc đầy diên vĩ, cá chép đầy ao; các ông cậu tôi cứ ba bốn năm lại thả lưới một lần để bắt chúng. Một lần bọn tôi đứng xem cuộc vui và reo lên mỗi khi tấm lưới được kéo lại một gần nơi góc cạn mà kéo lên bờ. Lưới phồng căng với lũ chép quẫy đập, giữa chúng là cả một con cá chó lớn giãy giụa. Tôi lội ra phụ kéo, lội vào với sáu con đỉa đính chặt vào chân, trông như mấy tuýp cao su đen sì; phải lấy muối xát vào chúng mới chịu nhả ra. Mấy người tá điền phấn khích hết cả lên; có người còn lấy ngón cái moi ruột mang con cá ra rồi ăn sống ngay tại chỗ. Tôi cũng còn nhớ đường cho tàu kéo nối đến ga xe lửa cách đó hai dặm cùng xưởng gạch. Vì đất vùng ấy dốc đâu chừng một phần trăm từ xưởng đến ga, đám người Ý đành phải chất gạch lên khoang, rồi cả toán mới dồn sức đẩy và chạy trên đường ray chừng hai mươi ba mươi yard, sau đó các khoang tàu cứ tự trôi một mạch về ga.
Chúng tôi được phép trèo lên tận xà mái trong kho rơm, rồi nhảy xuống đống cỏ tươi mềm; từ từ chúng tôi tăng độ cao nhảy lên. Cảm giác nội tạng mình bị bỏ lại trên không mới thật là thích chí. Lần nọ chúng tôi vào hầm rượu Laufzorn, không phải hầm bia thường, mà là một hầm khác, xuống bằng lối sân trong – tối mịt, chỉ có độc một khe cửa sổ nhỏ. Một đống khoai tây chất trên sàn; để đón được sáng, chúng thò trắng ra cả mớ rễ búi ngoằn ngoèo. Góc nọ có một cái hố tối bị chặn bằng một cánh cổng: một lối đi bí mật dẫn từ trang viên đến một tu viện đổ nát cách đó một dặm – chúng tôi được kể cho biết như thế. Mấy ông cậu tôi từng xuống được một quãng, nhưng rồi không khí trở xú uế hẳn đi và họ đành phải quay lại. Giờ nghĩ lại, hẳn là họ đã trêu bọn tôi, và hố ấy thực ra là thông xuống đáy garde-robe – cách gọi lịch sự cho bể phốt thời trung cổ.
Mỗi lần chúng tôi lên xe ngồi cạnh ông ngoại để ra ngoài, hễ cứ ngang qua làng nào là ông được các vị chức sắc của từng làng ấy trọng vọng chào to “Grüss Gott, Herr Professor!”[10] Làng nào cũng có một quán trọ lớn với hành lang đánh skittle ầm ầm, cùng một cây nêu tháng Năm cao, sơn sọc xanh trắng như cột hiệu barber, màu quốc kỳ Bavaria. Cây táo cây lê dọc đều cả hai bên đường. Cái ý trồng cây ăn quả nhưng không rào không chắn làm chúng tôi sững sờ; không hiểu sao quả vẫn cứ còn nằm trên cây. Ở Wimbledon Common, đến cả cây dẻ ngựa cũng bị người ta khèo hái với đá hoặc sào tới tấp trước khi hạt chín, chẳng màng ông quản can ngăn. Thứ chúng tôi ít ưng nhất ở Bavaria là những cây thánh giá Chúa dựng ven đường với máu và vết thương họa y hệt thật, với các bức ex-voto tựa hồ biển hiệu, vẽ cảnh các linh hồn trần truồng trong luyện ngục, nhăn nhó vì cơn thống khổ giữa những lửa đỏ lửa vàng ngút cao. Tuy được dạy phải tin Địa Ngục, chúng tôi chẳng ưa gì việc bị nhắc nó đến tai.
Chúng tôi thấy Munich rợn rùng – mùi bia nhợn ớn và khói xì gà, tiếng nhồm nhoàm ăn uống ầm ĩ trong các quán; dân chúng ăn vận nóng nực, thân hình to mẫm nghịt trên các xe điện và tàu hỏa; bọn công chức dữ tợn. Rồi cái Nhà xác khủng khiếp, trẻ con không được phép vào. Hễ nhân vật tiếng tăm nào chết thì sẽ được đưa đến đó, người ta bảo, đặt lên một chiếc ghế, ngồi chễm chệ trong một hai ngày. Nếu tướng lĩnh thì cho mặc quân phục; còn như vợ thị trưởng thì vận cho lụa là và sức châu báu. Một sợi dây sẽ được buộc vào mỗi ngón tay, và chỉ một chuyển động se sẽ của bất cứ sợi nào thôi cũng sẽ giật cho một chiếc chuông lớn vang lên, phòng khi trong cái xác vẫn còn chút sự sống yếu nhạt. Tôi chưa kiểm chứng sự thật ấy bao giờ, nhưng tôi của hồi ấy thấy cũng phải lẽ lắm. Khi ông ngoại mất, chừng một năm sau chuyến thăm cuối, tôi hình dung ông ngồi trong Nhà xác với mái tóc trắng rậm, vận áo khoác mặc sáng, quần sọc dài, các loại huy chương, và ống nghe của ông. Và có lẽ, tôi nghĩ, còn thêm một mũ chóp lụa, đôi găng tay với gậy chống đặt trên bàn kề bên. Gắng, trong một cơn ác mộng, gượng sống; nhưng biết mình đã chết.
Ông hiệu trưởng trường Rokeby xưa kia phạt roi tôi vì quên giày thể dục mê văn hóa Đức, và ấn cái cảm tình ấy lên ngôi trường, khiến tôi được nể vì biết nói tiếng Đức và từng đến nước Đức. Ở các trường dự bị khác, mối liên hệ Đức này dường như một lời biện hộ, thậm chí còn đáng quan tâm. Chỉ riêng Charterhouse mới xem nó như điều xúc phạm xã hội. Từ năm mười bốn, năm tôi vào Charterhouse, cho tới ngay trước lúc chiến tranh kết thúc, khi tôi bắt đầu biết nghĩ cho bản thân, lịch sử của tôi tuyền là một thiên gồng mình chối bỏ phần Đức nội tại mình. Tôi từng kịch liệt khăng khăng mình là người Ireland, và dựng rào tự vệ bằng cái luận điểm cứng nhắc rằng chỉ mỗi nguyên quán cha mới được tính mà thôi. Lẽ dĩ nhiên, tôi cũng chấp nhận toàn bộ hệ thống phụ hệ, tin vào sự ưu việt tự nhiên của con đực trước con cái. Mẹ tôi nghiêm túc lĩnh vào mình ba đức “yêu, kính, vâng”; các chị tôi được dạy rằng phải mong cho bản thân mình được như con trai, phải biết lấy làm ghê tởm trước cái ý về quyền ưu tiên cho phụ nữ, và không được mong mình học một nền giáo dục đắt đỏ như các em trai. Hẳn mẹ tôi sẽ nói: “Hai người cưỡi cùng một ngựa, một người ắt phải ngồi sau.”
Bọn trẻ chúng tôi không nói tiếng Đức trôi chảy; giống và những loại tiểu từ thì lúng túng, lại chẳng bao giờ học đọc chữ Gothic hay thảo tay. Song cảm quan tiếng Đức lại mạnh đến độ tôi thấy mình rành tiếng Đức còn hơn tiếng Pháp, dầu đọc tiếng Pháp nhanh chẳng kém tiếng Anh, còn Đức thì phải lần mò từng chút một, khổ sở trườn lết với cuốn từ điển kẹp theo. Tôi dùng những phần khác nhau của trí óc cho hai ngôn ngữ này. Tiếng Pháp là một thứ học thuộc bề mặt tôi dễ quên ngay nếu không có dịp nào để nói.
Gia Hải dịch
[1] Nguyên văn: temperance societies. Hội tiết độ - Những tổ chức phổ biến ở Anh và Mỹ vào thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, chủ trương kêu gọi từ bỏ rượu hoặc hạn chế tiêu thụ rượu vì lý do đạo đức, xã hội hoặc tôn giáo. (ND)
[2] Bao dung. Tiếng Đức trong nguyên văn. (ND)
[3] Lê-vi Ký 16:22. (ND)
[4] Ở đây ý Graves muốn nói đến các yêu cầu mà người ta thường đòi ở các nhà văn, hoặc người có tiếng tăm nói chung, chẳng hạn như: liệu anh có thể – tặng cho dăm bản, giải thích ý nghĩa, ký vài quyển, hồi âm,... – được không? Graves có ý mỉa mai. (ND)
[5] Nguyên văn: dame’s school. Trường nhỏ do phụ nữ đứng lớp. (ND)
[6] Thực ra câu trả lời này rất ngớ ngẩn, dựa trên định kiến. Từ “Briton” bắt nguồn từ tiếng Latin Britanni, vốn chỉ các bộ tộc bản địa trên đảo Anh được người La Mã ghi chép lại, có thể có nguồn gốc từ từ Pritani trong tiếng Celt, nghĩa là “người của vùng có hình loang lổ” – ám chỉ hình dáng quần đảo Anh hoặc tục tô vẽ cơ thể bằng thuốc nhuộm (màu chàm từ cây woad). Tuy nhiên, việc gán cái tên “Briton” vì họ “vẽ người màu chàm” là sai từ logic nhân quả: tục vẽ mình chỉ là một đặc điểm văn hóa, không phải nguyên nhân ngôn ngữ của tên gọi. (ND)
[7] íστημι (phát âm: hĭ́stēmĭ; có nghĩa làm đứng, dựng lên) và íημι (phát âm: phát âm: hī́ēmĭ; có nghĩa phóng đi, thả ra) là hai động từ thuộc loại bất quy tắc và cực kỳ phức tạp trong tiếng Hy Lạp cổ. Chúng được gọi là “verba mi”, tức các động từ kết thúc bằng -μι ở ngôi thứ nhất hiện tại chủ động – vốn có hệ chia động từ riêng biệt và rất khác với động từ -ω thông thường. Việc ghi nhớ toàn bộ các thì, thể, và cách của ἵστημι và ἵημι đòi hỏi khả năng thuộc lòng cao và vốn ngữ pháp tinh vi. (ND
[8] Tức Phu nhân Nam tước von Aufsess. Tiếng Đức trong nguyên văn. (ND)
[9] Rất có thể là phiên âm từ Hetschepetsche hoặc Hetschipeh – quả tầm xuân – trong tiếng Đức. (ND)
[10] Nghĩa là: “Chào Chúa, ngài Giáo sư!”. Tiếng Đức trong nguyên văn.