Edna O’ Brien: Mẹ Ireland
Với tư cách một nhà văn Ireland, Edna O’Brien đã nhập vào truyền thống lâu dài của đoàn người chọn đi khỏi quê hương, từ Lawrence Sterne, James Joyce, Samuel Beckett cho đến Colm Tóibín. Edna hình dung Ireland như một người đàn bà tuyệt sắc, tràn đầy nhựa sống nhưng cũng ẩn chứa mọi nét hung hiểm bởi bản tính hoang dã - một người đàn bà chỉ có thể chiêm ngưỡng từ xa. Miền đất với phong cảnh nguyên sơ như bước ra từ cổ tích ấy lại tiềm ẩn cái kỳ quái sâu thẳm, khiến những đứa con của nó đều phải gánh lấy một lời nguyền nghiệt ngã.
Thế nhưng, quê hương không bao giờ chỉ là một vùng đất mà còn là một ý niệm lơ lửng, ám lấy và dày vò con người dù họ ở bất cứ đâu. Edna đã đi khỏi Ireland nhưng sự khước từ của quê hương mãi là vết thương không lên vảy cho đến tận cuối đời. Có thể nói mọi trước tác của Edna đều là nỗ lực tái tạo Ireland từ những mảnh ghép hỗn độn, như một cách kiếm tìm lý giải nhằm hướng tới cái thuộc về. Trong đó Mother Ireland (1976) - một dạng iconoclastic commentary and travelogue - cho thấy rõ điều ấy.
Dưới đây là phần mở đầu.
Vùng đất tự thân
- Edna O’Brien
Quốc gia nào cũng là mẹ hoặc cha, khơi dậy trong lòng con dân xúc cảm bí ẩn dành riêng cho bậc sinh thành ấy. Ireland từ bao đời vẫn được hình dung như một người đàn bà: một cái hang, một tử cung, một con bò, một nàng Rosaleen, một con lợn nái, một cô dâu, một kỹ nữ, và dĩ nhiên, một mụ phù thuỷ Beare khắc khổ. Miền đất này vốn dĩ đầy rừng và bụi rậm, như Orpheus từng thấy khi dẫn đường cho Jason vượt qua biển khơi mịt mờ sương khói. Người ta tin rằng Ireland đã kinh qua vô số cuộc xâm lấn từ thời Kỷ Băng hà vừa dứt, lúc khí hậu dần ấm lên và đàn hươu kéo nhau về chen chúc trong rừng rậm của nàng.
Những cuộc xâm lược vẫn thường được đàn ông kể lại và tô vẽ, mô tả như sự xâm phạm thân xác và linh hồn nàng. Ireland được coi là nữ thần Godridden. Thánh Patrick, vị thánh bảo hộ (chưa từng được phong thánh chính thức) của nàng, từng bị bắt làm nô lệ, nghe một giọng nói mách bảo mà chạy trốn khỏi Antrim, vượt biển sang lục địa. Ông cùng một bầy chó săn Ireland tới Pháp, dừng chân ở Auxerre để học làm giáo sĩ. Sau đó lần nữa, một thị kiến kêu gọi ông trở về, và vào thế kỷ thứ năm ông bắt đầu cải đạo vùng Bắc, rồi đến đồng bằng, khiến lời ăn tiếng nói và tư tưởng của con người đổi thay khi họ khuất phục dưới quyền Thánh Patrick và Kinh Thánh. Tiền nhân của Patrick, quân La Mã, chưa từng đặt chân tới Ireland, song Tacitus ghi lại rằng một viên tướng La Mã đã từ Scotland nhìn sang và tin rằng chỉ một đạo quân duy nhất cũng đủ khuất phục được xứ sở này. Ông đã nhầm, dù có bao nhiêu ngoại quân từng kéo đến, Ireland chưa bao giờ bị chinh phục hoàn toàn, dẫu có bị tước đoạt và áp bức đến tận cùng.
Khoảng năm 1860, một nữ tu chiêm niệm ở hạt Kerry dành cả đời biên soạn lịch sử đất nước mình, như lời nhắc nhở cho những người Ireland xa xứ ở Mỹ rằng họ từng có một quê hương cao quý. Bà quả quyết Ireland chưa bao giờ bội đạo. Bà khẳng định trái tim yêu nước có thể cháy sáng ngay cả dưới tấm khăn trùm đầu. Bà dẫn tấm gương Michael O’Cleirigh, tu sĩ dòng Phanxicô, người vào thế kỷ XVII đã chép lại Niên sử Bốn Thầy Dòng để lịch sử đau thương của dân tộc còn lưu truyền “cho đến tận cùng thế giới.”
Ta nghe được từ bà những cuộc khai phá đầu tiên của vùng đất Erinn thuở tiền hồng thủy khi Caesara, cháu gái của Nô-ê, nghe lời ông cậu báo trước về đại hồng thủy, đã cùng đoàn ba trăm năm mươi phụ nữ vượt Biển Đỏ qua ban thờ của người Philistine với những cột trụ Hercules làm mốc, băng bờ biển hiểm trở Tây Ban Nha để tìm tới Ireland, Hòn đảo Định mệnh. Người của bà là những hồn ma đầu tiên của xứ này, mở đầu cho chuỗi dài những bóng ma Ireland.
Rồi đến người Partholan, hậu duệ Japhet, ba trăm năm sau trận lụt, khoảng năm 2000 trước Công nguyên. Họ đặt chân lên Kenmare, miền tây Munster, đem tới chữ viết, thương mại và nông nghiệp. Partholan được nhớ đến như trường hợp đầu tiên của lòng ghen nơi Ireland: vợ ông vụng trộm với một nô lệ, và khi bị trách cứ, bà cãi rằng lẽ nào mật ong lại không được để gần đàn bà, sữa ngọt không được ở gần trẻ nhỏ, thức ăn không được đặt cạnh đàn ông, công cụ không được để bên thợ thuyền? Trong cơn thịnh nộ ông đã quật mạnh con chó săn yêu dấu của vợ xuống đất, giết chết nó.
Người Partholan sau đó chết vì dịch bệnh, bỏ lại vùng đất hoang vu. Tiếp đến là bộ tộc Nemedh, con cháu Magog, nhưng họ vừa định cư thì bị Formorcians - bọn thủy thủ khổng lồ từ Phi châu - cướp bóc, bắt dân chúng cống nạp trẻ con, ngũ cốc, súc vật, sữa bơ và bột mì.
Rồi họ rồi cũng bị người Firbolgs đánh đuổi, những kẻ bụng phệ từ Hy Lạp tràn sang, sau khi chịu một ách nô dịch tàn khốc: bọn chủ bắt dân chúng vác bao đất sét trên lưng để rải đất lên đá, biến nơi hoang vu thành chỗ ở. Họ chia Ireland thành năm phần, mỗi phần thành một vương quốc, và sống yên bình cho tới khi các Druids xuất hiện vào một sáng tháng Năm tươi đẹp, khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Người Druids, tinh thông phù thuật, tự xưng Tuatha de Danann dưới quyền nữ thần Dana. Họ nắm giữ bốn bảo vật quyền năng: hòn đá định mệnh, ngọn giáo bất khả chiến bại, thanh gươm dài bách chiến bách thắng và vạc nước sôi trừng phạt. Thế nhưng rồi thời khắc tàn lụi của phép thuật cũng đến, họ bị áp đảo và dồn xuống lòng đất bởi con cháu của Milesius, những người Gael đến từ Tây Ban Nha.
Người Danann trước hết đánh bại họ bằng cách phủ một màn sương mù lên hòn đảo khiến nó như biến thành lưng một con heo rừng rồi cử ba nữ hoàng của mình đến để dụ dỗ và gây rối loạn cho người Milesians. Một thoả thuận được lập ra. Người Milesians phải đi khoảng 9 dặm ra khơi, và nếu lần thứ hai họ quay trở lại và cập bến thành công thì họ sẽ được quyền sở hữu vùng đất này.
Nhưng khi họ ra khơi, người Dananns đã gây ra một trận cuồng phong dữ dội khiến nước dậy sóng, tàu thuyền va đập như những quả bóng; phần lớn thủy thủ đoàn chết đuối, trong đó có năm người con trai của Milesius. Những ai sống sót biết rằng người Dananns đã can thiệp vào các yếu tố tự nhiên và quay trở lại cùng viện binh từ Tây Ban Nha. Một trận chiến dữ dội diễn ra ở Derry nơi những chiến binh Danann bị tàn sát, kể cả các nữ hoàng của họ.
Người Milesians chia đất nước cho hai anh em, Eber và Erimhon, mỗi người trị vì một năm cho đến khi nảy sinh tranh chấp về quyền sở hữu ba ngọn đồi trọng yếu và trong trận chiến tất yếu ấy, Eber bị giết. Từ đó Erimhon trở thành Vua của Ireland, mở đầu cho một dòng dõi các vị vua cho đến khi Macha, một phụ nữ tóc đỏ, xuất hiện và đòi quyền thừa kế chính thống của mình. Nàng giả dạng thành một kẻ cùi hủi, quyến rũ những đối thủ nam, dẫn họ từng người một vào rừng, nơi nàng trói họ bằng xiềng xích và bắt họ làm nô lệ.
Ngọn đồi Tara ở hạt Meath là nơi cử hành lễ đăng quang cho các vị vua ấy, đồng thời cũng là chỗ ban hành luật pháp, tụng biên niên sử và cập nhật phả hệ. Tara với những gò xanh, được rào cọc gỗ và đắp bờ, với Hòn đá Định mệnh và sự thiêng vốn có, là nơi các vị vua học điều cấm kỵ và là nơi diễn ra các nghi thức đem lại may mắn - cá của sông Boyne, hươu của Luibneck, việt quất của Brileith, cải xoong của Brossnach, nước từ giếng thiêng và những con thỏ của Naas.
Các buổi hội họp luôn luôn là dịp chè chén, và nhà vua, chư hầu, cận vệ, thi sĩ, nhà lập pháp, phụ nữ và nô lệ đều ngồi đúng vị trí, khoác màu sắc được quy định cho từng hạng người. Nô lệ được phép mặc một màu, tá điền hai, lính tráng ba, chủ quán bốn, nhà vua và nhà thơ sáu. Những quân cờ cổ xưa của họ đủ sức xuyên thủng óc người, và quả đã xảy ra như thế. Các chiến binh ngồi xuống với những cái đầu của kẻ thù bị giết treo lủng lẳng dưới thắt lưng, ruột gan thõng xuống chân, trong khi lính thường nhét rêu vào vết thương để cầm máu. ‘Vàng không phải được nhận như một món đền bù từ con người, mà chính là linh hồn của hắn trong một giờ.’ Dẫu vậy bên cạnh những nghi lễ đẫm máu ấy vẫn có những quy tắc tinh tế, khi thịt nướng được xẻ ra, sử quan sẽ được tặng một khúc xương cong, thợ săn là vai lợn, thi sĩ và quốc vương phần ngon nhất, còn thợ rèn thì lấy thủ cấp của con thú! Cuối cùng vào năm Chúa 565, Thánh Ruadhan đã nguyền rủa nhà vua và nơi ấy bởi Đại vương Diarmuid coi thường quyền tị nạn vốn dành cho kẻ phạm tội trong nơi linh thiêng. Vị thánh từ Tipperary cùng đoàn tùy tùng đi đến Rath of Synods ở Tara, đặt lời nguyền lên nhà vua và cung điện, khiến nơi này mất hẳn chức năng của một hoàng cung.
Tara ngày nay hoang vắng, thô sơ; sự tranh cãi giữa Ban Quản lý Công trình và một phụ nữ không chịu bán phần đất của mình vẫn còn, viện lẽ rằng nó không đủ để trở thành di tích quốc gia. Bạn sẽ đi ngang một quán trà, một khu vườn đầy hoa như trong bưu thiếp; bạn trả một khoản phí nhỏ, leo lên ngọn đồi, thấy cửa kính màu của nhà thờ đã bị đập vỡ; bạn cứ leo tiếp, bắt gặp một công trình bằng đá, cố gắng đọc tấm bia khắc bằng tiếng Ireland; nhìn xuống thấy những đàn bò gặm cỏ trên đồng bằng, và bên dưới là những hố đào khảo cổ còn để lại dấu vết các phát hiện phi thường. Cách đó sáu dặm là một khu cắm trại nơi các cô gái tóc quấn lô nhựa dạo bước trên những con đường bê tông nhỏ như đồ chơi, đi lên đi xuống, tìm một chàng trai lý tưởng, và mỉa mai thay, chỉ thấy những ông bố khốn khổ lôi đám con ra vào một buổi diễn của chuột Mickey. Bài thơ của Thomas Moore, dù có phần huyền ảo, về tinh thần thì vẫn đúng và không hoàn toàn vô nghĩa đối với phần còn lại của Ireland:
“Chiếc đàn hạc từng vang vọng trong những đại sảnh Tara,
Linh hồn của âm nhạc tuôn trào,
Giờ treo lặng im trên tường Tara,
Như thể linh hồn ấy đã tan biến.
Niềm kiêu hãnh của những ngày xưa đang ngủ yên,
Vinh quang đã phai tàn…”
Việc Ireland bị xâm lược bởi những người Saxon hùng mạnh, láng giềng bên kia biển Ireland, là điều không thể tránh khỏi, nhưng lý do thực sự cho cuộc tấn công đầu tiên lại bắt nguồn từ sự yếu đuối của con người. Họ thực hiện cuộc chinh phục lần đầu vào năm 1169, dưới triều Henry II, mà nguyên nhân chính xuất phát từ một bi kịch trớ trêu: Devorgilla, vợ của O’Rourke xứ Breifne, vì si mê Dermot MacMurrough, Vương công của Leinster, đã lợi dụng lúc chồng vắng nhà để dâng mình cho Dermot nhằm nhận được tình yêu và sự thỏa mãn. O’Rourke nổi giận vì bị qua mặt, tìm đến Vua Rothorike của Ireland và thuyết phục ông tiến quân vào Leinster. Dermot bị đuổi khỏi lãnh địa, phải bỏ cung điện và cầu viện sự giúp đỡ từ Henry II, Vua nước Anh, người tiếp đón ông nhân hậu và ban cho ông một văn bản mang đến Bristol để kêu gọi tập hợp quân đội nhằm khôi phục Leinster. Với sự kiên trì, Dermot đã tìm được một đạo quân dưới quyền Robert Fitzstephens. Đổi lại, Dermot hứa sẽ trao Wexford và hai khu đất cho Fitzstephens. Ông ta tập hợp được khoảng sáu mươi binh sĩ cùng ba trăm cung thủ, bộ binh tinh nhuệ và được trang bị đầy đủ. Khi đặt chân đến Ireland, họ đã ứng nghiệm lời tiên tri xưa của Merlin rằng xứ sở này sẽ bị chinh phục bởi một hiệp sĩ mang hai dòng máu vì Fitzstephens là con trai của một người Norman và một người mẹ xứ Camber; phù hiệu của ông ta cũng chia đôi. Họ đắp công sự quanh Wexford với binh lính, trong khi các cung thủ nhắm vào các tháp tường từ bên ngoài và bên trong thành. Dù vậy, họ bị người bản địa chống trả dữ dội bằng gỗ đá lớn. Đêm hôm ấy họ rút lui, một số tàu bị đốt, nhưng sáng hôm sau, sau khi làm lễ thánh, họ lại mở cuộc tấn công mới. Nhờ sự hòa giải của các giám mục và những người ngay thẳng, dân thành phải khuất phục, trao con tin và thề trung thành với MacMurrough.
Bộ binh mang đến cho ông ba trăm thủ cấp quân thù, đặt dưới chân ông; ông nhận ra từng gương mặt, dâng lời tạ ơn Chúa, và khi thấy một cái đầu thuộc về kẻ mình căm hận đến tận xương tủy, ông nắm tóc và tai rồi cắn phập vào mũi và môi. Họ tiếp tục càn quét Leinster, đánh nhau với người Ireland dữ dằn tràn ra từ rừng rậm, đầm lầy và sình lầy, để rồi bị giết hại hàng loạt hoặc bị chém đầu dưới lưỡi rìu của quân Galloglass. Họ cướp bóc, đốt phá và chém giết, khiến những kẻ có ý định chống trả cũng phải chùn bước, bởi như thế giới từng biết, MacMurrough buộc người ta phải nghĩ lại, “như vận mệnh, cũng như niềm tin con người, có thể trụ vững hay sụp đổ.” Năm 1170, Dermot sai gọi Strongbow, tức Richard de Clare, dùng những lời dụ dỗ ngọt ngào như giọng một thiếu nữ.
“Cò và én, cũng như chim mùa hạ, đã đến, và cùng với chúng, gió tây đã thổi trở lại” [ông viết] “Chúng tôi đã chờ đợi ngài lâu rồi, và trước nay gió chỉ thổi từ đông sang tây mà chưa từng mang ngài đến với chúng tôi nên giờ xin đừng trì hoãn nữa. Hãy tự mình nhanh chóng đến đây để thiên hạ thấy rằng chẳng phải vì quên lãng hay thất hứa, mà vì thời gian ở lại của ngài quá dài. Tất cả Leinster đã thuộc về chúng tôi, và nếu ngài lập tức đến cùng một đội quân hùng mạnh thì chẳng còn nghi ngờ gì việc bốn phần đất còn lại cũng sẽ sớm quy phục và nhập chung với phần đất này.”
Trong bí mật Dermot đã thỏa thuận với Rothorike rằng một khi Leinster được dẹp yên, ông sẽ trở về và đưa tất cả người Anh về nước, cũng không cầu viện thêm quân đội nào nữa. Nhưng kế hoạch đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Không lâu sau, Dermot chết vì một chứng bệnh khủng khiếp không rõ nguyên nhân; cáo phó viết rằng ông “thối rữa ngay khi còn sống” và chết mà không có sự cứu rỗi của Chúa, không được xức dầu, đúng như những tội ác ông từng gây ra.
Người Anh vẫn ở lại và theo sử gia Sylvester Giraldus Cambrensis, một người xứ Wales, họ đã vô cùng liều mình khi đến Ireland, chẳng những trong chiến trận mà còn bởi tiếp xúc với người Ireland man rợ khiến họ có nguy cơ suy đồi, như thể đã nếm chén thuốc độc của Circe.
Cambrensis tự nhận mình là người kính Chúa trong tất cả mọi sự ngoại trừ thái độ đối với Ireland và phụ nữ. Ông coi bản tính thất thường, dễ thay đổi của họ là mối nguy hại và nhắm mũi nhọn phê phán vào mụ phù thủy Cleopatra, kẻ từng khiến Antony bỏ hết phép tắc, lao vào lối sống phóng túng buông thả. Ireland theo những định kiến xiên xẹo của ông, cả thân xác lẫn linh hồn là một vùng đất và một dân tộc mù quáng, phóng đãng, bất trị, mê tín, cuồng tín tôn giáo, ghê tởm, nghiện rượu whiskey, phù phiếm, sỗ sàng, dâm đãng, bạo tàn và ham hố chiến tranh. Ông còn rủa xả đất nước này với niềm tin rằng mình thi hành ý Chúa khi đi khỏi. Ông ước cho đất đai Ireland cháy rụi, bầu vú của phụ nữ cạn kiệt sữa, sói đói rình mò ven đường; và rồi những lời nguyền ấy ứng nghiệm. Ông coi đó là sự phán xét công bằng giáng xuống đám người bướng bỉnh, cứng cổ, từ chối phục vụ Chúa trong đạo thật, khước từ việc được xức dầu Thánh và thay vào đó lại thờ phụng kẻ phản Chúa tàn ác: Giáo hoàng La Mã.
Người Anh sau khi chiếm chỗ đứng ở Ireland, dần dần phá sạch rừng, làm cạn kiệt nơi trú ẩn thổ dân. Kế tiếp là một loạt quá trình thuộc địa hóa, tiêu diệt, khởi nghĩa rồi bị đàn áp, luật pháp, tra tấn, những tội ác của Cromwell và việc dồn dân Ireland về Connaught, nơi chỉ còn những vạt cỏ lơ thơ, vài loại thảo mộc và cây rắn hổ trâu mọc ra từ những khe nứt đá cho gia súc gặm.
Dean Swift, người có thể phân biệt kẻ điên này với kẻ điên khác, cũng như phân biệt kẻ trộm này với kẻ trộm kia, từng nói rằng số phận hẩm hiu của Ireland không hẳn do lỗi riêng của đất nước này mà phần nhiều do cả triệu sự cản trở.
Ông ghi lại chi tiết sự cưỡng bức ấy, một quốc gia mà gỗ rừng cạn kiệt, không còn tàu buôn hay nhà xưởng, một nửa lợi tức quốc gia chảy sạch về Anh, gia đình phải trả địa tô khổng lồ mà sống trong cảnh bẩn thỉu với khoai tây và sữa chua, nhà vua chẳng bao giờ đến còn phó vương vắng mặt bốn trên năm năm, đến nỗi có thể ví Ireland như một bệnh nhân chỉ được bác sĩ gửi thuốc từ xa.
Ai cũng có đủ điều để nói về nàng, những nhà tiểu luận, du ký, luật sư, sứ thần Tòa Thánh, thẩm phán, tất cả đều phán xét theo suy nghĩ hay giả định của riêng mình, và người Ireland được miêu tả là thân thiện nhưng bướng bỉnh, nghèo túng, “thô tục”, hay uống bia và quá đà với thứ rượu gọi là quebath (whiskey); đàn ông, đàn bà, trẻ con nghiện một loại thuốc lá gọi là shagh, hút trong những ống tẩu dài hai inch, chuyền tay nhau, khiến họ hay ho sặc, bị bệnh còi xương, thấp khớp và kiết lỵ; họ bỏ lá nguyệt quế vào bia cho thơm, xay lúa mạch bằng hai hòn đá, và nếu có loài bò sát nào tìm thấy ở đó thì cũng sớm bị chết hoặc nếu được nhập vào cũng không sống nổi. Những túp lều họ sống chỉ vừa cao hơn người, mái được chống bằng xà, trám rơm và lá, không ống khói, không cửa sổ, nên người trong nhà đầy khói, lưng còng và ốm yếu. Quần áo của đàn bà thô lậu, không khung cứng, họ chẳng biết hay chẳng chịu kiểm soát đường đi của tự nhiên. Họ chỉ lấy tay che đầu khỏi nắng gắt và mưa dầm. Ăn uống thô tục, họ chắc mẩm rằng cổ con bê non luôn luôn ngon, bơ thì được bỏ vào giỏ mây rồi chôn trong đầm lầy để dành cho những ngày mùa chay vậy nên thường bốc mùi hôi thối. Họ ăn cá hồi không cần muối hay giấm. Người ngoài nhìn vào thấy ghê tởm nhưng đồng thời cũng bị một sức hấp dẫn kỳ quặc lôi kéo.
Một bác sĩ tên Twiss, cập bến Ireland năm 1775, viết rằng “về mặt lịch sử tự nhiên, điều đáng chú ý nhất là đôi chân to bè của họ, đặc biệt là đàn bà thường dân.” Ông nói thêm rằng những phụ nữ ấy, tuy không kín đáo, lại rất lôi cuốn với khách lữ hành nên họ muốn tận dụng từng khoảnh khắc ở lại sao cho dễ chịu nhất. Ở tu viện Muckross, Killarney, ông hãi run người khi nghe tiếng hú của người Ireland trong tang lễ, tưởng như tiếng bò rống, và bỏ chạy thục mạng. Trong khi đó, sứ thần giáo hoàng lại khen hàu ở đây ngon tuyệt, mua cả ngàn con với giá mười hai đồng rưỡi, và còn mua một con ngựa năm đồng mà ở Ý chắc phải đáng cả trăm đồng vàng.
Một trăm năm sau, William Makepeace Thackeray ôn hòa hơn, ông thấy người Ireland khiêm nhường, yêu quý người lớn tuổi. Ông tả cảnh dân Dublin quây quần quanh các chức sắc trong công viên Phoenix mà ông gọi là Phaynix. Tuy Thackeray vụng trong chuyện boa bồi bàn, người đánh giày nên bị chê bai, ông quan sát được nhiều điều: những khuôn mặt bẩn thỉu sau ô cửa nhơ nhớp của Dublin, trẻ con chen chúc trên bậc thang gãy, đàn ông lôi thôi lếch thếch, đàn bà luộm thuộm, ăn mày lấm lem. Ông ghé Hall buôn vải lanh và nhận thấy đó là một nơi đồ sộ mà vô dụng, cô độc, mục nát, tượng George IV trơ trọi bên những kiện vải ế ẩm. Một số người khác, như bà Arsenat Nicholson - một phụ nữ Mỹ đến Ireland năm 1844 để khảo sát cảnh nghèo - lại thấy dân chúng hiền hậu, thuần khiết, trẻ con gái tóc đen tụ họp nhảy điệu đồng quê dưới tiếng kèn túi.
Người ta dễ đem lòng say mê Ireland. Họ đến đó, bị hút hồn bởi ngôi làng trắng muốt nép bên triền đồi, bởi dãy núi xanh thẫm, bởi sương mù bao phủ, bởi giàn hoa fuchsia đỏ thắm ở Kerry, bởi đàn chó sủa, bởi đá vôi trắng xóa ở Clare… Dường như tất cả đều như trong Đồi Gió Hú được dịch chuyển từ trang giấy thành cảnh sắc ngoài đời. Khách lữ hành trò chuyện, ăn cá, ăn thịt gà, ăn bánh mì nâu, nhúng tay xuống giếng thánh, hôn đá cầu may, nhưng rốt cuộc chẳng có ý định ở lại. Có gì đó bi kịch ẩn giấu trong một đất nước mà bao nhiêu người tìm cách trốn đi, cùng với những khốn cùng kinh tế - trận đói khoai tây năm 1847 đã khiến hơn một triệu người phải lên tàu quan tài, và kể từ đó đến nay hàng trăm ngàn người Ireland vẫn tiếp tục di dân.
Sự cô độc, niềm khao khát phiêu lưu, Giáo hội Công giáo, hay sợi dây gia đình vốn bền chặt hơn bất kỳ dân tộc nào khác, tất cả hòa quyện. Người mẹ Ireland tử đạo, người cha Ireland gào thét không chỉ xuất hiện trong văn chương trừ tà mà còn hiện diện trong mọi gia đình. Trẻ con thừa hưởng một “cây cỏ ba lá” tội lỗi: tội vì cuộc Khổ nạn và Thập giá của Chúa, tội vì quê hương bị cướp bóc, và tội thầm kín vì người cha phàm ăn đã nhiều lần làm ô uế người mẹ. Tất tật những dòng ngầm ấy chồng chất đến mức không thể chịu nổi. Có một nỗi tuyệt vọng có thể nảy sinh từ chính sự dư dật của vẻ đẹp thiên nhiên, khi nó đồng hành cùng một vũng lầy văn hóa và trí tuệ. Câu hỏi bây giờ không phải là những nàng tiên đã biến đi đâu mất mà là những nhà tư tưởng đang ở đâu.
Người Ireland không thích bị phản bác. Hễ bị chặn, trong họ sẽ bùng lên cơn giận bất ngờ như bụi gai mọc thò ra từ hàng rào. Có người không thể quên quá khứ, có người lại quá háo hức chôn vùi nó trong những tủ đông lạnh được tôn sùng. Maude Gonne McBride, nhà ái quốc và nữ thần cảm hứng bất tận của W. B. Yeats, đã nhìn thấy trái tim Ireland sống động và vô hình như một sức mạnh bất diệt, song cũng nhìn ra rằng những gì không thể khuất phục ấy lại vượt quá tầm hiểu của phàm nhân. Đất nước đẹp đến nghẹt thở nhưng trĩu nặng buồn đau, nỗi buồn của sự cô lập, của vật chất tầm thường, của những công trình tạm bợ, thói man rợ và sự thoái hóa văn hóa thâm căn cố đế. Những vần thơ và vở kịch mới ít ỏi chỉ còn là tiếng nói yếm thế chất chứa u sầu, là sản phẩm của sự tha hóa. Không có những triết gia kiệt xuất, không có những nhà tâm thần học lẫy lừng, chẳng có thành tựu nào nơi lý trí ngự trị; chỉ có di sản văn chương dồi dào, đúng vậy, nhưng những cống hiến của ba bốn chục năm qua thì lại thật thưa thớt.
Bạn nói nước Ireland lãng mạn đã chết hẳn rồi, trong khi vẫn ung dung ngồi thưởng trà chiều ở Athlone, no nê bánh drop scone, bánh táo và bánh mì soda. Chính ở nơi này bạn nhớ rằng Con Bò Nâu xứ Ulster đã húc Con Bò Trắng xứ Connaught, bỏ lại đôi hông bên bờ nước, và từ đó mà có tên Ath Luaine, khúc sông của đôi hông. Khi nó uống nước ở chỗ khác, nó lại bỏ gan của đối thủ, rồi ở nơi khác nữa thì bỏ xương bả vai, và cứ thế, vung vãi từng khúc thịt cùng ruột gan, đặt tên cho mỗi vùng đất theo vật hiến tế còn sót lại. Sau khi nó đã cày nát đất đai và bỏ mạng, Medb, Nữ hoàng hiếu chiến xứ Connaught, bèn làm hòa với Ulster, và trong bảy năm liền không một người Ireland nào phải chết.
Athlone vẫn kẹt xe như thường lệ, một tấm áp phích thông báo liên hoan kịch ngay bên cạnh là một tấm khác quảng bá cuộc thi chó chăn cừu. Nhà thờ lớn sừng sững, những bức tường kiêu hãnh, và ở bất kỳ thị trấn Ireland nào cũng có món bánh mì nướng từ chiếc lò hồng ngoại. Bạn tin sẽ có lễ hội, với tiết mục chính là cuộc thi hoa hậu, những khúc dân ca và cả việc gia hạn giờ mở quán rượu. Bạn đang ở trung tâm Ireland, không xa tu viện Clonmacnoise, hồi đi học bạn đọc bài tả nơi đây là một miền đất tĩnh lặng, tràn ngập những dòng nước và đoá hồng xinh tươi. Rồi bạn lái xe sang thị trấn kế tiếp, những con phố tương tự, vẫn tắc nghẽn, một chiếc đồng hồ bốn mặt chỉ bốn giờ khác nhau, một gã say với chiếc kèn harmonica đang khua chân nhảy jig, một xe tải chở bình gas Calor đi tiếp tế, và một viên cảnh sát Gardai đang xem xét biển số của một chiếc xe đỗ ven đường, bởi trong thời buổi khủng bố này, không nơi nào còn an toàn trước gói giấy nâu hay quả bom giấu trong búp bê giẻ rách.
“Mẹ kiếp lái xe thế à,” tài xế nói với bạn như thế, hoàn toàn bỏ qua sự mâu thuẫn trong lời nói và tốc độ thay đổi theo từng ý thoáng qua. Anh ta còn kể thêm một chuyện nữa, rằng các cha xứ giờ cũng lẫn vào đám thường dân, rằng có một ông cha ở đám cưới bên Limerick đã phơi cả “cửa trước” của mình ra và làm đủ trò chỉ trừ nước trực tiếp rủ cô dâu lên giường. Anh ta muốn quan sát phản ứng trên mặt bạn và ban cho bạn toàn bộ gương mặt mình đối diện. Bạn liền chỉ tay vào vô-lăng rồi thản nhiên cúi xuống dán mắt vào tờ báo.
Đức Giám mục tối cao Lucey ở Cork không lo đất nước sẽ bị ô nhiễm bởi những dàn khoan dầu ở vịnh Bantry mà sợ sự nhơ bẩn trong tâm trí con người, sự ô uế linh hồn từ những cuốn sách, tờ báo và phim ảnh đang lưu hành khắp Ireland. Ở chỗ khác bạn lại đọc được tin rằng, thực ra chỉ vì một chiếc van hỏng mà hai ngàn năm trăm gallon dầu đã tràn xuống biển và một ủy viên hội đồng địa phương đã bảo rằng chẳng thiệt hại gì mấy, rằng Chúa đứng về phía họ và chắc hẳn ai đó đã siêng năng cầu nguyện.
Người tài xế huyên thuyên không ngớt. Nào là việc trang hoàng xe cưới của mình bằng dải ruy-băng, nào là chuyện buôn bán quần áo cũ, tiết lộ rằng quần áo khổ lớn luôn luôn bán chạy nhất do phụ nữ quê thường phốp pháp bởi ăn nhiều tinh bột. “Tòa nhà thật bề thế,” anh ta bình phẩm khi xe chạy ngang qua một nơi có thể là trại lính, có thể là trường học, cũng có thể là trại cải huấn. Chuyện gì cũng ‘“tuyệt quá, hay quá,” và anh ta thao thao bất tuyệt để rồi bạn tự hỏi có phải dân Ireland đều khao khát bị điếc không.
Mưa lại rơi, đồng ruộng ướt sũng, tường ướt nhẹp, cầu vồng vắt ngang bầu trời và những ngôi nhà trệt bằng gạch hay đá cuội mà người phụ trách chính quyền địa phương ca ngợi là đã góp phần vào sự đa dạng của phong cảnh Ireland. Mây và lũ quạ trên cao hục hặc lẫn nhau. Thỉnh thoảng lại hiện ra một pho tượng thạch cao khổng lồ, viền hào quang neon, nào là Chúa Giê-su, nào là Đức Mẹ, hoặc cũng có thể là nàng Erin tinh khôi, với đôi tay dang rộng.
Đi ngang những thùng nhựa đường đỏ vàng báo hiệu công trình đang thi công, ngang những cái vẫy tay hờ hững của lũ trẻ lẻ loi lê bước về nhà, cặp sách kéo lê dưới đất. Chỗ nào cũng treo bảng cho thuê phòng trong nhà nông trại, chỗ nào cũng gắn biển về quyền đánh cá. Đi ngang một nhà nguyện mới xây bằng thứ xi măng loang lổ, màu sắc giả tạo như thạch rau câu. Rồi những trò xoay tít cùng những viên gạch men tệ hại treo lơ lửng trên quán cà phê mới mở. Và sau đó là những bất ngờ kinh khủng, một đàn bò hoặc một cái máy cày lao thẳng ra quốc lộ khiến người lái xe thốt lên quỷ dữ hiện hình.
Chuyến đi lẽ ra là hướng bắc hướng về ngai vàng của Connor, vua xứ Ulster, bị gián đoạn khi một hành khách phía sau hét to: ‘Khói, khói kìa’. Người tài xế vội nhảy xuống mà quên tắt máy, rồi chạy trở lại, bảo rằng chính anh ta cũng nhìn thấy khói nhưng không dám lên tiếng vì sợ mình hoa mắt. Một gara cách đó một dặm không giúp ích gì ngoài việc có cậu thanh niên bưng ra cái xoong luộc trứng đầy nước, hất vào động cơ ra vẻ ta đây, còn tài xế thì quả quyết rằng xe sẽ ổn và tự lành. Không cần bàn bạc, mấy người đàn ông bèn kéo ra cái chòi gần đó để giải quyết, kệ cho bạn nghĩ về Connor, kẻ đã từng giữ trong sọ mình cái đầu của một vị vua thù địch và cứ thế mà sống với cái đầu thứ hai may kín trong óc bằng sợi chỉ vàng. Nhưng vào ngày Chúa bị đóng đinh, thấy trời đất tối sầm lạ thường, ông gọi thầy tế Druid tới hỏi điềm gở ấy nghĩa là gì. Druid Bacrach đáp rằng Con Thiên Chúa đang bị người Do Thái đóng đinh. Thế là vị vua mang đầu trong đầu ấy hoảng loạn, xông vào một lùm cây, múa gươm lia lịa để tỏ rõ sẽ trị bọn Do Thái gian ác thế nào; nhưng vì quá căm giận, quả cầu trong đầu ông bật tung, não phun trào, và ông chết như vậy.
Và chẳng phải thi sĩ Edmund Spenser đã từng chứng kiến, khi mới hai mươi lăm tuổi, một bà vú già mút máu từ cáo đầu của Murrough O’Brien trong buổi hành quyết năm 1570. Và những nhành cây gai chẳng phải đã nhuốm một màu đỏ kỳ dị, bởi chúng bị vấy máu bắt chước Máu Thánh của Đức Kitô; và hoa fuchsia chẳng phải được gọi là Deora Dia, những giọt lệ của Chúa sao?
Khi bạn buông câu tôi là người Ireland và phía sau lưng bạn là tất tật những thứ ấy, cộng thêm những sáo ngữ về bầy thiên nga kiêu hãnh cất tiếng ngân nga, tiếng hươu rống trong rừng, cùng khuynh hướng luôn luôn dễ bị nhấn chìm trong sầu muộn và mất mát.
Xung quanh bạn, trong một căn phòng lòe loẹt trải chắp vá những mảnh thảm cũ, mấy con chó con đái bậy, một bàn thờ Đức Mẹ với những bông hồng giả nhọn hoắt như gai cùng sáu đứa trẻ - chủ nhân căn nhà - đang dán mắt vào màn hình tivi xem Shirley Temple.
Bạn ghé vào đây để cầu cứu trong khi tài xế kể lể với người đàn bà rằng hôm nay thật là một ngày khốn khổ và hy vọng là anh ta sẽ không phải thay máy mới. Bọn trẻ uống nước cam, và người cha - một tay vui tính - lặp lại ‘Xin thứ lỗi đi’ mỗi khi đứa nào ợ. Trong vùng này chẳng có xe cho thuê nào cả. Tài xế hoặc đã đi thăm bà con trong bệnh viện, hoặc đi lễ chiều, hoặc là ‘ra ngoài rồi chẳng bao giờ quay lại’. Những thông tin ấy được người đàn bà tốt bụng truyền đạt cho bạn trong khi bà gửi lời chia buồn đến người vợ, hay người mẹ, hay mẹ chồng mà bà đang nói chuyện qua điện thoại.
Đột nhiên bạn thấy mình phải đi khỏi. Đúng là bạn từng muốn quay lại, nhưng theo thời gian, bạn cảm thấy họ sẽ trói buộc bạn trong những niềm tin và quan điểm cố hữu của họ. Bạn đọc được rằng Hội Phụ nữ Nông thôn ủng hộ việc đem đòn roi trở lại, và một kẻ tự cho là ‘cởi mở’ thì lại coi Persona của Ingmar Bergman là thứ rác rưởi dâm uế. Chọc vào lòng mộ đạo thì bên dưới bạn sẽ thấy những trái tim Ireland đang sôi sục. Yeats giờ sẽ nói gì đây? - cuộc phục hưng văn chương của ông đã thành tro bụi, chẳng có phượng hoàng nào đứng chờ cất cánh.
Bạn buông câu tôi là người Ireland và phần được phân dành cho bạn là khuynh hướng hoang dại, buông thả, say xỉn, mê tín, thất thường, lạc hậu, nịnh bợ và động kinh; trong khi bạn biết rằng thực ra có cả một bè lũ hồn ma cư ngụ trong mình, những hồn ma mà mối giao cảm bên trong thường xuyên, rối rắm, thách thức chẳng kém gì những người đang sống. Gặp đồng hương tức là khơi dậy cả một biển cảm xúc bất ngờ. Một buổi chiều ở London tôi đi dạo, ngang qua một công trình xây dựng thì chậm bước lại để che mắt khỏi bụi. Một cậu trai Roscommon trẻ tuổi hỏi: “Cô có hạnh phúc không?”
“Không hẳn,” tôi đáp.
Cậu rạng rỡ khi nghe giọng một đồng hương.
“Bốn giờ có thể cùng uống trà chứ?”
“Không được,” tôi nói (tôi còn phải đi chỗ khác.)
“Cô sẽ không quên chúng tôi chứ?” anh hỏi.
“Không đâu,” tôi đáp.
Rồi tôi nhớ đến một người đàn ông khác xứ Roscommon, trong một quán rượu hoang vắng một buổi sáng ở Dublin, một kẻ điên theo cách định nghĩa của chính mình, đã trọ ở đó nhiều năm, cùng hai ba gã khác, những người sống trên lầu với những giường khung gỗ đơn sơ, lông vũ chọc thủng vải bọc gối, và ảnh Thánh Tâm treo đâu đó, hoặc khắp nơi. “Bỏ cái nụ cười dễ mến ấy đi,” ông ta nói với con trai tôi và dường như muốn giáng cho nó một cái vì cái tính dễ mến ấy. Ông ta nói tiếp, đôi mắt láo liên, rằng chúng tôi chỉ là “bọn sổ mũi” nhưng ông thì biết đâu là chủ ngữ, vị ngữ và tân ngữ trong bất kỳ câu nào. Người đàn bà sau quầy đang uống trà với aspirin, bà run rẩy dù đã mặc đủ loại áo len. Ông ta uống whiskey và khinh thường chúng tôi vì chỉ gọi nước. Người trọ khác, kẻ đã ở đó mười hay mười lăm năm, đã bỏ đi vì bệnh thần kinh. Trên gác, ở một khung cửa sổ có vết đạn, vài vết xước của mảnh chai nơi một tên cướp đường đã khắc tên mình. Cũng ở đây, một cái bàn nơi Robert Emmet đã ngồi vào năm 1800 mà vạch kế hoạch cách mạng, cuối cùng chỉ vỡ thành một vụ ẩu đả nhỏ. Tất cả chồng chất lên nhau và bị cất gọn cùng quá khứ.
Đây là xứ sở Godot. Chiếc chuông nhỏ với dòng chữ “chỉ dành cho hầu phòng” đã hỏng và những hành lang lạnh lẽo dẫn tới các căn phòng khóa kín, cửa kính dán vải cretonne để ngăn kẻ tò mò dòm ngó. Ban đêm, vào mùa du lịch, có một tay chơi dương cầm và một tay kéo vĩ cầm; và chính đó, cộng với những vòng đồng ca, những đóa hồng trà giả đầy gai, cùng những bản tình ca ám ảnh, là thứ khách tham quan được thưởng thức - thay vì những căn phòng lạnh lẽo, những chiếu nghỉ lát gạch, nhà vệ sinh cổ lỗ với báo cũ dán đầy bệ xí, cũng chẳng phải bình đá chườm nước nóng hay mấy gã mắc zona - và lẽ ra phải như vậy.
Nhưng khi bạn là người Ireland bạn biết cả hai mặt, và bạn thấy bất an trước cả hai. Bất an trước người ngoài, những kẻ trông chờ hình ảnh của bạn hiện ra như họ tưởng - vui nhộn, dí dỏm, ồn ào; lại càng bất an trước chính dân bản xứ, những kẻ muốn bạn hay bất kỳ ai nhấc họ ra khỏi bùn lầy tuyệt vọng của thân xác và đưa họ thẳng lên thiên đường bằng một cỗ xe lửa rực cháy. Bạn buông nhẹ câu tôi là người Ireland và bạn đi dọc những con phố London lúc bốn giờ, nghĩ đến lời tiên tri của Yeats về một điều như thế, và khi bước, bạn chẳng khó khăn gì nhớ lại ngọn gió từng lay động khóm lúa mạch.
Khi mặt trời thực sự ló dạng nơi đó, dường như nó bừng sáng với thứ quang huy lạ thường, rồi cộng thêm bao giai thoại về lòng hiếu khách, về tiên nữ, về bùa chú, về chuyện nhét ngỗng lên ống khói để làm sạch, về những tiếng “Yarra” và “Begorrah” từng được viết ra tràn trề bởi những cây bút hay, dở lẫn tệ hại khôn tả. Các sách cẩm nang thường nói với giọng ơ hờ thường có: “Ở khắp nơi đều có sự phồn vinh mới và người ta có thể cảm nhận được niềm lạc quan trong thái độ của dân chúng.” Sau đó chúng tiếp tục huyên thuyên về thời trang, về sự thanh lịch và di sản, về Joyce, Yeats và Behan (chẳng một thi sĩ còn sống nào được vòng nguyệt quế), về Kitô giáo, và về cột trụ Nelson, mà như sách nói, việc nó bị đánh sập năm 1966 là “bằng chứng cho những xúc cảm dữ dội vẫn chưa hoàn toàn tắt trong lòng người Ireland”. Nhưng sách lại không hề nhắc tới cái đầu bằng đá nay nằm sâu dưới hầm Tòa Thị chính, cuộn trong một bao tải cũ, và rằng ngay từ đêm bị lật đổ, nó đã được sinh viên đem ra để quảng bá một buổi khiêu vũ, rồi bị tuồn sang London và sau đó được một tay buôn đồ cổ mang về, kẻ đã từng hỏi đám đông đang ăn trưa rằng có ai muốn mua nó không. Một nhà văn có thể bỏ ra nguyên một ngày nghiền ngẫm chuyện ấy chính là Myles Na Gopaleen - bậc hiền triết, tay tư lự và yêu tinh ngôn từ, người mà trong các bài báo đã lột trần đám dân thường Ireland, đẩy họ xuống hàng ngũ những kẻ đào củ cải. Còn trong tiểu thuyết, cũng chính ông nhìn vào những nét kỳ quặc nhất của họ và biến họ thành những anh hùng hài hước.
Nhưng các nhà văn và thi sĩ luôn luôn nói bằng cảm quan tự nhiên hơn về một vùng đất, và nếu bạn muốn cảm nhận những gương mặt muôn hình của Ireland, bạn có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong Somerville và Ross, qua đoạn miêu tả một ngày đi săn, khi “sương giá và nắng hòa quyện, dâng lên đầu ta như rượu sâm banh ướp lạnh, và đồng cỏ săn bắn thực ra chỉ là những dải đất hoang và đầm lầy mênh mông không rào”. Bạn thấy được những trận mưa rào, lũ chó săn sục sôi, kỵ sĩ, người xem ngồi trên xe ngựa, xe đạp, hay đi bộ, những con đường ngập đá và bụi kim tước, và những bờ cỏ ngoan cố không thể vượt qua. Bạn đọc miêu tả của Frank O’Connor về một chuyến đạp xe qua Cavan - những hồ nước xanh, những ngọn đồi nhỏ nối tiếp nhau lăn dài, một miền đất gầy guộc, cằn cỗi mà ông nói “là cho họa sĩ thiết kế chứ không phải cho họa sĩ hội họa”. Vùng đất không hề ngấy ngán ấy đã khơi trong ông một cảm giác hoạt động dịu dàng. J. M. Synge thì nói rằng ông hối tiếc từng giờ phút xa rời nàng và từng đêm sống trong thành phố. Elizabeth Bowen thấu hiểu cảnh quan và tâm trạng của vùng đông bắc Cork khi trong truyện Summer Night bà viết:
“Thoát khỏi ánh chói chang của buổi trưa, những đống cỏ khô giờ như đang trôi nổi trên lớp cỏ non mọc lại: sự tươi mới của chúng thấm vào không khí. Không xa đó, những ngọn đồi với rừng cây bao lấy sườn nằm trong ánh sáng như những ngọn đồi của một thế giới khác - hẳn sẽ là một niềm hoan lạc thiên đường nếu được đứng trên ấy, nơi dường như chưa từng có dấu chân nào đặt tới, trên khoảng trống giữa những cánh rừng mềm như bụi phấn rắc phủ vàng. Trước nền đồi ấy, những khóm hồng leo đỏ rực trong vườn nhà dọc bên đường trông thật trần thế, chúng ở quá gần tầm mắt. Con đường ấy là ở Ireland.”
Ở một đất nước bi quan cuồng nhiệt đến mức cấm đoán sách vở, thật đáng kinh ngạc, và có lẽ cũng đáng suy ngẫm, rằng văn chương vẫn còn được tôn kính, và bất kỳ một người cày ruộng nào cũng có thể ngâm nga cho bạn nghe về “Cuộc vây hãm Limerick,” hay cuộc viễn chinh của bầy ngỗng hoang, hay những người lính trong lều trại trước “Trận Fontenoy” cầu khẩn về quê nhà Clare của họ:
Suốt đêm dài ta mơ về người, tỉnh dậy lại ngỡ mình nơi ấy.
Giấc mơ can trường và tỉnh thức dại khờ khi ta chẳng bao giờ còn thấy Clare.
Đó là vùng đất của tôi. Cách nơi tôi sinh ra chỉ vài dặm là chỗ từng đặt cung điện của Brian Boru, Kincora, nơi chúng tôi vẫn thường ngân nga: “Ôi Kincora, Brian vĩ đại giờ ở đâu, và đâu rồi vẻ đẹp từng thuộc về người?” Con đường gần đó tối om, vòm cây rậm rạp đan thành một mái vòm khép kín. Có một sân chơi bóng, xanh mướt rêu phong vì mưa dầm, cây xào xạc, lá xào xạc, và một người đàn ông sống trong điền trang gần đó vốn là kẻ mê ngắm chim, người ta bảo rằng trên mũ luôn cài một chiếc lông mới. Ở điền trang kế bên có hai bà cụ tự tay làm mứt và đóng lọ, và cả hai tòa dinh thự đều có cổng lớn với trụ đá vôi trang trí. Bên trong là những căn nhà gác cổng bé nhỏ như trong cổ tích, mái thấp khom xuống, cửa sổ lắp kính cắt hình kim cương, ống khói lúc nào cũng bốc khói. Lần lái xe đến đó trong một chuyến đi tuổi thơ mà chúng tôi đã hẹn từ lâu và chẳng thể nào quên, chúng tôi được dặn hãy nhìn cho kỹ để thấy Kincora. Và rồi bỗng cơn choáng ngợp xâm chiếm tôi, mắt tôi chẳng còn nhìn rõ được nữa, vì hồi hộp, vì tốc độ xe, vì bóng tối, vì sân bóng. Mắt mất khả năng tập trung và tôi đã bỏ lỡ. Xe chạy thẳng về Killaloe nơi chúng tôi sẽ được xem cây cầu mà bốn cậu bé địa phương bị bắn chết cùng một chiếc thuyền nhà mới toanh của một người Anh. Tôi nghĩ đến bài thơ, khúc bi ca tuyệt đẹp tôn vinh vùng đất này, và bài thơ ấy trở thành một thực thể sống động hơn chính di tích vừa bị xe vụt qua.
“Ta là Mac Liag, nhà ta bên hồ nước.
Về chốn cung điện nay đã phai tàn vẻ đẹp xưa,
Brian thường cho gọi ta, và ta vì ông mà đến.
Ôi đau xót! Ta còn sống, mà Brian đã đi xa!”
Thanh Nghi dịch