favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Hạ 2025
Next

Claudio Magris trò chuyện với Mario Vargas Llosa

11/06/2025 15:04

Claudio MagrisMario Vargas Llosa, hai nhà văn khổng lồ đúng nghĩa của thời chúng ta gặp nhau (Claudio Magris, nhân vật của thành phố Trieste nước Ý, cũng từng sang Mỹ theo lời mời của Norman Manea, gặp và trở nên thân thiết với nhà văn gốc Rumani ấy): trong hoàn cảnh như vậy có thể trông đợi nhiều điều bình thường không bao giờ xuất hiện được nói ra.

Cuộc trò chuyện giữa Magris-Vargas Llosa được tổ chức tại Thư viện Quốc gia Peru, Lima, vào ngày 9 tháng Chạp năm 2009 (trước đó, họ từng gặp nhau). Hai người nói chuyện với nhau dưới sự dẫn dắt của thêm một nhân vật thứ ba (hơi giống khi Umberto Eco và Jean-Claude Carrière nói chuyện, với kết quả là cuốn sách đã có trong tiếng Việt, Đừng mơ từ bỏ sách giấy - là đồng hương với nhau, Magris từng có lần đi nói chuyện cùng Eco và kể lại câu chuyện đó), khi in thành sách thường có nhan đề Văn chương là sự trả thù của tôi.

Tạp chí Văn Bản đăng một số phần từ cuộc trò chuyện đáng nhớ ấy: nó được hình dung là xoay quanh tiểu thuyết, văn hóa và xã hội, nhưng tất nhiên nội dung được mở rộng rất nhiều, giữa hai nhân vật hết sức rành về tác phẩm của nhau.

 

Câu hỏi: Ngày nay có thể định nghĩa một cách rõ ràng những tương quan giữa tiểu thuyết, văn hóa và xã hội hay không?

CLAUDIO MAGRIS

Đối với tôi, thật là một kinh nghiệm nền tảng khi được ở đây cùng Mario Vargas Llosa, một trong những nhà văn lớn nhất thời chúng ta, người từ lâu đã thuộc vào không chỉ văn hóa của tôi mà còn, và nhất là, vào cuộc đời tôi, và là người tôi cảm thấy có nhiều điều chung: các chủ đề, các tra hỏi về cuộc đời và về cách thức kể nó, những vấn đề trung tâm như căn cước, với những gì nó sở hữu ở phương diện tất yếu và nguy hiểm, cùng rất nhiều điều khác nữa.

Các nhà văn, nhất là những nhà văn lớn hơn cả, làm phong phú cho văn hóa của chúng ta, nhưng hiếm hơn và quan trọng hơn nhiều trong cuộc phiêu lưu thuộc tồn tại của chúng ta là những ai, với sức mạnh trí tưởng tượng sáng tạo của họ, bước vào cuộc đời chúng ta, vào cách chúng ta cảm thấy thời gian, Lịch sử, sự gặp của cá nhân với toàn thể. Những người làm chúng ta thức nhận được là lúc nào cũng cần hiểu mọi điều và thanh toán với nỗi khó - và đôi khi là sự không thể - của hiểu. Tức là những ai trở thành một phần của chính chúng ta. Chính vì thế tôi cảm thấy không chỉ vinh dự mà còn bị liên quan một cách sâu sắc và đầy cảm xúc vào thời điểm cuộc đối thoại này bắt đầu.

Đây không phải lần đầu tiên tôi gặp Mario Vargas Llosa. Cách đây vài năm, chúng tôi từng tranh luận trước công chúng tại Hội sách quốc tế Guadalajara, và chúng tôi đã viết, cho cuốn tiểu luận về tiểu thuyết do Einaudi xuất bản ở Ý, ông thì một lời dẫn nhập tên là: "Thế giới hiện đại có thể tồn tại nếu thiếu tiểu thuyết hay không?", còn tôi thì một vĩ thanh tên là: "Tiểu thuyết có thể tồn tại nếu không có thế giới hiện đại hay không?". Tôi không cho sự hài âm đó là một cái gì ngẫu nhĩ. Mời đây tôi vừa đọc xong tuyển tập tiểu luận đáng ngưỡng mộ của ông, Sables y utopiás). Tôi đã được ở nhà mình trong những trang không thể quên nổi ấy: để nêu một ví dụ - nhưng đây chỉ là một trong vô vàn cú hút vào nhau [ám chỉ tên cuốn tiểu thuyết của Goethe, sử dụng khái niệm hóa học, Die Wahlverwandtschaften, mà tới đây FORMApubli sẽ in bản dịch tiếng Việt] mà tôi gặp được trong cuốn sách đó - lời khẳng định về văn chương như sự nổi loạn chống lại trật tự và sự tạo ra, trật tự của nhiều xã hội và thường xuyên của chính thế giới, sự nổi loạn trong đó người ta cũng có thể thua cuộc.

Don Quijote là một kẻ thua. Trong sự thua cuộc ấy, có một hé lộ về sự thật: hé lộ, cách nào đó, đồng thời cũng là một chiến thắng, vì nó làm phong phú cho cuộc đời bằng cách thêm vào một yếu tố nền tảng. Không phải một điều ngẫu nhiên khi một trong những cuốn sách của tôi, Utopia e disincanto [đã dịch ra tiếng Việt dưới nhan đề Không tưởng và thức tỉnh] có điểm xuất phát là Don Quijote. Khi chàng nói rằng cái khay thợ cạo là mũ trụ của Mambrino, thì Don Quijote nhầm, vì trên thực tế đó không phải mũ trụ của Mambrino, mà đúng là một cái khay dùng để cạo râu. Nhưng cùng lúc chàng làm chúng ta hiểu rằng đó không chỉ là một cái khay dùng để cạo râu, rằng các vật có một thơ ca thuộc về chúng và không chỉ trần sì là chức năng của chúng, và rằng chúng ta cần thơ ca đó vì những vật kia, đúng theo sự thật, không chỉ là các cái khay cạo râu. Bọn trẻ con biết rất rõ điều này, khi chúng chơi trò thả thuyền giấy và bảo đấy là một con tàu galion; chúng nhận ra rất rõ, khác với Don Quijote, rằng ấy là một cái thuyền giấy, nhưng chúng cũng biết một điều gì đó mà chúng ta, chúng ta thường quên mất, mà các nhà văn giúp chúng ta nhớ lại, cụ thể, đó không chỉ là một cái thuyền giấy mà còn là một con tàu galion, nó, trong trí tưởng tượng và cuộc đời họ, băng ngang đại dương.

Phi lai [utopia] cũng thất bại trong ý đồ của nó, sở hữu công thức nhằm cứu thế giới hoặc còn thẳng thừng hơn, đã cứu được thế giới và đã tạo ra được thiên đường trên mặt đất, như biết bao phi lai từng chìm nghỉm đã tưởng hay muốn làm người ta tưởng. Và thế nhưng thất bại của phi lai - của mọi phi lai, chẳng quan trọng mấy việc chúng ta chia sẻ nó hay không - giúp người ta hiểu được rằng thế giới cần được cải thiện và nhất thiết phải tiếp tục cải thiện nó; trước hết là bằng cách sửa chữa lộ trình mà người ta đã đi vào khi nhận ra đó không phải lộ trình tốt, và sau đó bằng cách cố công tưởng tượng ra các lộ trình khác. Trong tính sáng tạo cần thiết của mình văn chương có một chức năng quan trọng đối với xã hội; không phải vì nó có nghĩa vụ đề xuất các chương trình chính trị hoặc ý luận, mà vì nó có nghĩa vụ khiến cho người ta cảm thấy, sờ tay vào được, sự nhất thiết đầy phiêu lưu kia, lần nào cũng phải tạo ra một thế giới mới. [thật ra mức độ đồng điệu giữa hai người còn lớn hơn: cuốn sách đã nhắc của Vargas Llosa, trong nhan đề có "utopia" chung với một cuốn sách của Magris như đã nói, nhưng ngoài ra yếu tố "thanh kiếm" cũng xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết ngắn vô cùng xuất sắc của Magris, Illazioni su una sciabola, trong tiếng Anh là Inferences from a Sabre]

Một điều nữa mà chúng tôi, Mario Vargas Llosa và tôi, chung nhau, đó là suy tư về tương quan giữa sự viết tạo ra (fiction, thứ giả vờ, thậm chí hẳn chúng ta còn có thể nói là thứ "nói dối") và sự dấn thân vì sự thật, vốn dĩ không thể nào né tránh trong cuộc đối đầu của chúng ta với thế giới và với tất yếu phải thay đổi nó. Trong tuyển tập tiểu luận mà tôi đã nhắc, Mario Vargas Llosa tố cáo sự suy tàn của cái mà xưa kia người ta gọi là dấn thân [engagement], một sự dấn thân mà dường như nhiều tác giả đã chối bỏ, vào ngày hôm nay. Ngoài ra ông còn nói rằng ở Mỹ Latin một nhà văn không chỉ là một nhà văn mà còn, điều này là không thể tránh, một cái gì đó khác nữa. Và ông nói thêm rằng đôi khi người ta bị giằng xé giữa lũ quỷ riêng của mình và các nghĩa vụ đối với sự vụ công cộng và, trong trường hợp ấy, thoạt tiên phải trung thành với lũ quỷ riêng của mình. Đó, tôi nghĩ, là một vấn đề nền tảng cho văn chương, và thường mắc vào một mâu thuẫn đúng nghĩa. Có trí thức về cốt yếu và theo lối hiển ngôn tận tụy với sự vụ công cộng, và có nhà văn xét về cốt yếu bị túm lấy bởi cuộc chiến đấu chống lại lũ quỷ của mình. Chuyện gì xảy ra khi một tác giả là cả hai cùng một lúc, như chắc chắn đấy là trường hợp của ông và cũng cả của tôi? Tức là khi người ta cảm thấy đó quả thật là hai mặt của cùng một tấm mề đay, chỉ một thứ duy nhất và cùng lúc lại là hai thứ khác nhau, và nhất là khi người ta nhận ra rằng từ một cái sinh ra một sự viết rất khác với sự viết sinh ra từ cái kia?

Đọc La casa verde hay Conversación en La Catedral [tên hai tiểu thuyết của Vargas Llosa, trong đó cuốn thứ hai đã được dịch ra tiếng Việt] hoặc rất nhiều cuốn sách khác của Mario Vargas Llosa, vừa không hoàn toàn cùng là lại vừa không hoàn toàn là một kinh nghiệm khác so với lúc đọc Sables y utopiás. Phong cách, ngôn ngữ của chúng khác nhau triệt để, vì ở một trường hợp đó là một ngôn ngữ muốn định nghĩa, đánh giá, bảo vệ hay chiến đấu chống lại một cách hiển ngôn, trong khi ở trường hợp kia người ta lại có một ngôn ngữ về cốt yếu tự đề xuất kể lại, làm cho sống các mâu thuẫn thì đúng hơn là giải quyết chúng hoặc đánh giá chúng. Ở một trường hợp người ta không thể, ở trường hợp còn lại thì người ta có thể và đôi khi người ta phải làm biến dạng thực tại để nắm lấy nghĩa và sự thật sâu sắc hơn cả của nó.

Tôi không cho, nhất là ở những gì liên quan tới phong cách, rằng chuyện nằm ở một lựa chọn nhiều suy tính, bởi một nhà văn thì không chọn, anh ta làm những gì mà anh ta có thể, tức là những gì mà anh ta phải làm: chính những gì anh ta muốn diễn tả, chính đối tượng mới là thứ chỉ cho anh ta, có thể nói vậy, phong cách của anh ta, sự tiếp nối đầy hối thúc nhiều tính cách đẳng lập của các định nghĩa sáng sủa và rõ nét hoặc giả cấu trúc lệ thuộc ["đẳng lập" và "lệ thuộc": ở đây Magris đang dùng một số khái niệm thuộc tu từ học] cứ cố công nằm bắt cùng một lúc sự phức tạp đầy mâu thuẫn của mọi thứ. Chẳng hạn ở một trong những cuốn sách của tôi, La storia non è finita - được cấu tạo chủ yếu bằng những bài báo và bài phát biểu nghiêng về đạo đức-chính trị - phong cách thuộc loại đẳng lập, nó tóm bắt ở mức gần nhất, phân biệt và phân tách theo lối ngoài tôn giáo các chọn lựa vị thế cùng các đánh giá, các tầng cầu của khả năng, những cái tên cùng những sự vị, lý do có thể cho thấy các sự thật của nó và lòng tin, thứ chỉ có thể chỉ ra chúng.

Cuốn sách đó đã được xuất bản vài tháng sau cuốn tiểu thuyết của tôi, Alla Cieca [Blindly trong tiếng Anh, À l'aveugle trong tiếng Pháp: một trong những tiểu thuyết quan trọng nhất của Magris], với âm nhạc chính xác ngược lại, vì trong một cuốn tiểu thuyết người ta không tự giới hạn mình ở chuyện đánh giá cuộc đời mà người ta kể nó, trong tất tật những mâu thuẫn của nó. Ngay cả khi người ta nói những gì mà một xã hội lẽ ra phải hoặc không được trở thành, thì người ta cũng làm việc này bằng cách nhét toàn bộ những cái đó vào trong câu chuyện về một người đàn ông hay một phụ nữ đang sống trong thế giới và tìm cách hiểu nó và có lẽ cải tạo nó, nhưng cũng liên tục bị lạc trong sự hỗn độn của nó, đôi khi đánh mất cho đến cả sợi dây lý trí của mình trong sự hỗn độn của nó. Chỉ bằng cách kể cái hỗn hợp không thể gỡ ra của trật tự và mất trật tự, của khao khát hướng tới sự thật và sự lạc vào nhầm lẫn, của lý trí và điên loạn, của đòi hỏi công lý và vi phạm đầy tội ác ấy, người ta mới có thể tìm được nghĩa ở mớ hỗn độn kia, tức là cuộc đời, dẫu thế thì cũng không chối bỏ nỗ lực cần thiết và đầy say mê là đặt nó vào trật tự. Như vậy, phong cách, như ở trường hợp cuốn tiểu thuyết Alla Cieca của tôi, đi theo hướng lệ thuộc, đợt sóng cứ không ngừng quay trở lại với chính nó và tan ra, lấy lại và biến tấu câu chuyện, để đi tìm phong cách của sự thật mà người ta chỉ có thể hy vọng tìm được nếu tự buông mình vào sự rối rắm ấy. Tiểu thuyết cũng kể sự thật của cuộc đời - và đôi khi nhất là như vậy - bằng cách chỉ ra và kể lại cuộc đời của những nhân vật không tìm được sự thật đó, những người làm biến dạng nó và chính là thông qua sở nghiệm đau đớn về sự biến dạng của họ cho phép chúng ta chạm vào sự thật của thế giới.

Toàn bộ những cái đó người ta đều tìm được, với một cường độ lớn và một sức mạnh sáng tạo ngoại lệ, trong tác phẩm của Vargas Llosa, bắt đầu từ sự nhân đôi lên mà tôi đã nhắc tới: những khi thực hiện một phân tích hoàn cảnh chính trị hay kinh tế của Peru, ông không thể không viết thật rõ nét và sáng sủa về sự thật, trong khi những lúc, chẳng hạn, ông kể câu chuyện của một con người (kể cả nếu khi người đó phụ trách nước Peru và chính trị của nó), thì ông không thể không đi xuống các độ sâu kia, nơi dục vọng chính trị của nhân vật đó đan cài rối rắm với những mù mờ thuộc tồn tại của anh ta và với các trắc trở trong số phận của anh ta. Theo cùng cách thức tính hiện đại và những thời xa xưa, châu Âu và các truyền thống Inca hay tiền-Inca luôn luôn hiện diện nơi tác phẩm của ông, được làm cho sống động nhờ cùng sự thật con người và nhờ cùng dục vọng, nhưng khác một cách sâu sắc ở trình hiện và ở sự gợi lên, tùy thuộc vào chuyện đó là tranh luận về việc tháo dỡ bức tượng Pizarro hay kể lại những cuộc gặp và xung đột trong rừng. Viết một bài diễn thuyết đạo đức-chính trị về sự băng hoại là một chuyện, kể câu chuyện của một con người bị băng hoại mà sự băng hoại đã trở thành bản tính lại là một chuyện khác hẳn.

Giữa thế kỷ 19 và thế kỷ 20, hay nếu muốn nói hay hơn, giữa tiểu thuyết mà người ta có thể gọi là cổ điển và tiểu thuyết của ngày hôm nay, đã xảy ra một rạn nứt sâu giữa cách kể Lịch sử - theo nghĩa các sự vị đã thực sự xảy đến - và cách viết một cuốn tiểu thuyết, nói cách khác, để trích Manzoni, kể bằng cách nào những con người đã cảm thấy và trải qua các sự vị kia, các sự kiện lịch sử kia. Ở tiểu thuyết thế kỷ 19, từng có một sự hài hòa, một tương ứng về mặt cấu trúc giữa câu chuyện lịch sử và fiction: khác biệt nền tảng giữa hai cái đó, mà tiểu thuyết lớn của thế kỷ 19 đã bày ra hiển nhiên với một thiên tài ngoạn mục, không nhất thiết hàm ý một khác biệt triệt để về phần ngôn ngữ và phong cách. Khi Manzoni nói tới một cuộc bày ra có hệ thống và trật tự của các sự kiện, điều đó đúng cho Storia della Colonna Infame [tác phẩm non-fiction của Manzoni, bàn về công lý trong việc kết tội những người bị tố cáo gieo rắc nạn dịch hạch, như đã xảy ra trong lịch sử Ý], văn bản tái dựng lịch sử, cũng như cho I promessi sposi [cuốn tiểu thuyết lớn của Manzoni, đã có bản dịch tiếng Việt, Những kẻ đính hôn], vốn dĩ là một cuốn tiểu thuyết.

Ngày nay tương ứng đó không còn nữa, nó là không thể; những lúc người ta muốn tái lập hoặc giả đò nó, thì ngay lập tức nó cho thấy mình sai. Những lúc chúng ta tái dựng và kể các sự vị theo lối lịch sử - những gì đã xảy ra ở Saint-Domingue dưới thời Trujillo [một độc tài - một trong những tiểu thuyết lớn của Vargas Llosa lấy chuyện này làm chủ đề], bằng cách nào đã diễn ra những cuộc trục xuất đáng kinh hãi đến gulag thời Stalin và nữa - sự tái dựng sự thật mà người ta tìm cách thực hiện và cần phải tìm cách thực hiện phải tuân theo một trật tự, một lý tính trong đó bao gồm luôn cả phương diện ngôn ngữ. Khi chúng ta thử kể, tưởng tượng ra bằng cách nào những con người đã sống qua chế độ độc tài của Trujillo hoặc sự khủng bố của Stalin, sự mất trật tự đáng kinh hãi và sự phi lý trí đáng kinh hãi của các sự kiện ấy phải được dịch, nhằm có thể thực sự được hiểu và được thông truyền, ra trong sự mất trật tự và sự phi lý tính của phong cách và của ngôn ngữ, vì đó là cách thức duy nhất khiến người ta chạm được tay vào cách thức với đó những con người đã trải qua các mất trật tự thảm hại, gớm ghiếc kia. Victor Hugo [một chủ đề lớn của Vargas Llosa ở tư cách tiểu luận gia, bên cạnh Flaubert, Borges hay Onetti] từng có thể sử dụng cùng ngôn ngữ, cùng phong cách, cùng sự viết trong những tiểu thuyết của ông và trong những pamphlet nhắm vào Napoléon III của ông ["Napoléon le Petit", để đối lập với "Napoléon le Grand" tức là Napoléon Đại đế, Đệ nhất, Bonaparte]. Kafka thì hẳn sẽ không thể nào dùng sự viết cùng phong cách của Biến hình trong một bài phát biểu chính trị, chẳng hạn nhằm bảo vệ cho các thợ mỏ ở Silesia. Đấy là điều, tôi nghĩ thế, Raffaele La Capria muốn nói, khi ông viết rằng các tiểu thuyết lớn, các kiệt tác của thế kỷ 20 là những tiểu thuyết nhất thiết "hỏng", ở chỗ chúng đảm trách - chúng đã phải đảm trách - sự bất khả trong việc trình hiện một toàn thể hài hòa và lý tính của thế giới.

Ở tất tật các sự kiện đều có một sự thật sâu sắc và như vậy cũng cả một trật tự sâu sắc, chúng, tuy nhiên, để có thể được nắm bắt, phải đi qua sự điên loạn. Người ta cứ nghĩ, để chỉ nhắc đến một ví dụ, việc sử dụng thời gian, là sẽ thấy. Một sử gia muốn kể lại ở tư cách sử gia thiết chế trại tập trung nazi có thể và phải đi theo một trật tự lịch đại. Nhưng khi khởi sự đọc một cuốn tiểu thuyết của Mario Vargas Llosa thì người ta nhận thấy rằng thời gian không - và không thể, ở trường hợp ấy - tuyến tính. Có hai nhân vật đang nói chuyện với nhau và đến dòng tiếp theo vẫn là họ đang nói, nhưng đấy là vào một khoảnh khắc khác, rất lâu từ trước hoặc thậm chí có lẽ là ở sau, và chính độc giả - bằng cách đưa vào một thời gian tự sự thứ ba thuộc về riêng người đó, thời gian sự đọc của người đó - mới là người tái dựng toàn bộ câu chuyện. Một câu chuyện chỉ có thể được nắm bắt trong sự thật của nó, kể cả sự thật thuộc thời gian, thông qua sự đan cài rối rắm kia.

Từng xảy đến với tôi một điều tương tự hồi viết Alla Cieca. Ở nền của cuốn tiểu thuyết đó có một câu chuyện khủng khiếp, từng thực sự xảy tới, về những người cách mạng cộng sản, họ, sau khi đã chiến đấu đầy anh dũng chống lại phát xít và nazi và biết đến các nhà tù nazi, thậm chí là các trại [tập trung] đối với một số, khi kết thúc Thế chiến thứ hai đã đến, với đầy đủ chủ ý, Nam Tư của Tito, tức là nước cộng sản gần hơn cả, nhằm đóng góp cho sự xây dựng chủ nghĩa cộng sản, xã hội hoàn hảo. Vài năm sau, lúc đoạn tuyệt với Stalin, Tito trở thành, trong mắt họ, một kẻ phản bội cách mạng và họ, đối với Nam Tư, trở thành các kẻ thù đi theo Stalin và ở tư cách đó bị trục xuất lên hai hòn đảo thần tiên và khủng khiếp vùng thượng Adriatic, Goli Otok và Sveti Grgur nơi họ phải chịu lao cải, tra tấn và thậm chí cái chết, như ở các trại nazi và ở gulag, và nơi họ kháng cự đầy anh dũng, bị tất cả mọi người quên và lờ đi, nhân danh Stalin, người đối với họ đồng nghĩa với cách mạng và công lý ngay cả khi, nếu chiến thắng, hẳn Stalin đã biến cả thế giới thành một gulag để nhốt những con người hào phóng như họ.

 

Tôi đã bắt đầu, rất nhiều năm về trước, viết cuốn tiểu thuyết của mình theo một cách thức tuyến tính, nhưng sự viết ấy đã không chạy, chính vì trong một cuốn tiểu thuyết "cái gì" phải tương đồng hoặc giống với "cái thế nào", hay nếu muốn thì phải có một tương đồng giữa nội dung và hình thức. Thế nhưng, câu chuyện đang nói ở đây bị phân mảnh, được dệt nên với một sự mù mờ về lý tưởng và nhầm lẫn, sự thật và dối trá, hy sinh và áp bức lớn đến mức nó trở nên một điên loạn không thể chịu đựng nổi với người nào đã trải qua nó bằng cách cống hiến cho nó và hy sinh cho nó cả cuộc đời mình, và cuốn tiểu thuyết, do vậy, chỉ có thể tiến lên theo các mẩu và mảnh dính lại vào với nhau và tản mát đi vào lúc người ta muốn khiến cảm thấy được sự kiện đó, câu chuyện đó từng là gì. Quá dễ, trong một cuốn tiểu thuyết, nếu nói về một nhân vật là anh ta buồn: điều cần làm là làm cảm thấy nỗi buồn của anh ta, mà không tuyên bố nó ra, trong cách thức anh ta dùng để châm một điếu thuốc lá hoặc nhìn ra cửa sổ. Trong tiểu thuyết đương đại, không hiếm khi người kể chuyện, để tìm ra sợi dây Ariane cho câu chuyện mà anh ta đang kể, phải liên tục tự phơi bày mình ra cho mối nguy đánh mất sợi dây ấy và đôi khi thậm chí phải đánh mất nó luôn đi, tức là phải viết bằng sự không liên tục kia, đứt quãng kia, sự mất đi không ngừng của sợi dây, thứ mà câu chuyện của chúng ta dường từng rất thường trở thành.

 

Vargas Llosa là một trong những bậc thầy lớn nhất - và tôi không chỉ nói cho thời chúng ta - của nghệ thuật kể ấy: đó chính xác là điều biến ông thành một trong những tác giả lớn nhất, những người thực sự khiến chúng ta hiểu, cảm thấy và có kinh nghiệm về việc thực tại, cuộc đời và Lịch sử mà chúng ta đang sống qua nghĩa là gì. Điều này không phải là chơi nghịch theo lối vô trách nhiệm với sự mất trật tự, như quá nhiều nhà văn giả hiệu vẫn hay làm, vậy thì sẽ quá dễ. Trong địa hạt của tự sự, người ta không thể chơi cả với những quân bài được xếp ngay hàng thẳng lối theo màu và giá trị của chúng cho sự tiến lên, lẫn ném chúng thành cả một mớ hỗn độn vào một cái giỏ. Người ta chỉ có thể chơi với những quân bài đúng như chúng hiện ra trong bộ bài thật của cuộc đời, rải rác, nhưng theo một trật tự vốn dĩ là riêng của chúng, mà người ta có thể thấy kệch cỡm hay phi lý nhưng không vì thế mà bớt là một trật tự bị giấu đi, mà tiểu thuyết gia chân thực tìm ra và hái về. Tất nhiên, có thể xảy ra chuyện, trong cuộc đời, với những quân bài trên tay đôi khi người ta khánh kiệt, và nhà văn cũng phải biết gánh lấy nguy cơ đó.

 

Đóng góp nền tảng mà văn chương mang tới cho cuộc đời và cho con người - và như thế tức là cũng cho chính trị - không nằm ở một ý luận, và càng ít hơn ở sự dịch trực tiếp thành văn chương một viễn kiến chính trị xác định. Khi một tiểu thuyết gia Công giáo lớn như Bernanos [Georges Bernanos: FORMApubli sắp in một số tác phẩm trong thời gian tới] viết những cuốn tiểu thuyết của mình, ông không dịch một cách trực tiếp thành văn chương lòng tin hay luân lý của ông: lòng tin của ông đã trở thành cách ông cảm thấy thế giới, dẫu cũng và nhất là không gọi tên lòng tin ấy ra, thành thử lúc ông kể vụ hiếp Mouchette, chẳng hạn, thì ông chẳng hề nói gì đến tôn giáo mà kể câu chuyện theo một cách thức trong đó hiện ra toàn bộ sự nhạy cảm của ông, thứ ở trường hợp của ông được nuôi dưỡng bởi Công giáo, và chính sự nhạy cảm này là thứ khiến ông kể cho chúng ta câu chuyện đó theo một cách thức nhất định chứ không phải một cách thức nào khác.

 

Văn chương chân thực phải thanh toán nợ nần với cái mà Mario Vargas Llosa, ở một trong những trực giác phi thường của mình, gọi là la enfermedad incurable, phế tật không thể chữa: điều này muốn nói nó có thể kể bằng cách nào đôi khi chúng ta sống qua khủng hoảng thế giới như thể nó là không thể cứu chữa. Văn chương không thể tránh việc gánh nguy cơ đó, nó phải để cho mình bị xâm chiếm (và cả độc giả cùng với nó) bởi sự không thể chữa khỏi kia hoặc ít nhất thì bởi cảm giác về sự không thể chữa khỏi ấy; bằng không hẳn chuyện cũng ngang bằng với viết một cuốn tiểu thuyết ẽo ợt hoặc kết thúc đầy tốt đẹp, hay tích cực và nhiều an ủi một cách giả dối, nó chẳng thể làm được gì khác ngoài thêm vào cho sự giả dối của thế giới, trong khi ngược lại chính là nhờ việc đọc các cuốn tiểu thuyết đương đầu không tìm cách né tránh "phế tật không thể chữa" kia, như những tiểu thuyết của Mario Vargas Llosa, mà người ta có thể tôi không nói là được chữa khỏi, nhưng bớt phế tật đi một chút và nhiều khả năng đương đầu với phế tật hơn.

 

Chính đó, và chỉ đó, là chức năng lớn và không thể thay thế, kể cả xét về chính trị và luân lý, của văn chương; một chức năng mà nó chỉ hoàn thành được nếu không muốn rao giảng một cách hiển ngôn, mà chỉ kể một câu chuyện, nói cách khác, thế giới. Khi Joseph Conrad viết Lord Jim [FORMApubli sẽ in bản dịch tiếng Việt trong thời gian tới], mục đích của ông không phải là dự báo sự tạo ra một hiệp hội nhằm cứu những người bị chết đuối; ông chỉ muốn kể một câu chuyện khiến chúng ta cảm thấy, hết lẽ và vĩnh viễn, trong cuộc đời việc can đảm hay hèn nhát, có khả năng hay không trong việc giúp đỡ những người khác, nghĩa là gì.

 

MARIO VARGAS LLOSA

Claudio Magris là một nhà văn mà tôi lúc nào cũng đọc với rất nhiều sung sướng và biết ơn kể từ cái lần tôi đọc kiệt tác Danube [vẫn có khả năng FORMApubli sẽ in bản dịch tiếng Việt cuốn sách này, vốn đã có sẵn đầy đủ] của ông vào cuối những năm 80 [của thế kỷ 20], nếu tôi nhớ đúng. Để trả lời câu hỏi về mối quan hệ giữa văn chương và xã hội, tôi cho là chẳng gì mang nhiều sự dạy dỗ hơn so với việc đọc một phần lớn tác phẩm của Claudio Magris. Bởi, như các bạn cũng biết, đó là một lữ khách lớn và những tiểu luận tuyệt nhất của ông chắc hẳn được buộc chặt vào với chuyển động kia, thứ dẫn ông, không thể khác, tới chỗ chiến thắng các thanh ba ri e địa dư, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo phân tách những con người, bằng cách luôn luôn tìm, trong những dịch chuyển đó, một ngòi nổ chung, một yếu tố cho thấy rằng, chưa đến hoặc vượt qua những khác biệt kia, có một điều gì đó khiến chúng ta xích lại gần nhau và cho phép chúng ta giao tiếp, cùng tồn tại. Điều gì đó ấy, ở trường hợp của Claudi Magris, lúc nào cũng là văn chương. Nếu các bạn còn nhớ chuyến đi trên sông Danube của ông, chặng đường thật dài đó, vừa phức tạp lại vừa nhiều vô số, băng qua các xã hội, truyền thống, nghi thức cùng lòng tin rất đa dạng, thì nó luôn luôn được thực hiện cùng những cuốn sách và những nhà văn, những người, hiện ra trên đường và tưởng tượng ra các câu chuyện, là tác giả của những cuốn tiểu thuyết cho phép chúng ta hiểu rõ hơn một thực tại cũng đa dạng như phức tạp. Khi Claudio Magris đi qua xứ Mancha, chẳng hạn, ông làm việc đó với Don Quijote kẹp ở nách và thường trực so sánh thực tại lúc này mà ông đang băng ngang với thực tại của cái tưởng tượng, thực tại của cuốn sách được tưởng tượng ra bởi bậc thầy của tiểu thuyết ấy, Cervantes.

Tiểu thuyết cho phép chúng ta hiểu một thực tại, nó, nếu không có tiểu thuyết và các thiết chế văn hóa khác - tôn giáo, các ý luận - đối với chúng ta hẳn sẽ thuộc vào số những gì hỗn độn hơn cả. Chúng ta không có các phối cảnh nào khi ở trước sự hỗn độn ấy ngoài cuộc đời nơi chúng ta chìm sâu vào, và chính vì thế mà có văn hóa: nhằm mang lại cho chúng ta các công cụ cho phép chúng ta tìm được một trật tự, mang lại một sự mạch lạc cho cuộc đời của chúng ta, bởi nếu không có những thiết chế ấy, hẳn chúng ta sẽ sống trong sự mù mịt và bóng tối. Chính nhu cầu này, tôi cho là vậy, là thứ đã làm nảy sinh các câu chuyện trong màn đêm thời gian, trong cái hang nguyên thủy, khi những con người kia, đầy kinh hoàng trước một thế giới về đó họ chẳng hiểu gì, nơi đối với họ mọi điều đều là một mối đe dọa, đã khởi sự, sau khi tạo ra ngôn ngữ, kể cho nhau các câu chuyện, tức là thoát đi khỏi cái thế giới đầy ngập những nguy hiểm kia để đi sang một vũ trụ rất khác nơi họ cảm thấy được trấn an hơn, mà họ có thể hiểu vì nó có một khởi đầu và một kết thúc, vì những hành xử con người có một sự giải thích, các động cơ cùng các hệ quả. Thế giới của fiction ấy, được tạo ra bởi những người kể chuyện đầu tiên, mà chúng tôi, các tiểu thuyết gia, là hậu duệ, đã tạo ra một trật tự nhân tạo nhưng lại đã cho phép chúng ta tổ chức, sống và bắt đầu hiểu thế giới thực. Đó là điều vẫn đang xảy ra. Khi những cuốn tiểu thuyết thực sự thành công, thì chúng bắt chúng ta quy phục, giật chúng ta ra khỏi cái cuộc đời này, vốn dĩ toàn hỗn độn và mù mờ, và làm chúng ta trải qua, nhờ kinh nghiệm ma thuật của sự đọc, fiction như một thực tại: chúng ta quay trở về thế giới với một sự nhạy cảm được mài sắc hơn để hiểu những gì vây quanh chúng ta và khám phá được tốt hơn tôn ti giữa cái quan trọng và cái phụ liệu, cả với một thái độ phê phán nữa.

Đấy là một đóng góp lớn khác của tiểu thuyết cho lịch sử, cho tiến bộ của con người, cho văn minh. Các câu chuyện khiến chúng ta thấy bớt mệt mỏi, giải trí cho chúng ta, mang lại khoái lạc cho chúng ta, nhưng cũng giáo dục chúng ta bằng cách dẫn chúng ta tới chỗ kiểm duyệt thế giới thực. Những khi chúng ta đọc một cuốn tiểu thuyết lớn và phát hiện tại đó sự hoàn hảo của cái vũ trụ được bịa ra kia - nơi ngay cả sự thiếu hoàn hảo và sự xấu xí cũng hoàn hảo, bởi phép mầu của văn chương thì thật to lớn - không thể nào, vào lúc tìm lại tồn tại nhỏ bé thường nhật của mình, có chuyện chúng ta lại không cảm thấy bức bối và vỡ mộng trước tương phản giữa sự hoàn hảo của fiction mà chúng ta vừa sống và thực tại của thế giới trong đó chúng ta rơi vào trở lại. Điều này khơi lên ở các độc giả, dẫu họ có ý thức về điều đó hay không, một nỗi rối trí dẫn đến một sự phê phán cái thế giới nơi chúng ta đang sống. Sự khó ở ấy, sự phê phán ấy, khoảng cách ấy, ở trước thực tại, từng là động lực cho tiến bộ và văn minh. Đấy là lý do làm cho tất tật các chế độ nào từng muốn kiểm soát cuộc sống từ cái nôi cho đến nấm mộ và ngăn cản các cá nhân tản đi vào những hướng không được dự liệu và bị coi là nguy hiểm bởi quyền lực hay các quyền lực đều từng luôn luôn nghi ngại văn chương. Tiểu thuyết từng là thể loại bị kiểm duyệt, bị truy đuổi hoặc bị cấm nhiều hơn cả. Không hề có ngoại lệ nào. Các chế độ độc tài tôn giáo hay chính trị, cực hữu hay cực tả, luôn luôn đẻ ra những chế độ kiểm duyệt, trong nỗ lực của chúng nhằm kiểm soát thế giới của phăng te di và sáng tạo. Như thể tất tật chúng đều đã thấy nơi văn chương một sự nguy hiểm cho tồn tại của chính chúng. Và chúng không nhầm. Sẽ là mạo hiểm nếu để cho một xã hội tạo ra văn chương và dùng nó để tự nuôi dưỡng. Một xã hội thấm đẫm văn chương có thể kém dễ bị thao túng, bị chế ngự, bị lừa bởi quyền lực hơn, vì tinh thần của sự lo lắng gợi lên bởi một tác phẩm văn chương lớn sẽ làm cho các công dân có nhiều óc phê phán, độc lập và được giải phóng hơn so với những ai không trải qua kinh nghiệm đó.

Claudio đã nêu lên - về phần văn chương - thành tố thời gian. Đấy là, tôi nghĩ vậy, một chủ đề gây nhiều say mê cho mọi tiểu thuyết gia. Độc giả không cần phải, ta hãy nói, có ý thức về chuyện trong fiction thời gian nghĩa là gì. Đấy là một thứ khác chứ không phải thời gian thực. Chẳng ở bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào thời gian lại giống hay tương đương với sự trôi chảy kia, nơi sinh ra và trôi qua tồn tại của chúng ta. Trong fiction, thời gian là một phăng te di, một tạo ra, hệt như các nhân vật, như câu chuyện và cái người kể các câu chuyện: người kể, nhân vật chính yếu của mọi tiểu thuyết. Thời gian phải là một sáng tạo bởi thời gian thực là sự hỗn độn, điều mà một cuốn tiểu thuyết không được trở thành. Ngược lại nó là một trật tự được tạo ra để đương đầu với sự hỗn độn, được nâng lên khỏi đó nhằm mang lại cho chúng ta một sự an toàn mà hẳn chúng ta sẽ đánh mất đi nếu sống cuộc đời như là mù mờ thuần túy. Thời gian của một fiction phải được tạo ra theo câu chuyện mà chúng ta muốn kể. Không có hai hệ thống thời gian tương tự trong các tiểu thuyết. Chúng có thể giống nhau, nhưng nếu đào sâu vào, người ta liền thấy ngay những khác biệt về chất. Ở phần lớn các trường hợp, những thành công hay thất bại của một fiction bắt nguồn từ sự tinh tế hoặc trí năng, hay sự thiếu nhạy cảm trong sự xây dựng ảo tưởng thời gian. Thời gian có thể tăng tốc trong một cuốn tiểu thuyết, rồi dừng lại và quay tròn; thời gian có thể tiến lên và lùi lại, rồi lại tiến lên và lùi lại theo một cách thức vốn dĩ chẳng bao giờ xảy tới trong đời thực. Nhưng không gì trong số những chuyển động thuộc thời gian ấy có thể võ đoán; chúng phải được biện minh bởi câu chuyện mà người ta muốn kể, các sự vị mà người ta muốn làm nổi lên hay muốn giấu đi; trừ phi là muốn treo chúng lại trong thời gian để tạo ra một bầu không khí của chờ đợi, của bí ẩn, hay một sự mù mờ nhất định, không thể thiếu nhằm giữ độc giả nín thở và đảm bảo một quyền năng về thuyết phục hiệu quả hơn; bằng cách đó mà tạo ra các cấu trúc thời gian vốn dĩ lúc nào cũng nhân tạo nhưng không bao giờ võ đoán, và là nhất thiết cho sự thành tựu của câu chuyện. Có lẽ nhất là vào thời hiện đại, các trò chơi về thời gian và sáng tạo thuộc thời gian từng là cốt yếu đối với sáng tạo tiểu thuyết.

Một chủ đề khác mà Claudio đề cập mà tôi những muốn bình luận ở đây là, trong sự viết, khác biệt giữa ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết và ngôn ngữ của một tiểu luận hoặc một bài báo. Ông đã tự hỏi: khác biệt nền tảng nằm ở đâu? tại sao người ta lại viết một cuốn tiểu thuyết theo cách thức nào đó, và ngay khi chuyển sang một tiểu luận hay một bài báo - thế nhưng đó vẫn là cùng con người có cùng các ý và bảo vệ cùng những giá trị - người ta lại dùng ngay một ngôn ngữ khác hẳn? Chắc là đối với mỗi nhà văn sẽ có các câu trả lời khác nhau. Ở trường hợp của tôi, kinh nghiệm đã ít nhiều dạy cho tôi điều sau đây: những lúc người ta viết một cuốn tiểu thuyết, lý trí, trí năng, hiểu biết không bị triệu tập theo lối nhất thiết hoặc chính yếu. Các thành tố khác, bộc phát, phi lý tính, thuộc bản năng hay trực giác có thể đóng một vai trò cũng quan trọng như lý trí thuần và rất thường lôi kéo tinh thần lý tính theo một cái gì đó tới từ những độ sâu phi lý tính của nhân cách. Tôi nghĩ rằng người ta viết các cuốn tiểu thuyết với toàn thể của con người, với những gì mà người ta biết, những gì mà người ta hiểu biết, với lý trí cùng trí năng của mình, nhưng cũng cả với những cái đáy tối tăm của nhân cách kia nữa, mà chúng ta lờ mờ có ý thức được, mà chúng ta có tại đó, bị chôn kín, và chúng, vào khoảnh khắc tạo ra một câu chuyện, đột nhiên trồi lại lên bề mặt.

Chính đó, có lẽ, là khía cạnh đáng kinh ngạc hơn cả của việc tạo ra một cuốn tiểu thuyết, cũng bí ẩn hơn cả và cũng gây nhiều phấn khích hơn cả - khám phá ra rằng nơi tận sâu chính mình có như thể các khoảng kín được mở ra, những con ma hay con quỷ lạ thường, đôi khi thậm chí cả các yếu tố đẩy chúng ta vào nỗi lo lắng và sự vứt bỏ, nhưng chúng, như bị thu hút bởi lực sáng tạo, xâm nhập câu chuyện và làm đảo lộn nó, mang lại cho nó một hướng nhất định, làm biến đổi nhân cách của những nhân vật và, đôi khi, biến đổi sơ đồ tự sự một cách sâu sắc. Đó là, ít nhất ở tôi, điều chẳng bao giờ xảy tới những khi viết một tiểu luận hay một bài báo. Ở chỗ này, tôi luôn luôn tìm cách vinh danh lý tính và đặt sự bộc phát vào phục vụ nó cùng các ý. Có, tất nhiên, các tiểu luận gia ít lý tính hơn, nhưng, ở những gì liên quan đến tôi, một bài báo hay một tiểu luận trình hiện một nỗ lực lớn về sự hiểu thuộc lý tính một tác phẩm văn chương, một vấn đề chính trị hoặc một tin vắn. Ngược lại, ngay khi viết một fiction, thì chuyện đảo lộn, tôi đợi với một nỗi sốt ruột nhất định biểu lộ ra cái hiện tượng được cảm thấy kể từ lúc tôi bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của mình: thấy đột nhiên xuất hiện, trong những gì tôi viết, những điều kỳ quái, phát xuất từ phần nào đó tối tăm và bị giấu đi của chính nhân cách tôi, thường làm trồi lên trở lại nhờ đó một kinh nghiệm từng trải qua, thứ mang tới một sự phong phú lớn hơn cho câu chuyện của tôi. Khác biệt về phong cách này có khả năng phải tìm trong chức năng của lý tính và sự bộc phát trong các thể loại. Chính vì vậy tôi tin vào những thể loại. Ở văn chương đương đại, có một mối nghi ngại to lớn hướng vào chúng. Người ta nhắc tới các thể loại như những trò xảo sinh ra hồi thế kỷ 18, người ta nghĩ rằng trên thực tế các ranh giới giữa những thể loại là giả và tốt hơn hết là nói đến các văn bản. Các văn bản nơi thơ và tự sự, theo một cách nhất định, luôn luôn trộn lộn vào với nhau. Tôi thì không nghĩ thế. Các thể loại tương ứng với một típ phối cảnh hay cách tiếp cận hiện tượng con người, kinh nghiệm con người. Tôi cũng nghĩ vì đó mà biểu đạt có tính cách toàn thể hơn cả của kinh nghiệm con người nằm trong tiểu thuyết, ngay cả khi dẫu cho tiểu luận đôi khi gây chói lòa và đối với chúng ta có vẻ cũng nhiều sáng tạo lối tuyệt diệu như một tác phẩm fiction. Fiction, khi nó thành công, đạt tới phép mầu đó: diễn tả toàn thể, con người như lý trí và phi lý trí, phăng te di và lịch sử, thực tại và phi thực tại, vật chất cũng ngang mức với tinh thần, toàn bộ sự chằng chịt đầy phức tạo của các trái ngược kia, thứ cấu tạo nên con người. Khó hơn rất nhiều, nhưng không phải bất khả, chắc chắn là khó hơn nhiều để một tiểu luận hay một bài báo, mặc cho vài thành công ngoại lệ, đạt đến được đó.

Tôi những muốn nhấn mạnh, cho dù tôi chắc chắn về việc tất tật những ai từng đọc ông đều đã biết, rằng vào cái thời mà chúng ta đang sống đây - và, tôi nghĩ, ở các nhà văn và trí thức Mỹ Latin cũng giống hệt ở những người châu Âu - có một niềm khinh bỉ chính trị to lớn, cái bị xem như một hoạt động bẩn thỉu, thứ yếu và bị băng hoại, mà đặc biệt văn chương và nghệ thuật nói chung hẳn phải tự phòng ngừa. Thật may sao, Claudio Magris không chia sẻ chút nào quan điểm đó và viết như thể ông tin điều ngược hẳn lại. Đó là một nhà văn lớn và một người vô cùng hiểu biết văn chương, các văn chương. Trong những tiểu luận phê bình của mình, ông nói tới các văn chương đa dạng nhất, và độ rộng những ngôn ngữ ông có thể dùng để đọc và bình luận thơ, tiểu thuyết cùng tiểu luận thật gây sửng sốt. Luôn luôn có chính trị trong các tiểu luận của ông, không phải thứ chính trị lập lòe, không, mà đúng là chính trị. Tức là một mối bận tâm đối với những chủ đề của thành phố, và điều này đã chẳng hề làm nghèo đi sự nghiêm ngặt văn chương của ông, cuộc tìm kiếm một biểu đạt độc đáo và nhiều sáng tạo, tình yêu cái đẹp hiện ra từ cái từ được viết thật chuẩn, mối lo về những mối quan hệ giữa các con người, các xã hội và các văn hóa, cuộc chiến đấu chống lại mọi hình thức độc đoán, sự bảo vệ những giá trị dân chủ, trong lúc thậm chí thực thi một phê phán thường trực nhằm vào các yếu ớt của những nền dân chủ vốn dĩ hết sức lớn và ngày nào cũng để lộ ra sự thối rữa, các xì căng đan, buôn lậu nhơ nhớp, sự tầm thường, thiếu hào phóng và đà bật. Ông đã không bao giờ làm sụt giá trị của các cuộc chinh phục tự do lớn. Ở điểm này, Claudio Magris là một trong những ngoại lệ lớn của thời chúng ta. Chắc chắn là có một truyền thống lớn của các nhà văn từng tôn trọng cái đường này, nhưng hỡi ôi!, vào thời chúng ta chuyện không còn vậy nữa. Các nhà văn lớn lo sao để tạo ra những câu chuyện hoặc viết thơ khinh bỉ chính trị, xa rời nó, một số nộp phạt cho các nhầm lẫn của chính mình, quay đi khỏi chính trị vì từng rất nhiều lần nhầm lẫn, đi bảo vệ cho những lựa chọn tồi tệ hơn cả, và sự vỡ mộng ấy đã dẫn họ tới niềm khinh bỉ hoặc nỗi thờ ơ đối với chính trị. Đó không phải là trường hợp của Claudio Magris. Những bài báo của ông trên tờ Corriere della Sera, những tiểu luận chính trị của ông, những tác phẩm sáng tạo của ông, toàn bộ đều có một phạm vi tác động lên vấn đề xã hội to lớn - tức là chính trị dài hơi, bay cao - và trong toàn bộ những cái đó từng có, đang có và tôi chắc chắn là sẽ có, chừng nào ông còn viết, một sự bảo vệ có hệ thống tự do và văn hóa dân chủ. Đấy là một khía cạnh nơi tác phẩm của Claudio Magris mà tôi từng lúc nào cũng ngưỡng mộ và đó là, tôi nghĩ thế, một trong những lý do khiến ông là một trong những nhà văn đáng ngưỡng mộ nhất của thời chúng ta.

Huỳnh Bất Thức dịch


trò chuyện


Claudio Magris trò chuyện với Mario Vargas Llosa
Borges và Sabáto: Trò chuyện
Philip Roth: Trò chuyện với Edna O’Brien
Trò chuyện với Isaac Bashevis Singer về Bruno Schulz
Annie Ernaux: Sự viết thì như một con dao
Pavese trả lời phỏng vấn
Romain Gary nói

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công