favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2024
Next

Elsa Morante và Alberto Moravia

23/02/2025 22:42

Carmela Ciuraru quan tâm và đi sâu vào các nhân vật văn chương từ khía cạnh cuộc đời. Có lúc đó là những người đơn lẻ, nhưng trong Lives of the Wives: Five Literary Marriages mối quan tâm ấy được hướng vào những cuộc đời chung, những cuộc đời nhân hai. Sẽ là như thế nào nếu cả hai vợ chồng đều là nhà văn? Chuyện hoàn toàn có thể hết sức thảm khốc, như đối với Scott Fitzgerald và Zelda (mà cuốn sách của Ciuraru không lấy làm đối tượng). Elsa Morante và Alberto Moravia, cặp vợ chồng danh tiếng của văn chương Ý, là một trong năm cặp làm nên cuốn sách của Carmela Ciuraru, trong đó cũng nhắc đến một số người khác, chẳng hạn như Natalia Ginzburg (cuốn sách còn kể về Roald Dahl hay Kingsley Amis).

Chương về Elsa Morante và Alberto Moravia dưới đây do Thanh Nghi dịch, đăng trên Văn Bản với sự cho phép của tác giả và nhà xuất bản đã in bản gốc tiếng Anh của cuốn sách (HarperCollins).
 

Elsa morante và Alberto Moravia

- Carmela Ciuraru

“Các cặp đôi văn chương đúng là một tai họa.”

Elsa Morante nảy ra một ý. Khi ấy là năm 1938. Ở Rome, Hitler và Mussolini chuẩn bị diễu hành ngang qua căn hộ của bà trên một chiếc limousine mui trần. Elsa đun sôi nồi dầu trên bếp, định mở cửa sổ rồi đổ thẳng xuống đầu họ khi họ đi qua. Người tình của bà, nhà văn Alberto Moravia, lúc đó đã bên bà được một năm, ngăn bà lại. Đó là một ý tồi.

Bảy năm sau, Hitler và Mussolini đều đã chết: Hitler tự sát, còn Mussolini bị xử bắn, thi thể ông ta bị kéo đến quảng trường Piazzale Loreto ở Milan, nơi đám đông túm tụm lại đấm đá, giẫm đạp và phỉ nhổ. Khi đó, Elsa đang sống cùng Moravia, người đã sớm đạt được thành công và danh tiếng trong giới văn chương vào năm 1929 với việc phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Gli indifferenti - bắt đầu viết từ khi mới mười tám tuổi và được xuất bản với sự tán dương rộng rãi khi ông hai mươi mốt tuổi. Cuốn sách, một lời công kích sắc bén vào tầng lớp tư sản Rome, đã định vị ông là tiểu thuyết gia hàng đầu của nước Ý và đến nay vẫn được nhiều người xem là tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Tác phẩm được tái bản bốn lần trước khi có ấn bản thứ hai vào năm 1934. Nhiều thập kỷ sau, Moravia nhớ lại thành công ấy, chẳng hề giấu giếm sự tự hào, “Đó là một thành công vang dội. Thực tế, đó là một trong những thành công vĩ đại nhất của văn chương Ý hiện đại. Phải nói là vĩ đại nhất; và tôi có thể khẳng định điều này bằng toàn bộ sự khiêm tốn,” ông tuyên bố. “Trước đó chưa từng có thứ gì tương tự. Chắc chắn, trong suốt năm mươi năm qua, không có cuốn sách nào được đồng lòng và hào hứng đón nhận đến thế.”

Tiểu thuyết La mascherata (sau này được xuất bản bằng tiếng Anh với nhan đề The Fancy Dress Party), với hình tượng đầy đùa cợt một nhà độc tài tại một quốc gia giả tưởng ở Mỹ Latinh, được viết vào năm 1941 và nhanh chóng bị chế độ phát xít cấm lưu hành. Báo chí khi ấy bị cấm không được đặt bài ông, buộc ông trong nhiều năm phải sáng tác dưới bút danh Pseudo. Ông là một kẻ đang gặp rắc rối. Elsa và Alberto buộc phải lẩn trốn vào mùa hè năm 1943, khi chính quyền đưa Alberto - vốn mang nửa dòng máu Do Thái từ cha - vào danh sách truy nã. Dưới thời Mussolini, mọi bản thảo đều phải nộp lên Bộ Văn hóa Đại chúng để kiểm duyệt, trong khi người Do Thái bị trục xuất khỏi quân đội, hải quân và mọi vị trí trong chính quyền, đồng thời bị cấm xuất bản sách. “Kiểm duyệt là một thứ khủng khiếp! Và một khi đã bén rễ, nó dai như cỏ dại!” Alberto nói. “Kiểm duyệt là một con quái vật, một con quái vật đích thực!”

Cũng như như Alberto, Elsa sinh ra ở Rome và, cũng như ông, bà có một trong hai thân sinh là người Do Thái. Mẹ bà, Irma Poggibonsi, là một giáo viên xuất thân từ gia đình Do Thái ở Modena, kết hôn với một người đàn ông gốc Sicilia, Augusto Morante, làm việc tại trường giáo dưỡng dành cho nam sinh. Sau khi gia đình mất đi một người con trai, Mario, chỉ ít lâu sau khi chào đời, Elsa trở thành con cả, trên các em Aldo, Marcello và Maria. (Có lẽ vì luôn luôn bị ám ảnh bởi sự thiếu vắng của Mario, Elsa thường nói rằng bà ước mình được sinh ra là con trai.) Irma thường xuyên chế giễu và sỉ nhục chồng, bắt ông phải ăn cơm một mình và ngủ dưới tầng hầm. Lý do duy nhất khiến bà không rời bỏ Augusto là vì bà tin rằng ông sẽ tự sát, vì vậy hẳn bà đã cảm thấy điều gì đó giống như sự nhẹ nhõm khi ông lâm bệnh và qua đời sau Thế chiến thứ hai. Chỉ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời cô độc và đau khổ ấy, Irma mới quăng cho ông vài mẩu vụn của lòng trắc ẩn - cho phép ông rời tầng hầm để ngủ trên chiếc ghế sofa phòng khách, nơi ông trút hơi thở cuối cùng. Sự bất lực của Augusto đồng nghĩa với việc ông chỉ là cha trên danh nghĩa của những đứa trẻ. Bố ruột của chúng là một người bạn của gia đình, một nhân viên bưu điện gốc Sicilia điển trai tên là Francesco Lo Monaco. Elsa đã sớm đoán ra bí mật ấy trước khi Irma chính thức thú nhận sự thật với các con.

Bầu không khí trong gia đình Morante lúc nào cũng ảm đạm và căng thẳng. Lũ trẻ sống trong nỗi sợ hãi trước người mẹ khó lường, lúc thì nổi cơn thịnh nộ, khi lại buông lời chỉ trích không ngớt. Việc phải làm giáo viên toàn thời gian trong khi một tay nuôi bốn đứa con, nấu nướng, dọn dẹp, giặt ủi, lo toan đủ thứ hóa đơn có lẽ khiến bất kỳ ai cũng sớm hóa điên. Với Irma, một phần nỗi cay đắng và giận dữ mà bà mang trong mình bắt nguồn từ ước mơ bất thành, trở thành nhà văn. Để tự thỏa mãn giấc mơ ấy, bà thích sáng tác thơ và lời bài hát, thậm chí từng đăng một truyện ngắn trên một tạp chí của Ý. Về sau, Irma sống gián tiếp qua Elsa, đứa con mà bà ghen tị, và bà đặt lên con gái một áp lực to lớn phải thành công.

Hai đứa con út, Marcello và Maria, sớm nhận ra rằng Irma thiên vị Aldo và Elsa hơn, và họ đã đúng. Bà ít yêu họ hơn. Elsa đặc biệt được dành cho một căn phòng riêng, nơi cô bé có thể rút vào để tránh các cuộc cãi vã trong gia đình và viết không ngừng nghỉ. Xét đến những tham vọng văn chương dang dở của Irma, chẳng có gì lạ khi bà đặt tất tật kỳ vọng vào Elsa và quyết tâm thấy con gái đạt được vinh quang. Tài năng của Elsa cũng được nâng đỡ bởi mẹ đỡ đầu giàu có của cô, một quý tộc tên là Donna Maria Guerrieri Gonzaga, người thường mời cô đến ở tại biệt thự tuyệt đẹp của bà ở khu Tây Bắc Rome.

Việc liên tục di chuyển giữa căn nhà tồi tàn của gia đình Morante và dinh thự xa hoa của Donna Gonzaga đã giúp Elsa sớm hình thành khả năng chuyển dịch linh hoạt giữa các thế giới - giàu sang và nghèo khổ, hào nhoáng và khốn cùng. Hơn nữa, kinh nghiệm ấy đã hun đúc khả năng tái hiện những xung đột giai cấp trong các tác phẩm sau này của Morante. Ngay từ năm lên năm, cô bé giàu trí tưởng tượng ấy đã viết thơ bằng nét chữ nhỏ, gọn gàng và vẽ những bức tranh có độ chi tiết đáng kinh ngạc. Elsa không theo học tiểu học, nhưng cô bé hau háu trước sách vở, luôn khao khát đọc, say mê sáng tạo nên những câu chuyện và trò chơi. Một tuyển tập những truyện thiếu nhi kỳ ảo của bà, được viết khi còn niên thiếu, sẽ được xuất bản (cùng với các minh họa của bà) khi bà gần ba mươi tuổi: Le bellissime avventure di Caterì dalla trecciolina e altre storie. Khi còn là một cô bé, bà yêu thích thơ của Baudelaire và tự học tiếng Pháp để đọc chúng.

Năm 1922, khi theo học trung học cơ sở, Elsa viết vở kịch đầu tiên của mình. Hiệu trưởng, kinh ngạc trước một tác phẩm xuất sắc do một đứa trẻ viết, đã gọi bà là một “thiên tài”. Elsa không phải là cô gái được yêu thích trong trường, và chính bà cũng tự thấy mình xấu xí. Thế nhưng, bà là một học sinh xuất sắc và bạn bè mong muốn được bà quý mến. (Họ mang kẹo và sô la đến tặng Elsa, hy vọng bà cho chép bài.) Bà tiếp tục theo học tại một trong những trường trung học hàng đầu ở Rome, Visconti e Mamiani, nơi bà học tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh, và một lần nữa thể hiện sự xuất sắc trong học tập. Năm mười tám tuổi, bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên trên Corriere della Sera, một trong những tờ báo lâu đời nhất và có lượng độc giả lớn nhất ở Ý. Thay vì theo học đại học, Elsa quyết định bỏ nhà và tự lập thân trên con đường trở thành một nhà văn. (Trong những năm đầu viết tiểu thuyết, bà từng khẳng định Kafka là nhà văn duy nhất có ảnh hưởng đến bà, nhưng về sau bà quay lưng với Kafka và say mê Stendhal.) Không chỉ từ chối tiếp tục việc học, Elsa còn khước từ một công việc giảng dạy ổn định với mức lương đảm bảo.

Quyết định ấy đẩy Elsa vào cảnh cảnh cô độc, bà thuê một căn phòng chật chội gần Piazza Venezia. Bà chật vật kiếm sống bằng cách dạy kèm tiếng Ý và bắt đầu xuất bản thơ cùng truyện ngắn trên nhiều tạp chí khác nhau (một số trong đó bà viết dưới bút danh Antonio Carrera). Bà nghèo đến mức thường xuyên không có đủ cái ăn. Và bà cô độc tới nỗi từng gọi đến số điện thoại báo giờ chỉ để nghe giọng của một con người.

Những năm sau đó là một cuộc vật lộn đối với Elsa, cả về tài chính lẫn tinh thần. Bà trải qua nhiều mối tình, nhưng chúng đều không kéo dài. Một buổi tối mùa xuân năm 1937, Elsa đi ăn tối cùng bạn bè, và trong nhóm có Alberto - một kẻ đào hoa có tiếng. Theo lời kể của ông về cuộc gặp giữa họ, khi bữa ăn kết thúc, lúc ông chào tạm biệt Elsa, bà lặng lẽ tuồn chìa khóa nhà vào tay ông. Khi đó, ông ba mươi tuổi, còn bà hai mươi lăm. Alberto bị cuốn hút bởi nữ trí thức trẻ tuổi ấy, với “một vầng tóc xòe như chiếc nấm trên khuôn mặt tròn”, “đôi mắt đẹp mơ màng của người cận thị”, và “chiếc mũi nhỏ cùng đôi môi dày, đầy cương nghị”. Không có tình yêu hay dục vọng ngay từ cái nhìn đầu tiên. “Tôi chưa bao giờ thực sự mất kiểm soát”, Alberto hồi tưởng trong một cuộc phỏng vấn dài với nhà văn Alain Elkann. (Cuộc phỏng vấn này được xuất bản năm 1990 dưới cái tên Life of Moravia, một dạng hồi ký. Elsa, vốn là người vô cùng kín tiếng, không để lại bất kỳ bản tự thuật nào.) “Tôi không yêu, nhưng tôi bị mê hoặc bởi một điều gì đó cực đoan, dữ dội, và đầy ham mê nơi cô ấy.” Ông ví Elsa như “một thiên thần sa xuống từ cõi thiên đường xuống địa ngục của đời sống thường nhật. Nhưng đó là một thiên thần mang theo cây bút”. Khi được hỏi Elsa có tham vọng không, ông đáp rằng “nói cô ấy tham vọng là còn nhẹ. Viết chính là cuộc đời của cô ấy”.

Một năm sau, Elsa ghi lại trong nhật ký rằng một hôm Alberto nói với bà rằng họ nên chấm dứt mối quan hệ. Ông bỏ sang Hy Lạp. Nhưng vài tuần sau khi ông trở về, chính Elsa là người muốn kết thúc mọi chuyện. Bằng cách nào đó mà họ vẫn gắn bó với nhau. Tuy nhiên chuyện tiền bạc - cùng các thiếu thốn kèm theo - vẫn luôn tồn tại. Dù danh tiếng văn chương của Alberto ngày càng lớn, ông vẫn chưa thực sự thành công về mặt tài chính và vẫn sống cùng cha mẹ. Hai người anh em họ bên nội của ông, Nello và Carlo Rosselli - những người sáng lập một phong trào kháng chiến chống phát xít - đã bị sát hại ở Paris theo lệnh của Mussolini. Năm 1941, ông còn phải chịu đựng thêm một mất mát lớn khi em trai ông, Gastone, qua đời.

Thời gian đầu trong mối quan hệ với Elsa, cái nghèo khiến Alberto chạnh lòng, nhưng ông không thuộc dạng người dễ hoảng sợ. “Tôi nghĩ rằng nghèo đói có thể là một kinh nghiệm thú vị”, ông hồi tưởng. “Cả đời tôi được bảo vệ bởi chính sự dửng dưng của mình.” Ông cũng được bao bọc bởi người cha Do Thái, gốc Venice, Carlo, người sớm nhận ra rằng con trai mình sinh ra để làm nhà văn thay vì bất cứ nghề nào khác. Carlo là một trong những người đầu tiên ở Rome sở hữu ô tô - một chiếc Fiat 15 mã lực - thậm chí còn có tài xế riêng để đưa vợ chồng ông đến nhà hát opera. Gia đình họ giàu đến mức Carlo không thấy cần phải ép con trai mình đi làm kiếm sống. Là một kiến trúc sư kiêm họa sĩ nghiệp dư, ông “ý thức rõ giá trị của nghệ thuật”, như Alberto từng nói. (Tên khai sinh của ông là Alberto Pincherle, và sau này lấy Moravia - một tên họ trong gia đình - làm bút danh.) Dù xuất thân từ một gia đình giàu có - Alberto nhớ lại thời thơ ấu của mình là “một cậu bé chơi đùa với các chị em, đi ngủ sớm và nói tiếng Pháp với gia sư” - ông sớm đối mặt với nỗi đau khi bị chẩn đoán mắc bệnh lao xương năm lên chín tuổi. Căn bệnh khiến một chân của ông ngắn hơn vài inch so với chân kia và khiến ông có dáng đi khập khiễng suốt đời. Suốt nhiều năm sau đó, ông phải nằm liệt giường tại nhà, rồi sau này được gửi đến một trại điều dưỡng trên dãy Alps của Ý. “Để hiểu được bản tính tôi,” ông hé lộ trong hồi ký, “bạn phải nhớ rằng tôi đã ốm yếu từ nhỏ, và vì thế, tôi hoàn toàn cô độc cho đến năm mười tám tuổi. Tôi chưa từng đi học. Tôi không có bạn bè cùng trang lứa để chơi cùng. Sự cô độc đã thấm sâu vào tâm hồn tôi đến mức ngay cả bây giờ, tôi vẫn cảm thấy một sự tách biệt sâu sắc với những người xung quanh.” Ông lấp đầy các ngày tháng bằng việc đọc Dostoyevsky, Shakespeare, Dante, Molière, Rimbaud và vô số tác giả khác. Đến tuổi thiếu niên, ông đã thành thạo tiếng Pháp, Đức và Anh. Và như ông từng nói với một phóng viên: “Chính căn bệnh dai dẳng ấy đã khiến tôi bắt đầu viết.”

Khi gặp Elsa, Alberto đang mắc chứng spasmophilia, một dạng viêm đại tràng thần kinh. “Tôi đầy hơi, không ăn uống được, người gầy rộc đi”, Alberto nhớ lại. Hai người bắt đầu dành những buổi tối bên nhau theo phong cách điển hình của người Rome, gặp bạn bè tại một quán trattoria địa phương và trò chuyện hàng giờ liền. Họ gắn kết với nhau qua nỗi ám ảnh chung về chủ nghĩa phát xít, và trong vòng kết giao của họ có nhiều họa sĩ và nhà văn. Alberto không qua đêm ở căn hộ của Elsa mà vẫn trở về nhà cha mẹ. Dẫu Alberto bị cuốn hút bởi cá tính mạnh mẽ của bà (“thật độc đáo, thật mãnh liệt”), ông nói rằng mình không cảm thấy “một khao khát mãnh liệt” đối với bà. “Về chuyện ái ân,” ông nói, Elsa “gần như đối địch với những mê đắm thể xác. Tóm lại, cô ấy rất ham mê nhưng không giàu nhục cảm, nếu nhục cảm có nghĩa là để cơ thể mình hoàn toàn tự do.” Họ kết hôn vào tháng Tư năm 1941 vì lý do thực tiễn: Alberto chán ghét việc phải đi bộ đường dài đến căn hộ của Elsa trong mùa đông giá rét. Sống chung dưới một mái nhà sẽ giải quyết được vấn đề đó.

Trong lễ cưới, Elsa mang theo một chiếc túi xách có vết bẩn, và bà giấu đi bằng cách giữ túi áp sát vào váy suốt buổi lễ. Hôn lễ chỉ có bốn người làm chứng, và theo yêu cầu của Alberto, gia đình ông không có mặt. “Tôi nhớ đám cưới của mình như một dịp không quá vui,” ông hồi tưởng về sau, “tôi bị đè nặng bởi chiến tranh, bởi sự túng thiếu, bởi gia đình, và không kém phần quan trọng, bởi ý nghĩa lớn lao mà Elsa dành cho nghi thức này.” Mẹ của Alberto, Teresa, mời cặp vợ chồng mới cưới đến ăn tối. Nhưng bữa tối ấy hóa ra lại là một kinh nghiệm khó chịu, Alberto còn nhớ nó là một “thảm họa rành rành”. Khi Teresa cố gắng nói vài lời khuyên kiểu mẫu dành cho con dâu, Elsa hờ hững đáp lại. Hai người phụ nữ xảy ra tranh cãi. “Bản tính của Elsa không xứng với trí tuệ của cô ấy,” Alberto nhận xét. “Lẽ ra cô ấy nên hiểu rằng mẹ tôi chỉ đơn thuần là một quý bà tư sản và đừng nên bận tâm.” Hai người phụ nữ không bao giờ nhìn mặt nhau nữa. Carlo, khi đó đang ốm nặng, chưa từng gặp Elsa và qua đời trong bệnh viện vào năm sau.

Alberto không muốn xin tiền cha mẹ để mua nhẫn cưới cho Elsa, cũng không hỏi liệu hai vợ chồng có thể sống trong căn hộ rộng rãi thuộc sở hữu của gia đình hay không. Nhưng ông đã đề nghị được sử dụng căn gác xép hai phòng, một không gian chật hẹp tới mức khó mà đủ cho hai nhà văn, chưa kể đến cái tôi của họ. Sau chiến tranh, họ sẽ mua một căn hộ khang trang hơn ngay gần Piazza del Popolo. Nhưng ở thời điểm đó, họ phải chấp nhận sống trong một căn hộ chật chội nơi thứ duy nhất đáng giá là quang cảnh Vườn Borghese và Bảo tàng Borghese ở ngay trước mặt.

Họ được hưởng một tuần trăng mật theo ý thích nhờ vào bản hợp đồng trị giá mười lăm nghìn lire mà Alberto ký để viết kịch bản cho đạo diễn điện ảnh Mario Soldati: Tragica notte, được ra mắt năm 1942, chuyển thể từ tiểu thuyết xuất bản năm 1928 của Delfino Cinelli. Ông say mê điện ảnh, từng mô tả nó là bộ môn nghệ thuật yêu thích của ông chỉ sau văn chương và hội họa. Khi còn là một cậu bé, Alberto thường xem hai bộ phim mỗi ngày. Ông hài lòng với số tiền kiếm được từ hợp đồng, nhưng lại mô tả quá trình ấy là “đáng chán ghét”. Ông ví biên kịch như người gia sư, nuôi nấng một đứa trẻ rồi sau đó bị sa thải. Ông không khỏi bực bội vì phải “đem một thứ quý giá ra bán, để đổi lấy tiền, cho một kẻ sẽ khai thác nó vì lợi ích riêng”, và tính tập thể trong hoạt động biên kịch khiến ông chán ngán: “Nó hủy hoại cả cuộc sống của anh. Anh sẽ phải ngồi hàng giờ liền cùng những biên kịch khác, hút thuốc, uống cà phê, đôi khi kể vài câu chuyện tục tĩu hoặc nói vài câu đùa chống phát xít. Một cuộc giằng co triền miên”. Dẫu vậy, ông vẫn tiếp tục viết một số kịch bản khác trước khi từ bỏ hẳn công việc này. Về sau, Alberto tự hào tuyên bố: “Tôi quen biết tất cả mọi người, và tất cả mọi người đều biết tôi. Tôi là một phần của điện ảnh Ý, trước hết vì tôi đã viết khoảng hai nghìn bài phê bình điện ảnh, và cũng bởi ít nhất hai mươi bộ phim đã được chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi.” Quả thật, các tác phẩm The Conformist [Il conformista] Contempt [Le Mépris] của ông đã trở thành những bộ phim kinh điển do Bernardo Bertolucci và Jean-Luc Godard đạo diễn.

Dù sao đi nữa, kịch bản viết cho Soldati đã mang lại cho Alberto và Elsa cơ hội được đi thăm thú Siena, nơi họ lưu lại tại Villa Scacciapensieri, một dinh thự tuyệt đẹp được cải tạo thành khách sạn và vẫn còn hoạt động đến ngày nay. Từ đó, họ tiếp tục đến Anacapri, một thị trấn trên đảo Capri, nơi họ uống rượu, hút thuốc, đi dạo, tranh luận và viết lách.

Cuộc sống thường ngày của cặp vợ chồng rất đơn giản. Mỗi sáng họ thức dậy vào khoảng bảy giờ. Alberto dành thời gian làm việc với bản thảo tiểu thuyết ngắn Agostino, trong khi Elsa miệt mài viết những trang đầu tiên của Menzogna e sortilegio (House of Liars). Bà đã xuất bản một tập truyện ngắn vào năm 1941, mang tên Il gioco segreto (The Secret Game), cùng với tuyển tập thơ, truyện và minh họa thời thơ ấu của bà. Nhưng Menzogna e sortilegio, mất bốn năm để hoàn thành, mới thực sự là tiểu thuyết đầu tay của bà.

Họ không chia sẻ bản thảo với nhau, cũng không bàn luận về tiến độ viết. “Tuyệt đối không”, Alberto nhớ lại. “Elsa và tôi không phải cặp đôi văn chương chuyên nghiệp, những người đọc bản thảo của nhau, bàn về sách vở, tranh luận về điểm mạnh và điểm yếu của các tác giả mà họ đang đọc”, ông nói. “Chúng tôi thực sự chỉ là một người đàn ông và một người đàn bà mắc kẹt trong mối quan hệ vô cùng khó khăn và đầy tính cá nhân.” Elsa luôn luôn giữ khoảng cách rõ ràng giữa đời sống sáng tác và đời sống hôn nhân. “Các cặp đôi văn chương đúng là một tai họa”, bà từng viết cho một người bạn. Dù vậy, cả bà và Alberto đều có chung một góc nhìn bi quan về tình yêu trong sáng tác của mình. Như Lily Tuck nhận xét trong Woman of Rome: A Life of Elsa Morante (cuốn tiểu sử đầu tiên về Morante), với Elsa, tình yêu “luôn thiêu đốt và thường biến thành thù hận; hiếm khi nào nó mang đến niềm vui hay sự bình yên”. Trong các tác phẩm của Alberto, tình yêu là thứ phải chịu đựng hơn là niềm thích thú, và nó không bao giờ có thể xóa bỏ sự cô lập hay thờ ơ của nhân vật. Trong cuốn Alberto Moravia (1974), Jane E. Cottrell nhận xét rằng “trong thế giới của Moravia, đàn ông dường như không bao giờ hiểu được phụ nữ. Nhân vật nữ luôn phức tạp hơn vẻ bề ngoài, và dù người đàn ông có cố gắng thấu hiểu hay chiếm hữu cô ta đến đâu, cô ta vẫn mãi là một bí ẩn đối với hắn”. Ông viết về tình dục một cách thẳng thắn, không kiêng dè: “Tình dục có thể tồn tại mà không cần tình yêu, nhưng tình yêu thì không thể thiếu tình dục. Nghĩa là, bạn hoàn toàn có thể có một mối quan hệ thể xác chóng vánh, thậm chí rất thỏa mãn, mà chẳng cần tình yêu. Nhưng ngược lại thì bất khả thi.”

Elsa bảo vệ tác phẩm của mình rất dữ và không dễ dàng chấp nhận những lời phê bình, đặc biệt từ Alberto. Chỉ một lần duy nhất, bà đánh liều chia sẻ một truyện ngắn với chồng, và khi ông thừa nhận rằng mình không thích nó, bà liền xé nát bản thảo. Alberto từng nói rằng Elsa chắc chắn sẽ yêu ông ít hơn, hoặc thậm chí ngừng yêu ông hoàn toàn, nếu như quan điểm của ông về tác phẩm của bà không phải lúc nào cũng “rất tán thưởng” - và thực tế thì đúng là như vậy. “Elsa có phần độc đoán: hoặc anh đứng về phía cô ấy, hoặc anh là kẻ địch”, ông nhớ lại. “Đối với tôi, trước đây cũng như bây giờ, việc chấp nhận các ý kiến tiêu cực về tác phẩm của mình là điều dễ dàng. Nhưng với Elsa, anh phải cẩn thận.”

Alberto viết toàn bộ bản thảo Agostino chỉ trong vòng một tháng - tháng Tám, đó cũng chính là nguồn cảm hứng cho nhan đề tác phẩm. Về sau, ông coi cuốn sách này là một tác phẩm quan trọng, một “bản lề” nối giữa Gli indifferenti và những tiểu thuyết về sau. (Agostino cũng được chuyển thể thành phim năm 1962.) Trong quá trình viết, Alberto chỉ đơn giản nghĩ rằng đó là “một câu chuyện được kể tốt”. Ông không nhận ra giá trị thật của nó vào thời điểm ấy. Ông từng viết và cho rằng, tác phẩm được viết chỉ nhằm tự thỏa mãn và bộc lộ mình.

Agostino kể về một cậu bé và người mẹ góa của mình trong kỳ nghỉ hè yên bình tại một khu nghỉ mát ven biển vùng Tuscany. Mỗi sáng, hai mẹ con cùng nhau chèo thuyền trên mặt biển tĩnh lặng: “Cậu chèo thuyền với niềm hân hoan sâu lắng trên mặt biển êm ả, trong suốt vào buổi sáng sớm. Mẹ cậu, ngồi phía trước, nói với cậu bằng giọng nhẹ nhàng, vui tươi và thanh thản như chính biển trời lúc ấy, như thể cậu không phải là một cậu bé mười ba tuổi, mà là một người đàn ông đúng nghĩa.” Mẹ cậu là “một người phụ nữ đẹp, vẫn đang ở độ xuân sắc,” còn cậu bé thì “tràn đầy kiêu hãnh” vì được ở trên chiếc thuyền cùng bà, trong khi “những người tắm biển trên bờ dường dõi theo, ngưỡng mộ người mẹ và ghen tị với cậu.” Cậu vật lộn với “cơn hỗn loạn của si mê” và cảm nhận rõ ràng về cơ thể của mẹ mình: “Là mẹ của cậu, bà không có cảm giác xấu hổ; nhưng đối với Agostino, dường như bà cố tình khiêu gợi cậu một cách quá mức. Cậu nghe thấy bà gọi mình và đi vào phòng bà, nơi bà đang chỉnh trang, mặc áo ngủ, với bộ ngực gần như để trần.” Cậu vừa bị hút vào lại vừa bị đẩy ra bởi mẹ, và khi bà bắt đầu một áp phe tình ái, Agostino - cảm thấy bị bỏ rơi và ôm nỗi đau gần giống như tình đơn phương - len lén tìm kiếm sự chấp nhận trong một băng nhóm địa phương của những thanh niên bất hảo và bạo lực. Xuất bản dưới thời Đức Quốc xã chiếm đóng năm 1944, câu chuyện này - về những khao khát bị dồn nén, sự căng thẳng giai cấp, mặc cảm Oedipus và sự đánh mất ngây thơ - đã trở thành một cuốn sách bán chạy, và năm sau đó, nó đã mang về cho Alberto, ở tuổi ba mươi tám, giải thưởng văn học đầu tiên trong sự nghiệp của ông, cũng là giải thưởng văn chương đầu tiên của nước Ý thời hậu chiến, giải Corriere Lombardo.

Trong cuộc trò chuyện với Elkann, Alberto đã diễn tả một cách đầy mê đắm về kinh nghiệm khi một cuốn tiểu thuyết tuôn trào trong ông lúc viết. Cảm hứng, ông nói, giống như một cuộn chỉ “đã được cuộn sẵn, và khi kéo ra, nó tuốt dài nhanh chóng, trơn tru... Anh cứ kéo, cứ kéo, và nó cứ thế dài ra, chẳng bao giờ bị nghẽn.” Ngược lại, ông từng phải vật lộn suốt bảy năm để viết Le ambizioni sbagliate, một tiểu thuyết mà ông mô tả là “một mớ chỉ rối rắm khổng lồ”. Ông cũng chia sẻ với Elkann về những tác giả đương đại mà ông yêu thích, trong đó có nhiều nhà văn Mỹ: Saul Bellow (cũng là bạn của ông), Raymond Carver, Carson McCullers, Mary McCarthy, Truman Capote, và Elsa.

Khác với bản thảo chỉ mất một tháng để hoàn thành của chồng, Elsa dành nhiều năm trời để viết tác phẩm vô cùng kỳ lạ và phức tạp của mình, một cuốn tiểu thuyết dài hơn tám trăm trang. Alberto có kỷ luật thép, luôn luôn tuân theo một thói quen viết nghiêm ngặt với số giờ làm việc cố định mỗi ngày. Ông hoàn toàn thoải mái với phương pháp sáng tác của mình, như ông từng chia sẻ trong bài phỏng vấn với Paris Review:

“Tôi chưa bao giờ ghi chép hay sở hữu một cuốn sổ tay nào. Việc viết của tôi, thực tế, không hề được chuẩn bị trước. Tôi cũng có thể nói thêm, rằng khi không viết, tôi hoàn toàn không nghĩ đến công việc của mình. Khi tôi ngồi xuống và bắt đầu viết viết... mỗi sáng từ chín giờ đến mười hai giờ, và tôi chưa bao giờ viết một dòng nào vào buổi chiều hay đêm... tôi không bao giờ biết trước điều gì sẽ hiện ra trên trang giấy cho đến khi tôi thực sự bắt đầu. Tôi tin vào cảm hứng, đôi khi nó đến, đôi khi không. Nhưng tôi không ngồi yên chờ đợi nó. Tôi làm việc mỗi ngày.”

Ông cũng nói rằng mình luôn chỉnh sửa từng cuốn sách nhiều lần trước khi hoàn thiện. “Tôi thích so sánh phương pháp của mình với cách làm việc của các họa sĩ thời xưa, tiến hành từng lớp một,” ông nói. “Bản thảo đầu tiên còn rất thô, rất xa mới đạt đến sự hoàn hảo, chưa thể gọi là hoàn chỉnh được. Nhưng ngay từ thời điểm đó, nó đã có cấu trúc cuối cùng, hình hài đã hiện rõ. Sau đó, tôi viết lại nhiều lần... thêm nhiều ‘lớp’ khác... cho đến khi tôi cảm thấy đã đủ.”

Elsa lại có thói quen làm việc thất thường. Bà có thể trải qua những quãng thời gian dài không viết gì, nhưng khi bắt tay vào viết, bà sẽ viết miệt mài, ngày cũng như đêm. “Tôi tiến rất chậm,” bà từng giải thích, “và chỉ khi nào câu văn thực sự chặt chẽ và khớp với nhau, từng từ ngữ đều cần thiết chứ không phải những từ được vội vã đặt vào, chỉ khi đó tôi mới chuyển sang đoạn tiếp theo. Tôi cũng làm tương tự với các chương.” Trong khi làm việc, bà không cho phép mình dừng lại để ra ngoài, trái ngược hẳn với Alberto, người ít nhất mỗi tuần sẽ đi xem phim một lần, đôi khi là hằng ngày. Elsa từng nói rằng những khoảng thời gian dài không viết khiến người khác tưởng rằng bà chẳng làm gì cả. Nhưng như bà đã viết trong một bức thư gửi người bạn rằng: “Đúng, tôi đang làm việc, dù không phải lúc nào cũng là tiểu thuyết. Và vì thế, phần lớn mọi người cho rằng công việc của tôi chẳng phải một công việc đúng nghĩa.” Khi không viết tiểu thuyết, bà viết thơ, tiểu luận và truyện ngắn, bằng nét chữ nhỏ nhắn đặc trưng của bà. Bà từng nói trong một cuộc phỏng vấn rằng “viết một câu chuyện giống như một cơn nghiện, một thứ ma túy.” Ngay cả khi không viết, bà nói, trong đầu bà lúc nào cũng có một câu chuyện đang lên men, và bà dành rất nhiều tình cảm cho các nhân vật của mình, đến mức gọi họ là “những con người của tôi”. Elsa luôn đọc và xem: Melville, Cervantes, Henry James, Chekhov và Proust là những tác giả bà yêu thích nhất. Trong Woman of Rome, Lily Tuck đã mô tả quá trình sáng tác của Elsa như sau:

“Morante luôn viết tay trên những cuốn sổ lớn, bìa đen, không kẻ dòng mà bà mua từ tiệm văn phòng phẩm Zampini trên phố Via Frattina, không xa căn hộ của bà. Bà viết cách trang, để lại những trang xen kẽ trống nhằm ghi chú và chỉnh sửa. Những ghi chú này vẫn còn được lưu giữ như một chỉ dấu về cách bà làm việc, và nhiều chỉnh sửa cho thấy lúc nào cũng nỗ lực đơn giản hóa văn bản, làm cho câu chữ súc tích hơn. Nhiều trang trong sổ có những đoạn dài bị gạch chéo hoặc xóa bỏ hoàn toàn. Bà dùng nhiều loại bút mực khác nhau, và đôi khi còn nguệch ngoạc vẽ những con mèo hay các ngôi sao bên lề trang giấy.”

Dù Elsa phủ nhận rằng House of Liars là một tác phẩm tự truyện, sau này thừa nhận rằng mình đã viết nó để xua đuổi những giày vò nội tâm. Trong tiểu thuyết này, bà lột tả rõ những điểm tương đồng với cuộc đời mình: Người kể chuyện - nhân vật chính là Elisa - có một cái tên gần giống với tên của tác giả, và cha của Elisa mang tên Francesco Monaco, gợi nhớ đến tên người cha ruột của Elsa. Ám ảnh bởi những giấc mơ sống động và những ảo giác sau cái chết của cha mẹ khi cô mới mười tuổi, cùng với sự ra đi của một cô gái điếm - người đã chăm sóc cô như người mẹ thứ hai - Elisa sống một mình trong căn phòng nhỏ, chỉ có con mèo làm bạn. Cô hồi tưởng về sự đổ vỡ của gia đình mình và “căn bệnh cổ xưa” mà họ đã truyền lại cho cô, cố gắng đối diện với “chất độc của những lời dối trá và sự lừa gạt” đã len lỏi qua nhiều thế hệ. Lily Tuck mô tả House of Liars là một “cuốn tiểu thuyết kỳ lạ, u ám và sầu thảm”, với một cốt truyện phức tạp.

Năm 2009, trong một bài phê bình về tiểu sử của Tuck cùng bốn tiểu thuyết của Morante trên New York Review of Books, nhà văn kiêm dịch giả Tim Parks, người đã sống ở Ý từ năm 1981, nhận xét về House of Liars: “Thành tựu của Morante trong cuốn tiểu thuyết kỳ dị nhưng tuyệt vời này là khả năng cân bằng giữa chất bi kịch quá mức (dựa trên những mô típ miền Nam nước Ý về tình mẫu tử và danh dự nam giới) với những suy tư sâu sắc, châm biếm, thậm chí có lúc đầy mỉa mai về khát khao vô tận của tâm trí đối với sự tự lừa phỉnh - những lời nói dối tạo nên ‘phép thuật’, hay các trạng thái tinh thần biến dạng và kéo dài suốt nhiều năm.” Đến năm 2019, Parks đã nhận xét trong London Review of Books rằng Elsa đang viết vào thời kỳ đỉnh cao của chủ nghĩa tân hiện thực ở Ý, khi nhiều bạn bè và đồng nghiệp của bà như Pier Paolo Pasolini, và ngay cả chồng bà, “đều đang tìm cách tái hiện sự hoang tàn của thời hậu chiến bằng văn phong tiết chế. Morante hoàn toàn không đi theo hướng đó. Văn phong của bà gợi nhớ nhiều hơn đến chất tráng lệ fin-de-siècle của [Gabriele] D’Annunzio.” Còn về mặt chính trị, bà hoàn toàn đối lập với con người mà những tư tưởng quốc gia chủ nghĩa đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Mussolini.

Dù tiểu thuyết của Elsa có kỳ lạ và nhiều khiếm khuyết đến đâu, Alberto vẫn ngưỡng mộ những gì vợ mình đã đạt được. Trong cuộc phỏng vấn dài với Elkann, ông nói rằng Elsa gần như bị ám ảnh khi viết tác phẩm này, và kinh ngạc trước cách bà hình dung câu chuyện “bằng trí tưởng tượng của một thiên tài”, ông nói, “sau khi [Elsa] ở Sicily chỉ vỏn vẹn có ba ngày, mà một phần của cuốn tiểu thuyết được lấy bối cảnh ở đó!”

Alberto từng có một nhận xét sâu sắc về cách Elsa tiếp cận thực tại trong sáng tác: “Trong các tiểu thuyết của Elsa, gần như không cần đến sự hư cấu, ta vẫn tìm thấy chính Elsa và mối quan hệ của cô ấy với những người xung quanh”, ông nói tiếp: “Điều tôi muốn nói nằm ở chỗ ‘thực tại’ là một từ rất mơ hồ... và thứ thực tại luận mà Elsa ám ảnh rốt cuộc lại ‘trả đũa’ cô ấy bằng khả năng đáng kinh ngạc của cô ấy trong việc mô tả cuộc sống thường ngày và hiện thực mang tính tự truyện.” Thậm chí, ngay cả khái niệm “thực tại” cũng trơn tuột khi áp vào Elsa. Nhà phê bình văn học (cũng là bạn thân thiết của Elsa) Cesare Garboli từng nhận xét: “Trong kinh nghiệm sáng tạo của Elsa Morante, không có bất kỳ ranh giới nào giữa cái có thực và cái được tưởng tượng.” (Sau này, ông cùng với diễn viên Carlo Cecchi đã trở thành người đồng thực hiện di chúc của Elsa.)

Alberto từng nhận xét rằng Elsa có thói quen bịa chuyện về chính mình, đôi khi chỉ đơn giản vì bà có thể làm thế. Khi bà gặp ông vào năm 1937, Elsa đã thêu dệt một câu chuyện ly kỳ về việc bà từng yêu một nam tước trẻ người Anh đồng tính và tận mắt chứng kiến anh ta bị người tình sát hại. Câu chuyện hẳn nhiên được dựng lên để thu hút sự chú ý của Alberto, song Elsa quả thực có xu hướng bị hấp dẫn bởi những người đàn ông đồng tính hoặc song tính trẻ tuổi - vậy nên ít nhất, chi tiết đó có phần đúng. Như Lily Tuck viết trong Woman of Rome: “Bà ghét phải cung cấp thông tin về bản thân, và hiếm khi kể một câu chuyện hai lần giống hệt nhau. Thay vào đó, bà thích tạo ra điều gì đó có vẻ có thực nhưng chưa chắc đã là sự thật, hoặc ngược lại - điều gì đó có thể là sự thật nhưng lại không hoàn toàn có thực.” Có một đoạn văn đầy ẩn ý về bản tính của sự thật trong House of Liars, nơi alter ego của Elsa giãi bày khát vọng của mình: “Trở thành một tín đồ, một kẻ tu hành của sự dối trá! Chiêm nghiệm về những lời nói dối và biến chúng thành trí tuệ! Khước từ mọi kinh nghiệm, không chỉ những kinh nghiệm đau đớn, mà cả những khoảnh khắc hạnh phúc, từ chối bất kỳ khả năng nào về sự mãn nguyện bên ngoài sự giả dối! Đó chính là cách tôi đã sống.”

Vào tháng Bảy năm 1943, Mussolini bị lật đổ và giam giữ. Pietro Badoglio được bổ nhiệm làm thủ tướng, nhưng quyền lực vừa thay đổi, đất nước lập tức rơi vào hỗn loạn, và Badoglio tháo chạy cùng với hoàng gia Ý. Quân Đức lợi dụng thời cơ nhằm củng cố quyền kiểm soát, mở ra chín tháng chiếm đóng Rome. Những ai ở lại phải đối mặt với một cơn ác mộng của tra tấn, đói khát, tù đày, thảm sát, bạo lực và đàn áp, cùng với đó là cuộc trục xuất hàng loạt người Do Thái vào tháng Mười năm đó. Mùa hè ấy, thay vì trở lại Capri, Elsa và Alberto vẫn ở Rome, nhưng khi biết tin ông có tên trong danh sách truy nã, họ vội đi khỏi thành phố. Alberto chỉ có năm mươi nghìn lire và một chiếc túi đầy cá mòi đóng hộp.

Hành trình lẩn trốn của họ đầy rẫy hiểm nguy và bất trắc. Họ gặp trở ngại đầu tiên trên chuyến tàu đến Naples: giữa đường, tàu dừng lại ở một nhà ga hoang vắng, và viên trưởng tàu ra lệnh tất cả mọi người phải xuống ngay lập tức bởi đường ray đã bị bom phá.

Tiếp đó, sau khi dành vài ngày ở Fondi, thị trấn nằm giữa Rome và Naples, một lần nữa họ phải bỏ chạy khi quân Đức bắt đầu bủa vây và truy lùng. Di chuyển liên tục từ địa điểm bí mật này sang địa điểm bí ẩn khác, tìm kiếm chỗ trú ẩn nhưng không thể tìm được, họ lần theo con đường đến ngôi làng hẻo lánh Sant’Agata trên núi. Trong vòng chín tháng, họ sống trong túp lều một gian, dựng sát vào vách đá, chờ quân Đồng minh đến giải cứu.

Nhiều năm sau Elsa nhớ lại: “Trên đường chạy trốn, những người mà chúng tôi phải dè chừng nhất lại là tầng lớp trung lưu như: giáo viên, công chức... Định kiến nằm ở họ, họ sẵn sàng khai chúng tôi với Gestapo. Chúng tôi cuối cùng được giúp đỡ bởi một gia đình nông dân. Với họ, Do Thái hay không Do Thái, tất cả chúng tôi đều là cristiani .” Trong Life of Moravia, Alberto hồi tưởng:

“Nơi chúng tôi từng sống vẫn còn đó: y nguyên như trước. Một căn phòng nhỏ, nép sát vào bức tường của macera, một bức tường đá sống, với mái lợp bằng tấm kim loại. Bên trong chật đến mức khó mà xoay người. Có một chiếc giường lớn, được ghép từ hai khung sắt và ba tấm ván. Trên những tấm ván ấy là một bao tải nhồi đầy vỏ ngô, mỗi khi tôi cử động, nó lại kêu cót két và xô lệch. Trên chiếc nệm vỏ ngô đó có hai tấm vải lanh thô dệt tay, một tấm trải dưới, một tấm đắp trên. Không có chăn... Nhưng căn phòng quá nhỏ, chúng tôi nằm quá gần nhau, nên tôi chưa bao giờ thực sự cảm thấy lạnh. Sàn nhà không lát gì cả, chỉ là nền đất nện chặt. Khi trời mưa, nước tràn vào, tôi phải đứng trơ trọi trong vũng nước. Suốt chín tháng, tôi chỉ có thể ngồi trên giường vì chúng tôi thậm chí chẳng có lấy một chiếc ghế.”

Căn hộ của họ ở Rome hẳn trông như một cung điện nếu đem ra so sánh. Lúc này, Alberto và Elsa không còn việc gì khác ngoài ngồi chờ cuộc đời thay đổi trong túp lều của họ. Họ chỉ mang theo hai cuốn sách, Anh em Karamazov và Thánh Kinh, nhưng không có bút viết. “Thiếu giấy vệ sinh,” Alberto hồi tưởng, “chúng tôi dùng chính những trang sách của Dostoyevsky.” Mỗi ngày trôi qua đều giống hệt nhau. Đói khát, lạnh lẽo, buồn chán và bẩn thỉu - đó là các từ định nghĩa cuộc sống của họ lúc này. Buổi sáng, họ có thể có một mẩu bánh mì. Đến khoảng năm giờ chiều, họ ghé qua túp lều của một gia đình nông dân để dùng bữa ăn duy nhất trong ngày, thường là một nồi đậu luộc hầm với bánh mì. (Thức ăn ngày càng khan hiếm.) Không có ánh sáng trong “chuồng lợn giữa núi”, như cách Alberto gọi nơi trú ẩn của họ, nên buổi tối, họ chỉ có thể ngồi trong bóng tối. Mỗi sáng, Alberto kéo nước từ một cái giếng sâu, lấy nước lạnh buốt để Elsa tắm rửa mỗi ngày, còn ông thì chỉ tắm một lần mỗi tuần. Đôi khi, sự đơn điệu bị phá vỡ bởi những “trận không chiến”, khi máy bay Đức và Anh giao tranh với nhau, Alberto hồi tưởng. Chính những kinh nghiệm trong chiến tranh này đã truyền cảm hứng cho tiểu thuyết năm 1957 của ông, La ciociara (Two Women), kể về một góa phụ và cô con gái tuổi teen cố gắng sinh tồn giữa sự tàn khốc của chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim vài năm sau bởi đạo diễn theo chủ nghĩa tân hiện thực Vittorio De Sica. Với bộ phim ấy, Sophia Loren đã giành giải Oscar cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất.

Alberto bị ấn tượng bởi sự kiên cường của vợ mình trong suốt thời gian ẩn náu. “Elsa đã cho thấy lòng can đảm và sự bình tĩnh phi thường suốt những tháng ở Sant’Agata”, ông nói. “Trong những hoàn cảnh như vậy cô ấy bộc lộ những phẩm chất thường ngày hiếm khi thấy được.” Ông cảm thấy bà tỏa sáng nhất trong những “tình huống đặc biệt, những thời điểm nguy cấp”. Elsa bị giày vò bởi ý nghĩ rằng mình đã bỏ lại bản thảo của Menzogna e sortilegio trong căn hộ của một người bạn ở Rome. Bà cũng muốn đảm bảo rằng họ sẵn sàng cho mùa đông sắp đến. Mùa thu năm đó, như Alberto kể lại trong Life of Moravia, Elsa khiến ông kinh ngạc bởi hành động mà ông mô tả là vừa hào phóng vừa can đảm:

“Lúc ấy đã là tháng Mười, chúng tôi vẫn mặc đồ mùa hè, trời bắt đầu lạnh. Tôi đã mua một đôi bốt từ những binh lính Ý đào ngũ. Nhưng bộ veste mùa hè của tôi không thể chống chọi. Rồi đến một lúc Elsa quyết định quay về Rome, lấy quần áo mùa đông, rồi trở lại Sant’Agata. Để hiểu được sự can đảm của Elsa trong lần đó, anh phải hình dung được hai điều: một mặt là sự khốn khổ mà chúng tôi đang chịu đựng trên núi, và mặt khác, Elsa chỉ đến để ở cạnh tôi: cô ấy không bị cảnh sát truy nã, cô ấy hoàn toàn có thể ở lại Rome thay vì sống trong cảnh thiếu thốn khủng khiếp này.”

Elsa trở về căn hộ, thu dọn một va li đầy quần áo mùa đông. Sau đó bà ghé qua nhà bạn chỉ để ngó qua Menzogna e sortilegio, như người ta nhìn một đứa bé đang say ngủ, và - khi chắc rằng nó vẫn an toàn - bà lại lên đường. “Điều duy nhất cô ấy bận tâm”, Alberto nói, “là tôi và bản thảo.”

Vào tháng Năm năm 1944, cuộc giải cứu mà họ hằng mong chờ cuối cùng cũng diễn ra, và nhờ sự giúp đỡ của một trung úy người Mỹ, Elsa và Alberto đã có thể trở về Rome. Khi ấy, thành phố chìm trong biến động chính trị, nhà cửa khan hiếm, xăng dầu và lương thực thiếu thốn, nhưng đồng thời, các hoạt động kinh doanh đang dần khởi sắc, nghệ thuật nở rộ, và thành phố bừng nở một nguồn sinh khí sáng tạo mở mẻ. “Nước Ý thời kỳ đầu hậu chiến thật rực rỡ,” Sybille Bedford hồi tưởng trong cuốn hồi ký Quicksands. “Nó ôm lấy những con người nơi dòng chảy của sự sống đã một lần nữa tuôn trào.” Và như Jhumpa Lahiri đã viết về giai đoạn này: “Thế chiến thứ hai và các hậu quả của nó đã làm biến đổi xã hội Ý một cách triệt để và không thể đảo ngược, xâm nhập vào ý thức tập thể, gây ra những chấn thương, nhưng cuối cùng lại hồi sinh nó về mặt văn hóa và kinh tế.”

Alberto và Elsa hạnh phúc khi được trở về nhà. Họ chẳng có lý do gì để hoài niệm về những tháng ngày ảm đạm sống ẩn náu, thế nhưng sau này Alberto đã nhận xét trong Life of Moravia rằng chính trải nghiệm thiếu thốn tột cùng ấy đã giải phóng ông khỏi “xiềng xích” mà ông luôn mang theo như “một đứa con của giai cấp tư sản”, và sự giải phóng của nước Ý khỏi chủ nghĩa phát xít cũng “phản chiếu sự giải phóng tinh thần tôi khỏi những tàn dư của tầng lớp tư sản”. Quãng thời gian ở Sant’Agata, ông hồi tưởng, hóa ra cũng là một giai đoạn đỉnh cao trong cuộc hôn nhân của họ:

“Khoảng thời gian trên núi là lúc tôi gần gũi Elsa nhất. Sau dần mối quan hệ của chúng tôi nguội lạnh... Trong đời sống, Elsa luôn luôn hướng về những khoảnh khắc ngoại lệ, nồng nhiệt, hay nói cách khác là những sự thăng hoa, và cô ấy, ngược lại, vụng về một cách kỳ lạ khi đối diện với những điều thường nhật. Ở Sant’Agata, cô ấy tìm thấy chính mình: mạo hiểm, tận tụy, hy sinh, khinh thường sự sống. Nhưng tại Rome, đời sống hng ngày khiến cô ấy mất kiên nhẫn và trở nên khó chịu, khắc nghiệt, thậm chí tàn nhẫn.”

Đến khi chiến tranh kết thúc vào năm sau đó, hai vợ chồng ổn định sống trong căn hộ cũ và tập trung vào công việc viết lách: Alberto viết truyện ngắn, tiểu thuyết mới và cộng tác với các tờ báo hàng đầu của Ý, còn Elsa miệt mài với Menzogna e sortilegio.

Năm 1948, một biên tập viên tại nhà xuất bản danh tiếng Einaudi ở Turin nhận được bản thảo Menzogna e sortilegio sau khi Elsa viết thư hỏi liệu bà có thể gửi tác phẩm để xem xét hay không. Biên tập viên đó chính là Natalia Ginzburg, người từng xuất bản tiểu thuyết đầu tay La strada che va in città (The Road to the City) vào năm 1942 dưới bút danh Alessandra Tornimparte, khi các tác phẩm của người Do Thái bị cấm. Ginzburg cùng chồng, Leone, từng biên tập một tờ báo chống phát xít trước khi ông bị bắt và tra tấn. Ông qua đời trong tù vào năm 1944.

Giống Elsa, Ginzburg sau này cũng trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất của thế hệ hậu chiến ở Ý, và bà từng nhấn mạnh rằng Elsa là người mà bà ngưỡng mộ nhất trong số các đồng nghiệp cùng thời. (Cả hai đều không chấp nhận việc bị đánh giá bằng cụm từ sáo rỗng “những nhà văn nữ quan trọng nhất”.) Trong tiểu sử Elsa do Lily Tuck chấp bút, tác giả trích dẫn lại hồi ức của Ginzburg về lần đầu tiên đọc bản thảo Menzogna e sortilegio. Bà đã đọc một mạch không dừng: “Tôi thích nó vô cùng,” Ginzburg hồi tưởng, “mặc dù khi ấy tôi chưa thể nói rằng mình đã hiểu rõ tầm vóc và sự vĩ đại của nó. Tôi chỉ biết rằng tôi thích nó, và đã rất lâu rồi tôi mới đọc được một tác phẩm mang lại cho tôi nhiều sức sống và niềm vui đến vậy.” (Trong tuyển tập truyện ngắn Ý năm 2019 do Jhumpa Lahiri biên soạn, Lahiri gọi Morante là “nữ hoàng văn chương” của Rome, ca ngợi văn phong “đầy biến hóa” và “cái nhìn bi thương vĩ đại” của bà, đồng thời mô tả Menzogna e sortilegio là “một kiệt tác đồ sộ, xuất quỷ nhập thần”.)

Chiến tranh làm gián đoạn quá trình Elsa viết tiểu thuyết, nhưng sự kiên trì của bà cuối cùng đã được đền đáp: năm 1948, cùng với I fratelli Cuccoli (The Cuccoli Brothers) của Aldo Palazzeschi, Menzogna e sortilegio giành được giải thưởng văn học danh giá Viareggio dành cho tiểu thuyết. (Ginzburg cũng giành giải này vào năm 1957, cùng Italo Calvino và Arturo Tofanelli.)

Ginzburg yêu thích Menzogna e sortilegio, nên dĩ nhiên bà đã hết lòng ủng hộ nó tại giải Viareggio. “Tình bạn của tôi với Sibilla coi như chấm dứt”, bà viết trong một lá thư gửi Elsa từ một hội nghị văn chương, ám chỉ nhà thơ và nhà văn Sibilla Aleramo. “Cả tuần nay bà ấy cứ không ngừng bắn những mũi tên về phía tôi.” Có vẻ như Aleramo lo rằng Elsa sẽ làm lu mờ mình trong buổi trao giải. Trước đó, mới chỉ có một nữ tác giả từng giành giải này, nhưng năm ấy, Elsa chiến thắng ở hạng mục tiểu thuyết, còn Aleramo được trao giải thơ.

Đáng tiếc, cuốn tiểu thuyết gây ra nhiều tranh cãi và không đạt được thành công thương mại. Tuy vậy, giải thưởng này đã mang lại cho Elsa sự công nhận mà bà cần để khẳng định mình như một nhà văn lớn với những tác phẩm xuất sắc nhất vẫn còn ở phía trước. Trong khi đó, cuốn La romana (The Women of Rome) của Alberto - được ông viết chỉ trong vòng bốn tháng - lại trở thành bestseller, và được chuyển thể thành phim năm 1954 với sự tham gia của Gina Lollobrigida. Hai vợ chồng bước vào một giai đoạn đầy danh tiếng và cơ hội trong sự nghiệp, nhưng trong đời sống cá nhân, hôn nhân của họ ngày một rạn nứt.

Mùa hè năm 1948, Alberto và Elsa ăn mừng thành công của họ bằng cách thuê một căn nghỉ dưỡng trên đảo Capri, sau đó thăm thú Pháp và Anh, suốt chuyến đi họ thường xuyên cãi vã. Khi trở về Rome, Alberto bán căn hộ cũ và mua một căn hộ lớn, sang trọng trên phố Via dell’Oca. Họ bài trí không gian một cách tiện nghi, treo tranh lên tường, và dành nhiều chỗ cho những con mèo của Elsa - cả mèo lớn lẫn mèo con. Bà đặc biệt yêu mèo - nhất là mèo Xiêm - nên thường xuyên nhắc đến chúng trong thư, và (mặc dù hiếm khi nhận lời phỏng vấn) nhiều nhà báo có cảm giác rằng bà phần nào mang dáng dấp của một con mèo. Trong một bài phỏng vấn (“Talk with the Moravias”) đăng trên New York Times ngày 3 tháng Tám năm 1952, phóng viên Hedy Maria Clark quan sát Elsa và thấy “đôi mắt cận thị của bà, lúc mở to lúc nheo lại theo tâm trạng; gương mặt nhỏ nhắn hình tam giác, những cử chỉ, dáng đi, thậm chí cả những chuyển động chậm rãi và dè dặt của bà, tất tật đều mang nét của loài mèo”. Chín năm sau, một phóng viên từ tạp chí Afrique Action phỏng vấn Elsa, miêu tả bà là “một người phụ nữ kỳ lạ với gương mặt mèo và, giống như một con mèo, bà trưng vẻ lười biếng... tư thế cho phép bà quan sát thực tại hằng ngày một cách không ngừng nghỉ. Như một con mèo, Elsa Morante dấn thân vào việc mổ xẻ cuộc sống một cách tàn nhẫn, để rồi chỉ hành động chậm rãi và hiếm khi, nhưng với sự chắc chắn tuyệt đối”.

Ổn định trong căn hộ mới và đạt được sự vững vàng về tài chính, Alberto và Elsa thuê một đầu bếp và một quản gia. Alberto mua tặng vợ một chiếc áo lông thú và một căn hộ nhỏ trên phố Via Archimede để bà dùng làm nơi viết lách. Giải thích với một phóng viên đến thăm, ông nói: “Cô ấy bảo tôi quá ồn ào, quá căng thẳng, rằng cô ấy cần sự riêng tư. Anh có hiểu điều đó không? Tôi thì có thể viết trong sảnh khách sạn, hoặc ngay cả khi có người đang chơi [đàn bass] trên ghế bên cạnh tôi.” Elsa thừa nhận rằng bà “có chút xấu hổ” vì cần sự yên tĩnh tuyệt đối mới có thể làm việc - “Rốt cuộc, tôi viết được quá ít!” - nhưng bà cũng nói thêm: “Nếu tôi phải viết gần Alberto, có lẽ tôi sẽ chẳng viết được gì. Và tôi sẽ rất khổ sở.”

Ngày 19 tháng Mười một năm 1948, Elsa ký hợp đồng để Menzogna e sortilegio được dịch sang tiếng Anh và xuất bản cho độc giả Mỹ bởi nhà xuất bản Harcourt, Brace. Bà phấn khởi khi biết Menzogna e sortilegio sẽ tiếp cận một lượng độc giả quốc tế rộng lớn hơn. Theo hợp đồng, người được chỉ định dịch là Frances Frenaye, một dịch giả xuất sắc từng chuyển ngữ các tác phẩm của Balzac, Carlo Levi, Natalia Ginzburg, và Antonio Tabucchi. Frenaye được ca ngợi vì không chỉ ở việc dịch từng câu chữ mà còn “nắm bắt được cả ý nghĩa lẫn tinh thần của tác giả”. (Frenaye qua đời năm 1996.) Không rõ vì lý do gì mà Frenaye cuối cùng không dịch tác phẩm của Morante, dù đã có thỏa thuận ban đầu, song cuối cùng bản dịch House of Liars của Adrienne Foulke - người từng dịch tác phẩm của nhà văn Sicilia Leonardo Sciascia - ra mắt. Tuy nhiên, nhà xuất bản Harcourt, Brace đã cắt gần hai trăm trang khỏi tiểu thuyết của Elsa, khiến bà vô cùng tức giận.

Ngày 20 tháng Mười năm 1951, nhà phê bình Serge Hughes đánh giá House of Liars trên Saturday Review: “Thoạt nhìn, cuốn tiểu thuyết dường như là một tác phẩm hiện thực theo phong cách cuối thế kỷ 19. Nhưng không cần đọc quá xa cũng có thể nhận ra rằng tâm lý chi phối các nhân vật hoàn toàn mang tính hiện đại, u ám, và rằng bằng cách sử dụng một bối cảnh cùng lối viết có phần cũ kỹ, tác giả đã tạo nên hiệu ứng kinh dị, tựa như cảm giác mà một bức tranh siêu thực gợi lên khi một vật thể quen thuộc trong đời sống hằng ngày bị đặt vào một vị trí hoàn toàn phi lý.” Hughes kết luận bài viết bằng nhận xét rằng tiểu thuyết của Morante “khiến Zola trông có vẻ vui tính khi đem ra so sánh”.

Đánh giá tác phẩm trên New Yorker vào tháng Hai năm 1952, Maeve Brennan mô tả Elsa là “một nhà văn trẻ người Ý có sức mạnh cảm xúc phi thường. Rõ ràng, cô Morante không e ngại những cái kết lãng mạn. Cô cũng không tránh né dục vọng hay bi kịch, hay những câu văn dài dòng, hoa mỹ mà cô xử lý một cách xuất sắc. Dường như thứ duy nhất khiến cô dè chừng là sự buồn tẻ và cam chịu của một giải pháp hợp lý”.

Trên tờ Atlantic, nhà phê bình C. J. Rolo viết: “Thoạt đầu, House of Liars có vẻ như một tiểu thuyết khiên cưỡng và thái quá. Nhưng các nhân vật hóa ra lại sống động, lôi cuốn, và giàu sức gợi, còn nỗi ám ảnh của Anna được khắc họa một cách thuyết phục.” Trong khi đó, nhà phê bình văn học người Ý Paolo Milano nhận xét trên New York Times Book Review: “Elsa Morante là vợ của tiểu thuyết gia Alberto Moravia. Tuy nhiên, tác phẩm của cô không hề mang dấu vết nào của sự tương đồng hay ảnh hưởng từ chồng. Cô không quan tâm đến chủ nghĩa hiện thực tâm lý hay các xung đột của đời sống đô thị... Ấn tượng của tiểu thuyết ngày càng khắc sâu vào tâm trí người đọc và trở nên khó quên.”

Đối với Elsa, phiên bản rút gọn chỉ còn 565 trang này là một sự phản bội ở mọi cấp độ, khiến bà không thể tìm thấy chút niềm vui nào ngay cả khi nhận được những lời khen. Bà mô tả việc bị cắt xén tác phẩm là một “sự cắt cụt”. Bà không thích bản dịch. Bà lại không có quyền lựa chọn nhan đề tiếng Anh của cuốn sách, theo bà đáng ra phải là Lies and Sorcery. Bà biết về ý định chỉnh sửa của nhà xuất bản Harcourt, Brace từ tháng Một năm 1949, nhưng bà không thể làm gì để ngăn cản. Elsa viết một bức thư đầy giận dữ gửi đến Giulio Einaudi, giám đốc nhà xuất bản Ý của mình:

“Thật kỳ lạ khi một tác giả lại phải đứng ra bảo vệ những quyền lợi vốn dĩ hiển nhiên đến vậy. Tôi không hiểu sao các nhà xuất bản nước ngoài lại không nhận ra rằng sức nặng và sự phức tạp của một tác phẩm - đặc biệt là những cuốn sách không chỉ đơn thuần để đọc giải trí mà còn được viết như các tác phẩm nghệ thuật - không phải tự nhiên mà có, mà là kết tinh của tư duy sâu sắc và nỗ lực bền bỉ. Chỉ có tác giả mới hiểu được lý do và mục đích của tác phẩm mình. Vì thế, việc cắt xén một cuốn sách mà không có sự cho phép của tác giả không chỉ gây tổn hại về tinh thần và vật chất cho người viết, mà còn trở thành một hành vi lạm dụng có thể bị xử lý theo pháp luật.”

Mặc dù Elsa đe dọa sẽ có hành động pháp lý, nhưng mọi chuyện cũng chẳng đi đến đâu. (Cả Einaudi và Ginzburg đều đồng cảm với lập trường của bà.) Là một tác giả mới thực sự bước chân vào sự nghiệp - còn quá non nớt để lường trước những tổn hại có thể xảy ra với tác phẩm - bà hoàn toàn bất lực. Trong hợp đồng không có điều khoản nào ngăn cấm hay giới hạn việc biên tập. Bản thảo chỉ bất khả xâm phạm ở trong tâm trí bà.

Giải thích từ đại diện từ Mỹ mang đầy tính thực tế. Sanford Greenburger - một nhà môi giới văn học danh tiếng, từng đại diện cho Franz Kafka và đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các tác phẩm của Faulkner và Hemingway ra quốc tế - cho rằng House of Liars quá dài đối với độc giả Mỹ và sẽ không thể xuất bản nếu không được rút gọn. Ngày 3 tháng Một năm 1952, trong tâm trạng chán nản và thất vọng, Elsa lại viết thư cho Einaudi, than rằng ấn bản Mỹ chẳng khác nào một tác phẩm xa lạ đối với bà, và rằng việc nó được xuất bản theo cách đó là một trong những điều đau đớn nhất xảy đến với bà suốt năm qua. “Họ đã tàn sát nó,” bà viết, “và điều kỳ lạ là thay vì làm nó nhẹ bớt thì họ lại khiến nó nặng hơn. Nếu đúng như anh nói rằng cuốn sách vẫn nhận được sự chú ý ở Mỹ dù bị đối xử tệ hại đến thế, thì điều đó có nghĩa là nó chứa đựng những giá trị bất khả xâm phạm.”

Sau kinh nghiệm đau đớn ấy, Elsa áp dụng một lập trường cứng rắn nhằm bảo vệ tác phẩm của mình trong các bản hợp đồng sách sau đó. Bà kiên quyết yêu cầu một điều khoản cấm mọi sự cắt xén hay chỉnh sửa tùy tiện, thậm chí còn quy định rõ những thay đổi về kiểu chữ có thể được thực hiện. Trong một bức thư gửi nhà xuất bản, bà giải thích rằng bà đã hình dung một nhịp kể chuyện nhất định. Mọi yếu tố trong tác phẩm đều được bà cân nhắc kỹ lưỡng, và chúng “prendono un valore non solo tipografico, ma anche poetico” [không chỉ mang giá trị về mặt trình bày, mà còn mang giá trị thi ca].

Tim Parks từng đề cập đến điều này một cách gián tiếp trong cuộc phỏng vấn năm 2010. “Tôi nghĩ rằng phần nào đó, tác giả luôn mong muốn tác phẩm của mình đến với thế giới mà không qua trung gian,” ông nói, “và rằng bản sắc đặc biệt của họ không bị xem là một sản phẩm của văn hóa hay của ngôn ngữ, mà là một cá tính độc nhất vô nhị, có thể được công nhận ở bất cứ đâu.” Ông nói về hoạt động dịch thuật nói chung, nhưng nhận xét này cũng phản ánh tinh thần quyết liệt của Elsa trong việc đảm bảo rằng tác phẩm của bà phải được chuyển tải nguyên vẹn như khi bà viết ra.

Alberto từng nhận xét về vợ mình: “Cô ấy có một quan niệm riêng về thi ca, và bất kỳ ai chỉ trích quan niệm đó thì mặc nhiên là sai. Cô ấy cứng rắn đến mức gần như một kẻ sùng đạo.” Đối với Elsa, ông nói, “đó là vấn đề lý tưởng văn chương”. (Có lẽ, bên cạnh sự tận tâm và hy sinh, phẩm chất này cũng là một dấu ấn của nghệ sĩ đúng nghĩa: một lý tưởng thuần khiết, miễn nhiễm với các yếu tố bên ngoài.) Sự khắt khe ấy của Elsa còn mở rộng đến cách bà đánh giá các tác giả khác. Alberto nhớ lại rằng khi Elsa đọc Ulysses, dù bà nhận thức được tầm quan trọng của tác phẩm, nhưng vẫn ghi chép đầy những bình luận “không tán thành” bên lề trang sách: “Joyce không phù hợp với quan niệm thi ca của bà ấy.”

Ấn bản bị “tàn sát” của House of Liars còn giáng thêm một đòn nặng nề khác: phần giới thiệu trên bìa sách ghi rằng “cuốn tiểu thuyết dài và xuất sắc này, từng giành giải thưởng văn học danh giá của Rome - giải Viareggio - là tác phẩm đầu tay của Elsa Morante, cũng là phu nhân của Alberto Moravia”. Chỉ một gợi ý mơ hồ về việc Elsa là “vợ của” ai đó cũng đủ khiến bà tức giận. Thậm chí, bà từng trách mắng cháu trai yêu quý của mình, Daniele Morante, chỉ vì anh đã gửi thư cho bà dưới tên “Elsa Moravia”.

Dịch giả danh tiếng William Weaver - người đã chuyển ngữ tác phẩm của Italo Calvino, Primo Levi và Umberto Eco, cùng nhiều tác giả khác trong sự nghiệp kéo dài hàng thập kỷ của mình - chỉ mới ngoài hai mươi khi ông kết thân với Elsa và Alberto. (Sau này, ông dịch tác phẩm của cả hai.) Ông sớm nhận ra rằng giao tiếp với họ đòi hỏi một sự tinh tế nhất định. “Tôi nhanh chóng học được quy tắc khi mời Elsa,” ông từng nói. “Điều quan trọng NHẤT là không được đưa ra lời mời kép. Tuyệt đối không được nói: ‘Hai người có thể đến không...?’ Thậm chí, việc sử dụng đại từ số nhiều voi cũng là một vi phạm nghiêm trọng đối với nguyên tắc cá nhân của Elsa. Đôi khi, bà chỉ trả lời gọn lỏn: ‘Không.’ Nhưng thường thì bà sẽ lạnh lùng đáp: ‘À, anh muốn gặp Alberto à? Gọi anh ấy bằng số này...’ rồi đưa số điện thoại phòng làm việc của ông ấy.” Mẹo để mời cả hai mà không khiến Elsa phản ứng là đề cập với bà một cách thật tự nhiên rằng nếu Alberto rảnh, ông ấy cũng có thể tham gia. Weaver kết luận: “Elsa căm ghét việc bị coi là ‘bà Moravia.’”

Khi Weaver mới đến Rome, không lâu trước thời điểm Menzogna e sortilegio được xuất bản, ông chưa hề biết Elsa là một nhà văn mà chỉ đơn thuần nghĩ bà là vợ của Alberto Moravia. (“May mắn là bà ấy không biết về sự thiếu hiểu biết này của tôi”, ông hồi tưởng.) Khi cuốn tiểu thuyết ra mắt, Weaver đi mua ngay “tập sách Einaudi dày cộp” và mang đến bữa tối để xin Elsa ký tặng. Ông thú nhận rằng mình vẫn chưa đọc tác phẩm (“Tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nhận cơn thịnh nộ của bà ấy”), nhưng phản ứng của Elsa lại khiến ông bất ngờ và thích thú. “Ôi, tôi ghen tị với anh biết bao!” bà thốt lên. “Tôi ước gì mình có thể đọc cuốn sách của chính mình với một tâm trí hoàn toàn vô tư! Anh sắp có một trải nghiệm tuyệt vời đấy! Anh thực sự may mắn lắm!” Weaver không trách sự ham mê ấy mà miêu tả tình yêu của Elsa dành cho tác phẩm là một tình yêu “trẻ thơ, hồn nhiên, thuần khiết và trọn vẹn”.

Weaver, người được xem là dịch giả vĩ đại nhất từ tiếng Ý sang tiếng Anh, qua đời năm 2013 ở tuổi chín mươi, trở thành bạn thân suốt đời với nhiều tác giả mà mình từng chuyển ngữ. Sinh ra ở Virginia, Weaver nói giọng Nam Mỹ nhẹ và từng theo học tại Đại học Princeton trước khi bỏ học để gia nhập American Field Service làm tài xế xe cứu thương trong chiến tranh, di chuyển giữa Naples và Monte Cassino. Là một người theo chủ nghĩa hòa bình, ông kể lại nhiều năm sau đó: “Tôi mặc quân phục, nhưng may mắn là tôi không phải mang theo súng.” Chưa từng nghĩ đến việc trở thành dịch giả, Weaver đem lòng yêu nước Ý và con người nơi đây, rồi quyết định định cư tại một pensione ở Rome sau chiến tranh. Ông bắt đầu tự học tiếng Ý từ con số không, và vào mùa đông năm 1947, khi Weaver mới quen Elsa và Alberto, ông vẫn chỉ là một người chập chững học ngôn ngữ chứ chưa phải là dịch giả bậc thầy sau này, người sẽ dày công gìn giữ nhịp, tiết tấu và sắc thái nguyên bản của tác phẩm gốc. Thời điểm đó, hai vợ chồng vừa chuyển đến căn hộ trên phố Via dell’Oca, không xa nơi Weaver sống. Thỉnh thoảng khi gặp Alberto trên đường, ông lại nhập hội với người bạn của mình trong các cuộc dạo bộ quanh khu phố. Alberto rất thích đi bộ vào buổi chiều, đôi khi lên đến sáu dặm một ngày. Ông khẳng định rằng mình chỉ đơn thuần quan sát mọi người và các cửa hiệu, không suy nghĩ về công việc hay bất cứ điều gì khác. “Có lẽ vì đã từng bị cô lập quá lâu do căn bệnh của mình, nên hầu hết thời gian đầu tôi hoàn toàn trống rỗng”, Alberto nói. “Tôi ở trong trạng thái chiêm nghiệm, hoặc nếu anh thích, một sự mơ mẩn hoàn toàn tự nhiên.”

Mỗi khi Weaver được mời tham gia những cuộc dạo bộ này, ông luôn cảm thấy thích thú. “Một người sinh ra ở Rome như Alberto biết từng viên gạch của thành phố; ngay cả một tòa chung cư buồn tẻ hay một nhà thờ nhỏ tồi tàn nhất cũng có thể khơi gợi trong ông những chuỗi liên tưởng và ký ức rực rỡ”, Weaver nhớ lại. Phong cách trò chuyện của Alberto “tuôn chảy một cách tự nhiên, với những chuyển đổi đầy cuốn hút, những góc nhìn bất ngờ”, và ông còn có một tràng cười nghe vô cùng sảng khoái.

Đôi khi, Weaver cùng Elsa, Alberto và những người bạn khác đi chơi tối, và hiếm hoi hơn, ông có những buổi ra ngoài riêng chỉ với hai vợ chồng họ. Những buổi tối thân mật như vậy “luôn tiềm ẩn rủi ro”, ý ông là chẳng ai có thể chắc chắn khi nào một cuộc cãi vã có thể nổ ra, nguyên nhân của nó là gì, hay khi nào nó sẽ kết thúc. “Chúng tôi cãi nhau suốt,” Alberto nhớ lại, “và những trận đấu khẩu của chúng tôi nổi tiếng khắp giới nghệ sĩ và trí thức.” Bernardo Bertolucci, người sau này trở thành bạn của cặp vợ chồng, kể rằng có lần, giữa một cuộc tranh cãi gay gắt với Elsa tại nhà hàng, Alberto đã phải bỏ đi bộ một vòng quanh khu phố để bình tĩnh lại. (Dù vậy, Bertolucci vẫn rất thích những cuộc trò chuyện buổi tối với họ. Khi cha ông thúc giục ông vào đại học, Bertolucci trả lời: “Trường đại học của con chính là những bữa tối mỗi đêm với Elsa Morante, Alberto Moravia và Pier Paolo Pasolini.”) Weaver nhận xét rằng Elsa có thể vịn lấy bất kỳ lý do nhỏ nhặt nào để trách móc chồng, kể cả khi đó hoàn toàn không phải lỗi của ông: nếu quán ăn họ định đến đóng cửa, nếu phục vụ tệ, hay nếu món ăn yêu thích không còn trong thực đơn.

Cũng giống như mẹ bà từng làm với cha bà, Elsa không ngần ngại hạ nhục Alberto, thậm chí chế giễu ông là bất lực ngay trước mặt mọi người. Sự hung hăng của bà dường xuất phát từ nhu cầu khiêu khích, thách thức và chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Khi tranh luận, Elsa gần như luôn tin rằng mình đúng, và bà nhất quyết không chịu nhượng bộ. Quan trọng hơn cả, bà luôn luôn phải là người đặt lời kết. Lily Tuck viết trong Woman of Rome rằng Elsa “luôn thẳng thắn, bà có một nỗi ám ảnh về sự thật, bất kể nó có gây tổn thương hay hung hăng thế nào, và thường đưa ra những yêu cầu đầy khiêu khích”. Cesare Garboli từng mô tả sự đối lập đầy dữ dội trong tính cách của Elsa: “Mỗi lần gặp sẽ là một trận chiến hoặc một cuộc hòa giải. Elsa là một kẻ ăn thịt người, gây chiến là cách bà ấy sống; với bà ấy, người ta hoặc là tấn công, hoặc là rút lui, hoặc cắn, hoặc bị cắn.”

Bà dường tìm thấy niềm vui và nguồn năng lượng từ những cuộc tranh cãi. Bà luôn luôn cố gắng khiêu khích người chồng có xu hướng né tránh của mình để khiến ông nổi giận. Alberto từng nói rằng sự tàn nhẫn có thể thể hiện qua giọng điệu lẫn ngôn từ được lựa chọn để gây tổn thương; Elsa tàn nhẫn theo cả hai cách. Là một người có “khả năng trong việc không cảm thấy bị xúc phạm”, Alberto hiếm khi phản ứng, nhưng chính điều này lại là vấn đề. Ông biết rất rõ rằng sự thờ ơ của mình khiến Elsa phát điên, ông thừa nhận rằng bà luôn buộc tội ông có một “thói vô tâm vô phương cứu chữa” - thứ khiến ông không thể phản ứng bằng cảm xúc thay vì lý trí. Ngay cả trong cuộc trò chuyện kéo dài với Alain Elkann, điều này cũng trở thành một nguồn cơn gây bực bội. Elkann thậm chí đến một lúc phải thốt lên: “Ông có thể ngừng lý trí hóa tất cả câu trả lời của mình trong giây lát thôi được không?”

Trong một cuộc phỏng vấn, Tim Parks từng nhận xét về mối quan hệ giữa Morante và Moravia, nhấn mạnh rằng Alberto luôn luôn tỏ ra “lạnh lùng” với mối quan hệ này, một người sẽ “không bao giờ dốc lòng hoàn toàn, còn Elsa lại là một phụ nữ trẻ đầy ham mê... quyết tâm được ông ấy sùng bái. Có lẽ chính vì ông không bao giờ thật sự tôn thờ bà nên bà cứ mãi cố gắng khiến ông làm vậy, rồi lại trừng phạt ông vì không làm được.”

Weaver nhớ lại một lần khi ông ở nhờ một căn hộ và rất háo hức mời bạn bè đến chơi. Elsa là một vị khách khó chiều. Mỗi lần ông mời bà ăn tối, Elsa luôn là người quyết định giờ giấc, và bà sẽ đưa ra những yêu cầu về chế độ ăn uống, điều đặc biệt là chúng thay đổi từ lần này sang lần khác. (Nhu cầu kiểm soát của bà không chỉ dừng lại ở cuộc sống cá nhân mà còn mở rộng đến cả công việc. Năm 1951, bà được thuê làm người dẫn một chương trình đánh giá phim hng tuần trên đài phát thanh quốc gia Ý, RAI, nhưng công việc này không kéo dài lâu: khi bị gây áp lực phải đánh giá tích cực một bộ phim cụ thể, bà nhất quyết từ chối nhượng bộ và bà bị sa thải.)

Elsa còn có một đặc điểm mà Weaver gọi là “ngưỡng chịu đựng sự nhàm chán rất thấp”. Điều này khiến bà phản ứng theo hai cách: hoặc là nghịch ngợm với một niềm vui trẻ con, bày trò trêu chọc bằng những trò chơi tinh quái mà bà tưởng tượng ra, hoặc là hoàn toàn phớt lờ mọi người. Weaver nhớ lại một buổi tụ tập tại căn hộ của mình khi Elsa phát hiện ra một loạt tạp chí nghệ thuật Pháp giá sách. Thay vì giao tiếp, bà dành cả buổi tối ngồi bệt xuống một góc sàn nhà, lật giở từng số tạp chí và không nói một lời với ai.

Với Elsa, không ai có thể biết trước điều gì sẽ xảy ra. Bà có năng khiếu nói thật khiến những người xung quanh khó chịu. Có lần, khi cháu trai bà là Daniele đưa người vợ thứ hai đến ra mắt, Elsa ngay lập tức bị sốc khi thấy người phụ nữ này không cạo lông nách, và cho rằng cô là một nhà nữ quyền cực đoan. Mọi chuyện nhanh chóng leo thang, và Elsa trong cơn giận dữ đã nói thẳng rằng cô ấy không bao giờ được quay lại nhà bà nếu vẫn để lông như vậy. Người vợ ấy không bao giờ trở lại.

Elsa cũng có thể là một người bạn đồng hành tuyệt vời - một người biết lắng nghe, một người kể chuyện cuốn hút, và vô cùng ấm áp. Daniele nhớ về bác mình: “Bên cạnh di sản văn chương mà bà để lại, còn có những cuộc trò chuyện của bà, thậm chí chỉ cần sự hiện diện của bà thôi cũng sắc sảo và đáng nhớ như chính những trang sách của bà vậy.” Những ai gặp bà mà không hề biết mình đang đứng trước một nhà văn vĩ đại “cũng nhanh chóng bị cuốn hút, bất kể họ có muốn đi tìm đọc sách của bà hay không”. Bà có một khiếu hài hước u ám. Cesare Garboli từng kể rằng Elsa nói với ông: “Tôi đã biết mình sẽ làm gì khi chết rồi. Anh sẽ tìm thấy một mẩu giấy trong phong bì, trên đó có dòng chữ: torno subito [‘Tôi sẽ quay lại ngay’].” Elsa rất thích tặng quà và thường xuyên trả tiền cho những bữa ăn với bạn bè ngoài quán. Bà trung thành, cuốn hút, hào phóng với những tràng cười của mình, và là người mà sự hiện diện bên cạnh luôn luôn mang lại cảm giác “kích thích, sôi động, thậm chí còn làm cho ta phấn khích theo nghĩa nghiêm túc nhất của từ đó”. Daniele tin rằng Elsa “có thể sống cả đời mà không cần viết một dòng nào, nhưng vẫn mãi được ghi nhớ trong lòng những ai từng có cơ hội ở bên bà”. Nhưng bà cũng khao khát được yêu thương một cách tuyệt vọng, điều đáng buồn là bà không hề nhận ra rằng mình đã được yêu. Một lần, khi một người bạn nhà báo nói với Elsa rằng ông yêu bà, và rằng có rất nhiều người yêu quý bà, đột nhiên bật khóc nức nở. “Per tutta la vita non ho desiderato che questo,” bà nghẹn ngào: “Cả đời tôi chưa từng mong muốn điều gì khác ngoài điều này.”

Bên cạnh sự gay gắt và tính khí có thể khiến ngay cả những người yêu quý mình phải e dè, Elsa cũng có một mặt dịu dàng, biết chăm sóc người khác, và đôi khi đóng vai trò như một người nâng đỡ văn chương. Bà giúp đỡ bạn bè vào những thời điểm bất ngờ và theo những cách không ai đoán trước được. Một người bạn diễn viên của bà, Allen Midgette (người từng sống ở Ý một thời gian và xuất hiện trong vài bộ phim của Bertolucci), từng nghèo đến mức lo sợ mình có thể chết đói. Một ngày nọ, khi trở về căn hộ, ông thấy Elsa đã ném một con heo đất qua cửa sổ của mình. Nhưng bà cũng vô cùng nhạy cảm trước những lời xúc phạm và các hành động vô tâm từ người khác. Chẳng hạn, Alberto có thói quen hay để quên những lá thư Elsa gửi cho ông trên bàn trong các khách sạn và quán ăn. Như một sự trả đũa nho nhỏ, bà bắt đầu đánh dấu thư ông gửi cho mình bằng dòng chữ “Trả lại người gửi.”

Ai quen biết Elsa đều hiểu sự quyết liệt trong nguyên tắc sống của bà. Cũng như bà có thể hào phóng và dịu dàng, là một người bạn đồng hành tuyệt vời trong những bữa tối, thì bà cũng có thể trở nên gay gắt trong chớp mắt. Nếu cảm thấy ai đó nói điều gì ngu xuẩn hay phản lại các nguyên tắc của mình, bà không thể kìm được mà xé vụn người đó bằng lời nói. Bà thẳng thừng khiển trách một người bạn nếu họ buông lời bất cẩn và tuyệt nhiên không chấp nhận điều vô nghĩa. Daniele nhớ lại: “Ngay cả khi đang ở quán ăn hay một nơi công cộng nào đó, bà ấy cũng không ngần ngại can thiệp, một cách trực diện và bằng một giọng đầy giận dữ, vào cuộc trò chuyện của bàn bên nếu bà nghe thấy điều gì đó mà bà nghi ngờ là phân biệt chủng tộc, là chủ nghĩa phát xít, hoặc đơn giản là thô tục.”

Dù luôn bộc lộ cảm xúc một cách mạnh mẽ, Elsa lại rất né tránh những cử chỉ thân mật về thể xác. Nói chuyện thì ổn, không kể trong cơn nóng giận, nhưng động chạm thì không. Ngay cả khi Alberto trở về sau một chuyến đi dài, bà cũng không thích ôm ông. Nếu bạn bè cố gắng hôn bà, bà sẽ lùi lại, tạo ra những khoảnh khắc đầy gượng gạo. Với những người thân thiết nhất, Elsa có thể đưa tay ra bắt, nhưng đó là giới hạn của mọi tiếp xúc vật lý. Tuy vậy, bà lại là một người viết thư cuồng nhiệt. Dù gặp gỡ bạn thân Pier Paolo Pasolini gần như mỗi ngày, nếu không thể, bà và ông vẫn duy trì thư từ bằng thơ: có lần Pasolini gửi bà một calligram tạo hình một bông hồng, và Elsa hồi đáp bằng một bài thơ có hình dáng một con mèo. (Đến cuối đời, Elsa đã tích được một kho thư từ khổng lồ hơn năm nghìn bức chồng chất hỗn độn, song mãi đến năm 2012, người cháu trai Daniele Morante mới biên tập và xuất bản chúng.)

Trong thư từ, Elsa thường bộc lộ sự yếu đuối của mình, như trong bức thư gửi Luchino Visconti năm 1953, khi bà tự nhận mình không phải “una vera scrittrice” [một nhà văn đích thực]: “Ngay cả khi em đã viết một cuốn sách, em cũng không phải là một nhà văn đích thực. Dạo này em nói với mọi người rằng em lúc nào cũng đang làm việc, và họ tin. Nhưng điều đó không đúng. Em chỉ nói thế để tránh phải dự tiệc cocktail.” Dù Elsa có thể khiến người đối diện e dè trong đời thực, thư từ của bà lại bộc lộ sự chân thành, cùng những tình cảm ngưỡng mộ và yêu mến từ bạn bè - như Italo Calvino, người đã viết thư từ Turin vào ngày 2 tháng Ba năm 1950, bày tỏ niềm vui khi nhận được thư, “đặc biệt nếu chúng phát xuất từ một trong số rất ít những người như chị, một người mà tôi có thể nói được điều gì đó”.

 

“Có thể chị không thích nghe một tác giả nói về cuốn sách của mình với một thái độ lạnh lùng, xa cách, trong khi chị lại gắn bó đến tận cùng với những gì mình làm, gần như đồng nhất bản thân với chúng. Nhưng chị thấy đấy, chị có một năng khiếu hiếm có: chị có thể dung hòa các yếu tố tưởng như không liên quan, khiến mọi thứ hoạt động nhịp nhàng, và sở hữu một năng lực tổng hợp vô cùng mạnh mẽ, một phẩm chất hiếm thấy ở phụ nữ (hiếm? Mà có lẽ, khả năng tổng hợp chính là món quà đặc trưng nhất nơi phụ nữ). Chị cảm nhận thế giới như một thứ bị xé nát thành từng mảnh, và những điều đáng để nắm giữ thì lại quá nhiều, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Thế nhưng, bằng sự kiên định sáng suốt và giàu lòng yêu thương, chị vẫn luôn luôn tìm ra cách gắn kết mọi thứ. Còn tôi, ngược lại, viết lách luôn là một hành trình đơn tuyến, một sự đặt cược tất tật vào độc một hướng đi, nhưng luôn ý thức rằng còn những con đường khác, ý thức về rủi ro, và cả nỗi bất lực khi không thể nói hết tất cả những gì mình muốn. Chính vì thế mà văn chương của tôi luôn là một nỗi trăn trở.

Dù sao đi nữa tôi cũng sẽ gửi chị Il Bianco Veliero. Tôi muốn một đánh giá khách quan, chi tiết, nghiêm túc từ chị và tôi sẽ trân trọng nó vô cùng.”

Khi bước sang tuổi bốn mươi, Elsa dốc hết sức vào cuốn tiểu thuyết thứ hai của mình, L’isola di Arturo (Hòn đảo của Arturo), trong lúc đó Alberto vẫn duy trì một sức sáng tạo đáng kinh ngạc. (Đến cuối đời, ông đã xuất bản hàng loạt tiểu thuyết, tuyển tập truyện ngắn, kịch, kịch bản phim, bản dịch và nhiều tác phẩm khác.) Năm 1953, ông còn góp phần sáng lập tạp chí cánh tả Nuovi Argomenti, một trong những tạp chí văn chương danh giá nhất của Ý.

Đóng góp duy nhất mà Elsa có thể gọi là “bổn phận của một người vợ” cho sự nghiệp của chồng là việc bà đã gợi ý nhan đề La romana, cuốn tiểu thuyết đưa Alberto vang danh quốc tế khi ông bước sang tuổi bốn mươi. Ông chỉ định viết một truyện ngắn, nhưng sau khi hoàn thành bản thảo trong vòng bốn tháng, ông nhận ra rằng nó phải là tiểu thuyết. Ông đã viết lại hai lần, rồi chỉnh sửa bản thảo lần thứ ba với những chi tiết sửa chữa tỉ mỉ trước khi cảm thấy hài lòng. Trong cuộc phỏng vấn với Paris Review, Alberto giải thích rằng ông luôn luôn lấy chính kinh nghiệm của mình làm chất liệu để xây dựng tâm lý nhân vật cũng như mọi yếu tố khác trong tác phẩm, nhưng “không theo nghĩa tư liệu hay sách giáo khoa”, ông nói. “Không, tôi đã từng gặp một người phụ nữ La Mã tên là Adriana. Mười năm sau tôi viết cuốn tiểu thuyết này từ cảm hứng đầu tiên mà cô ấy mang lại. Có lẽ cô ấy chưa bao giờ đọc nó. Tôi chỉ gặp cô ấy đúng một lần; tôi tưởng tượng mọi thứ, tôi đã bịa ra tất cả.”

Từ thời điểm đó, sự nghiệp tiểu thuyết của ông thăng hoa, đưa ông trở thành một trong những nhà văn được yêu thích nhất ở Ý. Đến năm 1957, Alberto đã xuất bản tám cuốn sách và giành giải thưởng Strega với I racconti - tuyển tập truyện ngắn viết từ năm 1927 đến 1950. (Năm 1955, Gianni Franciolini chuyển thể thành phim.) Cùng năm La romana ra mắt, ông còn cho xuất bản hai tiểu thuyết khác: L’amore coniugale (Conjugal Love) Il conformista (The Conformist) - câu chuyện về một người đàn ông sợ hãi bản thân mang xu hướng bạo dâm và đồng tính đến mức che giấu nó bằng cách trở thành một đặc vụ cảnh sát phát xít.

Tiểu thuyết năm 1954 của ông, Il disprezzo (Contempt), viết về một cuộc hôn nhân đầy sóng gió, một tấm gương phản chiếu chính mối quan hệ của ông, phừng phừng thù nghịch. Ông sáng tác tác phẩm này trong giai đoạn đặc biệt bức bối với vợ. Năm đó, Alberto cùng Elsa thực hiện một chuyến đi dài, bắt đầu từ Ai Cập. Ông lên tàu trước, với kế hoạch Elsa sẽ bay sang từ Ý để hội ngộ. Khi đến Cairo, Alberto gửi cho Elsa một bức điện, nhờ bà mang theo áo khoác của mình - một yêu cầu rất nhỏ. Nhưng ông đã phạm một sai lầm tai hại: vô tình ghi tên người nhận là “Elsa Moravia”. Elsa vẫn mang áo khoác đến, nhưng suốt những ngày đầu của chuyến đi, bà giữ một thái độ cau có, hậm hực vì sự xúc phạm ấy. Điều này phủ một bầu không khí nặng nề lên cả hành trình, và ngay khi về đến Rome, Alberto tuyên bố rằng ông sẽ không bao giờ đi đâu xa cùng bà nữa.

Sau này, Alberto nhìn nhận Il disprezzo là “một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tôi, bởi nó vừa xuất phát từ cảm xúc sâu sắc, vừa hoàn toàn mang tính hư cấu”. Nhiều thập kỷ sau, trong cuộc trò chuyện với Alain Elkann, ông thú nhận: “Có những ngày tôi chỉ muốn giết cô ấy.” Chắc chắn Elsa cũng từng có suy nghĩ tương tự với ông, không chỉ một lần. Nhưng câu chuyện từ phía bà chỉ có thể được chắp vá từ những mảnh vụn còn sót lại: nhật ký, bài phỏng vấn, tiểu luận và thư từ. Alberto luôn thoải mái chia sẻ về cuộc sống và sự nghiệp của mình, nhưng Elsa thì quyết liệt bảo vệ sự riêng tư. Bà từng nói thẳng rằng tất cả những gì bà muốn nói, và tất cả những gì cần biết về bà đều đã nằm trong tác phẩm của bà. Bà ghét bị phỏng vấn hoặc bị chụp ảnh.

Những lúc hôn nhân rơi vào khủng hoảng, Alberto không thể chịu đựng nổi ý nghĩ ly hôn - một giải pháp có thể xem là hợp lý nhất - bởi, như ông thẳng thừng viết trong Life of Moravia: “Giết người có vẻ còn dễ hơn chia tay.” Thế nhưng trong tác phẩm của mình, ông chưa bao giờ để cảm giác căng thẳng tràn lên trang sách như một cách giải tỏa. Ông từng mô tả tình yêu là “một thảm họa hiện sinh”, và đó không phải là điều ông từng trải qua với Elsa. Giữa họ không có sự hòa hợp về mặt thể xác. (Elsa đã sớm đề cập đến điều này trong nhật ký của mình.) Nhưng ông có yêu bà và không bao giờ cảm thấy nhàm chán khi ở bên người phụ nữ mãnh liệt, thất thường và cuốn hút như bà. Ông thường nói về bà với sự ngưỡng mộ thiên tài nơi bà bất chấp tình trạng hôn nhân của họ. Ông vô cùng thích thú và hãnh diện về sự nghiệp của bà. Thế nhưng có những lúc lối hành xử của bà hoàn toàn không lý giải nổi: một lần, trong phòng khách sạn ở Paris, Elsa đột nhiên rên rỉ rồi ngã gục xuống sàn. Hoảng hốt, Alberto vội lấy khăn ướt lau mặt cho vợ, nhưng vô ích. Bà vẫn nằm bất động. Ông cuống cuồng gọi bác sĩ, nhưng đó là ngày Chủ nhật nên không ai bắt máy. Ông ngồi sụp xuống giường, không biết phải làm gì tiếp theo, Elsa bỗng mở mắt và cười nắc nẻ. Giống như loài opossum, bà chỉ đơn giản đang giả chết.

Alberto khẳng định khi hai vợ chồng dần trở nên xa cách trong hôn nhân, ông không có tình nhân, chỉ là đôi khi có các “cuộc gặp”. Elsa lại chìm đắm trong những cơn si mê riêng của bà: một thời gian, bà bị cuốn vào vòng xoáy với vị đạo diễn lưỡng tính Luchino Visconti - người từng có một áp phe tình ái với Coco Chanel và mối đính ước với một công chúa Áo, trước khi đem lòng yêu một nhiếp ảnh gia nam. Đạo diễn Franco Zeffirelli cũng từng là người tình của Visconti. Trong những thập kỷ sau Thế chiến thứ hai, Visconti - một thành viên lâu năm của Đảng Cộng sản Ý và là một trong những nhân vật hàng đầu của chủ nghĩa tân hiện thực - đã đạt được danh tiếng quốc tế và đạo diễn của hơn một chục phim, trong đó có những bộ phim chuyển thể từ các tác phẩm của Dostoyevsky, Camus và Mann.

Ngay cả Marlene Dietrich cũng được cho là từng yêu ông. Elsa được cho là có một áp phe tình ái với Visconti vào năm 1955, khi Alberto đang ở Mỹ, nhưng không phải ai - kể cả bạn bà là Bertolucci - cũng tin rằng chuyện đó thực sự xảy ra, hoặc mối quan hệ này vượt quá những ảo tưởng mà Elsa tự vẽ ra. Bà có những mối quan hệ thân thiết, mang màu sắc mẫu tử, với một số người đồng tính nam, đặc biệt là đạo diễn kiệt xuất, gây tranh cãi và nhà văn Pier Paolo Pasolini, người bị sát hại vào năm 1975, khi mới năm mươi ba tuổi, và vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ. Thi thể bị sát hại của ông được phát hiện trên một bãi biển hoang vắng, một điểm hò hẹn ưa thích. Cuộc khám nghiệm tử thi tiết lộ những kết quả kinh hoàng. Trong số những hành động man rợ khác, Pasolini đã bị đánh đập bằng một tấm ván đóng đinh, rồi bị chính chiếc Alfa Romeo của mình cán qua.

Khi Elsa quen Visconti, ông đang đắm mình trong hàng loạt dự án sáng tạo, trong đó có việc dàn dựng vở Death of a Salesman của Arthur Miller, vở kịch đầu tiên của Miller được trình diễn tại Ý. Elsa dành rất nhiều thời gian bên cạnh Visconti, đến mức bà bắt đầu nói giọng Milan giống như ông. Có lần ông gửi tặng bà một con cú trong lồng. Thời gian đó, bà thường trở về nhà rất muộn, ngồi xuống cuối giường và tràn đầy hào hứng kể lại mọi chuyện trong ngày đã diễn ra cho Alberto. Ông lắng nghe một cách lịch sự, như ông nói, “giống một người bạn trìu mến”. (Theo lời ông, giữa họ đã không còn quan hệ thể xác từ nhiều năm trước.) Alberto từng hợp tác với Visconti trong quá khứ và mô tả ông là một người rất đẹp trai - “như bước ra từ một bức chân dung thời Phục hưng vĩ đại”. Sau hai năm của áp phe tình ái có thật hoặc chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng, Elsa tuyên bố với Alberto rằng bà sẽ bỏ ông để đến với Visconti. Nhưng kế hoạch vĩ đại của bà nhanh chóng tan tành khi người tình mà bà hằng mong đợi lại chẳng đến gặp bà. Elsa than khóc ầm ĩ, và theo Alberto, bà đã làm quá mọi chuyện lên. “Ngoài việc là một thiên tài văn chương như chúng ta đã biết,” ông nhận xét, “Elsa còn là một nhân vật với tài năng diễn xuất không hề nhỏ.” Dù vậy, khi Elsa tuyên bố bỏ mình vì Visconti, ý nghĩ về sự ra đi của bà vẫn khiến ông đau lòng. Alberto mô tả mối quan hệ của họ như một dạng cộng sinh - một thứ còn hơn cả tình bạn đơn thuần - mãnh liệt, dù không còn khía cạnh thể xác. Nhưng khi Elsa bị Visconti bỏ rơi và quay về, Alberto cũng chẳng thể nhẹ nhõm, bởi cuộc sống với bà đã trở nên gần như không thể chịu đựng nổi. Tác phẩm Luna di miele, sole di fiele, viết năm 1952, dường như phản ánh chính cảm xúc của Alberto, câu chuyện lấy bối cảnh ở Anacapri, nơi ông và Elsa từng đến sau đám cưới. Câu chuyện là bức chân dung ảm đạm của một cặp vợ chồng, Giacomo và Simona, vừa mới bắt đầu xây dựng cuộc sống chung, nhưng chú rể sớm bị ám ảnh bởi “sự bất khả của tình yêu” và nỗi bất an về chứng bất lực của mình. Chắc hẳn Alberto đã truyền tải cảm xúc của chính mình khi viết: “Anh cảm thấy một nỗi hoảng loạn mơ hồ, khi nhìn nàng một lần nữa và nhận ra rằng ý chí yêu thương của mình chỉ thuần túy là một hành động của trí óc, không hề chạm đến các giác quan.”

Đến lúc đó, Alberto và Elsa đã đạt được một đời sống trung lưu khá giả, trong một căn hộ được bài trí sang trọng với tranh vẽ, nội thất tinh tế và một bộ sưu tập đĩa nhạc đồ sộ. Bài giới thiệu cho cuộc phỏng vấn của Alberto với Paris Review năm 1954 mở đầu bằng một bức tranh sống động về căn hộ của họ trên phố Via dell’Oca:

“Ở một phía, kéo dài liên tục từ bờ sông Tiber đến phố Via Ripetta, là những ngôi nhà của tầng lớp lao động: một dãy cửa hẹp mở ra các cầu thang tối tăm, ẩm thấp; những ô cửa sổ chật chội; một chuỗi cửa tiệm nhỏ bé. Không khí tràn ngập mùi kẹo trái cây, mùi dầu mỡ từ các xưởng sửa chữa, hương rượu nho Castelli hòa lẫn với khói động cơ. Tiếng trẻ đường phố réo gọi, tiếng thử máy ầm ầm của một chiếc Guzzi, một giọng rít chói tai vang lên từ một sân chung.

Ở phía đối diện, những tòa nhà cao hơn, mang một vẻ lạc lõng mơ hồ, nhưng lại toát lên nét uy nghi trầm lặng của những đường gờ mái vẫn nguyên vẹn chưa sứt mẻ, những ban công tràn đầy giàn dây leo và chậu cây xanh mướt, được chăm chút cẩn thận - các ngôi nhà của tầng lớp khá giả. Và chính tại đây, trên con phố này, Alberto Moravia sinh sống, trong tòa nhà hiện đại bậc nhất khu phố, một cấu trúc nhô ra như một con đê bằng ngọc bích và ngà voi giữa sắc đỏ vàng của những công trình bao quanh.”

Những người phỏng vấn Alberto, Ben Johnson và Anna Maria de Dominicis, được chào đón tại cửa bởi “một cô gái da tối mặc chiếc váy đen truyền thống và tạp dề trắng”, trong khi tác giả lừng danh đứng sau cô trong hành lang, “đang kiểm tra một thùng rượu vừa được chuyển đến”. Alberto được mô tả là cao ráo và có vẻ nghiêm nghị: “Đường nét trên gương mặt ông ấy sắc cạnh như một cấu trúc hình học, ánh sáng phản chiếu tạo cảm giác lạnh lẽo, gần như kim loại; giọng nói trầm và cũng mang âm sắc lạnh - người ta không khỏi liên tưởng đến màu xám xanh của thép súng.”

Trong khi đó, Elsa vẫn còn vài năm nữa mới hoàn thành L’isola di Artuto. Câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, lấy bối cảnh vào những năm trước Thế chiến thứ hai, được kể qua giọng của Arturo Gerace khi nhớ về những năm tháng thơ ấu của mình trong một palazzo hai tầng màu hồng nhạt, đã xuống cấp, trên hòn đảo núi lửa Procida, vịnh Naples. (Người ta nói bà đặt tên nhân vật theo Arthur Rimbaud, nhà thơ mà bà yêu thích.) Suốt một thời gian dài, căn nhà của Arturo biểu trưng cho sự bao bọc. Cậu sống đơn độc nhưng hạnh phúc và vô tư, lang thang khắp đảo, nhảy xuống biển từ những vách đá cao nhất, ca hát, và chạm trán với “những sinh vật lạ lẫm”, trong đó có một loài động vật mà cậu mô tả là “giống lai giữa mèo và sóc. Không có mẹ, ký ức duy nhất của cậu về bà là một bức ảnh cũ mờ nhòe chụp khi bà còn mang thai. Người mẹ đã khuất ấy trở thành “đối tượng để tôi tôn thờ suốt thời thơ ấu”. Bà mất khi còn là một thiếu nữ, trong lúc sinh hạ cậu - một bi kịch mà Arturo tin là chứng cứ cho lời đồn địa phương rằng “phụ nữ ở trong ngôi nhà này thì nhất định sẽ gặp họa”. Lời nguyền ấy lan truyền mạnh đến mức không một người phụ nữ nào chịu đến làm người hầu cho gia đình cậu. Thực chất, căn nhà từng là một tu viện có tên Casa dei Guaglioni, tức Động của đám trai trẻ. “Và thế là tuổi thơ cô độc của tôi lặng lẽ trôi qua, trong ngôi nhà tuyệt nhiên không có một bóng dáng phụ nữ”, Arturo nhớ lại. Cậu thần tượng người cha “trầm lặng, cộc cằn và nhạy cảm” của mình, Wilhelm, một người coi thường phụ nữ và, không một lời giải thích, thường xuyên biến mất gần như suốt cả năm trời, để mặc con trai tự xoay xở. Arturo chẳng khác nào đứa trẻ mồ côi.

Cậu kể rằng mình chưa từng đến trường, phải tự học lấy mọi thứ, sống với vài bộ quần áo cũ, không quy lát, không giờ giấc, không bữa ăn cố định. Arturo say mê đọc sách và lấp đầy trí tưởng tượng bằng hàng trăm cuốn sách trong thư viện gia đình, ngấu nghiến những câu chuyện về các anh hùng dẫu có thật hay chỉ trong huyền thoại. Được giải phóng khỏi thế giới người lớn, nhưng cũng bị chính thế giới ấy bỏ rơi, Arturo tự dựng nên vũ trụ của riêng mình theo cách cậu muốn. Người bạn duy nhất của cậu, cũng là nguồn an ủi lớn nhất, là chú chó yêu quý Immacolatella: “Có người sẽ thắc mắc: “Sao lại nói nhiều về một con chó như thế?” Nhưng hồi còn nhỏ, tôi chẳng còn người bạn nào khác, và không thể phủ nhận rằng nó thực sự phi thường. Để trò chuyện với tôi, nó đã tự nghĩ ra một thứ ngôn ngữ riêng, như của những người câm điếc: qua ánh mắt, cái đuôi, tư thế, và những âm thanh trầm bổng từ giọng sủa, nó truyền đạt mọi ý nghĩ của mình; và tôi hiểu được tất cả.” Immacolatella luôn luôn bên cậu, ngay cả trên chiếc thuyền nhỏ mà cậu thường chèo đi khắp nơi. Nhưng rồi, bi kịch cũng sẽ cướp mất nó khỏi cậu.

Một ngày nọ, Wilhelm đưa về nhà một người vợ mới và nói với con trai: “Vậy là từ nay, con có một người mẹ mới.” Người phụ nữ ấy mới mười sáu tuổi, lớn hơn Arturo hai tuổi, và sự xuất hiện của cô nhanh chóng trở thành nỗi giày vò đối với cậu, khi những cảm xúc phức tạp và mâu thuẫn bắt đầu trỗi dậy. Wilhelm đối xử thô bạo với vợ, phần lớn thời gian phớt lờ cô, nhưng lại say mê một phạm nhân trẻ trong nhà tù trên đảo. Chính sự mê đắm này đã khơi mào một chuỗi sự kiện bi kịch, tước đi sự ngây thơ cuối cùng của Arturo và bóp nát hoàn toàn ảo tưởng rằng hòn đảo này là một nơi trú ẩn an toàn. Cuối cùng, tất tật những gì còn lại trong cậu chỉ là “một nỗi buồn mơ hồ, không còn cảm xúc dành cho bất kỳ ai”. Và rồi chiến tranh ập đến, “cận kề, không thể tránh khỏi”. Đi khỏi Procida đồng nghĩa với từ bỏ thiên đường tuổi thơ của mình, nhưng với Arturo, nó đã mất từ lâu. Cậu sẵn sàng ra đi, thậm chí gần như háo hức để trở thành một người lính.

Nỗi chua xót của Hòn đảo của Arturo nằm ở việc khám phá một thế giới thuần khiết, ngây thơ - tách biệt khỏi các mặc cảm của tuổi trưởng thành: tình dục, phản bội, bạo lực, ruồng bỏ - cho đến khi tất tật những gì Arturo dày công dựng nên sụp đổ tan tành. Bi kịch cũng nằm ở chính sự không cam lòng của Arturo khi cậu buộc phải từ bỏ thế giới mà cậu đã tự dựng nên - một thế giới ngập tràn niềm tin và hy vọng - cho đến khi thực tại tàn nhẫn đẩy cậu ra khỏi đó. Thực tại vừa đáng sợ, vừa tàn khốc.

Không phải ngẫu nhiên mà tuổi trẻ của Arturo lại được đặt trong bối cảnh cùng thời với những năm tháng trưởng thành của Elsa, hay rằng nhân vật chính của bà là một cậu bé. “Arturo, c’est moi!” [Arturo chính là tôi!], bà đã thốt lên như vậy. Elsa từng khẳng định rằng bà muốn trở thành con trai, thậm chí tin rằng có lẽ mình đã từng là một cậu bé trong kiếp trước. Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi, bà giải thích rằng dù Arturo sống trên một hòn đảo gần Naples, “những người ở đó không mang chất Neapolitan, mà rất giống người Sicily”, bà nói. “Tôi luôn bị mê hoặc bởi những con người xuất thân từ những hòn đảo u tối của Địa Trung Hải, và khi viết về Arturo tôi có thể trở thành moi-même. Và tôi luôn ước mình là một cậu bé, một cậu bé như Arturo, người có thể săn bắn, câu cá, leo lên những vách đá cao chót vót, ăn mặc xuề xòa, và mang trong mình các giấc mơ cùng ảo tưởng đẹp đẽ.”

Elsa luôn luôn yêu quý trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, và về sau bà từng nói với sự nuối tiếc về việc mình chưa bao giờ trở thành một người mẹ. Có lẽ, những thứ duy nhất bà yêu thương không kém gì trẻ con chính là đàn mèo và việc đắm mình trong âm nhạc - đặc biệt là Mozart, người mà bà coi là có ảnh hưởng lớn nhất đến mình. Tuy nhiên, như Tuck viết trong Woman of Rome: “Nhìn lại, thật khó hình dung Elsa sẽ theo đuổi sự nghiệp văn chương như thế nào nếu bà có con, và khó mà tưởng tượng bà sẽ là kiểu người mẹ ra sao.” Thực tế, bà cũng chẳng có một hình mẫu lý tưởng nào để noi theo. Tuck cho rằng niềm ham mê suốt đời của Elsa dành cho những chàng trai trẻ đẹp, đồng tính xuất phát từ một cảm giác an toàn: có một sự rung động nhưng không có khả năng dẫn đến tình dục. Tuy nhiên, Tuck tin rằng sự thu hút này “có liên quan nhiều hơn đến bản năng làm mẹ của Elsa và khao khát có một đứa con trai... Tình cảm bà dành cho những chàng trai trẻ ấy có thể sánh với tình yêu mà bà lẽ ra đã dành cho chính đứa con của mình”.

Cùng lúc đó, Elsa luôn ghen tị với sự tự do và quyền lực của đàn ông. Họ có thể trở thành những người hùng trong chính cuộc đời mình. Còn những đứa con gái, trong mắt bà, lại là biểu tượng của sự bị động và yếu đuối, mặc dù có lẽ chính nỗi tự khinh ghét bản thân đã khiến bà cảm thấy không thoải mái với giới tính của mình. Bị gắn mác “nhà văn nữ” cũng là điều Elsa vô cùng chán ghét; bà thẳng thừng từ chối để tác phẩm của mình xuất hiện trong bất kỳ tuyển tập nào mang chủ đề này. Và cũng như việc bà không chịu nổi khi bị gọi bằng họ của chồng, bà rất bất mãn trước việc hầu hết phụ nữ có chồng đều từ bỏ tên khai sinh của mình, để rồi chỉ được biết đến như “bà...” hoặc “vợ của...”. Làm sao họ có thể chấp nhận việc căn cước của chính mình bị xóa mờ như thế?

Đôi khi, Elsa dường mang trong mình một nỗi thù ghét khó hiểu đối với chính giới tính của mình, cả trong đời sống lẫn trong văn chương. Một số quan điểm của bà được thể hiện qua sự khinh miệt phụ nữ của Wilhelm, thứ đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của Arturo khi còn nhỏ. Cậu nói: “Lúc nào họ cũng tất bật, khó nắm bắt và có vẻ xấu hổ về bản thân mình - có lẽ vì họ quá xấu xí. Họ bước đi như những con vật buồn bã. Cậu còn nhận xét rằng trên đảo Procida, người ta không thích khi sinh ra con gái: “Họ là những sinh vật nhỏ bé, chẳng bao giờ có thể cao lớn như đàn ông và suốt đời họ bị giam cầm trong bếp núc hay những căn phòng chật chội khác - điều này lý giải cho sắc da nhợt nhạt của họ. Quấn chặt trong những chiếc tạp dề, váy cùng lớp váy lót nặng nề, nơi mà họ luôn phải giấu đi cơ thể bí ẩn của mình như luật bất thành văn, họ hiện lên trong mắt tôi như các hình dáng vụng về, gần như không có đường nét sắc rõ.”

Elsa thường cảm thấy bất an và tự ti khi đứng bên cạnh Alberto, người có mối quan hệ tự nhiên và không vướng bận với thành công. Nếu ông dễ đón nhận hạnh phúc thì bản tính của Elsa dường như là tránh xa nó. Tuy nhiên đồng thời bà cũng vô cùng tự hào về bản thân, dù là về ngoại hình hay văn chương. Táo bạo trên mọi phương diện, bà là một trong những người phụ nữ đầu tiên ở Ý mặc quần dài ra phố. Dù vậy, bà chưa bao giờ tự định nghĩa mình là un’ femminista [một nhà nữ quyền]. Như mọi khi, bà mang trong mình rất nhiều mâu thuẫn, thứ được phơi bày nhưng chưa từng được hòa giải trong tác phẩm của bà.

Nhập thân vào tuổi thiếu niên qua Arturo, Elsa mở rộng trí tưởng tượng của mình đến những kinh nghiệm đầy bất ngờ khác. Là người suốt đời yêu mèo, bà lại hướng tình cảm và sự gắn bó của Arturo về phía một chú chó và, sau này bà thừa nhận rằng chính mình cũng bắt đầu yêu loài chó. Bà say mê biển cả nhưng lại sợ biển và không biết bơi, thế nhưng bà vẫn khắc họa những xen Arturo bơi lội giữa làn nước xanh của vùng biển Naples thật tuyệt đẹp. Và bằng cách “nói lên toàn bộ sự thật, nhưng qua một lăng kính gián tiếp” - mượn lời thơ nổi tiếng của Emily Dickinson - Elsa đã để sự tôn thờ của Arturo dành cho Wilhelm, cùng với sự si mê thầm kín của Wilhelm với một chàng trai trẻ, trở thành tấm gương phản chiếu chính những khao khát day dứt của bà dành cho những người đàn ông đồng tính - đặc biệt là mối quan hệ của bà với Visconti. Như Stefania Lucamante, giáo sư danh dự ngành nghiên cứu Ý tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ, nhận xét trong tuyển tập tiểu luận Elsa Morante’s Politics of Writing, dù Elsa Morante từng bị chỉ trích vì khuynh hướng có màu sắc misogynistic [ghét phụ nữ], bà vẫn là một trong những nhà văn đầu tiên trong văn học Ý “dám trực diện đề cập (và thấu hiểu) tình cảnh khó khăn của những người đồng tính trong xã hội Ý, nạn kỳ thị đồng tính, và sự quấy đảo mà những nhân vật [như Wilhelm] gây ra đối với các khuôn xã hội ngột ngạt”.

Khi L’isola di Arturo được xuất bản vào năm 1957, Elsa trở thành người phụ nữ đầu tiên giành giải Strega, năm năm sau khi chồng bà đoạt giải này. Quyền xuất bản nước ngoài nhanh chóng được bán cho Pháp, Đức, Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan. Đến năm 1959, nhà xuất bản Collins phát hành cuốn sách tại Anh với một bìa minh họa màu nước tuyệt đẹp. Đây là thời kỳ rực rỡ trong sự nghiệp của Elsa: năm 1958, tập thơ Alibi của bà được Longanesi Editions xuất bản, trong đó có ba bài thơ dành riêng cho đàn mèo của bà.

Tại Mỹ, Blanche Knopf đã viết thư cho một đồng nghiệp: “Tôi vừa mua được cuốn sách vĩ đại duy nhất của nước Ý một tác phẩm mà theo mọi đánh giá, hoàn toàn xứng đáng để sở hữu.” Bà trả 1.500 đô la để mua bản quyền xuất bản tại Mỹ. Khác với những rắc rối từng gặp phải với ấn bản Mỹ của tiểu thuyết trước, lần này Elsa hoàn toàn hài lòng với thỏa thuận. Bà từng gặp Blanche Knopf ở Rome và rất có thiện cảm. Việc được xuất bản bởi một nhà xuất bản danh tiếng như Alfred A. Knopf khiến Elsa cảm thấy vinh dự. Họ bắt đầu trao đổi thư từ thân mật, và Blanche thậm chí còn học tiếng Ý để giao tiếp với Elsa. Dù vẫn còn một số vấn đề với bản dịch, tình bạn giữa hai người không hề sứt mẻ, và Elsa rất vui khi được tham gia trực tiếp nhiều quyết định liên quan đến xuất bản. Cuối cùng, Arturo’s Island được phát hành tại Mỹ vào ngày 17 tháng Tám năm 1959, chỉ một ngày trước sinh nhật lần thứ bốn mươi bảy của Elsa, do Isabel Quigly - một nhà văn kiêm nhà phê bình điện ảnh - chuyển ngữ sang tiếng Anh. Tiểu sử gia Francis Steegmuller, sau này kết hôn với tiểu thuyết gia Shirley Hazzard, đã viết lời giới thiệu: “Cuốn tiểu thuyết đẹp nhất mà tôi đã đọc trong nhiều năm qua.” (Đến năm 2019, Arturo’s Island được Liveright tái bản với bản dịch mới của Ann Goldstein.)

Các bài phê bình đều tràn ngập lời tán dương. Trên New York Times Book Review, Frederic Morton viết: “Bà Morante sở hữu tài đặc trưng của người Ý trong việc chiết xuất tính phổ quát từ những gì nguyên sơ. Nhưng bà cũng có một bản năng tinh tế, đầy nữ tính, để tạo nên những chi tiết ngân vang như một khúc hát.” (Việc mô tả bản năng của Elsa là “nữ tính” chắc chắn không làm bà hài lòng.) “Sự kết hợp này giúp bà tạo nên một người hùng mang dáng vẻ hoang dại nhưng đầy vương giả,” Morton nhận xét, “vừa là một kẻ du lãng, vừa có chút gì đó của Huckleberry Finn. Bà đã nắm bắt được âm vang và sắc màu của một bi kịch mà may mắn thay cậu bé Huck không phải trải qua: đó là trưởng thành.” Dù bài đánh giá mang tính tích cực, Morton lại mở đầu bằng một câu đầy đáng tiếc: “Năm 1951, Elsa Morante - ngoài đời là bà Alberto Moravia - ra mắt độc giả Mỹ với tiểu thuyết The House of Liars.” Tất nhiên ngoài đời, Elsa luôn là Elsa Morante, và không bao giờ là ai khác.

Hai ngày sau, trong một bài phê bình khác trên New York Times, Gilbert Millstein ca ngợi Arturo’s Island là “tuyệt tác”, đồng thời nhấn mạnh: “Tôi mong muốn cuốn sách này được đọc rộng rãi nhất có thể, như một tiểu thuyết đương đại xuất sắc. Tôi không hề phóng đại.” Ông chờ đến tận dòng áp chót mới đề cập rằng bà Morante “một cách tình cờ, chính là vợ của Alberto Moravia”.

Khoảng một năm rưỡi trước, Elsa từng bày tỏ với Blanche Knopf mong muốn được đến Mỹ, và cuối cùng, bà đặt chân đến New York vào tháng Chín năm 1959 trong chuyến đi kéo dài một tháng. Tại đây, bà gặp Bill Morrow, một họa sĩ lúc đó hai mươi ba tuổi, cao ráo, điển trai, người Madisonville, Kentucky. Là một cựu người mẫu với đôi mắt xanh và mái tóc vàng, Bill có vòng quan hệ bạn bè rộng lớn gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ, đều bị thu hút bởi ông. Cũng giống như Visconti, Bill là kiểu người mà ai gặp cũng bị lôi cuốn. Thực tế, Bill Morrow đẹp trai đến mức Alberto từng thừa nhận ông chưa từng thực sự hiểu về tình yêu đồng tính nam cho đến khi gặp Bill Morrow. Ở Rome, Bernardo Bertolucci thậm chí còn nhờ một người bạn kể cho mình nghe về chàng trai trẻ mà ai cũng nhắc đến “cứ như thể anh ta là Chúa Jesus”.

Bill và Elsa lao vào một mối tình cuồng nhiệt. Chính ông là người theo đuổi bà, và Bill trở thành kỷ vật New York mà Elsa mang về Rome. Bà thuê một căn hộ cho họ trên via del Babuino, nơi Bill dành cả ngày để vẽ tranh, còn Elsa miệt mài với tiểu thuyết tiếp theo của mình, Senza i comforti della religione (Without the Comfort of Religion). Việc giao tiếp giữa họ không hề dễ dàng, Bill không biết nhiều tiếng Ý, còn Elsa không tự tin với tiếng Anh. Khi không thể tìm ra từ phù hợp, bà dùng những cử chỉ đầy cảm xúc để diễn đạt, hoặc ngập ngừng hỏi “how to say...?”, thậm chí xen lẫn một từ tiếng Pháp để lấp đầy khoảng trống trong câu nói của mình. Thế nhưng, Elsa cảm thấy hạnh phúc, có lẽ là hạnh phúc và tràn đầy nhựa sống hơn bao giờ hết. Năm 1960, trong một lần trở lại New York, bà viết thư cho người bạn thân Pier Paolo Pasolini: “Đây không chỉ là một thành phố bất kỳ, nó thực sự là một thành phố, nó là cả vũ trụ, bầu trời, là những tầng sâu thẳm trong lòng đất. Anh sẽ yêu nơi này!”

Dù yêu Bill, Elsa vẫn hiểu rằng tự ông có rất nhiều bất ổn và bà dành cho ông sự lo lắng đầy từ mẫu. Bill mắc chứng động kinh, thường xuyên lên cơn co giật. Ông uống rượu vô độ và nghiện Seconal. Ông ít nhất đã từng nhập viện một lần sau một vụ tự sát bất thành. Dù vậy, ông vẫn kiên trì làm việc để chuẩn bị cho triển lãm tranh của mình vào năm 1961 tại Galérie Lambert ở Paris, và một triển lãm khác vào năm 1962 tại phòng tranh Nuova Pesta ở Rome. Đến thời điểm này, Alberto và Elsa chỉ còn là vợ chồng trên danh nghĩa. Khi Elsa tìm thấy tình yêu bên Bill, Alberto cũng đã có mối quan hệ với nhà văn Dacia Maraini, người gắn bó với ông suốt hai thập kỷ cho đến khi chính bà chủ động kết thúc chuyện tình này. Alberto từng nói về mối quan hệ của mình: “Tôi yêu theo cách duy nhất mà tôi có thể: chậm rãi, khởi đầu gần như thờ ơ và kết thúc bằng si mê.” Elsa và Alberto sống tách biệt, song chính điều đó lại giúp họ hòa hợp hơn, đến mức họ thậm chí còn đi du lịch cùng nhau hai lần: một lần đến Iran vào năm 1958, và một lần đến Ấn Độ vào năm 1960, cùng với Pasolini. Nhưng những chuyến đi này chỉ nhắc Alberto nhớ tới lý do vì sao ông từng thề sẽ không bao giờ đi xa cùng Elsa nữa. Ở Iran, Elsa từ chối để bưu tá khách sạn gửi bưu thiếp vì tin rằng ông ta sẽ ăn chặn tiền tem mà không gửi thư đi. Khi Alberto dẫn bà đến bưu điện mua tem, Elsa nổi giận khi nhân viên bưu điện chỉ nói tiếng Farsi và trút bực lên Alberto. Ở Ấn Độ, khi Alberto bị một nhóm ăn xin vây quanh, Elsa lại trách ông không thiếu kiên nhẫn. Tức giận, bà bỏ về khách sạn, bắt đầu thu dọn hành lý, và chỉ bình tĩnh sau khi Alberto cùng Pasolini hết lời khuyên nhủ bà ở lại.

Mối quan hệ giữa Alberto và Elsa vẫn đủ hòa nhã để ông viết một bài cho Vernissage, triển lãm tranh của Bill tại Paris. Alberto vốn say mê hội họa, coi nó là một loại hình nghệ thuật chỉ xếp sau văn chương và trên điện ảnh, từng thừa nhận rằng đây là bộ môn mà ông hiểu và yêu thích nhất. Ông dành lời khen ngợi cho những bức tranh của Bill trong triển lãm tại Paris, mô tả chúng là “quá đỗi trực cảm, thuần khiết, tĩnh tại và trong suốt” và khép lại bài viết bằng một câu mang tính tiên tri: “Và thế là, một lần nữa, nghệ thuật lại được trả giá bằng chính mạng sống.”

Năm 1962, chỉ một tháng sau triển lãm của mình tại Rome, Bill đến New York trong một chuyến đi ngắn ngày. Ông dự định sẽ quay lại Ý để định cư lâu dài bên Elsa tại Rome, nhưng cuối cùng chẳng bao giờ trở về nữa. Vào một ngày gió lớn tháng Tư, trong cơn ảo giác được cho là do LSD gây ra, Bill đã nhảy xuống từ một tòa nhà chọc trời ở Manhattan.

Ở tuổi năm mươi, Elsa cảm thấy chẳng còn niềm vui nào phía trước, chẳng còn tương lai. Bà suy sụp và bàng hoàng trước cái chết của Bill, đến mức không thể tiếp tục viết. Bà bỏ dở và không bao giờ động đến bản thảo Senza i comforti della religione nữa. Alberto từng nói rằng sau cái chết của Bill, “Elsa mang trong mình một cảm tri bi kịch sâu sắc... [...] Cô ấy đã dựng nên một cảnh tượng tang tóc chẳng kém gì nỗi đau chân thực mà những góa phụ và người mẹ mất con ở miền Nam nước Ý.” Năm 1964, Elsa viết trong nhật ký của mình: “Đã hai năm kể từ ngày 30 tháng Tư. Và tôi vẫn tiếp tục sống, cứ như thể tôi vẫn còn đang sống thực. Có những khoảnh khắc, tôi quên bẵng mất nỗi kinh hoàng. Một chút an ủi bất chợt xuất hiện, như thể tôi đã tìm thấy anh trong một điều gì đó khác. Nhưng rồi nỗi đau lại bất đồ ập về.” Nỗi đau này càng trở nên nặng nề hơn khi mẹ bà, Irma, qua đời tại một viện dưỡng lão vào năm 1963, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Dù Elsa hiếm khi đến thăm mẹ, và từng bị một nữ tu trong viện trách mắng vì mặc quần dài, bà vẫn tổ chức một lễ tang long trọng để tiễn đưa mẹ.

Giờ đây Elsa chỉ còn nói về việc viết bằng thì quá khứ, tin chắc rằng cuộc đời bà đã khép lại, đã bị vắt kiệt. “Chuyện gì đã xảy ra? Cô đã ở đâu? Và cô có còn viết không?” Blanche Knopf viết thư hỏi bà vào mùa xuân năm 1963. Elsa không hồi âm. Đầu năm 1965, Knopf lại viết, lần này với giọng sốt ruột khi không nhận được câu trả lời suốt một thời gian dài. Bà nhắc về việc Elsa đã quá hạn nộp bản thảo của cuốn sách mới. Nhưng Elsa vẫn không đáp. Thực tế, bà cũng cắt đứt liên lạc với cả nhà xuất bản Einaudi và người đại diện của mình trong suốt một thời gian dài. (Dù Einaudi đã xuất bản một tuyển tập mười hai truyện ngắn của Elsa vào năm 1963, nhưng đó đều là những tác phẩm bà đã viết từ nhiều năm trước.) Trong một lá thư khác, Knopf cố gắng liên lạc thêm một lần nữa, viết rằng bà nghe tin Elsa đang hoàn thành một cuốn tiểu thuyết mới: “Đã quá lâu rồi tôi không nhận được tin tức gì từ cô, nên tôi rất mong có một câu trả lời. Hy vọng cô vẫn khỏe, đang tận hưởng cuộc sống và nhanh chóng hoàn thiện cuốn sách mới này.”

Dần dần, Elsa tìm lại được cách để sống, không đơn thuần là tồn tại nữa. Bà bắt đầu đi du lịch, đôi khi đi một mình, đôi khi cùng một người bạn, nhưng hoàn toàn không lên sẵn lịch trình hay kế hoạch: “Tôi dừng lại ở nơi mình thích và ở đó bao lâu tùy ý.” Bà viết trong nhật ký. Giáng sinh bà đến Mexico City thăm em trai Aldo. Khi Pasolini nhờ bà chọn nhạc cho phần nhạc nền của bộ phim The Gospel According to St. Matthew, Elsa nhận ra việc tham gia dự án này giúp bà giữ được sự tập trung và thoát khỏi nỗi trống rỗng. Cuối cùng, bà cũng đi khỏi căn hộ mà bà từng thuê cho Bill và mình, quay lại sống trong căn hộ trên via dell’Oca. Elsa say sưa cải tạo lại không gian sống, biến nơi này thành một phần của riêng bà với nội thất mới, giấy dán tường mới cùng những bức tranh của Bill. Bà ghét vô tuyến và không bao giờ mua cho đến tận năm 1969, khi đó bà quyết định mua một chiếc chỉ để xem con người đặt chân lên mặt trăng. Sau đêm hôm đó, bà không bao giờ bật vô tuyến thêm một lần nào nữa. Năm trước đó, bà xoay xở để xuất bản một tuyển tập thơ, Il mondo salvato dai ragazzini e altri poemi.

Trong khi đó, tầm vóc của Alberto ngày càng lớn hơn: ông giữ chức chủ tịch PEN International từ năm 1959 đến 1962 và xuất bản thêm một số tiểu thuyết - trong đó có tác phẩm mang tính biểu tượng La Noia (Boredom) - giúp ông giành Giải Viareggio và tác phẩm này được chuyển thể thành phim. Cuộc đời ông vô cùng thuận lợi. Ông trở thành một biểu tượng văn chương, nổi tiếng đến mức New York Times đưa tin về chuyến du hành thế giới của ông vào tháng Năm năm 1964, trong đó có lịch dừng ở New York, nơi ông diễn thuyết tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan và nhận được “tràng pháo tay vang dội” từ bảy trăm năm mươi khán giả. Bài báo còn nhắc đến việc máy đánh chữ của ông bị trộm ở Vienna, điều này gây rắc rối vì ông dùng chung nó với Dacia. Giống Elsa, Dacia viết vào buổi chiều, nhưng khác ở chỗ bà lên một lịch trình chặt chẽ, viết mỗi ngày. Alberto thường dành vài tiếng buổi chiều gõ máy đánh chữ, sau đó chuyển nó cho Dacia, để bà tiếp tục làm việc trong khi ông đi dạo như thường lệ. Phóng viên của Times, Harry Gilroy, không miêu tả diện mạo của Alberto nhưng lại để mắt rất kỹ đến Dacia: “Khi [Moravia] đang nói chuyện, cô Maraini xuất hiện, hai mươi bảy tuổi, tóc vàng, mắt xanh xám, khoác một chiếc áo da nâu và váy đỏ, duyên dáng và xinh đẹp. Cô thông báo rằng trước khi rời Rome, cô đã hoàn thành thêm một tiểu thuyết nữa. Cô đã viết văn từ năm 19 tuổi.”

Alberto và Elsa, sau hơn hai mươi năm bên nhau, vẫn luôn có mối gắn kết sâu sắc. Trong Life of Moravia, Alberto từng nói: “Có rất nhiều điều để nói về Elsa; tôi có lẽ chẳng bao giờ nói hết.” Ông cũng rộng lượng thừa nhận: “Cô ấy tin, và cô ấy có lý để tin như vậy, rằng mình là một nhà văn vĩ đại.”

Cả hai hẳn đều nhẹ nhõm vì cuộc hôn nhân của họ không kết thúc trong giông bão. Nó chỉ đơn giản dừng lại. Họ không ly hôn, Elsa là người Công giáo. (Sau khi họ chia tay, có người từng nói với Alberto: “Tiếc thật. Cái tên Morante-Moravia đọc lên thật đẹp.”) Alberto chuyển đến sống cùng Dacia ở Lungotevere della Vittoria, còn Elsa ở lại căn hộ trên via dell’Oca, song ông vẫn đảm bảo cho Elsa có cuộc sống ổn định về tài chính. Thay vì gửi bà “một khoản trợ cấp cố định như cách của giới tư sản”, Alberto nói, ông quyết định mở một tài khoản ngân hàng riêng cho Elsa, kèm theo sổ séc để bà có toàn quyền kiểm soát tài chính của mình. Nếu Elsa không gặp Bill, và nếu Alberto không yêu Dacia, có lẽ họ vẫn sẽ ở với nhau, dù là trong bất hạnh. Nhưng vì cả hai đều dạt theo các hướng riêng, Alberto nói, cuộc hôn nhân ấy tự sụp đổ. Ông nhớ lại lần cùng Dacia bay đến châu Phi, nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay và bất chợt cảm thấy “một sự giải thoát tuyệt đối về mặt thể xác. Như thể tôi vừa trút bỏ một cái gì đó nặng nề, giống như một lớp thạch cao vậy”. Bất kể hoàn cảnh dẫn đến sự chấm dứt của một mối quan hệ, và bất kể bản chất của mối quan hệ đó ra sao, ông tin rằng mọi kết thúc đều là một dạng cái chết.

Đầu những năm 1970, Elsa bắt tay vào viết một cuốn tiểu thuyết mới, La storia, lấy bối cảnh tại Rome và vùng ngoại ô, trải dài từ 1941 đến 1947, được chia thành chín phần theo trình tự thời gian của từng năm. Bà có một mục tiêu rất rõ ràng với cuốn sách. Cuốn sách phải chạm đến mọi người, không chỉ giới trí thức, giới tinh hoa, mà cả những người nghèo khổ và ít học. Lời đề từ của cuốn sách thể hiện khát vọng đó bằng một câu dẫn trích từ nhà thơ Peru César Vallejo: “Por el analfabeto a quien escribo” [Dành cho những người mù chữ mà tôi viết]. Khi Einaudi xuất bản tiểu thuyết này vào năm 1974, Elsa quyết tâm làm sao để cuốn sách trở nên càng dễ tiếp cận càng tốt. Bà chủ động chọn xuất bản bản bìa mềm, thay vì bìa cứng theo truyền thống, và định giá ở mức rẻ nhất là 2.000 lire. Elsa cũng chỉ nhận 5% tiền bản quyền, thay vì 10% như thông lệ trong ngành xuất bản Ý. Bà cũng đích thân chọn bìa sách đầy ám ảnh của Robert Capa, với hình ảnh một chàng trai trẻ nằm chết trên đống đổ nát, kèm theo dòng chú thích gây khiêu khích: “Một nỗi ô nhục kéo dài mười nghìn năm.”

Cuốn tiểu thuyết đồ sộ này, với những nhân vật bi kịch và hình ảnh tàn khốc của chiến tranh, dường như chẳng có lấy một yếu tố hút khách. Hơn nữa, vì không đứng về phe cánh tả hay bất kỳ phong trào chính trị nào, cùng với cái nhìn bị đánh giá là quá bi quan, La storia gây tranh cãi dữ dội. (Tạp chí La Fiera Letteraria thậm chí đã dành hai số liên tiếp để bàn luận xem liệu đây có phải là một kiệt tác hay không.) Thế nhưng hàng nghìn bản sách được bán hết sạch mỗi tuần, và chỉ trong vòng một năm, La storia đã được tiêu thụ tới 800.000 bản. (Sau này, vào năm 1986, đạo diễn Luigi Comencini đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết ấy thành phim.) Đại diện của Elsa viết thư cho Knopf, nói rằng họ không còn biết ai đang mua sách nữa, “vì dường như mỗi gia đình Ý đều đã sở hữu một bản”. Một số nhà phê bình xếp La storia vào hàng những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ 20, sánh ngang với tác phẩm của Joyce, Kafka và Proust. Knopf xuất bản bản dịch tiếng Anh tại Mỹ vào năm 1977, do William Weaver thực hiện, và bản quyền sách được bán ra nhiều quốc gia khác. Dù tác phẩm không thành công tại Mỹ, nó lại gây sốt tại Pháp và được Gallimard tái bản ba lần. Nhưng trên hết, Elsa đã đạt được ước nguyện của mình trong việc tiếp cận độc giả ở mọi tầng lớp. Paul Hofmann, phóng viên của New York Times tại Rome, đã viết đầy phấn khích: “Lần đầu tiên trong trí nhớ của bất cứ ai, người ta bàn luận về một cuốn sách - tiểu thuyết của Morante - trong các toa tàu và quán cà phê, thay vì về giải bóng đá hay những vụ bê bối nóng sốt.” Hofmann gọi đây là “hiện tượng văn chương”, là “cuốn sách Ý thành công nhất kể từ The Leopard của Giuseppe Tomasi di Lampedusa.” Ông cũng nhắc đến việc Elsa là vợ cũ của Alberto Moravia, và rằng bà đã sống ẩn dật suốt thời gian viết La storia. Ông mô tả những tác phẩm trước của bà “được ca ngợi nhiều hơn là được đọc rộng rãi”, Hofmann tiếp tục nhận xét, “Bà Morante đã tự chọn sống ẩn dật trong nhiều năm. Bà không thuộc về bất kỳ nhóm trí thức nào, không ký tuyên ngôn, cũng không công khai ủng hộ những phong trào mang tính kích động. Và giờ đây, có vẻ như trái với mong muốn của mình, bà bỗng trở thành một người nổi tiếng, ‘La Morante’.”

William Weaver, khi ấy đang sống ở Tuscany trong lúc dịch tác phẩm của Elsa, vừa ngưỡng mộ vừa quý mến bà, nhưng cũng phải thừa nhận rằng bà “là một mối phiền không nhỏ”. Nhiều thập kỷ sau, ông kể lại kinh nghiệm này trong một bài phỏng vấn với Paris Review:

“Thỉnh thoảng Elsa gọi điện cho tôi vào buổi sáng. Tôi từng nói với bà ấy rằng tôi làm việc từ lúc thức dậy cho đến khoảng mười giờ rưỡi, sau đó tôi sẽ nghỉ ngơi, uống một tách cà phê, rồi làm tiếp đến giờ ăn trưa. Bà ấy luôn luôn gọi đúng vào lúc mười giờ rưỡi và nghĩ đó là giờ nghỉ của tôi. Lý do tôi nghỉ là để không phải nghĩ đến dịch thuật trong khoảng nửa tiếng, trước khi quay lại làm việc. Vậy mà Elsa lại gọi đến và bắt đầu tra hỏi. Bà hỏi tôi sẽ dịch thế nào khi bà ấy dùng từ này ở trang ba trăm năm mươi chín. Và tôi đáp, Elsa, tôi mới chỉ dịch đến trang một trăm hai mươi ba thôi. Tôi chẳng có ý niệm gì cả! Nhưng điều đó chẳng ngăn được bà ấy. Bà bắt đầu gọi cho tôi gần như mỗi ngày, đúng vào lúc mười giờ rưỡi, phá hỏng buổi sáng của tôi. Cuối cùng, tôi ngồi xuống và viết cho Elsa một bức thư dài: Elsa thân mến, tôi từ bỏ công việc này. Tôi nghĩ bà nên tìm một người khác. Tôi không nghĩ mọi chuyện đang đi đúng hướng. Tôi đã làm một bản sao gửi cho nhà xuất bản, một bản cho người đại diện, và niêm phong tất cả trong phong bì gửi qua đường hàng không, đặt sẵn trên bàn ở lối vào, nơi thư sẽ được gửi đi vào sáng hôm sau. Nhưng ngay lúc đó, Elsa gọi đến và nói, Tôi gọi chỉ để nói rằng đây sẽ là lần cuối cùng tôi làm phiền anh vì tôi nhận ra việc này chẳng giúp ích gì cho anh cả. Bà ấy đọc thấu suy nghĩ của tôi. Tôi cứ tưởng mình đã xé tất cả thư đi, nhưng hóa ra vẫn còn giữ lại một bản sao chép than. Nhiều năm sau, một sinh viên của tôi khi lục lại giấy tờ bỗng nói, Bill, thầy có một bức thư kỳ lạ gửi cho Elsa Morante đây này. Tôi đã hoàn toàn quên mất nó. Bà ấy chính là người khó làm việc nhất mà tôi từng cộng tác.”

Elsa mô tả tiểu thuyết của mình như “một bản cáo trạng và một lời cầu nguyện”. Nếu như trong các tác phẩm trước, bà từng biến cuộc đời của những con người bình thường thành những câu chuyện giàu tính trữ tình và kỳ ảo, nơi hiện thực chỉ là một yếu tố chen ngang, thì lần này, chiến tranh chính là đề tài trung tâm, không thể tránh khỏi, với những người lao động nghèo khổ, bất lực phải vật lộn để sống sót giữa sự tàn khốc và hỗn loạn của chiến tranh cùng các hậu quả kéo dài của nó. Tiểu thuyết mở đầu vào năm 1941, với hình ảnh một người lính Đức trẻ tuổi tên Gunther lang thang trên đường phố Rome, tìm kiếm một nhà thổ. Anh ta say xỉn và loạng choạng trên con phố rồi vô tình va vào một góa phụ, người động kinh, một giáo viên mang nửa dòng máu Do Thái, Ida, lúc đó đang vác túi nặng. Lấy cớ giúp cô xách đồ, Gunther lẻn vào nhà cô và “cưỡng hiếp cô một cách dã man như thể muốn giết cô ngay tại chỗ”. Vài ngày sau, trên đường đến mặt trận châu Phi, Gunther bị giết trong một cuộc không kích của quân Đồng minh. Ida mang thai. Cô sinh ra Giuseppe, một đứa trẻ mắc bệnh động kinh, và một mình nuôi dạy cậu bé cùng với cậu con trai lớn đầy rắc rối của mình, Nino, người ban đầu đi theo chủ nghĩa phát xít, rồi sau đó lại tham gia lực lượng kháng chiến do phe Cộng sản lãnh đạo. Nhưng ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc, bi kịch vẫn không ngừng đổ ập xuống. Ida bị cuốn vào cơn điên, chìm trong nỗi đau không thể chịu đựng nổi. Không có bất cứ sự cứu rỗi nào.

Trong lời giới thiệu cho ấn bản Mỹ của History dành cho các thành viên của First Edition Society of Pennsylvania, Elsa đã giải thích về ý đồ khi viết cuốn sách này: “Với cuốn sách này, tôi - người sinh ra trong một thời kỳ đầy kinh hoàng (thế kỷ 20 của chúng ta) - muốn để lại một bản ghi chép chân thực về kinh nghiệm trực tiếp của mình trong Thế chiến thứ hai, phơi bày nó như một ví dụ tột độ và đẫm máu về toàn bộ tiến trình lịch sử qua thời gian. Đây là Lịch sử cho bạn. Chính xác như nó vốn có và như cách chúng ta đã góp phần tạo ra nó.”

Đối với một số nhà phê bình, La storia chính là kiệt tác, tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp của Elsa. Nhưng có những người lại chưa bao giờ thực sự chấp nhận cuốn tiểu thuyết rối rắm này, với sự pha trộn lẫn lộn giữa tường thuật báo chí, những suy tư triết học, lối kể chuyện mang tính giáo huấn (“Lịch sử là một lịch sử của các chủ nghĩa phát xít, dù ít hay nhiều vẫn khoác lên mình lớp ngụy trang...”), các đoạn thơ, lời ai oán về tội ác chiến tranh, và cả yếu tố hiện thực huyền ảo, thể hiện qua sự giao tiếp giữa con người và loài chó - một con chó biết nói. (“Thường được giới thiệu là cuốn tiểu thuyết của Morante mà ai cũng nên đọc, La storia lại không có được sự cuốn hút cũng như sự phong phú đầy mê hoặc trong trí tưởng tượng như các tác phẩm khác của bà,” Tim Parks viết trên New York Review of Books năm 2009.) Cuốn sách được trình bày như một tập hợp những câu chuyện rời rạc, với kết nối lỏng lẻo, xen kẽ bằng những lập luận mang tính tranh biện về các sự kiện lịch sử. Ngoài ra, mỗi phần được đánh dấu theo từng mốc thời gian đều mở đầu bằng vài trang tóm lược các diễn biến thực tế được in nghiêng của năm đó: “Các phong trào cách mạng bắt đầu trỗi dậy tại các thuộc địa. Những cuộc đụng độ với cảnh sát Anh tại Calcutta và Cairo khiến số lượng lớn người biểu tình thiệt mạng”; “Tại Trung Quốc, các trận chiến giữa Hồng quân và Quốc Dân Đảng vẫn tiếp tục.” Những phần tóm lược này thực ra không đóng vai trò như các khung dẫn truyện. Đăng trên Harper’s Magazine năm 2009, Robert Boyers, giáo sư ngành Văn học Anh tại Skidmore College và tổng biên tập tạp chí văn học Salmagundi, nhận xét những lời tựa này “không hề, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm, liên kết trực tiếp với nội dung các chương tiếp theo. Nếu coi chúng như những khung dẫn truyện thì chúng vừa vụn vặt vừa không đủ. Chúng không thể giúp ta định hướng được khối lượng đồ sộ của các tư liệu trong tiểu thuyết, nơi trọng tâm hoàn toàn đặt vào những kinh nghiệm cá nhân. Nhiệm vụ của Morante, tuy khiêm nhường nhưng cũng vô cùng to lớn, là nhìn thấu kinh nghiệm của những con người bình thường trong thời kỳ khủng hoảng, dẫn dắt ta đi vào tận những suy nghĩ và cảm xúc của họ. Những yếu tố mang tính lý thuyết trong tác phẩm này rất ít và rõ ràng không có vai trò gì trong việc định hình các ấn tượng mà chúng ta có với tư cách độc giả, những người được chứng kiến cuộc đời của các nhân vật.”

Trong bài viết “Melancholic and Magic History” đăng trên New York Review of Books ngày 28 tháng Tư năm 1977, Stephen Spender đã ca ngợi bản dịch tiếng Anh của William Weaver, đồng thời nhận xét rằng ông đã “cố gắng rút ra một thông điệp hay bài học từ cuốn sách của Elsa Morante là đi quá xa với ẩn ý từ nhan đề. Câu chuyện mà bà kể đã tự mình tỏa sáng một cách kỳ diệu”. Ông tiếp tục khen ngợi bà khi cho rằng “bà là một người kể chuyện biết cách mê hoặc độc giả. Giống như Flaubert, bà dường là một bậc thầy trong nghệ thuật dẫn dắt, có khả năng vẽ nên một bức tranh toàn cảnh rộng lớn, đưa vào đó những nhân vật mới khi cốt truyện dần mở ra, những nhân vật được khắc họa một cách sắc nét và đầy thuyết phục chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, rồi bị cuốn theo dòng chảy của toàn bộ câu chuyện”.

Natalia Ginzburg từng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với cách sử dụng ngôi thứ ba đầy tự nhiên của Morante trong tiểu thuyết này, nơi người dẫn chuyện chính là Morante, vừa đóng vai người kể, vừa là nhân chứng cho những sự kiện kinh hoàng bày ra trước mắt. Bản thân Ginzburg cảm thấy mình không thể “đứng trên đỉnh núi và nhìn mọi thứ từ trên cao”. Khi La storia vừa ra mắt, Ginzburg đã viết một bài phê bình xuất sắc trên Corriere della Sera, ca ngợi đây là “tiểu thuyết đẹp nhất của thế kỷ này”. Nhưng thật kỳ lạ, Elsa phản ứng với bài viết và khăng khăng cho rằng bài đánh giá của Ginzburg đã khen thái quá. Như thường lệ, Elsa rất khó chiều.

Viết trên New York Times ngày 24 tháng Tư năm 1977, nhà phê bình Robert Alter đã dành cho cuốn tiểu thuyết một bài đánh giá tiêu cực. Ông thừa nhận rằng mặc dù History có “nhiều khoảnh khắc ấn tượng” và “đôi lúc thực hiện xuất sắc những bước chuyển từ hiện thực ảm đạm sang những viễn cảnh siêu hình”, tổng thể tác phẩm vẫn thất bại. Alter cảm thấy khó chịu, ngoài nhiều yếu tố khác, bởi việc tác giả không thể cưỡng lại “sự chất chồng bi lụy của chi tiết và lời bình luận”. Hơn nữa, ông viết rằng: “Lòng trắc ẩn của Morante... thường tràn ra thành một mớ bi lụy thái quá, và thực tại luận gai góc của bà sụp đổ trong một chuỗi thảm kịch lê thê do chính tác giả sắp đặt chống lại tác phẩm của mình.” Tuy nhiên, tờ Times vẫn đăng một đoạn trích từ History (mô tả những ngày cuối cùng của cuộc chiếm đóng của quân Đức tại Rome), và cuốn tiểu thuyết vẫn được lựa chọn vào danh sách sách khuyến đọc, bên cạnh các tác phẩm của Joan Didion, Donald Barthelme, John Cheever và nhiều tác giả khác.

Bài phê bình nặng nề nhất lại phát xuất từ một nguồn không ngờ tới: người bạn thân Pasolini, người đã viết một bài chỉ trích không khác gì một “đòn hạ bệ” trên tạp chí Tempo Illustrato. Đây là tiểu thuyết đầu tiên của Morante sau gần một thập kỷ, nhưng Pasolini không hề nương tay. Ông thừa nhận History là một tác phẩm đầy tham vọng, ngay từ nhan đề đã thể hiện tầm vóc đồ sộ khi đặt lịch sử như một cấu trúc kể chuyện. Thế nhưng toàn bộ bài viết của ông lại đầy ắp sự khinh miệt và trịch thượng. Ông cho rằng mọi hành động và lời thoại của các nhân vật đều phi lý, mỉa mai cách họ sử dụng những phương ngữ “chẳng ai hiểu”. Chia cuốn tiểu thuyết thành ba phần riêng để phân tích, Pasolini khẳng định rằng hai phần sau “chẳng qua chỉ là một mớ tư liệu hỗn độn được chắp vá tùy tiện”. Ông cũng chế giễu Elsa về “chủ nghĩa kiểu cách” trong văn phong, mặc dù trên thực tế, cuốn tiểu thuyết này tránh xa lối viết quá trau chuốt - thậm chí bị cho là cường điệu - trong những tác phẩm trước của bà. Song điều tàn nhẫn nhất trong bài phê bình là đòn công kích nhắm vào quan điểm chính trị của Elsa, khi Pasolini tuyên bố rằng nó thiếu đi bất cứ sự đáng tin cậy nào. Pasolini cũng chỉ trích cách tác giả khai thác nỗi đau, sự nghèo túng và thiếu thốn như một công cụ, đầy giả tạo và vụ lợi.

Hoặc ông dứt khoát đoạn tuyệt tình bạn với Elsa hoặc ông cố tình giết chết nó. Dù hai người đã xa cách một khoảng thời gian, chắc chắn Elsa không thể nào không đau đớn trước sự phản bội ấy, cũng như không thể hiểu nổi sự cay nghiệt đến tàn nhẫn trong bài phê bình của Pasolini, một đòn đánh vào mọi khía cạnh của cuốn tiểu thuyết. Sau khi bài viết xuất hiện, Elsa không bao giờ nói chuyện với Pasolini nữa, và ông bị sát hại vào năm sau đó.

Bà gần như lập tức bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết thứ tư, cũng là tác phẩm cuối cùng của mình, Aracoeli. Trong quá trình viết, Elsa đọc lại Dante, Proust, Baudelaire, cùng nhiều tác giả khác. Đây cũng là thời kỳ Elsa chìm vào sự cô độc, bà cắt đứt liên hệ với những người bạn lâu năm, tránh gặp người quen cũ và không còn chút ham mê nào dành cho tình yêu. Phần đời ấy của bà đã khép lại vĩnh viễn. Sau khi gửi bản thảo hoàn chỉnh của Aracoeli cho người đánh máy, bà bắt đầu mắc chứng đau chân nghiêm trọng, đến mức phải nằm liệt giường suốt nhiều tháng trời. (Không rõ cơn đau này có bao nhiêu phần là do tâm lý gây ra.) Bước sang tuổi sáu mươi, bà trầm cảm bởi sự héo tàn của cơ thể theo năm tháng. Bà mang trong mình một khao khát dai dẳng được biến mất, và trở nên dễ nổi nóng hơn bao giờ hết. Bà buông xuôi mọi thứ thuộc về vẻ bề ngoài, để tóc bạc trắng, mặc đồ xuề xòa như một bà lão. Bạn của bà là Carlo Cecchi sững sờ vì một ngày nọ bất ngờ gặp một Elsa hốc hác trên phố, phải chống gậy.

Được đặt tên theo Vương cung thánh đường Santa Maria in Aracoeli ở Rome, câu chuyện u ám này không có chương, không có đoạn ngắt. Người kể chuyện là Manuel, một người đàn ông đồng tính bốn mươi ba tuổi, mang ngoại hình xấu xí, ghét bỏ chính mình và đang vật lộn để cai nghiện ma túy. Anh ghi lại cuộc hành trình cô độc và đau đớn khi trở về vùng quê Andalusia, nơi mẹ anh, Aracoeli, đã sinh ra. Bà từng là một cô thôn nữ, kết hôn với Eugenio - một sĩ quan hải quân Ý đẹp trai, bất chấp sự phản đối của gia đình chồng thuộc tầng lớp tư sản. Manuel thừa nhận rằng tâm trí anh đã quen với “sự ruồng rẫy vĩnh viễn”, và rằng “Thực tế, nếu tôi nhìn về phía tương lai của mình, tất tật những gì tôi thấy chỉ là một con đường ngoằn ngoèo nơi chính tôi - vẫn cô độc như thế và ngày một già nua - cứ lê la tới lui, như một kẻ say xỉn. Cho đến khi một cú huých dữ ụp xuống, chấm dứt mọi chuyển động. Đó là điểm tận cùng của tương lai. Anh chưa từng đi nước ngoài. Cuộc đời Manuel chỉ xoay quanh những căn phòng nhỏ bé ở Milan: một căn phòng trọ chật hẹp, nơi anh chật vật kiếm tiền để trả tiền thuê, và một “nhà xuất bản nhỏ”, “gói gọn trong hai căn phòng nhỏ, kèm một nhà vệ sinh tối tăm không có cửa sổ”. Đó là nơi anh phụ trách dịch thuật hoặc đọc các bản thảo từ các tác giả tham vọng (“đa số luống tuổi”) đang được xem xét và viết những báo cáo ngắn về chúng. Đó là công việc nhàm chán đến mức anh ví như “đang nuốt phải keo dính”.

Aracoeli ra mắt vào năm 1982, với bản dịch tiếng Anh của William Weaver, do Random House phát hành tại Mỹ hai năm sau đó. Tiểu thuyết này tiếp tục khai thác những chủ đề quen thuộc trong các tác phẩm trước của Morante: dòng hồi tưởng, những giấc mơ, xung đột giai cấp, bí mật gia đình, sự đánh mất ngây thơ, tình yêu tai tiếng, vết thương tâm lý và chủ nghĩa bi quan trong History được đẩy lên đến cực điểm, hay đúng hơn, rơi xuống tận đáy. Một lần nữa chúng ta bị cuốn vào miền đất của những điều bất khả tri và không thể xoa dịu được. Khi viết bài phê bình cho bản dịch tiếng Anh của Aracoeli vào ngày 13 tháng Một năm 1985 trên tờ New York Times, Raymond Rosenthal, nhà phê bình và dịch giả, đã mô tả kinh nghiệm đọc Aracoeli như sau: “Phần lớn thời gian người ta có cảm giác bị dồn vào chân tường, như khi một người quen kể lể về nỗi thống khổ song hoàn toàn chẳng gợi lên chút quan tâm hay đồng cảm nào.”

Manuel là kẻ một kẻ săn ma. Anh tiết lộ rằng đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày Aracoeli được chôn cất tại nghĩa trang Verano ở Rome, thành phố nơi anh sinh ra, song điểm đến của anh lại là Tây Ban Nha bởi “sau ngần ấy năm chia cách trong lãng quên”, anh quyết tâm lên đường đi tìm mẹ. Có những khoảnh khắc, “đặc biệt trong những khoảnh khắc cô đơn tột độ - một nhịp tuyệt vọng bỗng giật nhói lòng kẻ sống, thôi thúc họ tìm đến người chết không chỉ trong dòng chảy thời gian mà trong cả những miền không gian vô định”. Anh nhớ lại rằng, vào thời Thế chiến thứ hai, “trong một cuộc không kích vào thành phố, nghĩa trang Verano đã bị bom đạn tàn phá: nhiều ngôi mộ bị bật tung, bia đá đổ nát, những cây bách bị nhổ bật rễ.” Manuel tin rằng mẹ mình đã tháo chạy khỏi phần mộ của bà, “mình đầy máu me, vẫn khoác trên người chiếc áo ngủ nhăn nhúm cũng chính là bộ đồ bà mặc vào lần cuối tôi đến thăm”. Anh lý tưởng hóa ký ức về tình yêu của mẹ trong những năm đầu đời, khi bà ôm anh vào lòng và khi anh sùng bái bà một cách cuồng nhiệt và trở thành trung tâm thế giới của bà. Thế nhưng anh đã bị thế chỗ khi người mẹ sinh cô con gái thứ hai - đứa trẻ đã chết ngay sau đó. Khi Aracoeli bước ra khỏi nỗi đau và và trạng thái trầm uất, bà biến thành người phụ nữ khác hẳn, ích kỷ, hoang dã và, không thể nhận ra. Bà buông mình cho những ham muốn xác thịt và trở thành kẻ cuồng dâm, quay lưng với đứa con trai để lao vào những cuộc tình buông thả, vô định, rồi cuối cùng chết vì u não. “Kể từ Céline, chưa từng có một sự phản kháng nào dữ dội đến thế trước các điều kiện sống,” Rosenthal viết, “một sự phẫn nộ tột cùng trước ý niệm về cái chết, một cuộc tấn công không khoan nhượng vào sự thật trần trụi của kiếp người; nhưng lại thiếu đi khiếu hài hước sâu cay và cả chất trữ tình thấm thía của ông [Céline].” Trong Woman of Rome, Lily Tuck thừa nhận rằng lần đầu tiên đọc Aracoeli, bà cảm thấy tác phẩm “gây xáo trộn và bất an một cách khó hiểu”. Nhưng khi đọc lại, “tôi dần cảm thấy khâm phục nó - có lẽ vì nó quá đen tối và chống lại mọi nỗ lực phân loại”. Theo cách này, Aracoeli không khác gì chính tác giả, một người luôn luôn từ chối bị xếp vào bất cứ khung cố định nào, hay một hệ tư tưởng cụ thể, và đủ can đảm, như Tuck chỉ ra, để “cố ý hy sinh sự sáng rõ cùng tính logic nhằm thể hiện thế giới hỗn loạn theo cái nhìn của bà”.

Khi Manuel thú nhận: “Trong tất tật những ân huệ mà con người khao khát, điều duy nhất tôi mong mỏi là: ‘được yêu thương’”, khát khao của anh gợi nhớ đến nỗi buồn mà Elsa đã nhiều lần bộc lộ khi cảm giác không được yêu thương. “Ngay cả những con vật lang thang cũng tìm kiếm, hơn cả thức ăn, những cái vuốt ve; chúng cũng bị nuông chiều, cũng bị hư hỏng, bởi người mẹ đã liếm láp chúng suốt ngày đêm lúc còn non.” Hẳn không phải ngẫu nhiên mà anh bắt đầu hành trình đến Andalusia vào đúng khoảng thời gian Pasolini bị sát hại vào năm 1975. Giống như Elsa, Manuel bị cận thị, một dấu hiệu của sự yếu đuối và là nguồn cơn nỗi lo âu cùng mặc cảm. Nỗi ghê tởm mà Manuel cảm nhận về cơ thể đang ngày một tàn tạ của mình phản chiếu trực tiếp nỗi buồn của Elsa trước sự suy giảm thể chất, một sự khinh miệt càng dữ dội hơn khi về già. Chẳng còn gì đáng sống. Quả thật, như Tuck viết, đến cuối tiểu thuyết, “người đọc bị bỏ lại với một nhận thức kinh hoàng rằng chẳng còn thứ gì có ý nghĩa với nhân vật chính nữa, và có lẽ, đối với chính tác giả... Chỉ còn lại cái chết”.

Chưa đầy sáu tháng sau khi Aracoeli được xuất bản, vào ngày 6 tháng Tư năm 1983, Elsa đã cố gắng tự sát. Sau khi uống vài viên thuốc ngủ, bà đóng kín tất cả cửa sổ trong căn hộ và mở van gas. Người giúp việc trung thành suốt hơn ba thập kỷ, Lucia, đã kịp thời cứu bà. Elsa bất tỉnh và được đưa ngay đến bệnh viện San Giacomo ở Rome (nơi đã đóng cửa vào năm 2008 sau gần bảy thế kỷ hoạt động). Alberto lập tức đến thăm bà. Trong quá trình điều trị, các bác sĩ phát hiện dịch tích tụ trong não bà; tình trạng này có thể gây tổn thương não hoặc thậm chí tử vong. Ca phẫu thuật đòi hỏi phải dẫn lưu dịch não và bất chấp các rủi ro, Alberto cùng em gái Elsa, Maria, tin rằng lựa chọn phẫu thuật tại một phòng khám địa phương là quyết định đúng đắn. Elsa sống sót, nhưng chỉ còn là cái bóng của chính mình. Những người đến thăm bà sau đó đều bàng hoàng và quá trình hồi phục của bà diễn ra chậm và đầy bất ổn. Ban đầu bà hôn mê, sau đó có vài lúc tỉnh táo. Phần lớn thời gian Elsa nằm trên giường. Khi có đủ sức, bà đọc cuốn Inferno của Dante đặt trong lòng, và đôi khi bà được đẩy ra ngoài hóng gió trong vườn trên chiếc xe lăn. Lucia luôn túc trực bên bà mỗi đêm, không rời nửa bước, và Alberto trở thành bạn tốt, thường xuyên tới thăm người vợ đã ly thân. Giữa năm 1984, Elsa có dấu hiệu hồi phục: bà tập đi vài bước với sự hỗ trợ của chuyên gia vật lý trị liệu và ấp ủ hy vọng được về nhà vào dịp Giáng sinh, thậm chí có thể viết trở lại. (Bà nhận được một số tin vui: Aracoeli được trao giải Prix Médicis Étranger danh giá tại Pháp). Trong thời gian điều trị, Elsa kết thân với một cậu bé người Libya mắc ung thư ở phòng bên cạnh. Bà dạy cậu bé tiếng Ý và tặng cậu một cuốn Peter Pan. “Cháu là ánh sáng duy nhất tại nơi u ám này”, bà nói với cậu bé.

Vào tháng Một năm 1985, sau khi được đưa vào phòng phẫu thuật khẩn cấp vì vết loét thủng, Elsa bị viêm phúc mạc. Bà phải đặt ống thông tiểu, và sau đó chịu đựng cơn đau đớn cùng cực, hầu như rơi vào trạng thái mê man hoặc ngủ suốt thời gian dài. Bà còn thở nhưng không thực sự sống và tình trạng sức khỏe của bà không hề cải thiện trong những tháng tiếp theo. Vào ngày 25 tháng Mười một, Elsa lên cơn đau tim và qua đời trên giường bệnh.

“Tôi vẫn cảm nhận sâu sắc nỗi mất mát to lớn khi Elsa Morante qua đời,” Natalia Ginzburg chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn với Salmagundi vào mùa thu năm 1992. “[Cái chết của bà ấy] không chỉ là nỗi đau riêng của những người bạn thân thiết mà còn là mất mát to lớn đối với cả thế giới. Bà ấy, tôi tin chắc, là nhà văn vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Tôi không rõ tác phẩm của bà được đánh giá ra sao tại [Mỹ], nhưng ở đây, dù từng đạt được thành công lớn, bà vẫn bị không ít người khước từ. Và chính sự khước từ đó đã khiến bà đau khổ vô cùng.”

Một trong những nhà văn Ý đương đại chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ Elsa Morante là tác giả với bút danh Elena Ferrante, người đã đạt danh tiếng quốc tế với loạt tiểu thuyết về Naples. (Ngay cả cái tên của bà cũng cho thấy sự ảnh hưởng này: Elsa/Elena, Morante/Ferrante.) Ferrante từng chia sẻ rằng khi còn là một thiếu nữ, bà đã bị House of Liars cuốn hút: “Chính từ đó, tôi nhận ra văn chương có thể vươn xa đến đâu”, bà nói trong một cuộc phỏng vấn với Vogue. “Cuốn tiểu thuyết ấy đã khuếch đại tham vọng của tôi, nhưng đồng thời cũng đè nặng lên tôi, khiến tôi tê liệt.” Năm 2014, khi được New York Times hỏi bà định vị mình ở đâu trong truyền thống văn học Ý, Ferrante trả lời: “Tôi luôn quan tâm đến kể chuyện hơn là viết lách. Ngay cả ngày nay, văn học Ý vẫn thiếu vắng một truyền thống tự sự. Có vô số trang văn đẹp đẽ, trau chuốt và tinh tế, nhưng lại hiếm khi có được mạch kể chuyện dày đặc. Một ví dụ hấp dẫn là Elsa Morante. Tôi cố gắng học hỏi từ những cuốn sách của bà, nhưng tôi thấy khó mà vượt qua được.”

Được yêu, bị ghét, bị lãng quên rồi lại được ngưỡng mộ, Elsa Morante là một nhà văn đáng được coi trọng. Sau khi bà qua đời, các tờ báo hàng đầu của Ý đã dành những bài điếu văn dài để tưởng nhớ bà và văn nghiệp của bà. (Nhiều tờ báo nhầm năm sinh của bà là 1918, nhưng bà đã bước sang 73 tuổi khi mất.) Tang lễ chật kín người. Một đám đông người đưa tang đứng chờ bên ngoài trời lạnh để bày tỏ lòng kính trọng khi chiếc quan tài gỗ mộc mạc, chất đầy vòng hoa, được rước đi trong đoàn tang. Alberto cũng có mặt trong thánh lễ tiễn biệt tại nhà thờ Santa Maria del Popolo.

Vài tháng sau khi Elsa qua đời, Alberto gây xôn xao dư luận khi kết hôn với Carmen Llera, một phụ nữ trẻ người Tây Ban Nha. “Cây đại thụ của văn học Ý, Alberto Moravia, 78 tuổi, đã kết hôn với một nữ giám đốc điều hành xuất bản 32 tuổi trong một buổi lễ đơn giản tổ chức tại Tòa thị chính Rome vào thứ Hai,” hãng tin UPI đưa tin ngày 27 tháng Một năm 1986. “‘Moravia đặc biệt vì không ai có thể viết hay như ông ấy,’ Carmen Llera chia sẻ về chồng của mình, người mà bà đã chung sống suốt ba năm. Cặp đôi từ chối hôn nhau trước ống kính phóng viên và các máy quay truyền hình, rời khỏi buổi lễ gần như ngay lập tức - Moravia quay lại làm việc với tiểu thuyết của mình, còn Llera trở về nhà xuất bản, nơi cô quản lý bộ phận báo chí.”

Vào ngày 26 tháng Chín năm 1990, Alberto qua đời tại căn hộ của mình. Ông được ca ngợi là tác giả được đọc nhiều nhất của Ý, với các tác phẩm được dịch sang khoảng ba mươi ngôn ngữ và bán ra hàng triệu bản trên toàn thế giới. Tổng thống Francesco Cossiga vinh danh ông như là một “người kể chuyện sắc sảo nhưng cũng vô cùng nhạy cảm về xã hội Ý thế kỷ 20: các mâu thuẫn, ni hoang mang và cuộc kiếm tìm giá trị đầy trăn trở”.

Elsa chưa bao giờ, và có lẽ sẽ không bao giờ, là một nhà văn dành cho tất cả mọi người, nhưng danh tiếng của bà vẫn vững vàng. Trong những năm gần đây, các tác phẩm của bà tiếp tục được tái bản, bao gồm cả ấn bản mới của Lies and Sorcery, do Jenny McPhee dịch. Nhà phê bình Robert Boyers, trong phần giới thiệu cho ấn bản Aracoeli năm 2009 (tác phẩm mà ông mô tả là “ không thể chịu đựng nổi”), Elsa yêu cầu độc giả của mình, đặc biệt trong hai tiểu thuyết cuối cùng của mình, phải “hấp thụ những cú sốc cảm xúc phức tạp”. Bà từ chối mang đến một kinh nghiệm đọc dễ chịu. Ông nhấn mạnh: “Đây không phải những cuốn tiểu thuyết dành cho người yếu tim.”

Alberto đã viết đầy xúc động trong hồi ký về ảnh hưởng của cái chết Elsa đối với ông, rằng dù không phải là một bi kịch do bạo lực gây ra như số phận của Pasolini, nhưng với ông, đó vẫn là “một cái chết khủng khiếp, oan uổng, bất công và tuyệt đối bất hạnh”.

Trong buổi phỏng vấn năm 1959 với New York Times, Elsa - lúc đó là nữ nhà văn nổi tiếng nhất nước Ý - được hỏi liệu bà và Alberto có ảnh hưởng đến văn phong của nhau hay không. Bà cứng người lại. “Không”, bà đáp. “Không. Ông ấy có căn cước riêng. Tôi có căn cước riêng. Básta.” Buổi phỏng vấn dừng tại đó. Bà không nói thêm một lời nào.

Thanh Nghi dịch

Elsa Morante và Alberto Moravia

Hòn đảo của Arturo (tiếp)

Elsa Morante: Hòn đảo của Arturo

Ngôi nhà không còn nữa

Hélène Cixous: Viết chết

Correspondence: Paul Celan và Ingeborg Bachmann (phần 2)

Correspondence: Paul Celan và Ingeborg Bachmann

Dịch các từ

Thư và nhật ký chiến tranh của Ingeborg Bachmann (phần 2)

Ingeborg Bachmann: Nhật ký chiến tranh

Wittgenstein, Bernhard và Bachmann

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công