favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2025
Next

Coetzee: Robert Walser, Người phụ tá

06/08/2025 16:30

J. M. Coetzee đọc rất nhiều và viết không ít về những gì mình đọc. Robert Walser là một trong những đối tượng quan sát lâu dài của Coetzee: không chỉ viết bài dưới đây về riêng Người phụ tá (FORMApubli sẽ xuất bản ở đợt tới), in trong tập tiểu luận Late Essays, Coetzee còn từng viết về Walser một tiểu luận, được cho vào một tập sách khác.

 

Robert Walser rời quê hương Thụy Sĩ tới Berlin năm 1905. Lúc ấy ông hai mươi bảy tuổi; đã xuất bản một cuốn sách, hoài bão của ông là xây dựng một sự nghiệp văn chương. Từ lâu trước đó tác phẩm của ông đã bắt đầu xuất hiện trên các tạp chí uy tín; ông được chào đón ở các hội nhóm nghệ thuật nghiêm túc. Tại Prague xa xôi, các tác phẩm của ông được Franz Kafka trẻ tuổi đọc và mến mộ; thậm chí, nếu dựa vào các truyện ngắn và phác thảo của giai đoạn sớm, Kafka còn cần được xem là một epigone của Walser.

Nhưng vai trò nhà trí thức đại đô thị không dễ dàng đến với Walser. Sau khi uống vài ly, ông có xu hướng trở nên thô lỗ và bảo thủ một cách hung hăng. Dần dần ông thoái lui khỏi xã hội để sống một cuộc đời cô độc, đạm bạc trong những căn phòng trọ. Trong hoàn cảnh đó, ông đã viết bốn tiểu thuyết đầu tiên, ba cuốn trong số đó đã sống sót: Der Geschwister Tanner, 1906, Der Gehülfe (Người phụ tá, 1908),Jakob von Gunten, 1909, tất cả đều lấy chất liệu từ chính kinh nghiệm của ông.

Năm 1913 ông từ bỏ Berlin và quay trở về Thụy Sĩ, "một tác giả nực cười và thất bại" (lời ông tự trào về mình), nơi ông có một cuộc sống bấp bênh, kiếm tiền nhờ viết cho các phụ bản văn chương. Trong những tuyển tập thơ và văn xuôi liên tục xuất hiện của mình, ông ngày càng tập trung vào bối cảnh xã hội và tự nhiên ở Thụy Sĩ. Ông viết thêm hai tiểu thuyết nữa. Bản thảo của một trong hai, Theodor, bị nhà xuất bản làm mất; cuốn còn lại, Tobold, bị chính Walser tiêu hủy.

Sau Thế chiến thứ nhất, khẩu vị dành cho phong cách viết của ông giảm dần, dễ dàng bị coi thường là hài nhảm và văn hoa. Mặc dù tự hào về sự cần kiệm của mình, ông đã phải đóng cửa nơi được ông gọi là "xưởng văn xuôi nhỏ". Sự cân bằng tinh thần vốn dĩ không mấy ổn định của ông bắt đầu lung lay. Càng lúc ông càng cảm thấy bị áp bức từ những cái nhìn chỉ trích của hàng xóm, từ đòi hỏi của họ về sự đáng tôn trọng. Ông chuyển từ phòng trọ này qua phòng trọ khác. Ông uống rượu nhiều, nghe thấy những giọng nói, có các cơn lo âu hoảng loạn. Ông tự tử không thành. Vì không ai trong số các anh chị em ruột muốn chăm sóc ông, ông cho phép mình được đưa vào trại điều trị (sanatorium). "Bị trầm cảm rõ rệt và ức chế nghiêm trọng", là những gì được ghi lại trong báo cáo y khoa đầu tiên. "Phản hồi tránh né trước những câu hỏi về sự chán chường với cuộc sống".

Các nếp sinh hoạt ở viện mang lại cho ông một chút ổn định. Ông từ chối những cơ hội rời khỏi viện tâm thần, muốn giết thời gian với các hoạt động lặt vặt như dán túi giấy hay phân loại đậu. Ông vẫn giữ được toàn bộ năng lực tinh thần của mình; tiếp tục đọc báo và tạp chí; nhưng sau năm 1932, ông không viết nữa. "Tôi không ở đây để viết, tôi ở đây để phát điên", ông đã nói thế với một người tới thăm mình. Vào ngày Giáng sinh năm 1956, vài đứa trẻ vô tình phát hiện ông trên một cánh đồng phủ đầy tuyết, chết vì lạnh cóng.

Viết tay là một trong những nơi đầu tiên sự rối loạn tâm thần của Walser bộc lộ. Trong những năm ở tuổi ba mươi của mình, ông bắt đầu hứng chịu những cơn chuột rút do tâm lý  bên tay phải. Cho rằng những cơn chuột rút phát xuất từ sự thù địch không có ý thức nhằm vào cây bút ở tư cách một công cụ, ông bỏ viết bút mực và để viết bằng bút chì.

Viết bằng một cây bút chì là việc đủ quan trọng với Walser để ông đặt biệt danh cho nó là "hệ thống bút chì" hay "phương pháp bút chì". Phương pháp bút chì không chỉ có nghĩa sử dụng bút chì để viết mà còn là một thay đổi triệt để về chữ viết của ông. Sau khi chết ông để lại khoảng năm trăm tờ giấy phủ kín ra tận các mép những ký hiệu viết tay bằng bút chì tinh xảo, cực kỳ nhỏ, một chữ viết khó đọc tới nỗi người thực hiện di chúc của ông ban đầu lầm tưởng đó là một mật mã. Tất cả những tác phẩm sau này của ông, bao gồm tiểu thuyết cuối cùng Der Räuber (Tên cướp, 1925) (hai mươi tư tờ viết tay siêu nhỏ, khoảng một trăm năm mươi trang giấy in), đến với độc giả qua phương pháp bút chì.

Tuy đã có một dự án tập hợp những ghi chép của Walser lại từ trước cái chết của ông, nhưng chỉ sau khi những tập đầu tiên của một Tuyển tập có tính học thuật hơn, lần đầu xuất hiện năm 1966, và sau khi các tác phẩm của ông bắt đầu được đọc ở Anh và Pháp, ông mới giành được sự chú ý rộng rãi tại Đức. Ngày nay Walser được biết đến nhiều nhất với bốn tác phẩm của mình, dẫu cho những thứ này chỉ chiếm một phần nhỏ thành quả văn chương của ông, và dẫu cho thể loại tiểu thuyết không được ông cho là thế mạnh của mình. Cuộc đời phẳng lặng nhưng, theo cách của nó, đau thương của ông là chủ đề đích thực duy nhất của ông. Tất tật các mẩu văn xuôi, ông gợi ý khi nhìn lại, nên được đọc như các chương trong "một câu chuyện dài, không cốt truyện, có tính cách thực tại luận", một "cuốn sách bị cắt ra hoặc tách rời về bản thân [Ich-Buch]".

 

Người phụ tá bị lu mờ bởi cuốn sách trước đó, với nhiều sáng tạo hoang dã và lật đổ tận gốc hơn - Jakob von Gunten, có chung một cốt truyện căn bản với cuốn kia: một thanh niên trẻ bước vào tư gia của một cặp đôi đang trải qua một cuộc khủng hoảng, lấy những gì anh ta muốn từ họ, và rồi đi tiếp.

Jakob von Gunten có bối cảnh ở một thành phố lớn, trong Viện Benjamenta, một trường đào tạo quản gia, Fräulein Lisa Benjamenta, chị gái của vị hiệu trưởng, là người dạy dỗ. Nhà Benjamenta là một cặp khó gần, nhưng nhân vật chính trẻ tuổi Jakob sớm thâm nhập được sự bí ẩn của họ, sau đó bắt đầu áp đặt ý chí của mình lên họ. Lisa Bejamenta nảy sinh ham muốn dành cho anh. Khi anh dập tắt ham muốn ấy, cô suy sụp và qua đời. Ngài Benjamenta đóng cửa trường học, cầu xin anh trở thành bạn đồng hành của ông ta và cùng ông ta du ngoạn thế giới. Câu chuyện sau đó kết thúc trong sự chiến thắng của kẻ mới phất có ác tâm, xuất thân tỉnh lẻ, với sự thích thú của gã trong những trò đùa độc ác, lòng đa nghi của gã về sự văn minh và các giá trị nói chung, sự khinh bỉ của gã đối với đời sống tâm trí, những niềm tin thiển cận của gã về cách nhờ đó thế giới thực sự vận hành (nó được điều hành bởi doanh nghiệp lớn nhằm khai thác con người nhỏ bé), và việc gã nâng tầm sự vâng lời lên thành đức tính cao quý nhất.

Sự gắn bó cảm xúc của Walser với giai cấp nơi ông xuất thân, giai cấp của những chủ cửa hàng và nhân viên văn phòng cùng giáo viên, rất sâu sắc. Berlin đã cho ông một cơ hội để thoát khỏi xuất thân xã hội của mình, chuyển sang giới trí thức cosmopolite bị trật cấp. Thử đi con đường đó và thất bại, ông quay lại với sự bao bọc của vùng ngoại ô Thụy Sĩ. Song ông không bao giờ quên mất - thậm chí là không được phép quên - các khuynh hướng độc đoán, phục tùng từ giai cấp cũng mình, việc nó không chấp nhận những người như ông, những kẻ mơ mộng và phiêu bạt.

Trong Người phụ tá, nhân vật chính trẻ tuổi, Joseph Marti, được thuê làm nhân viên và trợ lý đa năng cho nhà phát minh Herr Carl Tobler. Trong cái năm làm công việc ấy, Joseph ở vào một vị trí thuận lợi để ghi chép lại sự suy thoái chậm chạp của doanh nghiệp Tobler và sự mất mát của tư gia tráng lệ nhà Tobler.

Walser không hứng thú với khía cạnh bi thương của những sự kiện này - bi kịch bourgeois về sự sụp đổ của gia đình Tobler. Cũng không hứng thú với việc biến Tobler trở thành một nhân vật hài kịch, nhà phát minh “điên rồ”. Các phát minh của Tobler - chiếc Đồng hồ Quảng cáo, Máy bán hàng Thiện xạ, Ghế Tàn tật, Máy khoan sâu - không phi lý hơn là bao so với các thiết bị ngoài đời thực, những thứ đã giành được sự yêu thích từ công chúng của thời đại và tạo gia tài cho những người phát minh ra chúng: xe đạp an toàn, súng hơi. Cuối cùng, Walser cũng không quan tâm đến việc ghi lại khoảnh khắc trong lịch sử khi nhà phát minh với vai trò con người của các ý tưởng nhường chỗ cho nhà phát minh kiêm doanh nhân, những người rồi sẽ, đến lượt họ, cũng phải nhường chỗ cho nhà phát minh đang là nhân viên làm công ăn lương cho nhà tư bản lớn. Vai trò của Joseph trong doanh nghiệp Tobler có thể là thứ cấp, nhưng chính Joseph, chứ không phải Tobler, mới là nhân vật chính của cuốn sách, và sự vượt mặt nhà Tobler của Joseph là chủ đề của Walser.

Mặc dù lương của Joseph chưa bao giờ được trả, anh vẫn nhận được, như một phần của thỏa thuận, một căn phòng thoải mái và tất cả những bữa ăn chez Tobler. Vì thế, không thể tránh khỏi, anh ta trở nên gần gũi với Frau Tobler [Vợ của Herr Tobler].

Một thanh niên tràn trề năng lượng, chưa kết hôn bỗng được đặt vào sống chung với một phụ nữ lớn tuổi hơn, còn hấp dẫn và không thỏa mãn là một hoàn cảnh giàu tiềm năng kể chuyện: người đàn ông trẻ tuổi có thể được tạo ra để hứng chịu những cơn đau của tình yêu không được hồi đáp, chẳng hạn; hoặc thay vào đó có một cuộc vụng trộm tội lỗi với người tình của anh ta. Dẫu cho Joseph, không một sự nghi ngờ, cảm nhận được sự cuốn hút của Frau Tobler, và mặc dù Frau Tobler dường như đôi khi có ý muốn anh tưởng rằng mình cũng để ý đến anh, khi thời khắc để Joseph tiết lộ những cảm xúc của mình đến, tình yêu lại không phải điều anh thổ lộ mà là sự phản đối: phản đối về cách đối xử lạnh lùng của Frau Tobler với cô con gái nhỏ của bà, Silvi.

Bản thân Joseph còn quá giống một đứa trẻ nên không thể có những cảm nhận của phụ huynh. Trong số bốn đứa trẻ nhà Tobler, anh không tự đồng hóa mình với mấy đứa con trai, cũng không phải với Dora kiêu ngạo tóc vàng óng, mà với Silvi, một đứa bé âu lo, thường xuyên đái dầm và sau đó bị người giúp việc trừng phạt nghiêm khắc, với sự cho phép của bà mẹ. Sẽ sai khi nói Joseph yêu mến Silvi: như những lời Frau Tobler tự bào chữa cho mình, rất khó để thích một đứa trẻ không hề hấp dẫn và thậm chí cư xử giống động vật. Điều khiến Joseph bức bối nằm ở chỗ, vì thất bại trong việc đáp ứng những mong đợi của nhà Tobler, Silvi đã bị đuổi khỏi vòng tay gia đình và bị chuyển giao cho chế độ tàn nhẫn từ tầng lớp gia nhân. Trong định mệnh của Silvi, Joseph sợ rằng anh sẽ thấy định mệnh của chính mình.

Cảm xúc của Joseph dành cho cặp vợ chồng Tobler đặc biệt mâu thuẫn. Một mặt anh gần như không thể tin vào vận may của mình khi rơi vào một hoàn cảnh thoải mái tới vậy, nó, với thời độ của mình, đã kéo anh ra khỏi giai cấp nơi anh được sinh ra và cung cấp cho anh một mái ấm anh chưa bao giờ có. Mặt khác, anh căm ghét vị trí cấp dưới của mình và những sự sỉ nhục liên tiếp anh phải gánh chịu. Mặc dù nhà Toblers đã giải cứu anh khỏi lao động chân tay, họ không nâng địa vị của anh lên ngang với mình. Tư gia của họ hóa ra không hề khác Viện Benjamenta là bao, đấy là nơi chuẩn bị hành trang cho các học viên trở thành hội viên của một giai cấp trung gian không xác định, những quản gia, những nhân viên và những gia sư, cao hơn một hoặc hai bậc trên thang xã hội so với người lao động tay chân hay đám gia nhân, được trả lương ít ỏi nhưng bị kỳ vọng tuân theo các chuẩn mực của tầng lớp trung lưu về cách ăn mặc và cư xử. Cũng như Jakob, Joseph Marti mang đầy lòng hận thù chưa thành hình, được che giấu vụng về trước những người ra lệnh cho anh và có lối cư xử được anh bắt chước theo.

Sự mâu thuẫn của Joseph được bộc lộ ra qua nhiều cách: trong những cơn siêng năng và thờ ơ thay phiên nhau, với chúng anh thực hiện các nghĩa vụ của mình; trong hành vi của anh đối với Tobler, đôi khi khúm núm, đôi khi bất tuân. Không có điều gì được tính toán. Joseph là một tạo vật của tâm trạng và sự bốc đồng. Anh có thể nói những câu phức chỉn chu, nhưng những gì anh nói gần như không hề nằm trong tầm kiểm soát của anh. Trong một lần nói chuyện với Tobler, anh lên án ông chủ vì dám nhắc anh về mọi sự tiện nghi mà anh đang có, sau đó có ý rút lui và xin lỗi cho tông giọng bất tuân của mình, rồi lại rút lại lời xin lỗi và bào chữa cho sự bất tuân của mình như là cần thiết cho lòng tự trọng của chính anh. Tobler đáp lại bằng cách cười phá lên và nói một mệnh lệnh vắn tắt. Ngay lập tức bị biến trở lại thành cái tôi nhút nhát thường ngày, Joseph tuân theo.

Những dòng cảm xúc giữa Joseph và Frau Tobler không ổn định như nhau. Hành vi của Frau Tobler chuyển hướng qua lại giữa quyến rũ và kiêu ngạo; Joseph đôi khi say mê bà ta, đôi khi lạnh lùng chỉ trích.

Nhà Tobler, dưới áp lực không ngừng từ các chủ nợ, phải đối mặt trực tiếp với sự phá sản và sự nhục nhã trước xã hội, cũng có những tâm trạng thiếu ổn định như Joseph. Việc chung sống với nhà Tobler hệt như đứng trên sân khấu của một vở opera Ý. Joseph có đủ tính cách Đức-Thụy Sĩ để kinh nghiệm ấy trở nên không thoải mái cho anh. Tuy nhiên, nhà Tobler cho anh một kinh nghiệm về đời sống gia đình thỏa mãn hơn bất kỳ điều gì anh từng biết (gia đình của chính anh hiện diện một cách mờ mịt trong cuốn sách: một người mẹ có vấn đề tâm lý, một người cha là nô lệ cho thói quen sinh hoạt). Căn biệt thự của Tobler, với mái nhà bằng đồng đắt đỏ, đã trở thành không chỉ một nơi cư trú mà còn là mái ấm cho anh. Vì thế, điều xảy ra ở cuối tiểu thuyết là một bước đi lớn đối với anh, khi - khẳng định sự quay về với xuất thân xã hội của mình - anh đòi hỏi những tháng lương chưa được trả, nói lời giã từ với chốn của mệnh lệnh và ham muốn, của tiện nghi và hỗn loạn, nơi anh đã dành thời gian suốt năm vừa qua, và đi ra khỏi đó để đối diện với tương lai.

Trong suốt cái năm sống cùng nhà Tobler, Joseph tiến hóa và trưởng thành ở một khía cạnh quan trọng: anh học cách trở thành một phần của một gia đình, một gia đình không hoàn hảo, cần phải thừa nhận rằng ở đó anh được yêu cầu phải cho đi nhiều tình yêu hơn anh nhận được, và là nơi chỗ đứng của anh luôn luôn bấp bênh. Nhưng ở một khía cạnh khác, anh không thay đổi. Phần không thay đổi trong nhân cách của anh chính là điều sâu thẳm và bí ẩn nhất về anh, khiến cho mặt thiếu phẩm giá của anh - mù quáng, kiêu căng, tự mãn - không còn đáng nói nữa. Phần không thay đổi ấy nảy ra trong mối quan hệ của anh với thế giới tự nhiên, và cụ thể là với phong cảnh Thụy Sĩ qua chu kỳ của các mùa. Joseph không theo tôn giáo trong bất kỳ ý nghĩa thường thấy nào, cũng không có những suy nghĩ thú vị (nhật kỳ của anh rất vô vị), nhưng anh có khả năng đắm chìm sâu sắc, gần như thú vật vào tự nhiên, và thông qua anh, Walser có thể tiết lộ điều nằm ở tâm điểm của cuốn sách: ca tụng sự kỳ diệu của việc sống.

Những ngày đến như thế đấy - ẩm ướt, bão bùng - vậy mà vẫn có một thứ mê hoặc riêng. Phòng khách bỗng ngấm một vẻ buồn ấm cúng. Cái ẩm ướt và cái lạnh bên ngoài khiến trong nhà như thêm thân thiện. Người ta đã bắt đầu đốt lò. Giữa dằng dặc xám mù, những lá đỏ và vàng sáng lên và cháy rực sốt sắng. Sắc đỏ của lá anh đào nóng như lửa, rớm máu, đau đớn - nhưng cũng thật đẹp, khiến người ta nguôi ngoai và phấn chấn trở lại. Có những lúc, cả cánh đồng và cây cối như được bọc trong lớp mạng che và khăn ướt, khắp trên cao và bên dưới, xa gần đều sũng nước xám xịt. Người ta như đang bước qua một giấc mơ âm u. Nhưng trời đất ấy cũng tỏa ra một vẻ tươi trong lặng lẽ. Đi dưới tán lá, người ta ngửi được mùi cây cối, nghe thấy quả chín rơi xuống bãi cỏ hay giữa lối đi. Mọi sự như lặng đi gấp đôi, gấp ba. Âm thanh dường đang ngủ hoặc e dè gây động. Sáng sớm và chiều muộn, còi sương từ bên kia hồ vọng lại, những tiếng rền kéo miết như lời cảnh báo của những con tàu ngoài xa, như tiếng thở than của loài vật bất lực. Đúng thế, sương mù cứ dồn lên mãi. Thỉnh thoảng lại có một ngày đẹp lách vào. Và có những ngày thực sự thu - không đẹp cũng chẳng xấu, chẳng đặc biệt tươi vui nhưng cũng không âm u, không có nắng, nhưng cũng không hẳn tối - những ngày bất biến từ sáng sớm đến tối mịt, bốn giờ chiều mà như mười một giờ trưa; những ngày mọi thứ nằm thật yên, phủ một lớp vàng nhạt nhẹ như sáp và chấp chới buồn, những ngày mà màu sắc dường rút lui vào trong chính nó, mơ mẩn ở cõi riêng. Những ngày như thế, Joseph yêu vô cùng. Khi ấy, mọi thứ với anh đều thật dịu dàng, dễ chịu và thân thuộc. Nỗi buồn êm dịu của tự nhiên khiến anh nhẹ nhõm, gần như chẳng còn nghĩ ngợi gì. Những điều trước kia từng làm anh u ám, nặng lòng giờ chẳng còn gì đáng sợ. Trong sự lãng quên dịu dàng ấy, anh rảo bước qua những đường làng xinh đẹp. Thế giới yên tĩnh, thanh thản, trầm ngâm và hiền. Người ta có thể đi bất cứ đâu, và vẫn là cảnh ấy: một bức tranh xanh xao mà đầy đủ, một gương mặt - và gương mặt ấy nhìn anh với biết bao nghiêm trang dịu dàng.

Walser đã làm rất nhiều thơ trong đời - chúng chiếm giữ hàng trăm trang trong ấn bản tổng hợp - nhưng không một bài thơ nào có âm hưởng của sự đi qua như đoạn văn trên, như thể được nhúng vào trong lịch sử kinh nghiệm của chủ thể. Ta thấy được và ngửi được những gì Joseph thấy và ngửi; song ta cũng biết các mùa có nghĩa là gì trong cuộc đời của Joseph, và những quan tâm hay lo âu mà chúng trung hòa một cách rõ rệt. Một đoạn văn say sưa và ngợi ca như thế cho phép chúng ta bước vào tâm trí của một người đàn ông, với anh ta phong cảnh Thụy Sĩ, trong tâm trạng đang thay đổi của nó, luôn luôn là sự hiện diện dịu dàng, song cũng là người có thể cảm thấy một sự biết ơn tương đương dành cho sự an ủi từ một cái giường ấm áp.
 

Hoàng Hiền dịch

 

viết tiếng Đức

Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832)
E. T. A. Hoffmann (1776–1822)
Friedrich de la Motte Fouqué (1777–1843)
Heinrich von Kleist (1777–1811)

Karl Kraus (1874–1936)
Thomas Mann (1875–1955)
Rainer Maria Rilke (1875–1926)
Robert Walser (1878–1956)
Robert Musil (1880–1942)
Georg Lukács (1885–1971)
Walter Benjamin (1892–1940)
Joseph Roth (1894–1939)

Paul Celan (1920–1970)
Ingeborg Bachmann (1926–1973)
Thomas Bernhard (1931–1989)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công