Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo? (tiếp)
2. Chủ nghĩa Nhân văn là một tôn giáo?
Tôi vừa đọc xong cuốn sách có nhan đề Phê bình Mỹ của ông Norman Foerster và mong rằng những phần còn lại của cuốn sách sẽ không vì lời nhận xét sau đây mà giảm giá trị, bởi chúng vốn đều là những phân tích sâu sắc về giới học giả Mỹ: tôi khẳng định rằng tinh hoa của cuốn sách tập trung hết ở chương cuối. Chính chương cuối là nơi tác giả đặt ra vấn đề, hay đúng hơn là thách thức tri thức đương thời: Liệu thứ gọi là Chủ nghĩa nhân văn có thể thoải mãn được nhân loại hay chăng? Sách còn chứa nhiều đề tài mà người ta còn có thể bàn luận được mãi. Foerster thường sắc sảo, đôi khi chốt hạ bằng những câu gợi mở cứ khiến người đọc cần thêm một lời bình nữa. Theo đánh giá của tôi, ông đã để Whitman hiện lên quá lớn, còn Lowell thì lại quá nhỏ. Về Emerson thì ông phân tích rất tinh tế và công bằng; quả thực, Emerson có khí chất riêng, thứ khí chất thô cứng cứ khiến tôi nơm nớp sợ mình có những đánh giá không khách quan về ông. Một tín đồ Thanh giáo cố làm kẻ ngoại giáo, rốt cục trở thành kẻ ngoại giáo cứ đấu tranh tư tưởng không biết có nên vác xác đi xem thiếu nữ múa không. Nhưng tất cả những điều ấy, dù có khiến đầu óc ta kích thích dường nào đi chăng nữa, vẫn chỉ là thứ yếu so với câu hỏi mà chúng ta sẽ thẳng thắn tấn công và nghiêm túc tháo gỡ sau đây. Nghiêm túc trả lời ở đây mà nói, tôi e, là phải đem chính tín ngưỡng của mình ra mà trả lời. Vấn đề cốt lõi ở đây là: Liệu Chủ nghĩa nhân văn có thể đảm đương mọi chức năng của tôn giáo? Để trả lời, tôi buộc phải phóng chiếu nó với chính đức tin của mình. Công bằng mà nói, Chủ nghĩa nhân văn khác xa thứ Chủ nghĩa nhân đạo sáo rỗng[1]. Ở đây, chúng ta sẽ bắt gặp cách lý giải như sau: xét cho cùng, khoa học và cơ cấu hiện đại đã quá tự nhiên - tự nhiên tới mức các thứ đó xếp con người thành bầy như súc vật, trói buộc nhân loại vào đất đai như cây cỏ thay vì giải phóng, để họ đập cánh cho bằng bọn chim, chứ đừng nói tới bay như thiên thần. Ngay cả thứ tâm lý học tân thời mà các thứ đó tạo ra cũng thấp kém hơn sự sống. Cái gọi là tiềm thức chẳng qua chỉ là thứ dưới mức con người, tựa loài sinh vật ẩn mình dưới hầm tối, thậm chí còn chẳng đáng thuộc về cõi sống. Cuộc chiến vì văn hoá thực chất là cuộc chiến vì ý thức: có người sẽ sửa lưng, gọi là sự tự ý thức, nhưng chung quy lại, bản chất của cuộc chiến này là chống lại sự mê muội của tiềm thức[2]. Chúng ta cần quy tụ lại những giá trị thực sự nhân văn: thứ ý chí nghĩa là đạo đức, thứ ký ức nghĩa là truyền thống, thứ văn hoá nghĩa là gia tài tinh thần tổ tiên để lại. Dẫu vậy, nhiệm vụ trước mắt của tôi vẫn là trả lời câu hỏi đã được đặt ra. Xin trả lời thẳng thừng và chắc chắn: không.
Tôi không tin rằng Chủ nghĩa nhân văn có thể hoàn toàn thế chỗ sự hiện diện của Siêu Nhân Văn. Lý do tôi không tin là vì một sự thật đối với tôi là rành rành, rành rành tới mức hiển nhiên. Tôi biết nghe có hơi giống những lời biện hộ nông cạn mà ta hay nghe. Nhưng ý tôi muốn nói rất rõ; đó chẳng phải thứ tôi tiếp nhận từ truyền thống, mà là thứ tôi vừa va phải như một khai ngộ. Tôi nhận ra điều đó khá muộn trong đời, và ngay lập tức biết nó chính là toàn bộ câu chuyện và hướng dẫn đạo đức của cả đời tôi. Mặc thế, vài năm về trước, dù quan điểm đạo đức và tôn giáo của tôi đã phần lớn xác định, tôi vẫn chưa cảm thấy điều ấy rõ ràng như bây giờ.
Điều đó là: thế giới hiện đại cùng những chuyển biến của nó đang sống nhờ vào vốn liếng Công giáo. Nó đang sử dụng và vắt kiệt những chân lý còn sót lại từ kho tàng Kitô giáo xanh xưa, tất nhiên không ngoại trừ những chân lý đã được cả giới ngoại giáo cổ đại biết đến, nhưng được định hình rõ ràng, chín muồi dưới bóng Kitô. Nhưng thế giới này không thực sự tạo ra được nhiệt huyết mới nào của riêng mình. Tất cả những gì nó tạo ra chỉ là một tên gọi mới, một nhãn dán mới, hệt như quảng cáo thời nay; về bản chất, sự mới mẻ ấy được xây dựng tuyền bằng những phủ định. Nó không khởi xướng được điều gì mới mẻ để có thể để mang vào mai sau. Ngược lại, nó chỉ nhặt nhạnh những thứ xưa cũ mà chính nó cũng không thể mang theo được. Đó là đặc điểm của lý tưởng đạo đức thời chúng ta. Một, chúng được vay mượn hoặc giật lấy từ tay cổ đại hoặc trung đại. Hai, chúng héo úa rất nhanh trong tay người hiện đại. Luận điểm của tôi ngắn gọn như thế đấy; và cuốn Phê bình Mỹ kia gần như là một giáo trình minh hoạ hoàn hảo cho luận điểm này.
Xin dùng lại một ví dụ mà cuốn sách cũng sử dụng để khơi dòng. Tuổi trẻ tôi được Walt Whitman chiếu ròi như vừng dương, rực rỡ ánh hy vọng. Ông hiện lên trong tâm trí tôi tựa một đám đông cô đặc thành hình đại trượng phu, hoặc như Adam Khai Thiên. Tôi từng run lên vì phấn khích khi nghe kể rằng có người đã thấy ông đã đi trên phố - cứ thể Chúa Kitô vẫn còn tại thế. Tôi chẳng bận tâm những vần thơ phá vỡ quy tắc của ông là tuyệt cú hay dở tệ, cũng như chẳng quan tâm bản gốc Phúc Âm của Chúa Giê-su được biên nguệch ngoạc trên giấy da hay đá. Tôi chưa bao giờ thấy cái ác mà kẻ thù ông gán ghép cho; nếu có, tôi cũng không thấy được. Điều khiến tôi ngưỡng mộ chính là thứ bình đẳng đầy mới mẻ, nó không san bằng một cách tầm thường mà nâng cao nhiệt thành - một sự tán dương phơi phới cho một chân lý thật giản dị rằng con người là con người. Chân nhân thì vĩ đại hơn hư thánh; mỗi cá nhân vẫn giữ nguyên vẻ huyền bí và uy nghi như vị thần, nhưng đồng thời cũng thân tình và nồng ấm như bằng hữu. Một câu nói của chính Whitman dường như khái quát điều này thật là sáng rõ: ông từng viết rằng các hoạ sỹ xưa thường vẽ một đám người và tô cho vài cái đầu thêm vầng hào quang vàng rực, “còn tôi vẽ hàng trăm nghìn đầu, nhưng chẳng đầu nào thiếu vầng quang rực rỡ của riêng nó.” Vinh quang phải bám riết con người như một phần tư chất họ; sự sùng bái lẫn nhau phải hoá thành tình huynh đệ và đến kẻ thấp kém nhất cũng phải được góp mặt - gã da đen gù ngờ nghệch, thui chột và đằng đằng sát khí, chính gã cũng phải được phác hoạ với hào quang chói lọi quanh đầu. Đây có thể xem là đỉnh cao của trào lưu mà Rousseau và các nhà cách mạng cách đây một thế kỷ đã khơi nguồn; và tôi từng được dạy phải tin và đã tin rằng đây chỉ mới là khởi đầu của những điều lớn lao và vĩ đại hơn. Nhưng đó chỉ là những bài ca trước bình minh; mà bình minh đã đâu sánh được với mặt trời. Whitman chính là tình anh em giữa ban ngày, phô bày vô vàn sinh linh rực rỡ, khi hiển linh bằng xương thịt lại càng bội phần thiêng thánh. Shelly tôn thờ Con người, nhưng Whitman thì tôn thờ cả Con lẫn Người[3]. Mỗi khuôn mặt, mỗi đường nét của nhân loại đều là thi ca huyền nhiệm, như từng gương mặt riêng lẻ giữa đám đông vốn chỉ thấp thoáng đâu đó được ngọn đuốc bất chợt thắp sáng. Một ông vua chẳng qua cũng chỉ là một con người được đối xử như mọi con người đáng được đối xử. Một vị thần chẳng qua cũng chỉ là một con người được tôn thờ như mọi người đáng được tôn thờ. Ai có thể địch nổi một chủng tộc toàn thánh nhân, một nền cộng hoà toàn quân vương; chẳng phải trên danh nghĩa suông, mà là một Tân Thế Giới đích thực?
Hãy xem ông Foerster nhận xét như thế nào về vị trí hiện tại của người sáng lập thế giới dân chủ mới mẻ ấy: “Khoa học hiện không ủng hộ nhiều cho cái gọi là ‘phẩm giá bẩm sinh con người’ hay ‘khả năng hoàn thiện’ mà ngài nói. Rất có thể, khoa học tương lai sẽ dẫn chúng ta rời xa dân chủ để tiến tới một phương thức nào đó của chế độ quý tộc. Những kỳ vọng ngàn năm mà Whitman xây dựng trên nền tảng khoa học và dân chủ, giờ đây chúng ta đã rõ, chỉ được xây dựng tuyền trên những nền móng quá đỗi mong manh… Sự hoàn hảo của tự nhiên, bản tính lương thiện nguyên thuỷ của con người, ‘niềm kiêu hãnh tuyệt đích của con người về chính bản thân mình’ được trung hoà bằng một thứ nhân đạo chủ nghĩa đầy cảm tính - tất cả chỉ là vật liệu xây nên một công trình ít nhiều mang màu sắc hiện đại. Chính trị, đạo đức, tôn giáo của ngài thuộc về quá khứ, ngay cả thứ ‘tính tôn giáo’ dễ dãi mà ngài hy vọng sẽ thấm nhuần và hoàn thiện công cuộc khoa học và dân chủ cũng không ngoại lệ…. Bản chất lời tiên tri của ngài Whitman, chúng ta buộc phải kết luận, đã bị sự thật chứng minh là sai lầm.” Đây là một nhận định khá ôn hoà và công bằng, ngoài kia có đầy những lời lẽ gay gắt hơn thế nhiều. Chẳng hạn, câu nói để đời của ông H. L. Mencken: “Họ (ý chỉ những nhà tư tưởng tự do hoặc cựu tự do) đã nhận ra rằng lũ đần độn mà họ đổ mồ hôi để cứu rỗi thật ra có muốn được cứu đâu, và cũng chẳng đáng được cứu nữa.” Hẳn đó là thứ gọi là Tinh Thần Mới, nếu quả thật có thứ Tinh Thần Mới nào đó. “Ta sẽ xây những thành phố bất khả chiến bại, nơi mọi người có thể choàng vai bá cổ,” Walt Whitman từng hô vang, “bằng tình yêu đồng chí, bằng tình yêu đồng chí vĩnh hằng.” Tôi thích hình dung mặt mũi ông Mencken ở Baltimore sẽ thế nào nếu có một đồng chí từ Pittsburgh tới bá cổ ông ta để giúp ông ta bất khả chiến bại. Nhưng ý tưởng ấy cũng đã chết ngay cả ở những con người ít hung hăng hơn Mencken nhiều. Nó đã chết trong một người như Aldous Huxley, anh bạn mới đây đã phàn nàn về thói lãng mạn hoá “vô cớ” trong quan điểm của nền cộng hoà ngày xưa về bản chất con người. Nó đã chết trong nhiều người thông thái và lương thiện đến mức tôi không khỏi tự vấn: liệu trong tình cảnh hiện đại, thứ “khoa học” mà Whitman hằng yêu mến, chính ông có còn giữ được niềm tin ấy không?[4]
Nhưng trong tôi, ý tưởng ấy chưa hề chết. Nó vẫn sống động, chẳng phải do tôi gắng gỏi dụ mình tin là thế, mà bởi một sự thực: cái ý niệm huyền bí này, dù đã bốc hơi như một cảm xúc chóng tàn, vẫn tồn tại vững vàng như một tín điều. Tôi khẳng định luôn, với niềm tin xác tín không kém gì hồi tôi còn trai tráng, tôi khẳng định gã da đen gù lưng đần độn kia vẫn xứng đáng được điểm tô bằng vầng hào quang rực rỡ. Sự thật là bức tranh điên rồ của Whitman, hoặc bức tranh ông tưởng là điên rồ, thực ra lại là một bức tranh cổ xưa và chính thống. Thật thế, biết bao tranh cổ còn lưu lại cả đám đông được đội triều thiên hào quang, biểu thị họ đã đạt tới Phúc Thật. Nhưng với Công giáo giáo dân, đây là giáo lý nền tảng: mọi con người, không trừ ai, đều được tạo dựng đặc biệt, được mài dũa như những mũi tên lấp lánh nhắm tới cái đích Phúc Thật. Đúng là những mũi tên ấy được lắp lông bằng ý chí tự do, nên cũng hằn lại trên đất những bi kịch tiềm tàng có thể sinh ra từ sự tự do ấy; và Giáo hội (vốn ngàn năm xưa đã nhận thức được về mặt tối của chân lý mà bọn hoài nghi chủ nghĩa mới đây mới khám phá ra) cũng đã chỉ ra bóng tối của bi kịch ẩn tàng. Nhưng điều đó chẳng hề làm giảm sự huy hoàng của những vinh quang ẩn tàng. Xét theo khía cạnh nào đó, nó còn thuộc về phần huy hoàng ấy; bởi chính tự do tự nó đã là một vinh quang. Theo nghĩa đó, họ vẫn sẽ đội hào quang ngay cả trong luyện ngục.
Nhưng điều cốt yêu là rằng, bất cứ ai tin rằng mọi sinh linh ấy đều được tạo ra để hưởng phúc lành, và biết bao người trong số họ có lẽ đang trên đường đạt đến sự phúc lạnh tót vời ấy, ắt ta phải có một lý do triết học vững vàng lắm mới có thể xem họ như những sinh thể rực rỡ diệu kỳ, hay thấy được quầng hào toả sáng nơi mỗi gương mặt. Niềm xác tín ấy quả thực biến mỗi gương mặt, mỗi đường nét con người thành một áng thi ca bí nhiệm. Nhưng đó chắc chắn không phải là thứ thi ca hiện đại. Thứ thi ca hiện đại nhất không còn là thứ thơ của sự đón nhận, mà là thứ thơ khước từ, hay đúng hơn, thứ thơ của sự ghê tởm. Linh hồn ẩn trong hầu hết các thi phẩm đương thời có lẽ nên được gọi là cơn cuồng nộ của sự khó ở. Văn nhân thời nay không còn gây ấn tượng bằng cách tuyên bố rằng với mình, gã da đen gù lưng cũng mang hào quang. Văn nhân thời nay, để đạt được hiệu quả nghệ thuật y hằng theo đuổi, y sẵn sàng miêu tả cảnh mình vừa định ôm lấy người phụ nữ tuyệt nhất trần gian thì bỗng thấy buồn nôn vì nhận ra trên lông mày nàng có một nốt mụn hoặc ngón cái nàng có vết mỡ nhờn. Whitman tiên sinh từng cố chứng minh những thứ dơ bẩn thực ra là thanh khiết - khi ông tôn vinh phân bón là cội nguồn của những trảng cỏ xanh tinh khôi. Còn môn đồ của thứ thơ ca phóng túng ngày nay như đang cố gắng chứng minh điều ngược lại: những thứ sạch sẽ thực ra rất nhớp nhúa; họ nhìn màu trắng đục của sữa rồi liên tưởng tới bệnh phong cùi, nhìn những sợi lông mọc vụng mà nhớ tới vẻ gai góc của dịch hạch. Tóm lại, tâm thế thơ ca đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng tâm thế của thần học thì không, và đó chính là lý do để ta nương tựa vào thứ thần học bất dời. Nếu hiểu dân chủ là cơ chế bầu cử hay nền phê phán những đặc quyền chính trị, Công giáo không liên quan gì đến dân chủ, không ủng hộ cũng không phản đối. Nó không có nghĩa vụ phải đồng tình với ý niệm của Whitman về dân chủ, hay thậm chí là tư tưởng của những Jefferson hay Lincoln. Nhưng nó buộc phải phủ nhận toàn bộ những lời bác bỏ dân chủ của ông Mencken. Thế giới sẽ phải hứng chịu những cuộc bách hại như thời Diocletian, những thập tự chinh của các cha Dòng Đa Minh, những lần thoả hiệp tôn giáo bị xé tan, thậm chí tận thế diệt vong, trước khi bắt Giáo hội Công giáo bằng lòng thừa nhận rằng một kẻ đần độn, hay bất cứ một sinh thể nào, “không đáng được cứu rỗi.”
Thế nên, khi đã ở cái tuổi giữa đời người, tôi chợt nhận ra một sự thực kỳ lạ về bài học cuộc đời mình, hay cũng chính là bài học của cả thế hệ chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều lớn lên với một niềm xác tín chung, được hun đúc từ ngọn lửa văn chương thiên tài của Rousseau, Shelly, Victor Hugo, rồi bùng lên dữ dội lần cuối cùng nơi chủ nghĩa phổ quát của Walt Whitman. Và chúng tôi ngây thơ cho rằng con cháu mình cũng sẽ mặc nhiên kế tục niềm tin ấy. Tôi từng nói rằng khám phá ra tình huynh đệ chung quanh mình tựa hồ khám phá ra ánh sáng ban ngày vậy - thứ ánh sáng chẳng bao giờ khiến người ta chán ngán. Giờ đây, tôi không còn có thể kêu gọi tình yêu bình đẳng, đại đồng như một cảm xúc nữa. Ta không còn có thể mở một tập thơ mới và mong đợi sẽ gặp những vần thơ về tình đồng chí trọn đời, hay “Tình yêu, nền Cộng hoà thương quý, nuôi mình bằng tự do mà sống.[5]” Giờ đây ta hiểu nó đã chết trong lòng hầu hết mọi người, bởi nó chỉ là tâm trạng nhất thời chứ không phải giáo lý vững bền. Và chúng ta đang bắt đầu suy nghiệm lại trong muộn mằn, bằng sự thông tuệ của tuổi già, rằng làm sao ta có thể mong đợi nó lâu dài khi nó chỉ là một tâm trạng nếu ngay cả khi trở thành giáo lý, nó cũng không đủ dai dẳng. Và chúng ta cũng đang dần nhận ra rằng tất cả sức mạnh thực sự của nó, hay thứ sức mạnh duy nhất còn sót lại, chính là sức mạnh nguyên thuỷ của giáo lý. Thực hư chuyện là thế này: những con người của thế kỷ XVIII, phần nhiều vì bất mãn chính đáng với những giáo sỹ thối nát và ngờ vực, đã quay sang chất vấn họ rằng: “Bởi các ngươi tự xưng là môn đồ Đấng Giê-su, há dám phủ nhận mọi người đều là anh em, và việc cứu giúp kẻ khốn cùng là phận sự chúng ta sao?” Sự tự tin trong lời thách thức ấy, cái âm hưởng vang dội trong giọng điệu cách mạng ấy, xuất phát từ việc những kẻ phản động mang danh Kitô hữu đã tự đặt mình vào sai quấy. Yêu sách dân chủ đã thắng thế vì nó có vẻ không thể bác bỏ. Và lý do nó không thể bác bỏ không phải là bởi bản thân nó là chân lý, mà vì ngay cả đến những Kitô hữu suy đồi cũng không dám mạo phạm đưa nghi vấn[6]. Giá hồi ấy có những người như H. L. Mencken thì xong ngay: ông ta luôn sẵn lòng làm việc đó.
Chính tại điểm này, với tôi, mọi chuyện bắt đầu trở nên kỳ quặc lẫn lý thú. Bởi khi nhìn lại những khủng hoảng tôn giáo thời xưa, tôi nhận ra một sự trùng hợp, hay đúng hơn, một chuỗi trùng hợp đến mức khó có thể gọi là ngẫu nhiên. Suy cho cùng, mọi cuộc nổi loạn chống lại Giáo hội từ trước Cách mạng, đặc biệt từ thời Cải cách, đều kể cùng một câu chuyện lạ lùng. Mọi kẻ dị giáo vĩ đại đều chọn một chiến thuật ba màn nổi bật. Đầu tiên, y lôi trong kho tàng giáo lý của Giáo hội ra một ý niệm thần bí. Tiếp, y dùng chính ý niệm ấy để công kích mọi ý niệm thần bí khác. Và cuối cùng (kỳ lạ nhất), y dường như chẳng hề nhận ra rằng ý niệm yêu thích của mình cũng mang tính thần bí – ít nhất là một ý niệm huyền nhiệm, khả nghi hoặc mang tính giáo điều. Với sự ngây ngô kỳ quái, y luôn xem đó là hiển nhiên. Y coi nó là bất khả chiến bại, ngay cả khi lấy nó để công phá những đồng nguyên của nó. Kinh Thánh là ví dụ rõ nhất. Trong mắt một người ngoại đạo hay kẻ hoài nghi khách quan, hẳn đây phải là câu chuyện kỳ lạ nhất trên đời: những kẻ xông vào phá đền đài, dỡ bàn thờ, đuổi tư tế, lại nhặt lấy mấy cuốn sách thánh có tựa đề Thánh Vịnh hay Phúc Âm, thay vì quăng chúng vào lửa như mọi thứ khác, lại dùng chúng như lời tiên tri bất khả ngộ để lên án toàn bộ cơ cấu cũ. Nếu bàn thờ thánh là thứ sai lầm, tại sao những hiến chương thánh, vốn thứ cấp, lại đúng? Nếu tư tế có thể giả mạo Bí tích, sao y không thể giả mạo Thánh Kinh? Thế mà trải bao thuở, những kẻ lấy nhất vật phá vạn vật nơi Giáo hội kia mới nhận ra điều tục tằn rằng: chính món đồ họ tôn thờ ấy cũng cần bị tra xét. Người đời khắp nơi đã sửng sốt, nhiều nơi tới nay vẫn sửng sốt, khi thấy lại có ai dám làm điều đó.
Rồi những tín hữu Calvin lại tiếp tục lấy điều dạy của Công giáo về quyền năng và tri thức tối hậu của Thiên Chúa, xem đó như một chân lý hiển nhiên, vững chắc như núi đá, đến nỗi họ những tưởng sẽ có thể xây dựng mọi thứ trên đó mà không màng đến sự đè nén hay sức nặng. Họ quá tự tin vào lý luận của mình và nguyên tắc tiền định trước nhất, đến mức tra tấn lý trí và trí tưởng tượng của mình bằng những suy diễn kinh hoàng về Thiên Chúa, biến Thầy thành một ác thần. Nhưng dường như họ đã chẳng bao giờ tưởng nổi sẽ có ai dám đứng lên khẳng định mình bất tín với ác thần đó. Họ đã vô cùng kinh ngạc khi những kẻ bị gọi là “vô đạo” bắt đầu công khai phủ nhận điều đó. Họ đã mặc định rằng sự tiền tri của Thiên Chúa là bất biến đến mức, nếu cần thiết, nó phải được thực hiện bằng cách huỷ diệt chính lòng thương xót của Thầy. Họ chẳng bao giờ nghĩ rằng sẽ có người dám phủ nhận sự hiểu biết của Thiên Chúa theo đúng cái cách họ phủ nhận lòng thương xót của Thầy. Thế rồi, Wesley xuất hiện cùng phong trào phản kháng lại thuyết Calvin; và những người đi theo phong trào Tin Lành lại nắm lấy chính ý tưởng của Công giáo rằng con người hữu thức về tội lỗi. Họ đi khắp nơi rao giảng, hứa hẹn giải thoát mọi người khỏi gánh nặng tội lỗi bí ẩn của mình. Có một câu nói đùa rằng họ có thể chặn đường một người lạ trên phố và đề nghị xoa dịu nỗi đau khổ vì tội lỗi mà người ấy luôn hằng giấu giếm. Nhưng dường như họ cũng chẳng nhận ra rằng, mãi đến sau này, khi người đàn ông trên phố kia có thể trả lời rằng anh ta chẳng hề muốn được cứu rỗi khỏi tội lỗi, cũng như chẳng cần được cứu khỏi bệnh sốt phát ban hay chứng múa giật Thánh Vitus[7]; bởi những thứ đó thực ra đâu có khiến anh ta thấy khổ chút nào đâu. Rồi y hệt tiền nhân, đến lượt họ cũng vô cùng ngạc nhiên khi ảnh hưởng của Rousseau và chủ nghĩa lạc quan cách mạng bắt đầu bộc lộ thông qua việc con người đòi hỏi hạnh phúc và nhân phẩm thuần tuý nhân bản, một sự mãn nguyện với tình bằng hữu giữa vòng tay đồng loại và đỉnh điểm là tiếng kêu khoái trá của Whitman rằng ông sẽ không bao giờ “thao thức để khóc lóc vì tội lỗi nơi mình.”
Ngặt một nỗi, Shelly, Whitman và tất tật những nhà lạc quan cách mạng lại làm y hệt điều đó một lần nữa. Họ cũng thế, mặc có phần vô thức hơn do sự nhiễu nhương của thời đại, vẫn lấy từ truyền thống Công giáo cũ một ý tưởng siêu việt đặc biệt: ý tưởng rằng con người có phẩm giá tinh thần với tư cách là con người, và có bổn phận chung nhất là yêu thương nhân quần. Và họ hành xử y hệt những người tiền nhiệm - những tín đồ Wesley và Calvin. Họ mặc nhiên coi ý tưởng tinh thần này là hiển nhiên như mặt trời, mặt trăng; rằng không ai có thể phá huỷ nó, dù họ đã nhân danh nó đi phá huỷ mọi thứ khác. Họ liên tục nhồi nhét chúng ta nào là thiêng phẩm và nhân phẩm của con người, cùng tình yêu tất yếu với toàn thể nhân loại; họ làm như thể đó là chân lý tự nhiên thật hiển nhiên. Và giờ đây, họ cũng vô cùng sửng sốt khi những nhà tân hiện thực mới xuất hiện và bất kham từ đâu bùng lên, bắt đầu tuyên bố rằng anh hàng thịt có bộ râu hung đỏ cùng cái mụn cóc trên mũi chẳng khiến họ cảm nhận được điều gì thiêng liêng hay cao quý, rằng họ chẳng có chút xung động chân thành nào để yêu thương hắn, rằng dù cố lắm thì lực cũng bất tòng tâm, hoặc rằng họ chẳng thấy mình có nghĩa vụ nào phải cố gắng yêu thương hắn cả.
Thoạt nhìn thì hình như quá trình này đã chạm đến điểm cuối, chẳng còn gì để những nhà hiện thực trần trụi vứt bỏ nữa. Nhưng không: guồng máy ấy vẫn tiếp tục xoay tròn. Vẫn còn đó những truyền thống bác ái mà nhân loại bám vào. Vẫn còn đó những truyền thống bác ái để họ quăng đi khi nhận ra chúng thực chất chỉ là tàn tích của quá khứ. Hẳn ai cũng đã nhận thấy ẩn trong các tác gia đương thời có hiện hữu một thứ lòng trắc ẩn cay đắng. Họ không còn tôn trọng mọi người như St. Paul và những nhà dân chủ thần bí khác; nói quá lời một chút thì họ khinh miệt toàn thể con người, thường bao gồm cả chính bản thân mình (công bằng mà nói). Nhưng theo một cách nào đó, họ vẫn xót thương nhân loại, đặc biệt những kẻ đáng thương; giờ đây, lòng trắc ẩn ấy đã mở rộng không cân xứng sang cả loài vật. Chính lòng trắc ẩn đối với con người này cũng nhuốm màu thiện lương, ái đức Kitô giáo; ngay cả với lòng trắc ẩn đối với loài vật, nó cũng mang dấu ấn từ gương sáng của nhiều vị thánh. Chẳng có gì đảm bảo rằng một phản ứng dữ dội mới để chống lại thứ tôn giáo đầy tình cảm ấy sẽ không giải phóng con người khỏi nghĩa vụ thương xót với nỗi đau của thế gian. Không chỉ có Nietzsche, mà nhiều tín đồ Tân Ngoại giáo đi theo đường lối của ông, cũng đã để đề xuất sự cứng rắn ấy như một thứ thanh khiết trí tuệ cao vời hơn. Và sau khi đọc vô số bài thơ hiện đại về Con người vào Tương lai - kẻ được miêu tả là đúc bằng thép và chỉ chiếu sáng bằng thứ ánh lửa xanh lạnh lẽo – tôi có thể lập tức tưởng tượng đến một nền văn chương mang đầy vẻ tự hào vì sự tách biệt lãnh đạm như kim khí của nó. Lúc ấy, xem chừng người ta sẽ thầm đoán đức tính cuối cùng mang hơi thở Kitô giáo đã tắt. Thế nhưng, chừng nào đức tính còn tồn tại, đức tính đó vẫn thuộc về Kitô giáo.
Bởi thế, tôi không tin Chủ nghĩa nhân văn và Tôn giáo là đối thủ ngang sức. Tôi xem đó là cuộc cạnh tranh giữa vũng nước đọng với mạch suối nguồn, hay giữa những que đóm với ngọn lửa hoằng viễn. Từng trí giả xanh xưa đã giật lấy một que đóm từ ngọn lửa bất diệt ấy; nhưng rốt cục, dù họ vung vẩy que đóm điên cuồng, dù sẵn sàng dùng nó thiêu rụi nửa thế giới, thì que đóm vẫn chỉ là que đóm chóng tàn. Những người Thanh giáo đâu thể duy trì mãi niềm hân hoan tuyệt đỉnh trong sự bất lực; họ chỉ khiến tổ khiến nó lỗi thời. Chúng ta đã không thể cứ mãi nhìn đám đông Brooklyn bằng đôi mắt Whitman - nhanh chóng mặt, ta đã học nhìn bọn chúng qua đôi mắt Dreiser. Tóm lại, tôi nghi ngờ mọi thử nghiệm tâm linh nằm ngoài truyền thống lấy tâm linh làm trung tâm; bởi đơn giản một điều thôi: chúng chẳng thể trường tồn, dù có thể nhất thời lan rộng. May mắn thì gắng gượng được một thế hệ, như thường thì chỉ gói gọn trong một chiếc mốt đoản kỳ, tệ nhất là chẳng thể vươn ra ngoài một nhóm hãn hữu. Tôi không tin chúng có được bí quyết của sự hằng thường, nói chi là sự hằng thường cộng đoàn. Chỉ là một kẻ dân chủ già nua lẩm cẩm, tôi mong được tha thứ khi mạo muội đặt ra câu hỏi hệ trọng, bao trùm toàn thể nhân kiếp, rằng: Trong đám đông thấp kém kia, liệu được bao kẻ theo Chủ nghĩa nhân văn? Chẳng lẽ số lượng chỉ ngang với số các triết gia Hy Lạp giữa đám đông vui tuý luý của thời đại đa thần? Hay chỉ ngang số người theo Văn hoá Matthew Arnold giữa đám đông cuồng nhiệt một lòng đi theo Đức Hồng Y Manning hay Tướng quân Booth[8]? Tôi không có ý đơm điều chế giễu Chủ nghĩa nhân văn, tôi hiểu sự cách tân về mặt nhận thức mà nó đem lại và đã nhọc công tìm hiểu nó với tinh thần khiêm hạ. Nhưng tôi thực sự băn khoăn, không biết trong số những con người tả tơi và bối rối ngoài kia, được bao nhiêu kẻ thực sự hiểu nó. Và tôi xin hỏi với sự tò mò hoàn toàn đến từ cá nhân tôi, bởi ba trăm triệu người trên thế giới này đang chấp nhận những huyền nhiệm mà tôi tín thác, sống bằng đức tin của tôi. Tôi thực lòng muốn biết: Liệu có ai dự đoán được rằng trong thiên hạ sẽ có đủ ba trăm triệu người theo Chủ nghĩa nhân văn? Những kẻ lạc quan có thể biện luận rằng Chủ nghĩa nhân văn có thể sẽ là tôn giáo của thế hệ mai sau, như Comte từng tuyên bố rằng Nhân loại sẽ là Thượng đế của thế hệ sau, thứ, theo nghĩa nào đó, đã trở thành sự thật. Nhưng ở thế hệ này, nó không phải là Thượng đế. Và câu hỏi đặt ra tiếp nối: Tôn giáo của thế hệ sau nữa sẽ là gì, hay của mọi thế hệ (như một lời hứa xưa cổ) cho đến thiên trường địa cửu, tôn giáo đó sẽ là gì?
Chủ nghĩa nhân văn, theo cách hiểu của ông Foerster, sở hữu một đặc tính vô cùng minh triết và đáng trọng. Nó thực sự đã nỗ lực nhặt nhạnh những tất cả mảnh vỡ - không bỏ sót bất cứ mảnh nào. Những gì diễn ra trước khi nó đến chỉ là sự huỷ hoại mù quáng, rồi đến sự lựa chọn tuỳ hứng vụn vặt, tựa lũ trẻ đập vỡ cửa kính màu nhà thờ rồi ghép lại thành những miểng chai màu sắc – lũ trẻ cộng hoà có kính màu hồng, kính xanh lá hoặc màu vàng về tay những kẻ bi quan chủ nghĩa và giới văn nghệ suy đồi. Nhưng Chủ nghĩa nhân văn tuyệt vời ở chỗ, nó cúi xuống thu nhặt tất cả; chẳng hạn, nó đủ cao cả để nhặt lên viên ngọc nhún nhường. Foerster tài hoa quả thấu đạt giá trị của đức khiêm cung - điều mà thế kỷ XVIII và XIX đã chẳng thể hữu đắc. Matthew Arnold, người từng bảo vệ cái ông gọi là văn hoá ở trung kỳ thế kỷ XIX cũng đã nỗ lực gìn giữ đức thanh khiết - thứ ông gọi là sự thuần tuý một cách hơi khó chịu. Nhưng trước khi xem Văn hoá hay Chủ nghĩa nhân văn có thay thế được cho tôn giáo hay không, ta có thể đặt một câu hỏi ẩn dụ vô cùng mộc mạc như vầy: Chủ nghĩa nhân văn có thể nhặt mảnh vỡ, nhưng liệu có gắn kết chúng lại cho vẹn được chăng? Đâu là chất kết dính khiến tôn giáo trở nên kết đoàn và phổ quát, ngăn nó vụn nát thành vô vàn mảnh vỡ rời rạc vì vô vàn những chiều hướng và thị hiếu phân tán của từng cá nhân? Làm sao ngăn một nhà nhân văn chủ nghĩa đòi thanh khiết nhưng lại bỏ khiêm nhường, kẻ khác thì lại trọng khiêm nhường mà khinh thanh khiết, kẻ khác nữa lại theo đuổi chân-mỹ mà gạt bỏ cả khiêm-khiết? Nan đề của một nền đạo đức và văn hoá bền vững nằm ở cách sắp xếp các mảnh ghép sao cho chúng liên kết chặt chẽ như phiến đá kết trong mái vòm. Và tôi chỉ biết đến một hệ thống duy nhất đã chứng minh được mình có độ vững chắc ấy - độ vững bền của những cung vòm vĩ đại sải cánh muôn phương vạn đại, nơi ngự dòng báp-têm cuộn chảy trên cầu máng trường cửu của thành Rô-ma.
3. Trôi ra khỏi Nhà
Thứ gì cũng thế, để cải cách chúng mà không làm chúng méo mó, có một nguyên lý giản đơn mà minh triết - một nguyên lý e sẽ bị gọi là nghịch lý. Khi tồn tại một định chế hay luật lệ nào đó - thí dụ cho dễ hiểu, như một hàng rào hoặc một cánh cổng chắn ngang đường đi - hạng cải cách hiện đại sẽ hăm hở bước tới mà rằng: “Tôi chẳng thấy thứ này được ích lợi gì sất, kéo sập nó thôi!” Kẻ cải cách nào mà sáng suốt hơn thì sẽ biết đường mà đáp ngay: “Nếu anh không thấy được công dụng của nó, tôi càng không thể để anh dỡ bỏ nó được. Hãy lùi lại mà suy ngẫm. Đợi đến khi nào anh trở lại và báo với tôi rằng mình đã thấu được lý do tồn tại của nó thì may ra tôi mới cho anh đập phá nó.”
Ấy vậy mà, nghịch lý ấy lại dựa trên lẽ thường sơ đẳng nhất. Cánh cổng hay hàng rào kia không tự dưng mà mọc. Nó nào phải do bọn mộng du dựng nên trong cơn ngủ gà gật. Cũng khó lắm cái chuyện lũ điên vượt ngục nào đó suốt ngày lang thang ngoài phố bỗng dưng nổi hứng dựng lên những thứ tựa vậy. Hẳn phải có người nào đó, vì lý do nào đó, mới nghĩ ra chuyện dựng lên một thứ hữu ích dành cho người khác. Và chừng nào ta còn chưa rõ lý do đó, ta không thể phán xét liệu lý do đó có hợp lý hay không. Bất cứ khi nào vội vã quy gán những sản phẩm do đồng loại ta dựng nên rằng dường như chúng chẳng có ý nghĩa rõ ràng gì cả, rất có thể ta đã bỏ sót cả một mặt lớn của vấn đề. Có những nhà cải cách đã ăn gian nhảy cóc qua nút thắt này bằng cách mặc định tổ tiên ta toàn là lũ ngốc nghếch; nhưng nếu quả thật như thế, ta chỉ có thể nói rằng sự ngu xuẩn có vẻ là bệnh di truyền. Song, sự thực lại như thế này: không ai có quyền phá huỷ bất cứ một định chế xã hội nào nếu không thấu hiểu nó dưới vai trò một thực thể lịch sử. Chỉ khi biết định chế đó hình thành như thế nào, để phục vụ mục đích sơ khởi là gì, khi ấy anh mới có quyền phán định rằng mục đích ấy từ đầu vốn dĩ xấu xa, hoặc nay đã trở nên xấu xa, hoặc chẳng còn phù hợp nữa. Nhưng nếu anh chỉ nhìn chằm chằm vào nó như một quái vật vô nghĩa khi không nhảy bổ ra chắn đường, thì chính anh, chứ không phải những người bảo thủ, mới là kẻ đang chìm trong ảo tưởng. Khi ấy, thậm chí ta còn có thể kết luận rằng anh đang nhìn đời qua lăng kính ác mộng. Nguyên tắc này áp dụng cho vạn sự, từ chuyện cỏn con đến các định chế thực thụ, từ tập tục cho đến tín điều. Chính những người như Thánh Jeanne d’Arc - người đã thấu hiểu lý do phụ nữ mặc váy - mới đủ tư cách cự tuyệt việc ấy. Chính những người như St. Francis - người đã thấu cảm được hơi ấm từ bữa tiệc gia đình - mới xứng đáng được trở thành kẻ hành khất lang bạt[9]. Vậy cho nên, trong sự ham mê đến cuồng si được phóng túng của xã hội hiện đại, khi thấy một Nữ Công tước tuyên bố bà chẳng thấy có lý do gì ngăn mình chơi trò nhảy cóc, hay vị Giáo trưởng tuyên bố không tìm thấy giáo luật nào cấm đoán ông trồng cây chuối, ta có thể nhẫn nại mà ôn tồn giảng giải với họ rằng: “Hãy hoãn lại ý định của các ông các bà cho tới khi thực sự thấu hiểu, thực sự đã chín chắn suy ngẫm, xem mình đang vi phạm nguyên tắc hay thành khiến nào không. Nghĩ đặng thì mặc sức các ông bà mà nhảy cóc hay trồng chuối, trong lúc chơi nhớ cầu Chúa phù hộ các người.”
Trong số những truyền thống đang bị công kích một cách thiển cận này, có một sáng tạo căn bản của loài người mang tên Gia Đình, hay Tổ Ẩm. Đây là điển hình của thứ người ta tấn công không phải vì đã tường tận, mà bởi vì hoàn toàn chẳng biết gì về nó. Họ đập phá một cách mù quáng, đầy ngẫu hứng và cơ hội: nhiều kẻ còn muốn san bằng mà chẳng thèm tự vấn tại sao từ đầu chúng được tạo ra. Đúng là chỉ một ít dám thẳng thắn thừa nhận ý đồ này. Nhưng chính điều đó càng chứng tỏ họ mù quáng và vụng về tới nhường nào. Họ từ lâu đã rơi vào thói buông trôi và dần dà ly gia – một sự thoát ly thường ngẫu nhiên, tuỳ tiện, không dựa trên nền tảng lý thuyết nào. Ngẫu nhiên là thế, nó vẫn có sức huỷ diệt. Và sức huỷ diệt càng dữ dội bởi sự thiếu chủ ý đó. Dường như động cơ chính yếu chỉ đơn thuần là sự bực bội cá nhân – mỗi cá nhân lại bực bội theo mỗi kiểu. Người ta chỉ nghe kể rằng trong trường hợp này hay trường hợp nọ, một tính khí thất thường nào đó được sản sinh ra do bị dồn nén trong một môi trường nhất định; thế nhưng, chẳng ai giải thích được tại sao cái ác đó lại phát sinh chứ đừng nói đến chuyện trả lời được câu hỏi rằng có thực sự thoát ra được khỏi nó không. Người ta hay kháo rằng trong một gia đình nọ, có bà nội suốt ngày nói nhảm (Chúa cũng đồng tình là thế!); hoặc rằng thật khó trò chuyện thân mật với chú Gregory mà không buột miệng chửi ông ta là đồ ngốc (ổng ngốc thật!). Nhưng chẳng có ai nghiêm túc xem xét liệu pháp chứ đừng nói là chẩn đoán căn bệnh ấy hay phán định rằng liệu sự tan rã mang đậm dấu ấn của cá nhân chủ nghĩa đang tồn tại hiện nay có phải là phương thuốc cứu chữa hay không. Phần lớn chuyện này bắt nguồn từ ảnh hưởng của Ibsen, người viết kịch thì tài chứ làm triết thì chán hết chỗ nói. Tôi hiểu Nora trong Ngôi nhà Búp bê được cố ý xây dựng như một nhân vật phi lý; nhưng hành động vô lý nhất của cô lại rơi vào hành động quyết định sau cùng: than phiền rằng mình chưa đủ khả năng chăm sóc con cái, rồi ngay lập tức bỏ chúng lại rồi bỏ đi càng xa càng tốt, chỉ để… nghiên cứu chúng kỹ hơn (!).
Đây chính là hệ quả rõ rệt nhất của thứ tư duy phản khoa học và thói khinh suất các quy tắc xã hội – cái thói kinh suất đã vứt lại cho chúng ta một mớ hầm bà lằng toàn những quái thai. Không dưới hàng trăm, hàng ngàn lần tôi đọc được trên khắp các tiểu thuyết hay báo chí thời nay những luận điệu về quyền tự do chính đáng của giới trẻ hay về yêu sách thiếu chính đáng của người lớn trong việc kiểm soát con cái, về quan niệm rằng mọi linh hồn phải được tự do hay mọi công dân đều phải được bình đẳng, về sự ngớ ngẩn của quyền uy hay sự nhục nhằn của tuân phục. Ở đây, tôi không tranh luận trực tiếp về những vấn đề ấy. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc về mặt lập luận là, trong số vô vàn nhà văn và ký giả đó, chẳng một ai chịu đặt ra câu hỏi liên đới dù nó tuyệt đối hiển nhiên. Họ dường như không bao giờ nghĩ đến chuyện chất vấn ngược lại về nghĩa vụ đối ứng: nếu một đứa trẻ từ ngay từ khi lọt lòng đã có quyền xem thường cha mẹ, thì tại sao từ đầu cha mẹ chúng không có quyền coi thường con cái đi? Nếu ông Jones cha và cậu Jones con chỉ là hai công dân tự do bình dẳng, tại sao một công dân lại phải sống bám vào công dân khác trong suốt mười lăm năm đầu đời? Tại sao Jones cha phải bỏ tiền túi ra nuôi nấng, cho ăn cho mặc, cho chở cho che một kẻ hoàn toàn không có nghĩa vụ gì với ông ta? Nếu cô nàng trẻ trung xán lạn kia bảo mình không việc gì phải nín nhịn bà nội, người đã trở thành một gánh nặng, hà cớ gì trước kia bà nội (hay mẹ cô) phải chịu đựng cô ta ở cái thời cô ta chẳng xán lạn chút nào? Tại sao họ phải vất vả chăm sóc cô bé khi cùng lắm nó cũng chỉ góp được mấy câu nông cạn và thường chẳng đầu chẳng đuôi vào cuộc trò chuyện chung giữa họ? Tại sao Jones cha phải chu cấp đồ ăn thức uống miễn phí cho một kẻ khó ưa như cậu Jones con, nhất là trong cái quãng bồng quãng bế, quãng ngông quãng cuồng của cậu? Sao ông không ném quách đứa bé ra cửa sổ, hay ít nhất là đá đít thằng trẻ trâu ra khỏi nhà? Rõ ràng, chúng ta đang đối mặt với một mối quan hệ có thực, mối quan hệ này có thể bình đẳng, nhưng chắc chắn không phải là tương đồng.
Tôi biết có những nhà cải cách xã hội cố trốn tránh nan đề này bằng cách viện dẫn những ý niệm lập lờ về Nhà nước hay một thứ trừu tượng gọi là Giáo dục, rằng những thứ này sẽ thay thế chức năng làm cha mẹ truyền thống. Nhưng ý tưởng này, cũng tương tự như nhiều quan niệm của những người tự tin rằng khoa học là thứ vững như bàn thạch và không bao giờ suy suyển, thực chất chỉ là một ảo tưởng hão huyễn. Nó dựa trên một tín điều mới nổi lên và rất lạ lùng: niềm tin vào nguồn lực vô hạn của tổ chức. Họ cứ làm in như quan chức mọc lên như cỏ dại và sinh sôi như thỏ cái vậy! Người ta những tưởng có nguồn cung bất tận những viên chức ăn lương – và cả ngân sách để trả lương cho họ - rồi cứ thế giao phó cho giới chức trách toàn bộ phần việc vốn dĩ của ai người đó nấy làm, trong đó có việc nuôi dạy trẻ. Nhưng nhân loại không thể tồn tại bằng cách luân phiên giặt tã lót cho con cái nhau. Không thể có quân sư riêng cho từng công dân (ai sẽ đào tạo những quân sư ấy?). Máy móc không thể giáo dục cho con người; dù mai sau người ta có thể chế ra rô-bô thợ nề hay rô-bô quét rác, sẽ chẳng bao giờ có rô-bô giáo viên hay rô-bô bảo mẫu. Hệ quả thực tế của lý thuyết này là một người khốn khổ nào đó sẽ phải nhận việc coi sóc cả trăm đứa trẻ, thay vì như bình thường - mỗi người chăm sóc một số lượng con cái có chừng mực và vừa phải. Như hiện tại, người đó luôn được thúc đẩy bởi một thứ sức mạnh tự nhiên và họ không hề đòi hỏi được trả công - ấy chính là tình yêu ruột thịt dành cho con mình, thứ tình cảm ngay cả loài vật cũng có. Nếu cắt đứt sức mạnh tự nhiên ấy để thay bằng bộ máy quan liêu hưởng lương thì khác gì một kẻ ngốc nghếch chẳng biết tận dụng sức gió hay sức nước vốn dĩ miễn phí và vô hạn để quay cối xay mà lại đi trả tiền thuê người cho phí ra? Như vậy khác nào một gã điên giữa lúc trời mưa lại mang ô ra vườn tưới nước ngon lành?
Giờ đây, ta cần nhắc lại những lẽ thường tình này, bởi chỉ có cách đó mới giúp ta bắt đầu thấu hiểu cái nguyên do gia đình tồn tại – câu hỏi tôi đã đặt ra từ ngay đầu bài luận này. Tô tiển chúng ta đều quen thuộc với những chân lý ấy, những con người vừa tin vào mối tơ huyết thống, vừa tôn trọng sự liên kết của lý lẽ. Còn thời nay, thứ lý lẽ của chúng ta chỉ tuyền những mắt xích đứt gãy, và gia đình chúng ta phần lớn chỉ còn những thành viên vắng mặt. Dù sao đi nữa, đây mới chỉ là điểm khởi đầu ta cần chạm tới trước khi tiến hành thêm bất kỳ cuộc điều tra nào, chứ không phải cái mẩu thuốc tàn của những rối ren cá nhân, nơi Dick lên cơn bất mãn hay Susan bỏ nhà đi bụi theo ý mình. Nếu Dick hay Susan muốn phá hoại gia đình họ vì không thấy được lợi ích của nó, tôi xin nhắc lại điều mình đã nói rất rõ từ đầu: càng không thấy được lợi ích của thứ gì, tốt hơn hết ta nên giữ gìn thứ đó lại. Họ chẳng có quyền nghĩ đến chuyện phá huỷ nó cho tới khi đã thật tường tận công dụng của nó.
Nhưng gia đình còn phục vụ những chức năng khác ngoài chức năng hiển nhiên là đại diện cho một công việc xã hội thiết yếu được thực hiện bằng tình yêu thay vì lương hướng; và (có lẽ ta nên mạnh dạn kết nối sang luôn) có lẽ sẽ được đền đáp bằng tình yêu vì chẳng bao giờ được trả công bằng bạc tiền. Ở khía cạnh đơn giản này, ta rất dễ có cái nhìn phổ quát về tình hình. Hệ thống xã hội hiện hành, dù đang phải gánh chịu những lạm dụng thô bạo cùng bao chuyện xót xa trong bối cảnh thời đại và nền văn hoá công nghiệp, nó vẫn là một hệ thống bình thường. Sự ra đời của khối thịnh vượng chung cũng được tạo nên từ ý tưởng đó, khi nó là sự hội hiệp giữa nhiều vương quốc nhỏ, nơi một người đàn ông và một người đàn bà sẽ trở thành vua và hoàng hậu rồi thực thi quyền lực hợp lý dưới sự kiểm soát của lương tri cộng đồng, cho tới khi những người nằm dưới sự chăm sóc của họ đủ trưởng thành để xây dựng riêng cho mình những vương quốc tương tự và thực thi quyền lực tương tự[10]. Đó là cấu trúc xã hội đặc trưng của loài người, cổ xưa hơn bất kỳ cổ văn nào và có tính phổ quát hơn bất kỳ tôn giáo nào. Và mọi nỗ lực thay đổi nó chỉ là chuyện tầm phào và lố bịch không hơn.
Nhưng tổ chức nhỏ bé mang tên gia đình này còn có một lợi thế khác mà ngày nay chẳng ai coi ra, chứ đừng nói là coi nhẹ. Một lần nữa, chúng ta lại chứng kiến những ảo tưởng kỳ quặc tràn lan khắp các tác phẩm văn chương và báo chí đương thời. Những ảo tưởng ấy đã ăn sâu tới mức có thể nói rằng: một khi điều gì đó được lặp đi lặp lại cả ngàn lần như một chân lý rành rành, gần như có thể chắc chắn đó phải là một giả trá rành rành. Ở đây, ta cần đặc biệt lưu ý một luận điệu như vậy. Không thể phủ nhận có những lý lẽ chống lại lối sống gia đình và ủng hộ xu hướng tá túc trong khách sạn, những câu lạc bộ, ký túc xá, cư xá tập thể, v.v. hoặc ủng hộ lối sống được tổ chức theo mô hình các hệ thống thương mại lớn thời nay[11]. Nhưng điều thực sự kỳ quặc là người ta thường khẳng định rằng mục tiêu tối hậu của ly gia là giải phóng, là để được thêm tự do. Người ta thực sự coi sự thay đổi này là có lợi có sự tự do của họ.
Ai biết nghĩ chút thì hiểu ngay, trên thực tế, chuyện ngược lại hoàn toàn. Cơ cấu gia đình trong xã hội loài người vốn dĩ không hoàn hảo, bởi nó cũng chỉ là sản phẩm của con người. Nó không đạt đến tự do tuyệt đối - một khái niệm vốn dĩ nhập nhằng về nghĩa, huống hồ gì là thực hiện hoá. Nhưng xét về mặt số học đơn thuần, nó trao quyền kiểm soát tối hậu cho nhiều người hơn trong một số vấn đề và cho họ định đoạt các vấn đề đó theo sở thích của mình nhiều hơn so với các tổ chức khổng lồ đang thống trị xã hội bên ngoài – dù đó là hệ thống pháp lý, thương mại hay đơn thuần chỉ là xã giao. Chỉ xét riêng đến các bậc cha mẹ, rõ ràng số lượng phụ huynh luôn áp đảo so với cảnh sát, chính trị gia, giáo đốc tập đoàn hay chủ khách sạn. Như tôi sẽ phân tích sau, luận điểm này không chỉ áp dụng trực tiếp cho cha mẹ mà còn gián tiếp cho cả con cái. Nhưng mấu chốt nằm ở chỗ: khi thế giới bên ngoài tổ ấm giờ đây đang bị kiềm toả bởi kỷ luật cứng nhắc và lề thói hà khắc, chỉ còn bên trong gia đình mới thực sự là không gian cho cá tính và tự do. Bất kỳ ai bước ra khỏi cửa nhà đều buộc phải hoà vào dòng người tuôn đi cùng hướng, thậm chí phải vận đồ sao cho giống họ. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn lớn, ngày nay được tổ chức khác gì quân đội. Có người gọi đó là thứ quân phiệt ôn hoà không đổ máu, còn tôi cho rằng đó là thứ quân phiệt thiếu vắng những đức tính quân nhân. Dù sao, rõ ràng một trăm nhân viên ngân hàng hay một trăm cô phục vụ quán trà đều bị kiểm soát gắt gao hơn so với họ khi trở về nhà riêng hay phòng trọ - nơi họ được thoả sức treo tranh ảnh yêu thích hay ám đầy mùi khói thuốc lá rẻ tiền họ chuộng. Điều hiển nhiên trong phạm trù thương mại này cũng đúng với cả sinh hoạt xã hội. Trên thực tế, theo đuổi thú vui chỉ là chạy theo mốt. Mà theo mốt chẳng qua là tuân theo quy ước - chỉ khác ở chỗ ta liên tục tuân theo các quy ước mới hơn mà thôi. Các điệu jazz, những chuyến ngao du sơn thuỷ, yến tiệc xa hoa hay các phòng giải trí trong khách sạn chẳng hề dung chứa phong vị thực sự độc lập hơn so với các mốt trước đây là mấy. Nếu một tiểu thư giàu có muốn làm điều mọi tiểu thư giàu có khác làm, cô sẽ thấy vô cùng hứng thú – đơn giản vì tuổi trẻ vốn vui và xã hội cũng thế. Cô sẽ tận hưởng sự hiện đại y hệt như bà nội thời Victoria của cô từng hưởng thụ thời Victoria. Chẳng sao cả, nhưng đó là cái thú của sự tuân thủ, không phải tự do. Việc giới trẻ ở các thời đại tụ tập ở một mức độ vừa phải và hào hứng bắt chước nhau là hoàn toàn lành mạnh. Nhưng thực hành đó thực sự không đem lại điều gì mới mẻ, tự do thì lại càng không. Đứa con gái thích cạo trọc đầu, đánh phấn mũi và mặc váy ngắn sẽ thấy thế giới đã đâu vào đấy dọn đường sẵn cho mình và sẽ gieo mình hứng khởi vào dòng người đang diễu. Nhưng một đứa con gái thích để tóc dài chấm gót, đeo đồ trang sức sặc sỡ kiểu man di và mặc váy dài lê thê (hoặc tệ nhất: để mũi mộc) vẫn nên thực hiện những sở thích ấy trong không gian riêng. Nếu Nữ Công tước thực sự muốn chơi trò nhảy cóc, bà không nên đột ngột tứng như ếch giữa phòng khiêu vũ khách sạn Babylon trong bối cảnh nơi này đang chật cứng năm mươi cặp vũ sư điêu luyện trình diễn điệu nhảy mới để hướng dẫn đám đông. Tốt hơn cả là Nữ Công tước để dành màn nhảy cóc của mình về đại sảnh ốp gỗ sồi ở Lâu đài Fitzdragon rồi hẵng biểu diễn trước sự thán phục của bạn thân thì sẽ thoải mái hơn nhiều. Còn nếu vị Giáo trưởng nhất quyết phải trồng cây chuối cho bằng được, những động tác ấy sẽ bội phần uyển chuyển nếu ông thực hiện trong không gian yên tĩnh của tư dinh thay vì cắt ngang chương trình giải trí xã hội để gây quỹ từ thiện để lên cơn dốc ngược.
Nếu chuyện kinh doanh và giao tiếp xã hội đã cứng nhắc vô hồn, dĩ nhiên chuyện luật pháp và chính trị cũng thế, không thể khác được. Một ví dụ: sự trừng phạt của nhà nước luôn phải áp dụng chung cho tất cả mọi công dân. Chỉ có cách xử phạt trong gia đình mới có thể linh hoạt theo từng trường hợp, vì chỉ ở đó, người phán xét mới hiểu rõ cá nhân mình xét xử. Nếu Tommy bé lấy trộm cái đê bạc từ giỏ may, mẹ nó có thể xử trí khác nhau tuỳ theo việc nó làm thế để đùa mẹ, vì ác ý, để bán lấy tiền hay hãm hại người khác. Nhưng nếu Tomkins anh lấy trộm đê bạc từ cửa hàng đầu ngõ, luật pháp không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ phải xử tội cậu ta theo đúng quốc pháp đối với phường đạo tặc. Chỉ gia quy mới có chỗ cho cảm thông và, đặc biệt, những bài học được dạy bằng sự hài hước. Tôi không nói gia đình luôn làm được điều này, nhưng nhà nước đừng bao giờ nên thử bắt chước. Vì vậy, ngay cả khi xem cha mẹ như những bậc quân vương thâu quyền quyết định và con cái chỉ là bề tôi quy phục, thì cái tự do tương đối nơi gia đình vẫn thường đem lại nhiều lợi ích cho kẻ bị trị kia. Miễn là còn trẻ con, chúng sẽ luôn phải phụ thuộc vào ai đó. Câu hỏi là nên để chúng phụ thuộc vào ai? Câu trả lời chính là những quân vương tự nhiên, như cách nói xưa, những người dành cho chúng thứ tình yêu ngoại nhân không bao giờ có được. Rõ ràng, cách sắp xếp rất đỗi tự nhiên này mang lại sự tự do nhất cho nhiều người nhất.
Tôi phản đối trào lưu ly gia vì nó thiếu sáng suốt. Con người không biết họ đang xây dựng thứ gì bởi họ không biết mình đang phá huỷ gì. Bằng chứng cho điều này thì vô số, lớn nhỏ đủ cả, từ chuyện ly hôn cho đến đi dã ngoại. Nhưng mỗi thứ đều là một sự chạy trốn hoặc lảng tránh riêng rẽ - đặc biệt là lảng tránh nhìn vào vấn đề cốt lõi. Con người nên quyết định một cách có tư duy liệu họ có muốn duy trì trật tự xã hội truyền thống hay không, hoặc có bất kỳ lựa chọn thay thế khả quan nào không. Trên thực tế, họ chỉ coi vấn đề chung như một hỗn hống hoặc hỗn hợp những vấn đề riêng. Ngay cả khi ra sức ly gia, cách đánh giá về chữ Gia của họ vẫn mang đầy tính gia trưởng[12]. Gia đình nào cũng thiển cận chỉ nhìn nhận riêng trường hợp của gia đình mình, kết quả là sự hạn hẹp và tiêu cực. Mỗi trường hợp đến lượt nó lại trở thành ngoại lệ cho một quy tắc không tồn tại. Gia đình, đặc biệt trong bối cảnh quốc gia hiện đại, cần được điều chỉnh và cải tổ đáng kể - cũng giống như hầu hệt mọi thứ trong xã hội ngày nay thôi. Nhưng cái nền nếp tư gia nên được bảo tồn, phá bỏ hoặc xây dựng lại; nó không nên bị để mục nát tới từng viên gạch chỉ vì không ai hiểu được ý nghĩa lịch sử của việc xây dựng lên nó. Ví dụ, những kiến trúc sư chủ trương tái tạo nên xây lại ngôi nhà với những cánh cửa rộng mở để thực hành đức tính hiếu khách xưa. Nói cách khác, tài sản riêng nên được phân phối đủ công bằng để có chỗ mà giao lưu, gặp gỡ. Nhưng lòng hiếu khách của một gia đình sẽ luôn khác với sự thù tiếp của khách sạn. Nó cá nhân hơn, độc lập hơn và thú vị hơn. Việc những chàng thiếu niên Brown và những cô Robinson thiếu nữ gặp gỡ, nhảy múa và làm trò ngốc nghếch theo thiên ý của Đấng Sáng Tạo chẳng có gì sai cả. Nhưng sẽ luôn có sự khác biệt giữa điều đó với việc nhà Brown tiếp đón nhà Robinson hoặc ngược lại. Và sự khác biệt đó có lợi cho sự đa dạng, cho cá tính, cho tiềm năng trí tuệ con người, hay nói cách khác, có lợi cho cuộc sống, tự do và sự nghiệp theo đuổi hạnh phúc.
Bùi Gia Bin dịch
[1] (ND) Ta nên hiểu sự khác biệt trong thái độ của Chesterton với hai thuật ngữ thường nhầm lẫn này. Chủ nghĩa nhân văn (Humanism) được Foerster chủ trương tập trung vào văn hoá, ý chí tự do và trở về truyền thống, mang thái độ kháng cự đối với chủ nghĩa khoa học thuần tuý. Mặt khác, chủ nghĩa nhân đạo (humanitarianism) thiên về lòng thương xót xã hội, từ thiện - thứ người viết coi là sáo rỗng vì thiếu nền tảng khoa học sâu sắc, chỉ là cảm xúc nhất thời và dễ bị thao túng làm khẩu hiệu.
[2] (ND) Nhìn chung, Chesterton là một người chống Freud. Ông chê bai tâm lý học hiện đại (ở thời ông, nổi bật nhất là hành vi luận của Freud) vì cho rằng nó nhìn nhận con người như cỗ máy được điều khiển bởi những bản năng tiềm thức: nó khiến con người mê muội, mất đi lý trí và đạo đức.
[3] (ND) Trong bản gốc, Chesterton đã có một cách chơi chữ vô cùng thú vị: “Shelly had adored Man, but Whitman adored Men.” Ông ám chỉ sự ngưỡng mộ của Shelly với khái niệm trừu tượng về con người như một thực thể lý tưởng và mang tính triết học trong khi Whitman thương quý từng cá nhân nhỏ lẻ với tất cả khiếm khuyết của họ (thơ của Whitman đầy những ca tụng các gương lao động, binh lính, kẻ tật nguyền,…). Điều này thể hiện hai xu hướng đối lập của hai tác gia trên: Shelly đại diện cho chủ nghĩa lãng mạn và Whitman đại diện cho chủ nghĩa hiện thực nhân văn, gần gũi với Chesterton và quan điểm Công giáo của ông hơn khi nhìn nhận mỗi cá nhân đèu thiêng liêng dẫu bất toàn.
[4] (ND) Quan điểm cộng hoà cũ ở đây vốn chỉ tư tưởng của các nhà cách mạng Mỹ (như Jefferson) và Pháp (Rousseau) khi họ bày tỏ sự tin tưởng rằng con người vốn tốt nhưng hay bối rối, hoài nghi, và sự phát triển của khoa học và dân chủ sẽ giảm bớt sự bất định của con người, giúp họ phát triển bản chất của mình. Trong khi Whitman kế thừa niềm tin này thì Huxley (một người theo chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế) lại phê phán, nhìn nhận rằng các nhà tự do chủ nghĩa đã ảo tưởng bỏ qua bản chất phức tạp của con người với những viện dẫn về xung đột, bất ổn thế giới liên miên đầu thế kỷ XX (đọc Mục đích và Phương tiện)
[5] (ND) Hertha – Algernon Charles Swinburne
[6] (ND) Cuối XVIII, đầu XIV chứng kiến sự suy đồi diện rộng của hàng giáo sĩ Âu châu. Khi các nhà Khai sáng như Rousseau chất vấn họ bằng chính lời dạy của Chúa Kitô, Giáo hội lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc phủ nhận giáo lý nền tảng, hoặc thừa nhận sự thất bại trong việc thực hành bác ái. Cách mạng Pháp 1789 đã lợi dụng điều này, biến các giá trị Kitô giáo thành vũ khí chống lại chính Giáo hội - một 'cuộc đánh cắp thần học' (Tocqueville). Nhưng như Chesterton chỉ ra, các nhà cách mạng đã không hiểu rằng 'bình đẳng' không thể tồn tại lâu dài khi bị tách khỏi nền tảng siêu nhiên. Tocqueville đồng quan điểm, đã chỉ ra dân chủ thiếu đức tin sẽ thoái hóa thành chủ nghĩa cá nhân hỗn loạn. Điều này giải thích tại sao Whitman (với niềm tin ngây thơ vào khoa học) và Mencken (với thuyết hoài nghi, hư vô) đều thất bại trong việc xây dựng một đạo đức bền vững. Lời cảnh báo của Chesterton là rằng chỉ Công giáo mới bảo vệ được phẩm giá con người trước chủ nghĩa duy vật.
[7] (ND) Ngày nay, chúng ta được biết đến chứng bệnh này dưới cái tên khoa học là múa giật vung Sydenham. Nguồn gốc tên chứng bệnh mà Chesterton sử dụng có liên quan đến vị thánh tử đạo Vitus ở thế kỷ IV, người được tôn kính trong Công giáo như thánh bảo trợ chống lại bệnh động kinh và rối loạn vận động. Chesterton không sử dụng tên hiện đại (dù cái tên này đã được mô tả hơn 3 thế kỷ ở thời ông) vì đồ văn học và liên tưởng.
[8] (ND) Matthew Arnold (1825-1888) là nhà thơ và phê bình văn hóa Anh, chủ trương xem “văn hoá” như một tôn giáo thay thế, tập trung vào giáo dục tinh hoa. Trong khi đó, Đức Hồng Y Manning (1808-1892) và mục sư Booth (1829-1912, người sáng lập Cứu Thế Quân) thu hút quần chúng bình dân bằng hoạt động xã hội và truyền giáo đại chúng. Chesterton đối chiếu hai mô hình: “văn hóa nhân văn” tinh tuyển của Arnold (ít người theo) với sức mạnh quần chúng của tôn giáo truyền thống, ngụ ý rằng chủ nghĩa nhân văn không thể cạnh tranh với tôn giáo về khả năng tập hợp đại chúng.
[9] (ND) Chesterton đưa ra hai ví dụ về hai vị thánh này để minh hoạ cho sự phản kháng có nguyên nhân rõ ràng, cao đẹp. Jeanne d'Arc (1412-1431) hiểu rõ váy dài phụ nữ thế kỷ XV là xiềng xích vô hình và hàng loạt các hệ luỵ khác một khi gia nhập quân đội dẫn quân Pháp cứu quốc nên mới vận độ nam nhân chứ không hề vô cớ hay vì sở thích cá nhân mà làm. St. Francis thành Assisi (1181-1226) vốn là con trai một nhà buôn vải giàu có, đã từng kinh qua giàu sang và cả trác táng, nhận thấy sự an yên thực sự lại nằm ở thứ khác nên quyết định hối cải mà đi hành khất, làm điều thiện. Cả hai đều phá bỏ vai trò mà xã hội áp đặt lên họ sau khi thấu hiểu tận cùng giá trị của chúng - khác hẳn thái độ bài truyền thống hời hợt mà Chesterton đang phê phán.
[10] (ND) Cesterton sử dụng ẩn dụ chính trị (vương quốc nhỏ - khối thịnh vượng chung) để khắc họa hai cấp độ quyền lực trong xã hội: (1) Gia đình như chế độ quân chủ thu nhỏ, nơi cha mẹ (vua/hoàng hậu) thực thi quyền lực mềm dựa trên tình thương và hiểu biết cá nhân; (2) Nhà nước (commonwealth) như vương quốc lớn hơn, hoạt động bằng quy tắc cứng nhắc. Sự tương phản này nhấn mạnh luận điểm cốt lõi của ông: gia đình là không gian tự quản đặc biệt - đủ linh hoạt để điều chỉnh theo từng cá nhân nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ lương tri rộng lớn hơn. Ẩn dụ còn gợi tính liên tục giữa các thế hệ (thành lập vương quốc mới), ngầm phê phán các ý tưởng cấp tiến muốn thay thế gia đình bằng thể chế tập trung.
[11] (ND) Ám chỉ các hình thức các nhóm xã hội sống chung mang tính thương mại hoá (khu đô thị dịch vụ, căn hộ cao cấp,…), nơi dịch vụ thay thế ruột rà máu mủ, biến tương tác giữa người và người thành quan hệ người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ.
[12] (ND) Chesterton cũng chơi chữ trong bản gốc với từ domestic này: “Even in being anti-domestic they are much too domestic in their test of domesticity.” Trong đó, anti-domestic là xu hướng ly gia, domestic là tư duy chủ quan, bó hẹp trong suy diễn cá nhân và domesticity là thể chế gia đình, chủ thể nhìn nhận. Câu dịch chỉ tái hiện một phần cách chơi chữ tài tình và ý nghĩa sâu sắc của tác giả.