favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2024
Next

Edith Wharton: Cát lầy

29/10/2024 02:46

Không chỉ cát lầy mà còn cát lầy: truyện ngắn "The quicksand" của Edith Wharton xuất hiện lần đầu trên Harper’s Magazine (số tháng Sáu năm 1902), sau đưa vào tập The Descent of Man (1904).  Giữa hai năm ấy là cuộc gặp với Henry James (chuyện đã kể ở kia).

 

Cát lầy 

- Edith Wharton

                                                                       I
Khi chiếc xe ngựa của bà Quentin rẽ từ Công viên vào Đại lộ Năm trên đường về nhà, bà nhận ra dáng cao gầy của con trai mình đang dấn phía trước trong ánh hoàng hôn. Bước chân dài của anh gấp hơn thường lệ, và bà có linh cảm rằng nếu anh đang trên đường về nhà vào giờ này, thì ấy là vì anh muốn gặp bà.
Dù không phải là một phụ nữ nhiều huyễn tưởng, đôi lúc bà Quentin vẫn cảm nhận được một giác quan thứ sáu, cho phép bà nắm bắt những rung động nhỏ nhất trong tâm tư của con trai. Bà quá tinh tế để tin rằng mình là người mẹ duy nhất có khả năng này, nhưng bà tự cho phép mình nghĩ rằng ít ai có thể vận dụng nó một cách khôn ngoan hơn. Nếu không thể tránh được việc "nghe lén" những suy nghĩ của Alan, bà vẫn đủ can đảm để giữ bí mật về phát hiện của mình và đủ khéo léo để không bao giờ mặc nhiên công nhận bất cứ điều gì nằm ngoài giới hạn của những trò chuyện đã thốt ra thành lời giữa hai mẹ con: bà hiểu rằng hầu hết mọi người thà bị đọc trộm thư còn hơn bị đọc trộm suy nghĩ. Vì sự tế nhị siêu phàm này, Alan đã đền đáp bà bằng chính con người anh - chính Alan. Không thể có phần thưởng nào trọn vẹn hơn. Alan là chìa khóa mở ra ý nghĩa của cuộc sống, là sự biện minh cho những điều có thể đã từng vô nghĩa và đáng ghét, nếu chúng không đến được kết cục cuối cùng, là anh. Alan là một người con hoàn hảo, và bà Quentin đã luôn khao khát sự hoàn hảo.
Ngôi nhà của bà, theo cách riêng, phản ánh cơn khát ấy. Người ta cảm thấy nó là kết quả của vô vàn loại bỏ và cắt gọt kỹ lưỡng: hoàn toàn không có gì ngẫu nhiên trong sự hòa quyện của đường nét và màu sắc ở đây. Sự hoàn thiện gần như bệnh hoạn trong từng chi tiết vật chất của cuộc sống bà gợi ý rằng, có lẽ, những nguồn năng lượng đa dạng đã bị áp lực hoàn cảnh đẩy vào một lối mòn hẹp của sự ham hình thức. Tính cầu toàn của bà Quentin, đúng thế, vẫn có khuyết điểm: nó lệch. Bạn bè của bà không phải lúc nào cũng xứng đáng ngồi trên những chiếc ghế họ đang ngồi, và bà thường bỏ qua ở người xung quanh những thiếu sót mà bà sẽ không bao giờ chấp nhận ở những món trang trí của mình. Thực ra, ngôi nhà của bà uy nghi nhất là khi nó trống không; nó hiện ra đẹp nhất trong sự tĩnh lặng ấm áp, rực sáng từ ngọn lửa giờ đang chào đón bà.
Con trai bà, đã bắt kịp bà ngay trước thềm nhà, bước theo mẹ vào phòng khách rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế bành gần lò sưởi, trong khi bà cởi áo lông và bắt đầu chuẩn bị trà. Cả hai im lặng một lúc, nhưng khi liếc nhìn con trai qua ấm nước, bà nhận thấy ánh mắt anh đăm đăm ghim vào đống tro với một biểu cảm mà bà chưa từng thấy trên gương mặt anh, dù từng đường nét ngạo nghễ trên khuôn mặt ấy thân thuộc với bà chẳng khác gì những suy nghĩ của chính bà. Ánh mắt ấy lan đến cả dáng ngồi thờ ơ, đôi tay dài thon rũ xuống, mái đầu tựa buồn bã lên gối. Giống như biểu hiện tinh thần của sự mệt mỏi thể xác: trông anh thật, như anh hẳn sẽ nói, suy kiệt. Vẻ uể oải đó hoàn toàn xa lạ với sự kiên cường sáng rực thường ngày của anh, khiến bà Quentin có cảm giác như mình đang đối diện với một người xa lạ, và bà phải cẩn trọng tự điều chỉnh, vội vã dựng lên rào chắn. Đó là một trong những nhược điểm của mối quan hệ quá gần gũi giữa hai mẹ con: bất kỳ sự đứt gãy nào trong đó đều như một vực thẳm.
Bà đã quen với việc để những suy nghĩ của anh lượn quanh bà trước khi chúng biến thành lời nói, và giờ bà ngồi yên bất động, như thể chỉ cần một âm thanh nhỏ cũng có thể khiến chúng tan đi.
Cuối cùng, anh lên tiếng, mắt vẫn không rời lò sưởi. "Thật may vì mẹ là một người phụ nữ cổ điển dễ chịu biết dựa vào trực giác. Nhìn người ta suy nghĩ đúng là đau thật."
Linh cảm của bà đã đi trước lời anh. "Hope Fenno…?" bà ngập ngừng.
Anh gật đầu. "Cô ấy đã suy nghĩ - rất nhiều. Chuyện đó thật đau đớn - ít nhất là với con; và con cũng không nghĩ cô ấy thích thú gì: cô ấy nói vậy mà." Anh duỗi chân về phía lò sưởi. "Kết quả của những suy tư đó là cô ấy không chấp nhận con. Cô ấy đến quyết định này hoàn toàn dựa trên lý trí - không phải vấn đề cảm xúc, mẹ hiểu chứ. Con là người duy nhất cô ấy từng yêu - nhưng cô ấy sẽ không lấy con. Mẹ đã đọc những tiểu thuyết gì khi còn trẻ thế, mẹ yêu? Con chắc chắn tất cả đều xoay quanh chuyện đó. Nếu cô ấy lớn lên với Trollope và Whyte-Melville thay vì Tolstoi và bà Ward, thì giờ hai đứa con đã ngồi trên sofa hí hửng thử nhẫn đính hôn rồi."
Ban đầu, bản năng người mẹ đã khiến bà Quentin lặng thinh vì tức giận - cô gái bà không muốn cho con trai mình lại dám từ chối nó. Nhưng rồi bà nói, "Kể mẹ nghe, con yêu."
"À, cô ấy nguyên tắc lắm."
"Nguyên tắc?"
"Về tờ báo ấy mà. Cô ấy phản đối con làm chủ tờ Radiator."
Mẹ anh không cười theo anh.
"Tất nhiên cô ấy đã có giải pháp - cô ấy lúc nào cũng đầy sáng kiến. Con phải bỏ tờ báo, và chúng con sẽ sống hạnh phúc mãi mãi với đồ hộp và đạo đức. Cô ấy thậm chí còn có phương án thay thế - phụ nữ lúc nào cũng thật lắm trò! Con phải biến Radiator thành một tờ báo độc lập và điều hành nó thua lỗ để dạy công chúng biết một tờ báo mẫu mực nên như thế nào. Nói chung, con nghĩ cô ấy thích kế hoạch này hơn kế hoạch kia - nó có vẻ hung hăng gây hấn hơn. Thời nay, vờ tốt đẹp không còn là mốt nữa."
Bà Quentin thầm nghĩ, "Mình không ngờ nó lại quan tâm con bé đến vậy!" Rồi bà khẽ nói, "Con phải cho cô ấy thời gian."
"Thời gian?"
"Để dọn bớt những định kiến cũ và chừa chỗ cho những cái mới."
"Mẹ yêu quý, định kiến của cô ấy lúc nào cũng mới cứng, đó mới là vấn đề. Cô ấy mới kinh khủng: cập nhật mọi tạp chí đạo đức thời thượng và luôn theo kịp xu hướng mới nhất."
Sự tức giận của bà lạc lối trong những ẩn dụ phức tạp của anh. "Cô ta sùng đạo đến thế kia à?"
"Mẹ cổ lỗ của con ơi! Cô ấy hoàn toàn chẳng có tín ngưỡng nào; khó là chỗ đó. Con có thể khiến một phụ nữ sùng đạo tin vào gần như bất cứ điều gì: có thể khai thác lòng tin mù quáng của họ. Nhưng khi lòng tin của một cô gái vào Đại hồng thủy đã lung lay thì thật khó để thuyết phục cô nàng tin vào bất cứ thứ gì. Cô ấy làm con cảm thấy, trước khi tin vào con, trách nhiệm của một người theo thuyết vô thần là phải kiểm tra xem liệu con có lỗi thời không, liệu 'văn bản' có méo lệch ở đâu không, hay đã từng có ai chứng minh dứt khoát rằng thực ra con chưa từng tồn tại chưa."
Bà Quentin lại im lặng. Hai mẹ con luôn sống trong bầu không khí lơ lửng ngụ ý và giả định, nơi mà chỉ một thoảng lời cũng có thể rung cho bụi của vô số ấn tượng đã cất từ lâu rơi xuống; đôi khi lời nói giữa họ còn khó khăn hơn cả những mối quan hệ ít gần gũi hơn.
Một lát sau, bà dè dặt hỏi, "Không thể nào à?"
"Không thể?"
Bà dường như cẩn trọng với từng từ, như thể đó là những vũ khí có thể tuột khỏi tay bà, gây thương tổn. "Những gì cô ta đề nghị."
Con trai bà, ngồi thẳng dậy, lần đầu tiên quay sang nhìn mẹ. Ánh mắt họ gặp nhau trong cú sốc của sự thấu hiểu. Vậy là anh đứng về phía bà, chống lại cô gái kia! Cảm giác thỏa mãn của bà tràn ra thành lời thì thầm dịu dàng.
"Tất nhiên là không rồi, mẹ yêu. Người ta không thể thay đổi - thay đổi cuộc đời mình..."
"Thay đổi con người mình," anh sửa lại. "Con đã nói như thế với cô ấy. Từ bỏ tờ báo thì có ích gì nếu con vẫn giữ nguyên quan điểm của mình?"
Sự phân biệt tâm lý này thu hút bà. "Vậy điều gì khiến cô ta khó chịu?"
"À, tờ báo - ít nhất là bây giờ. Cô ấy hứa sẽ giúp con thay đổi quan điểm sau này. Tất cả những gì cô ấy đòi hỏi là con phải từ bỏ dị giáo: còn ơn cứu rỗi sẽ đến sau."
Bà Quentin ngồi lặng lẽ nhìn tách trà còn nguyên. Những lời đầu tiên của con trai khiến bà có cảm giác như mình đang vùng vẫy giữa một đám đông mà anh không thể thấy. Thật kinh khủng khi nhận ra mình bị bao vây bởi những ảnh hưởng mà anh không hề cảm nhận được; tuy nhiên, nếu có điều gì khiến nỗi khổ của bà tăng lên, thì đó chính là phát hiện ra những bóng ma của bà đã trở nên hữu hình.
Như thể muốn đánh lạc hướng anh, bà vội vã hỏi, "Vậy còn con…?"
Câu trả lời của anh vang lên như một triệu hồi ám ảnh. "Con chỉ hỏi cô ấy nghĩ gì về mẹ."
"Về mẹ sao?"
"Cô ấy ngưỡng mộ mẹ vô cùng, mẹ biết mà."
Trong khoảnh khắc, đôi má của bà Quentin ánh lên chút dư quang của thời con gái: lời khen ngợi qua miệng con trai bỗng có giá trị lớn hơn. "Thế à…?" Bà mỉm cười.
"Thế đấy - mẹ đã không bắt cha từ bỏ tờ Radiator, đúng không?"
Bà mẹ, cứng đờ, đáp vòng vèo: "Cô ta chưa bao giờ đến đây. Làm sao cô ta biết mẹ thế nào?"
"Cô ấy nghèo quá! Ít khi ra ngoài." Anh đứng dậy, tựa vào lò sưởi, tay gõ nhẹ lên một bức tượng đồng nhỏ hình đấu sĩ đứng trên bệ đá porphyr, đặt giữa hai tượng ngà Tây Ban Nha ấm sắc. "Còn mẹ cô ấy nữa…" anh thêm vào, như thể vô tình.
"Mẹ cô ta chưa bao giờ đến thăm mẹ," bà Quentin hoàn tất câu nói cho anh.
Anh nhún vai. "Bà Fenno chẳng khác gì một con búp bê sáp. Quy tắc sống của bà ấy là mấy câu thêu trên chiếc khăn tay của bà ngoại bà ấy."
"Con gái hiện đại thế mà…"
"Vẫn chẳng khác gì? Không hẳn. Cô ấy ngưỡng mộ mẹ - ồ, vô cùng!" Anh đặt lại bức tượng đồng và quay sang mẹ với một nụ cười. "Chẳng phải mẹ ở cùng cô ấy trong một ủy ban bệnh viện sao? Điều khiến cô ấy ấn tượng nhất là cách mẹ làm việc thiện. Cô ấy nói rằng việc thiện không phải là một lối sống, mà là một trạng thái tinh thần - và có vẻ mẹ là một trong số những người được chọn."
Như vẫn thường vậy trong sự dịu đi mơ hồ của cơn đau thể xác, khi cơn nhói ở một dây thần kinh bỗng mang lại giải thoát, bà Quentin đột nhiên thấy nhẹ nhõm khi cơn giận dữ với cô gái bắt đầu trào lên. "Nếu cô ta yêu con…" bà bắt đầu.
Anh giơ tay ngăn lại. "Con không yêu cầu mẹ làm điều đó."
Cả hai lại chìm vào im lặng, đối mặt nhau trong sự rối bời của thảm họa chung - như thể những suy nghĩ của họ, khi đối mặt với hiểm nguy, đã cứ thế tung mình vào hành động, không che chắn. Trong khoảnh khắc phơi bày ấy, lần đầu tiên bà Quentin nhận ra bao nhiêu khía cạnh trong tính cách của con trai dường như có vẻ dễ hiểu chỉ vì chúng quá đỗi quen thuộc với bà: giống như khi đọc một ngôn ngữ lạ, ta cứ mặc định hiểu nghĩa của một số từ cho đến khi ngữ cảnh buộc ta phải sửa. Bao lần bà đã đoán trước được hành động của con mình trong những tình huống nhất định, nhưng giờ đây bà thấy bất lực hoàn toàn. Và với sự thất bại của trực giác, bà nhận ra sự phục tùng của mình: hóa ra mọi lời khuyên của bà trước đây chỉ là đón đầu mong muốn của anh. Sự tuyệt vọng của bà thoát ra trong tiếng thở dài, "Con muốn mẹ làm gì?"
"Nói chuyện với cô ấy."
"Nói chuyện với cô ta?"
"Cho cô ấy thấy - nói với cô ấy - làm cô ấy hiểu rằng tờ báo chưa bao giờ là một phần trong cuộc sống của mẹ - nó không chạm đến mẹ - và cũng không cần phải ảnh hưởng gì đến cô ấy. Chỉ cần cô ấy nghe mẹ - nhìn mẹ - ở bên mẹ - cô ấy sẽ thấy...cô ấy không thể không thấy được..."
Mẹ anh ngập ngừng. "Nhưng nếu cô ta đã nói rõ lý do với con…?"
"Hãy để cô ấy nói chuyện với mẹ! Nếu cô ấy có thể - khi cô ấy gặp mẹ..." Bàn tay bồn chồn của anh lại dịch chuyển bức tượng đấu sĩ. "Con quan tâm chuyện này vô cùng," anh thừa nhận.


                                                                       II
Trên ngưỡng cửa nhà Fenno, một cảm giác bất chợt về sự vô ích của cuộc gặp gần như đã khiến bà Quentin quay lại xe. Nhưng cửa đã mở, và một cô hầu phòng, tin rằng cô Fenno có nhà, dẫn bà vào căn phòng khách ảm đạm. Đây là kiểu phòng mà không ai trong gia đình bước vào trừ khi sau bữa tối hoặc sau một đám tang. Bàn ghế trông như những họ hàng nghèo khổ, đền đáp sự chăm sóc của chủ nhân bằng một cuộc đời dài gượng ép. Chúng như liên kết với nhau trong một âm mưu lạnh lùng chống lại những kẻ xâm nhập bằng cách gây khó chịu. Bà Quentin, nhạy cảm với những điều như thế, đọc được sự chống cưỡng trong từng góc của lớp bọc ghế. Bà không mắc phải sai lầm tầm thường là nghĩ rằng có thể thuyết phục Hope Fenno cưới Alan vì tiền; nhưng cảm năng được khuôn nắn của bà vẫn chấp nhận rằng có khác biệt giữa suy đoán ti tiện này và ý nghĩ rằng trí tưởng tượng của cô gái có thể bị lay động bởi những khả năng tinh tế mà sự giàu có mang lại. Tuy nhiên, những món nội thất nhà Fenno, với vẻ cứng nhắc của gỗ óc chó đen, khiến những lập luận ấy trở nên vô nghĩa; và điều gì đó trong cách bài trí gợi ý rằng những người sở hữu căn phòng sẽ không nhân nhượng. Căn phòng không có dấu vết nào của sự thỏa hiệp hiện đại, không có lớp màn che đậy những sự thật bất tiện; và khi bà Quentin ngồi tạm trên chiếc ghế sofa kiểu Gothic bọc vải xanh, rõ ràng bà không thể tạo nên sự kết nối gần gũi hơn với nó, bà kết luận rằng nếu bà Fenno cần thêm một chiếc ghế cùng cỡ, bà ấy chắc chắn sẽ bình thản đi tìm một chiếc giống hệt chiếc mà bà Quentin đang ngồi uể oải.
Trong tưởng tượng của bà Quentin, những quan điểm của Hope Fenno, khi cất lên trong giọng nói trẻ trung lanh lảnh từ phía đối diện chiếc ghế sofa Gothic, cũng nhiễm luôn tính cách của không gian xung quanh. Đầu óc cô như một không gian trống, rộng, sáng sủa và chẳng trang bị mấy. Chỉ có vài định kiến nặng nề, không được thiết kế để làm ai thoải mái nhưng quá nặng để dễ dàng dịch chuyển. Trí tuệ của bà Quentin, trong đó người chủ của nó từ lâu đã di chuyển trong quầng sáng tối êm dịu đầy nghệ thuật, giữa những cảm xúc phức tạp và tinh tế, giờ bỗng trở nên chật chội và ngột ngạt trong so sánh; và khi tìm cách rút lui khỏi sự thẳng thắn chói lọi của cô gái trẻ, bà bất ngờ nhận ra mình loạng choạng trong sự tối tăm xa lạ. Sự khó chịu của bà chuyển thành cảm giác cáu kỉnh với người đối diện. Bà Quentin biết rằng giá trị tức thời của bất kỳ lập luận nào đều nằm ở khả năng tiếp thu của người nghe, và khi những mũi tên thuyết phục của bà bị hạ gục bởi sự cứng đầu của Hope Fenno, bà thầm nghĩ rằng, vì hành vi của con người được chi phối bởi cảm xúc hơn là ý tưởng, những người thực sự mạnh là những người ù lì, nhầm cảm giác của mình là ý kiến. Xét theo tiêu chuẩn này, cô Fenno đúng là rất mạnh: giọng nói dứt khoát của cô khi tuyên bố, "Không thể nào," vang lên như lời phán quyết cuối cùng.
Câu trả lời của bà Quentin che giấu chút sắc thái của sự oán giận đàn bà. "Tôi đã nói với Alan. Nó đã thất bại thì tôi cũng làm gì có cơ hội để gây ấn tượng."
Hope Fenno đặt một tay gần như cung kính lên tay bà khách. "Bà Quentin yêu quý, chính ấn tượng bà tạo ra đã xác nhận là không thể."
Bà Quentin chờ một nhịp: bà hoàn toàn ý thức được rằng khi đã bị chạm cảm xúc thì chẳng có cách nào vận được sự hài hước nữa. "Tôi tạo ra ấn tượng khó chịu đến thế sao?" Cuối cùng bà hỏi, với một nụ cười mở đường cho cô gái tự chọn hai cách hiểu.
"Ấn tượng của bà quá đẹp! Đẹp đến mức làm nhòe cả khả năng phán xét của tôi."
Bà Quentin nhìn cô chằm chằm. "Tôi tự hỏi liệu có phải phép không khi một phụ nữ lớn tuổi gợi ý rằng, ở độ tuổi của cô, đôi khi việc để cái gọi là sự phán xét của mình bị nhòe một chút cũng không hẳn là chuyện gì tồi tệ?"
Cô Fenno đỏ mặt. "Tôi cố không phán xét người khác…"
"Cô phán xét Alan."
"À, anh ấy không phải là người khác," cô thì thầm, giọng cô khiến bà Quentin mềm lòng.
"Cô phán xét mẹ của anh ta."
"Tôi không phán xét bà, không!"
Bà Quentin dấn tới. "Vậy là cô đang tự phán xét mình, như thể cô đang ở vị trí của tôi - và cô tuyên án kết tội tôi."
"Sao bà lại nghĩ vậy? Chính vì tôi nhận ra sự khác biệt trong quan điểm của chúng ta mà tôi thấy khó để biện hộ cho bản thân…"
"Biện hộ chống lại điều gì?"
"Sự cám dỗ khi nghĩ rằng tôi có thể như bà - với những gì tôi đang cảm thấy."
Bà Quentin đứng dậy với một tiếng thở dài. "Con yêu, vào thời của ta, tình yêu không phức tạp như vậy đâu." Bà ngừng một chút rồi nói thêm, "Alan là một đứa con hoàn hảo."
"À, lại chuyện đó - chính điều đó khiến mọi thứ tồi tệ hơn!"
"Tồi tệ hơn?"
"Giống như sự tốt đẹp của bà, sự dịu dàng của bà, và lòng bao dung vô bờ khi cho phép tôi thảo luận với bà theo cách đáng lẽ phải bị coi là một sự thiếu tôn trọng."
Nụ cười của bà Quentin pha chút mỉa mai. "Cô phải nhớ rằng tôi làm điều đó vì Alan."
"Chính vì điều đó mà tôi yêu quý bà!" cô gái lập tức đáp, và một lần nữa, giọng cô làm bà Quentin xúc động.
"Vậy mà cô lại đang hy sinh anh ta - vì một ý!"
"Chẳng phải mọi sự hy sinh có chút giá trị nào đều là hy sinh vì các ý sao?"
"Người ta có thể hy sinh con người mình."
Máu dồn lên má cô Fenno. "Đó là điều tôi đang làm đây," cô nhẹ nhàng nói.
Bà Quentin nắm lấy tay cô. "Tôi tin là cô đang làm vậy," bà đáp. "Và không đúng khi nói tôi chỉ lên tiếng cho Alan. Có lẽ ban đầu thì thế, nhưng giờ tôi cũng muốn cầu xin cho chính cô - chống lại chính cô." Bà dừng lại, rồi tiếp tục với giọng sâu hơn: "Tôi đã để cô, như cô nói, nói lên suy nghĩ của mình với tôi theo những cách mà nhiều phụ nữ có thể sẽ thấy phật ý, bởi tôi muốn cho cô thấy rằng, theo thời gian, những lý thuyết, những ý tưởng, những khái niệm trừu tượng về cuộc sống, thật ra rất ít trọng lượng khi so sánh với thực tế, với cách mà cuộc sống hiện diện trước chúng ta - đặc biệt là đối với phụ nữ. Cứ khăng khăng quyết định trước chính xác mình sẽ hành xử thế nào trong những hoàn cảnh nhất định cũng giống như khăng khăng quyết định sẽ đi theo một con đường cụ thể khi băng qua một vùng đất chưa từng khám phá. Sau này ta sẽ nhận ra rằng mình phải đi vòng qua những chướng ngại - băng qua những con sông ở nơi nông nhất - theo những con đường mà người khác đã lội qua - và đưa ra đủ loại nhượng bộ không thể ngờ. Cuộc sống là những sự thỏa hiệp: đó là điều tuổi trẻ không muốn hiểu. Tôi đã sống đủ lâu để ngờ rằng có thể có điều tốt đẹp nào thật sự đến từ việc hy sinh những sự thật đẹp đẽ cho những lý thuyết đẹp hơn. Tôi có vẻ đang biện hộ không? Tôi không biết - có thể sẽ có mất mát, dù theo cách nào đi nữa... nhưng tình yêu của người đàn ông mà mình yêu... của đứa con mà mình yêu... điều đó bù đắp cho tất cả...."
Bà đã nói với một sự xúc động dường như truyền qua bàn tay cô gái vẫn đang đặt trong tay bà. Mắt bà bỗng ngấn lệ, nhưng qua màn sương ấy, bà vẫn thấy đôi môi của cô gái nở ra một lời bác bỏ cuối cùng đầy tuyệt vọng:
"Bà không thấy sao, chính vì tôi cảm nhận được tất cả những điều này mà tôi không thể - tôi không được phép?"


                                                                      III
Chiều muộn một ngày xuân, bà Quentin bước vào cửa Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Bà đã đi dạo trong Công viên, trong sự cô độc đè nặng bởi lo lắng khôn nguôi về nỗi phiền muộn của con trai mình và đột nhiên nhớ ra rằng gần đây có ai đó đã bổ sung thêm một bức tranh của Beltraffio vào bộ sưu tập. Bà Quentin từ lâu đã có thói quen tìm kiếm khuây khỏa trong nghệ thuật, thứ mà hầu hết người quen của bà dường như chỉ tìm thấy trong sự hiện diện của nhau. Bà có ít bạn bè, và sự có mặt của họ chỉ làm bà thoải mái khi bà đang trong trạng thái hời hợt; nhưng bà có thể xoa dịu lo âu bằng một bức tranh giống như cách mà nhiều phụ nữ khác có thể với một chiếc mũ mới.
Trong sáu tháng kể từ lần đến gặp cô Fenno, bà đã nhận ra một nỗi đau mà bà từng nghĩ mình không còn cảm nhận được nữa - như một người đàn ông vẫn cảm thấy nhức buốt nơi cánh tay bị cắt bỏ. Bà tưởng rằng mọi cảm xúc của mình đã được chuyển hết sang Alan; nhưng giờ bà nhận ra mình phải chịu đựng một nỗi đau kép, trong đó sự đau đớn của riêng bà càng nhức nhối hơn vì nó chia cắt bà khỏi con trai. Alan đã khiến bà ngạc nhiên: bà không lường trước được rằng anh lại phản ứng dữ dội đến vậy trước một sự từ chối tình cảm. Sự thất vọng của anh bộc lộ dưới hình thức khắc khổ lao vào công việc. Anh dồn sức vào Radiator với một sự hung hăng gần như hiện rõ trên tờ báo. Bà Quentin không bao giờ đọc Radiator, nhưng qua những bài phản ánh trên các tờ báo khác, bà hiểu rằng ít nhất tờ báo cũng không bị thay đổi theo hướng đạo đức như một trong hai phương án mà cô Fenno đã đề xuất.
Bà Quentin không bao giờ đả động đến chuyện đã xảy ra với con trai. Bà vượt lên sự hài lòng rẻ mạt của việc trả thù vết thương của anh bằng cách hạ thấp nguyên nhân của nó. Bà biết rằng trong những nỗi đau tình cảm, một sự an ủi như vậy chẳng khác gì rắc muối vào vết thương. Sự né tránh một vấn đề sống động đến thế giữa hai người không thể không ảnh hưởng đến quan hệ thân thiết của họ. Hiện diện vô hình của cô gái cản trở sự tự do trong lời nói và suy nghĩ của họ. Cô luôn luôn chắn giữa hai người; và để che giấu cảm giác về sự xâm nhập của cô, họ bắt đầu ít ở bên nhau hơn. Chính lúc này, bà Quentin mới nhận ra mình cô độc đến thế nào. Nếu trước đây có bao giờ dám tưởng tượng ra tình huống này, bà hẳn đã hành động theo lý thuyết thông thường rằng nỗi đau của con trai sẽ kéo bà lại gần hơn với anh; nhưng sự gần gũi ấy chính là điều đã bị từ chối trao cho bà. Sự kín bưng của Alan không chỉ dừng ở lời nói, và bà mẹ, bị đẩy vào trạng thái bất lực của những suy đoán không chắc chắn, thậm chí không có được niềm an ủi của việc điều chỉnh sự đồng cảm của mình theo nhu cầu của anh. Bà không biết anh cảm thấy thế nào: con đường anh đi bà hoàn toàn không thể đoán. Đôi khi bà tự hỏi liệu mình có trở nên khó hiểu với anh hay không; và chính để tìm một khoảnh khắc ẩn náu khỏi sự khốn khổ đeo đuổi của những suy đoán này mà bà đã quay lại Bảo tàng.
Hàng dài những bức tranh dịu dàng như thể đón lấy bà Quentin vào sự bình lặng giàu có của hoàng hôn mùa thu. Bà cảm giác như đang dạo trong rừng mê, nơi không còn vẳng bước chân sầu muộn nào. Sự tách biệt tĩnh lặng thấm sâu đến mức khi bà quay lại sau khoảnh khắc đắm chìm với bức Beltraffio mới, bà ngạc nhiên nhận ra mình không hề một mình
Một cô gái trẻ, vừa đứng dậy từ chiếc ghế ở giữa phòng, khựng lại khi bà Quentin đối diện với cô. Người phụ nữ lớn tuổi hơn là người đầu tiên lấy lại sự bình tĩnh.
"Cô Fenno!" bà lên tiếng.
Cô gái tiến lại với khuôn mặt đỏ bừng. Khi sắc đỏ dần phai, bà Quentin nhận thấy sự thay đổi nơi cô. Trước đây, trong ánh mắt cô gái luôn có gì đó sáng rực, phấp phới như một lá cờ, nhưng giờ, cô chùng xuống như thể đang treo cờ rủ. Trong sự lúng túng khi bắt gặp một bí mật mà chủ nhân của nó hẳn chưa nhận ra mình đang để lộ, bà Quentin vội vàng quay lại với bức Beltraffio.
"Tôi đến để xem bức này," bà nói. "Thật đẹp."
Đôi mắt Miss Fenno lướt qua những khoảng xanh thẳm huyền bí của bức tranh một cách lãnh đạm. "Tôi đoán là vậy," cô đáp; sau đó, ngập ngừng, cô thêm vào, "Bà thường đến đây phải không?"
"Rất thường xuyên," bà Quentin trả lời. "Tôi tìm thấy rất nhiều sự an ủi trong tranh."
"An ủi?"
"Một sự nghỉ ngơi, ý tôi là... khi người ta mệt mỏi hoặc không vui."
"À," cô Fenno lẩm bẩm, mắt nhìn xuống.
"Bức Beltraffio này là mới, cô biết đấy," bà Quentin tiếp tục. "Phông nền thật tuyệt vời, đúng không? Ông ấy có phải là một trong những họa sĩ cô hứng thú không?"
Cô gái lại liếc nhìn tấm canvas mờ tối như thể cố tìm một manh mối nào đó về sự an ủi của nghệ thuật. "Tôi không biết," cô nói sau một lúc lâu; "Tôi e rằng mình không hiểu tranh." Cô tiến gần hơn về phía bà Quentin và đưa tay ra.
"Cô sắp đi à?"
"Vâng."
Bà Quentin nhìn cô. "Để tôi đưa cô về nhà," bà bất thần nói. Bà kinh ngạc nhận ra rằng chứng kiến cô gái chịu đựng nhiều đến mức này không hề khiến bà vui vẻ.
Cô Fenno lập tức cứng người lại. "Cảm ơn bà; tôi thích đi bộ hơn."
Bà Quentin buông tay cô cùng một động tác như rút lui, và trong thoáng chốc, dường như có một làn sóng đẩy hai người phụ nữ ra xa nhau. Rồi, khi bà Quentin, cúi nhẹ đầu, lại hướng sự chú ý về bức tranh, bà cảm nhận một cái chạm bất ngờ lên cánh tay mình.
"Bà Quentin," cô gái ngập ngừng, "thực ra tôi đến đây vì nhìn thấy xe của bà." Đôi mắt cô cúi xuống, rồi lại ngước lên gặp gương mặt người nghe. "Tôi đã rất khổ sở!" cô thốt lên.
Bà Quentin im lặng. Nếu Hope Fenno mong chờ một phản ứng ngay lập tức với lời thổ lộ của mình, thì cô đã phải thất vọng. Khuôn mặt người phụ nữ lớn tuổi như tấm màn che phủ những suy nghĩ của bà.
"Tôi đã nghĩ rất nhiều," cô gái tiếp tục vội vã, "về những điều bà đã nói hôm bà đến thăm tôi vào mùa thu năm ngoái. Giờ tôi nghĩ mình đã hiểu bà muốn nói gì - bà đã cố gắng làm tôi thấy điều gì... Ôi, bà Quentin," cô bật thốt, "tôi không định nói với bà điều này - tôi không bao giờ nghĩ sẽ nói đến chuyện này - nhưng bà còn nhớ những gì bà nói, đúng không? Bà nhất định phải nhớ! Và giờ, khi tôi gặp bà thế này, tôi không thể không nói với bà rằng tôi tin - tôi bắt đầu tin rằng bà đã đúng, sau tất cả."
Bà Quentin đã lắng nghe mà không cử động; nhưng giờ bà đưa mắt lên với một nụ cười nhẹ. "Cô muốn tôi nói điều này với Alan sao?" bà hỏi.
Cô gái đỏ mặt, nhưng cái nhìn của cô không tránh nụ cười ấy. "Liệu anh ấy có còn muốn nghe điều này không?" cô nói một cách quả quyết.
Bà Quentin tạm thời tìm cách lẩn tránh bằng cách quay lại ngắm bức Beltraffio; rồi, quay sang, bà nói với một chút do dự: "Thằng bé vẫn quan tâm đấy."
"A!" Cô gái thốt lên.
Trong cuộc trao đổi ngắn ngủi này, cả hai người phụ nữ dần vô thức tiến lại một trong các băng ghế. Bà Quentin liếc nhìn xung quanh: một nhân viên bảo vệ lảng vảng ở cửa rồi chậm rãi đi vào phòng tranh bên cạnh, để hai người họ lại một mình giữa những bức tranh sáng bạc của Vandyke và sắc đỏ sậm của Hals. Bà Quentin ngồi xuống băng ghế và đưa tay về phía cô gái.
"Đến ngồi cạnh tôi đi," bà nói.
Cô Fenno ngồi xuống bên cạnh. Hai người phụ nữ bị cảm xúc nhận chìm đến nỗi không thể thốt nên lời. Cô gái vẫn run rẩy, và bà Quentin là người đầu tiên lấy lại sự bình tĩnh.
"Cô nói cô đã khổ sở," cuối cùng bà mở lời. "Cô nghĩ tôi không sao?"
"Tôi biết bà cũng đã đau khổ. Điều đó càng làm tôi càng thấy tệ hơn vì tôi là nguyên nhân khiến bà đau khổ vì Alan!"
Bà Quentin hít một hơi thật sâu. "Không chỉ vì Alan," bà nói. Cô Fenno quay lại nhìn bà, đầy thắc mắc. "Không chỉ vì Alan. Nỗi đau đó người phụ nữ nào cũng mong đợi - và biết cách chịu đựng. Tất cả chúng ta đều biết rằng con mình sẽ phải trải qua những thất vọng như thế, và cùng chịu đựng với chúng không phải là nỗi đau sâu sắc nhất. Đó là nỗi đau riêng - nối đau chúng không thể nào hiểu được." Bà hít thêm một hơi sâu. "Tôi muốn cô hiểu điều tôi nói. Hôm đó cô đã đúng - và tôi đã sai."
Bà Quentin tiếp tục, giọng nói sáng suốt nồng nàn. "Tôi đã biết điều đó - tôi biết ngay cả khi đang cố tranh luận với cô - tôi luôn biết! Tôi không muốn con trai tôi cưới cô cho đến khi nghe lý do cô từ chối nó; và sau đó - sau đó tôi khao khát được thấy cô trở thành vợ của nó!"
"Ôi, bà Quentin!"
"Tôi khao khát điều đó; nhưng tôi biết điều đó không được phép xảy ra."
"Không được phép sao?"
Bà Quentin lắc đầu buồn bã, và cô gái, lấy lại sự can đảm từ sự phủ nhận im lặng ấy, thốt lên, không thể kiềm chế cảm xúc:
"Là vì bà nghĩ tôi cứng rắn, bướng bỉnh, thiển cận sao? Ôi, tôi hiểu điều đó quá rõ! Cái cảm giác tự mãn của tôi chắc hẳn trông thật nhỏ mọn! Một cô gái sẵn sàng hy sinh tương lai của một người đàn ông chỉ vì lòng sĩ diện đạo đức của mình - vì đó chỉ là một dạng củasĩ diện; bà đã cho tôi thấy điều đó quá rõ - hẳn bà phải khinh thường tôi lắm! Nhưng tôi không còn là cô gái đó nữa - không đâu. Tôi không còn bốc đồng - tôi đã suy nghĩ mọi việc thấu đáo. Tôi đã nghĩ kỹ về chuyện này. Tôi biết Alan yêu tôi - tôi biết anh ấy yêu tôi đến thế nào - và tôi tin rằng tôi có thể giúp anh ấy - ôi, không phải theo cách tôi từng tưởng tượng trước đây - mà chỉ đơn giản là yêu anh ấy." Cô ngừng lại, nhưng bà Quentin vẫn im lặng. "Giờ tôi nhìn mọi thứ khác hẳn. Tôi hiểu được sức mạnh mà tình yêu thực sự có thể mang lại - rằng tin tưởng, yêu thương anh ấy, chấp nhận anh ấy đúng như anh ấy là có thể giúp anh ấy nhiều hơn bất kỳ lý thuyết hay lý luận nào. Đáng lẽ tôi phải nhận ra điều này từ lâu, khi nhìn vào bà - như anh ấy thường nói với tôi - khi thấy cách bà luôn giữ mình tách biệt khỏi - khỏi công việc của ông Quentin và của anh ấy - luôn là mặt đẹp của cuộc sống với họ - giữ lòng tin của họ sống, dù chính họ không còn tin vào điều đó - không phải bằng cách can thiệp, giảng dạy hay cải cách, mà chỉ bằng - chỉ bằng cách yêu thương họ và hiện diện bên họ…" Cô nhìn bà Quentin với vẻ cao quý giản dị. "Không phải vì tôi quan tâm đến tiền đâu; nếu tôi quan tâm đến điều đó, có lẽ tôi đã sợ hãi…"
"Sẽ đến lúc cô quan tâm đến nó thôi," bà Quentin đột ngột nói.
Cô Fenno rút tay lại, giật mình. "Sẽ đến lúc?"
"Đúng vậy; khi không còn gì khác nữa." Bà nhìn chằm chằm vào những bức tranh trước mặt. "Tội nghiệp con," bà thốt lên, "Ta đã nghe tất cả những điều con nói nhiều lần trước đây rồi!"
"Bà đã nghe sao?"
"Phải - từ chính ta. Ta đã cảm thấy như con, đã tranh luận như con, đã hành động như ta sẽ ngăn con làm, khi ta cưới cha của Alan."
Cả căn phòng trống trải dài dằng dặc dường như vang vọng tiếng kêu kinh ngạc của cô gái…"Ôi, bà Quentin…"
"Suỵt; hãy để ta nói. Con có nghĩ ta sẽ làm điều này nếu con là loại cô gái ngây thơ, hời hợt mà nó lẽ ra phải cưới không? Chính vì ta thấy con sống động, như ta đã từng, tràn đầy lòng tin, tham vọng và năng lượng, như ta đã từng - mà ta không thể nhìn thấy con bị chôn sống như ta đã từng mà không đưa tay ra cứu con!" Bà ngồi im, nhìn thẳng phía trước, mắt đăm đăm vào những bức tranh, giọng bà thấp và dồn dập như người đang cố gắng truyền tải ý nghĩa của cả một đời vào vài câu ngắt quãng.
"Khi ta gặp cha của Alan," bà tiếp tục, "ta chẳng biết gì về - về công việc của ông ấy. Chúng ta gặp nhau ở nước ngoài, nơi ta sống cùng mẹ. Đó là hai mươi sáu năm trước, khi tờ Radiator còn chưa nổi tiếng - chưa tai tiếng như bây giờ. Ta chỉ biết rằng chồng ta sở hữu một tờ báo - một tờ báo lớn - và chẳng gì hơn. Ta chưa bao giờ đọc một số nào của tờ Radiator; ta không hề biết nó đại diện cho điều gì, về chính trị - hay những mặt khác. Chúng ta cưới nhau ở châu Âu, và vài tháng sau đó chúng ta về đây sống. Người ta bắt đầu bàn tán về tờ Radiator. Chồng ta, sau khi rời đại học, đã mua nó bằng một khoản tiền mà người chú già để lại cho ông ấy, và công chúng lúc đầu chỉ tò mò xem một người đàn ông trẻ tuổi đầy tham vọng, chưa có kinh nghiệm báo chí sẽ làm gì với cuộc thử nghiệm này. Và họ nhận ra trước hết rằng ông ấy sẽ kiếm được rất nhiều tiền từ nó. Ta cũng nhận ra. Ta đã rất hạnh phúc theo nhiều cách khác, nên lúc đầu điều đó không có nhiều ý nghĩa; dù sao thì cũng thật dễ chịu khi giúp được mẹ ta, được hào phóng và làm việc thiện, sống trong một ngôi nhà đẹp, và mặc những bộ váy lộng lẫy mà ông ấy thích. Nhưng vẫn không có gì thật sự quan trọng - cho đến khi một ngày, ta phát hiện ra tờ Radiator thật sự là thế nào. Ta đã sẵn sàng bước ra ngoài đường bằng chân trần còn hơn là sống thêm một giờ nào nhờ số tiền nó mang lại...." Giọng bà hạ xuống, và bà dừng lại để bình tĩnh lại. Cô gái ngồi bên cạnh bà không nói gì, cũng không cử động. "Ta sẽ không bao giờ quên ngày hôm đó," bà bắt đầu lại. "Tờ báo đã phơi bày trần trụi một vụ bê bối gia đình - một bí mật đau đớn mà cả tá người bất hạnh đã cố gắng giữ kín - bí mật ấy sẽ không bao giờ bị tiết lộ nếu chồng ta không… Ôi, cô hẳn đoán được phần còn lại! Ta không kể tiếp được nữa!"
Bà cảm nhận được một bàn tay đặt lên tay mình. "Bà đừng kể nữa, bà Quentin," cô gái thì thầm.
"Tôi phải nói - tôi phải nói cho cô hiểu." Bà Quentin hít một hơi thật sâu. "Chồng tôi không giống Alan. Khi ông ấy phát hiện ra tôi cảm thấy thế nào về tờ báo, ban đầu ông ấy ngạc nhiên - nhưng dần dần ông ấy bắt đầu nhìn ra - ít nhất tôi tin rằng ông ấy đã nhìn ra - sự ghê tởm của nó. Dù sao đi nữa, ông ấy cũng thấy tôi đau khổ, và ông ấy đề nghị sẽ từ bỏ mọi thứ - bán tờ báo. Điều đó không thể làm ngay lập tức được, dĩ nhiên rồi - ông ấy đã khiến tôi hiểu điều đó - vì ông ấy đã đầu tư toàn bộ tiền của mình vào đó, và ông ấy không có tài năng đặc biệt cho bất kỳ công việc nào khác. Ông ấy là một nhà báo bẩm sinh - giống như Alan. Từ bỏ tờ báo là một sự hy sinh lớn đối với ông ấy, nhưng ông ấy hứa sẽ làm điều đó - vào thời điểm thích hợp - khi có cơ hội tốt. Trong lúc chờ đợi, dĩ nhiên, ông ấy muốn phát triển nó, tăng lượng phát hành - và để làm được điều đó, ông ấy phải tiếp tục theo con đường cũ - ông ấy đã giải thích rõ ràng cho tôi. Tôi thấy rằng chúng tôi đang rơi vào một vòng luẩn quẩn. Tờ báo, để bán chạy hơn, phải trở nên càng đáng ghét và đáng khinh bỉ hơn. Ban đầu tôi phản kháng - nhưng bằng cách nào đó - tôi không thể cho cô biết chuyện xảy ra như thế nào - sau khi nhượng bộ lần đầu tiên, mặt đất dưới chân tôi dường như sụp xuống: mỗi lần tôi cố vùng vẫy, tôi lại chìm sâu hơn. Và rồi - Alan ra đời. Thằng bé yếu ớt đến mức không còn hy vọng gì cứu sống. Nhưng tiền đã làm được - tiền từ tờ báo. Tôi đưa con đi nước ngoài gặp những bác sĩ giỏi nhất - mỗi mùa đông tôi đưa nó đến những nơi có khí hậu ấm áp. Vào mùa hè, các bác sĩ khuyên nên đi biển, và chúng tôi có một chiếc du thuyền để du ngoạn mỗi năm. Tôi nợ tờ Radiator mạng sống con mình. Và khi Alan bắt đầu khỏe mạnh hơn, thói quen xa xỉ đã hình thành - thói quen không thể thiếu. Thằng bé không thể sống thiếu những thứ mà nó đã quen thuộc. Nó suy sụp khi phải sống trong cảnh tồi tàn; nó uể oải trước sự đơn điệu và bất tiện; nó chỉ phấn chấn với thay đổi, giải trí, du lịch - những sự mới mẻ và kích thích. Và tất cả những gì tôi muốn cho con, người mẹ nuôi vô tận ấy luôn sẵn sàng đáp ứng!
"Chồng tôi không nói gì, nhưng chắc hẳn ông ấy đã thấy mọi chuyện đang diễn ra thế nào. Không còn lời nào về việc từ bỏ tờ Radiator nữa. Ông ấy chưa bao giờ trách móc tôi về sự thiếu nhất quán của mình, nhưng tôi nghĩ rằng ông ấy hẳn đã khinh thường tôi, và suy nghĩ đó khiến tôi trở nên liều lĩnh. Tôi quyết định hoàn toàn bỏ qua tờ báo - cứ điềm nhiên nhận lấy những gì nó mang lại mà không quan tâm đến nguồn gốc. Và để bào chữa cho điều đó, tôi nghĩ ra lý thuyết rằng có thể tiền sẽ được thanh tẩy khi được dùng cho việc tốt. Tôi làm từ thiện rất nhiều - ban đầu tôi rất ít tự nuông chiều bản thân. Tất cả số tiền không dành cho Alan, tôi cố dùng để làm việc thiện. Nhưng dần dần, khi con trai tôi lớn lên, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Làm sao tôi có thể bảo vệ Alan khỏi sự ô uế mà tôi đã để nó sống trong? Tôi không thể làm gương - không thể lấy cha nó ra làm cảnh báo, hay lên án số tiền chúng tôi đang sống nhờ vào. Tất cả những gì tôi có thể làm là che đậy sự xấu xa bên trong bằng cách làm cho nó đẹp đẽ bên ngoài - xây một bức tường của cái đẹp giữa con mình và sự thật cuộc đời, khiến nó quan tâm đến những điều khác, giấu Radiator khỏi nó, như một người phụ nữ nở nụ cười dạ tiệc giấu đi mầm ung thư trong ngực! Ngay khi Alan chuẩn bị vào đại học, cha nó qua đời. Lúc đó tôi mới thấy rõ đường đi trước mặt. Tôi yêu chồng - nhưng sau bao nhiêu năm, cuối cùng tôi cũng hít hơi tự do đầu tiên. Vì Radiator đã được để lại cho Alan, không có gì ngăn cản nó bán nó khi đến tuổi trưởng thành. Và không có lý do gì để không bán nó. Tôi đã nuôi dưỡng nó phụ thuộc vào tiền bạc, nhưng tờ báo đã mang lại đủ tiền để thỏa mãn mọi nhu cầu của nó. Cuối cùng, chúng tôi có thể quay lưng lại với con quái vật đã nuôi dưỡng mình. Ý nghĩ đó mang lại cho tôi niềm vui hoang dại - tôi gần như không thể chờ đến khi Alan đủ tuổi. Nhưng tôi chưa bao giờ nói với nó về tờ báo, và giờ tôi không dám nói đến chuyện đó nữa. Một sự xấu hổ mơ hồ giữ tôi lại, một niềm tin mơ hồ vào sự ngây thơ của nó. Tôi quyết định đợi đến khi nó đủ hai mốt tuổi, và rồi chúng tôi sẽ tự do.
"Tôi đã chờ - ngày đó đến, và tôi lên tiếng. Cô đoán được câu trả lời của nó rồi đấy. Nó không hề có ý định bán tờ Radiator. Cái nó quan tâm không phải là tiền mà là sự nghiệp. Nó là một nhà báo bẩm sinh, và tham vọng của nó, từ khi bắt đầu biết nhận thức, là tiếp tục công việc của cha mình, phát triển, vượt qua ông ấy. Không có gì trên thế gian này hấp dẫn hơn báo chí hiện đại. Nó không thể tưởng tượng được cuộc sống nào khác mà không khiến cậu phát chán. Một tờ báo như Radiator có thể trở thành một trong những quyền lực lớn nhất trên đời, nó yêu quyền lực và muốn có tất cả quyền lực mà nó có thể giành được. Tôi đã nghe nó nói như lên đồng. Tôi không tìm được lời nào. Cha nó còn từng có chút do dự - nó thì không. Tôi nhận ra ngay rằng tranh luận là vô ích. Tôi thậm chí không biết mình có cố thuyết phục nó không - nó quá sáng láng, quá cứng rắn, và quá xa xôi! Và rồi tôi nhận ra, sau tất cả, nó chính là sản phẩm của tôi - của những nhượng bộ, những đồng lõa, những sự trốn tránh của tôi. Đó là cái giá tôi đã phải trả để giữ nó lại bên mình!
"Thôi - dù sao thì mình cũng đã giữ được nó. Đó là cảm giác còn lại. Nó là con trai tôi, con của tôi, tất cả là của tôi - cho đến khi một người phụ nữ khác chiếm lấy nó. Trong lúc chờ đợi, cuộc sống cũ vẫn tiếp diễn như có thể. Tôi từ bỏ cuộc chiến. Nếu ở khía cạnh đó, tôi không thể chạm đến nó thì ở những khía cạnh khác, nó rất gần gũi với tôi. Nó luôn là một đứa con hoàn hảo. Thị hiếu của chúng tôi hòa hợp - chúng tôi cùng yêu thích những cuốn sách, những bức tranh, những con người giống nhau. Tôi chỉ cần nhìn nó từ góc nghiêng để thấy khía cạnh thực sự thuộc về tôi. Ban đầu tôi vẫn cứ nghĩ đến mặt đáng sợ kia - nhưng ấn tượng đó phai dần, và tôi quay mặt đi khỏi nó, như người ta làm khi đối diện với một khiếm khuyết trong gương mặt mình yêu thương. Tôi nghĩ rằng mình đã có thỏa thuận chung quyết với cuộc đời - đã tìm ra một modus vivendi đủ để kéo dài đến cuối đời mình.
"Và rồi nó gặp cô. Tôi luôn sẵn sàng cho việc nó cưới vợ, nhưng không phải một cô gái như cô. Tôi nghĩ nó sẽ chọn một cô nào ngơ ngẩn dịu hiền, không bao giờ tò mò về những bí mật trong quá khứ của nó - nó vốn ghét phụ nữ có suy nghĩ! Nhưng ngay khi tôi thấy cô, tôi biết cuộc chiến sẽ phải bắt đầu lại. Nó mạnh hơn cha mình rất nhiều - đầy những niềm tin khủng khiếp. Và nó còn có can đảm để bảo vệ những niềm tin đó - cô đã thấy điều đó năm ngoái, khi tình yêu nó dành cho cô không hề khiến nó dao động. Nó tin vào công việc của mình; nó tôn thờ công việc ấy. Đó là một thứ thần tượng khủng khiếp mà nó sẵn sàng hiến tế con người! Nó vẫn yêu cô - tôi đã thành thật với cô - nhưng tình yêu của nó sẽ không thay đổi nó. Chính cô mới là người sẽ phải thay đổi - phải chết dần, như tôi đã chết, cho đến khi chỉ còn một điểm sống duy nhất trong tôi. Ồ, nếu có thể chết hoàn toàn thì sẽ đơn giản hơn nhiều! Nhưng luôn còn lại một thứ gì - hãy nhớ điều đó - một điểm nhỏ, một dây thần kinh của sự thật. Đôi khi cô có thể làm tê liệt nó - nhưng chỉ cần một cái chạm là nó lại tỉnh dậy, như gương mặt của cô đã đánh thức nó trong tôi. Luôn luôn có đủ phần còn lại của con người cũ để tiếp tục đau khổ..."
Bà đứng dậy và đột ngột đối diện với cô gái. "Tôi sẽ nói gì với Alan đây?" bà hỏi.
Cô Fenno ngồi bất động, mắt nhìn xuống đất. Hoàng hôn đang buông xuống phòng trưng bày - một thứ hoàng hôn dường như tỏa ra không phải từ mái vòm kính trên đầu, mà từ những chiều sâu tối tăm nơi các gương mặt trong tranh đang mờ dần vào, lùi xa mãi. Tiếng bước chân của người bảo vệ vang dọc hành lang. Khi cô gái ngẩng đầu lên, cô đã chỉ còn một mình.
Anh Hoa dịch

Undine & Undine

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công