Chesterton: Tại sao tôi là người Công giáo?
Hiếm có ai bút chiến như Chesterton.
Rất nhiều tác giả có phong cách hư cấu khác xa phong cách khi luận đàm (nhất là khi đang phản bác, bác bỏ), trong đó, cái sau luôn thuộc mặt nghiêm túc hơn, trang trọng, sâu cay hơn. Chesterton thì không thế, các tác phẩm phi hư cấu của ông thậm chí còn dí dỏm và nghịch lý hơn hư cấu. Ông đem đến thể loại này vẻ nhẹ nhàng, đơn giản trong bối cảnh mọi người khác đều muốn dùng lời lẽ trào lộng để lên gân nắn cốt đối thủ bằng tư tưởng của mình. Và nếu chuỗi lô-gích đóng vai trò chủ đạo trong những luận điểm của các tiểu luận gia khác, sự mâu thuẫn, tương phản và phân rã ý tưởng là xương sống, là phương tiện lập luận và biểu đạt trong phong cách của Chesterton.
“Tại sao tôi là người Công giáo” tập hợp ba mươi lăm bài luận đáp trả những cuộc bút chiến nổi bật ở Mỹ và Anh có liên quan đến vấn đề Công giáo được đăng rải rác trên nhiều tạp chí và tập san Công giáo The Universe. Trước hết, cuốn sách được viết để Chesterton bảo vệ cho đức tin của mình trong thời đại mà những đồng nghiệp của ông cứ dạt hết về Chủ nghĩa hiện đại. Đây là một bản tuyên ngôn tôn giáo, đúng như tựa chính của tập sách: ‘The Thing’ – lấy cảm hứng từ thuật ngữ để chỉ những thứ đặc biệt thiêng liêng mà một ứng cử viên phải xưng trong Lễ kết nạp thành viên của Câu lạc bộ Trinh thám.
Tập sách mỏng có vẻ cá nhân và tuyên truyền giáo lý này thực chất sẽ dựng lại hoàn hảo phong cảnh đầy chuyển biến của giới trí thức Anh Quốc thế kỷ hai mươi thông qua một vấn đề mà tất cả họ đều quan tâm và ra sức tranh luận: tôn giáo. Thành thử, sự ra đời của nó không tránh khỏi hứng chịu rất nhiều chỉ trích, kể cả ở những người đã mến mộ Chesterton. Họ buộc tội tác giả đã mang việc tuyên truyền Công giáo vào các tác phẩm của mình và khẩn thiết kêu gọi sử dụng lý trí trong tôn giáo. Còn tập Tại sao tôi không phải là Kitô hữu của Bertrand Russell dường như lại trình bày một tư tưởng hoàn toàn trái ngược (họ sẽ có đối đầu trực tiếp, nhưng đó là chuyện của năm 1935). Nhìn chung, trong khi Russell tìm kiếm sự thật và hiểu biết thông qua một lăng kính khoa học, logic, trừu tượng và tách biệt khỏi cảm xúc, thì Chesterton lại tìm thấy chân lý trong sự phức tạp, nghịch lý của cuộc sống, trong đức tin Công giáo và trong sự kết hợp của lý trí với niềm vui, tiếng cười và cảm xúc. Mâu thuẫn của họ không chỉ dừng lại ở các cuộc tranh luận cụ thể mà còn phản ánh sự khác biệt sâu sắc trong cách họ nhìn nhận bản chất của sự thật, đạo đức và vai trò của con người trong vũ trụ.
Tuy nhiên, người ta sẽ bỏ qua rất nhiều nếu chỉ nhìn nhận sự quan trọng của “Tại sao tôi là người Công giáo?” ở những luận điểm mà nó trình bày, mà không nhìn được cách Chesterton xây dựng những luận điểm đó. Ông không chứng minh đức tin bằng lý lẽ thuần túy, cũng không đòi hỏi sự đầu hàng vô điều kiện của lý trí. Thay vào đó, ông chỉ ra rằng: những người tự nhận là duy lý thường mắc kẹt trong chính định kiến của mình, trong khi Công giáo, thứ bị họ gán là đánh cắp lý trí, sự sống, thân thể của con người, lại chính là hệ thống tư tưởng hiếm hoi còn giữ được tính nhất quán giữa lý trí và niềm tin. Chesterton không tranh luận để thắng (dù ông đã làm điều đó rất dễ dàng, qua nhiều lần giáp chiến với G. H. Wells, Bernard Shaw,…); ông tranh luận để cho thấy, ngay cả khi đối thủ của ông đắc chí về sự chiến thắng trong công cuộc chống Kitô của mình, chính lập luận họ sử dụng sẽ vô nghĩa nếu không đưa nó trở về dưới ánh sáng Kitô giáo. Đó là lý do tại sao, dù thế giới hiện đại có gạt bỏ ông đi chăng nữa, những vấn đề ông đặt ra vẫn cứ quay lại, như một câu hỏi chưa bao giờ thực sự được trả lời.
Hilaire Belloc đã mô tả “Tại sao tôi là người Công giáo?” như là "tác phẩm hay nhất của ông ấy. Trong tất cả các cuốn sách của ông, nó là cuốn sâu sắc nhất và rõ ràng nhất". Tuy nhiên, Belloc cũng cho rằng giá trị nội tại của nó không nhất thiết sẽ dẫn đến thành công về mặt phê bình hay đón nhận. Người bằng hữu tin rằng, cuốn sách là một loại thuốc thử để đánh giá thời đại: nếu thế hệ hiện tại đọc nó, điều đó có nghĩa là nước Anh đang bắt đầu suy nghĩ; nếu nó bị lãng quên, tư duy đang suy tàn.
Mấy lời phi lộ
VIỆC CHO IN những bài tiểu luận này không tránh khỏi sự phản đối với lý lẽ rằng chúng chỉ mang tính nhất thời và bút chiến. Nói cách khác, chúng sẽ khiến những nhà phê bình ngoài kia một mặt gạt phăng đi vì phù phiếm, một mặt ghét bỏ vì quá nghiêm túc. Thoả ước ngầm có chiều phiến diện quy định thứ gì là phải phép, vốn đụng chạm sang cả những vấn đề trong tôn giáo, đã từng thống trị cho đến gần đây, trước khi nó nhường chỗ cho một cuộc chiến nhìn chung cũng phiến diện không kém. Nhưng cái gọi là thỏa ước ấy vẫn có thể được viện dẫn, hệt như mọi sự khủng bố về thẩm mỹ thường được viện dẫn, để chống lại thiểu số. Chúng ta ai nấy đều đã quá quen với hình ảnh một vị đại tá già thân yêu phe Bảo thủ đỏ mặt thề nguyền sẽ không dây vào chính trị, nhưng việc rủa xả lũ Xã hội chủ nghĩa chết bầm kia xuống địa ngục thì nào phải chính trị. Chúng ta ai nấy đều cảm thông với bà lão đáng kính, ngụ vùng Bath hoặc Cheltenham, người chưa một lần nghĩ đến việc mạ lị ai, nhưng lại khẳng định rằng tụi Ly giáo thật đáng tởm và đám bần nô người Ái Nhĩ Lan thì thực sự hết thuốc chữa[1]. Bằng chính xác tinh thần của hai con người tuyệt vời ấy, cuộc tranh luận tôn giáo thời nay đi vào phạm vi của Báo chí, thứ luôn tự cho mình là đại diện của một “Đức tin Tiến bộ” và một “Tôn Giáo Khoan Dung và Đẫm Tình Huynh Đệ.” Những cây bút thời nay lúc nào cũng có những lời lẽ bao la về tình đoàn kết và sự tiếp đãi nồng hậu dành cho những kẻ sẵn sàng từ bỏ tín ngưỡng của mình, còn những ai dám tận trung đắc đạo, họ hành xử thô lỗ thế nào cũng được. Ngài Tổng Giám mục Nhà thờ St. Paul ung dung gọi Giáo hội Công giáo là một tập đoàn bội tín và khát máu; ông H. G. Wells thì được phép ví Ba Ngôi cực thánh là màn múa may thiếu trang nghiêm; còn Đức Giám mục Birmingham thì so sánh Bí tích Thánh thể như bữa tiệc máu man rợ. Người ta thường phủi đi, cho rằng những lời lẽ ấy chẳng phương hại gì tới sự hoà bình và hoà hợp địa cầu mà nhà nhân đạo nào cũng hằng mong ước; chẳng có thứ gì trong các ví von ấy đụng chạm tới nghĩa tình huynh đệ hoặc những mối giao cảm từ trước đến giờ vẫn cố kết nhân loại. Chuyện ấy thì ta có thể yên tâm, bởi chính các cây bút trên đã một mực khẳng định mục đích duy nhất của họ chỉ là kiến tạo một không khí hào phóng và bác ái. Thành thử, nếu chẳng may sự hoà hợp thi thoảng có hơi xáo động, nếu đặc sản không thiếu được của những đại hội liên hoan anh em kết đoàn ấy là những bát nháo tào lao và cãi vã tầm phào, thì lỗi phải quy hết về vài cá nhân nhỏ lẻ ưa gắt gỏng và thích gây sự – những kẻ không thể lấy những miêu tả về Ba Ngôi, Bí tích và Giáo hội kia làm an ủi hay thỏa đáng cho các tư tưởng họ mang.
Mọi tuyên bố kiểu ấy đều giải thích rất tường minh rằng ai thông minh sẽ chấp nhận chúng (trừ những ai không chấp nhận). Nhưng đối với tôi, với kinh nghiệm chính sự của bản thân, tương tự như lúc trước tôi đã từng dạn dĩ mà đặt nghi vấn lên thứ quyền hạn mà gã đại tá phe Bảo thủ đã tự trao cho mình khi nguyền rủa phe chính trị đối đầu rồi chối đây đẩy rằng đó không phải chuyện chính trị hay thứ quyền hạn mà bà lão kia đã tự trao cho mình khi vừa rêu rao mình yêu xiết bao đại đồng nhân loại, nhưng cũng lại vừa ghét xiết bao dân Ái Nhĩ Lan, giờ đây, tôi cũng hoàn toàn không thể thừa nhận cái quyền mà những tín đồ Cơ đốc cấp tiến nhất, rộng lượng nhất đã tự trao cho mình khi họ ra rả là đi tìm cái hay, cái đẹp trong mọi tôn giáo, nhưng chỉ thấy ở tôn giáo tôi toàn là cái dở, cái xấu. Tôi hiểu rất rõ việc mình công khai những lời đáp trả kiểu này, nhất là những phản bác trực diện trong các cuộc luận đàm thực sự, sẽ bị nhiều người cho là khiêu khích và xấc xược.
Bỏ quá cho tôi cái nết cổ lỗ: thành thực mà nói, tôi xem chuyện này là một vấn đề danh dự. Tôi trước giờ sẵn tính nhu mì, ưa thảo luận hơn là gây gổ và luôn dốc hết lòng gìn giữ hoà khí với những người không cùng quan điểm. Tôi yêu nước Anh của hiện tại, không phải nước Anh của thời đã qua hay nước Anh trong những kỳ vọng; tôi thích nhiều điều thô lậu, từ truyện trinh thám đến việc đứng ra bảo vệ các tửu quán; tôi đã nhiều phen chọn về phe đa số, chẳng hạn trong cuộc vận động yêu nước thời Đại chiến. Tôi hoàn toàn có thể dùng những đồng điệu ấy để chiều lòng công chúng; và, trên thực tế, chẳng gì sung sướng cho bằng được suốt đời viết truyện trinh thám, nếu không tính chuyện phải đọc chúng suốt đời. Nhưng nếu trong cuộc sống quá may mắn và thậm chí là biếng nhác này, tôi chứng kiến đồng đạo mình bị sỉ vả chỉ vì dám đứng lên bảo vệ cho đức tin xác tín của mình, tôi sẽ thấy hổ thẹn lắm nếu không cùng họ chống chọi những gièm pha ấy. Bạn tôi nhiều kẻ đã sống thật nhọc nhằn trong khi tôi lại được ban cho cuộc đời quá dễ dàng, thành thử việc được nếm trải cùng nhau một cuộc tranh luận kỳ quặc như thế này té ra lại là một ơn huệ. Nếu Tổng Giám mục Nhà thờ St. Paul thực sự tin – như lời ngài đã chắc như đinh đóng cột – rằng những lão thành sùng đạo và tận tuỵ nhất của Giáo hội Công giáo, khi họ công nhận (một cách thực tế, thậm chí miễn cưỡng) thời hiện đại này có phép lạ tức là họ đã nhúng tay vào một “trò phỉnh gạt làm tiền thiên hạ,” thì tôi thà ngài buộc tội cả tôi, lẫn những người đáng kính hơn tôi, rằng chúng tôi đang trở thành những kẻ lừa đảo để kiếm chác những đồng tiền dơ bẩn còn hơn[2]. Nếu từ “dòng Tên” (Jesuit) ngày nay vẫn bị dùng như một đồng nghĩa của “kẻ nói láo”, tôi kỳ thực cách dịch hồn nhiên ấy cũng sẽ được áp dụng cho từ “nhà báo”, cái nghề phù hợp với từ đó hơn nhiều. Nếu vị Tổng Giám cáo buộc người Công giáo, chỉ vì họ tín Công giáo, rằng họ muốn những người vô tội phải chết trong tù (như ngài đã nói), thì tôi thà ngài ném cho tôi một vai nào đó trong vở kịch đẫm máu và kinh người ấy, biết đâu nó lại thành đề tài cho một mẩu truyện trinh thám nào đó cũng nên. Tóm lại, chính vì tôi đồng cảm và đồng lòng với những huynh đệ Kháng Cách và những anh em tin vào thuyết bất khả tri ở đất nước này 99 trên 100 vấn đề, nên tôi nhất định coi việc đứng đây đối diện với những lời buộc tội của họ là vấn đề danh dự, nếu họ thực sự có điều gì để buộc tội. Tôi xin cáo lỗi trước nếu tập sách bé mọn này có vẻ gây tranh cãi về những chủ đề mà ai ai cũng được phép tranh luận ngoại trừ chúng tôi. Nhưng e rằng không còn cách nào khác nữa. Và dù tôi có cam đoan với độc giả rằng mình đã cố gắng viết ra nó với một tinh thần bác ái thuần tuý, thì cũng rất có thể, sự bác ái ấy cũng có chiều phiến diện, hệt như chính cuộc tranh cãi này. Nhưng dù sao đi nữa, cuốn sách sẽ thay tôi biểu đạt thái độ của mình trước trận bút chiến; và rất có thể mọi thứ nó viết đều sai, ngoại trừ một điều: nó đúng.
1. Phê bình bằng Hoài nghi
ĐỦ BA NGƯỜI mới thành một cuộc cãi vã. Vai người hoà giải cũng không thiếu được. Cơn thịnh nộ của người ta chỉ có thể chạm tới mức tối đa khi một người bạn chung của hai phe đối lập khéo léo chen vào. Tôi cảm thấy mình đang vào đúng vị trí đó trong cuộc tranh luận dạo gần đây ở nước Mỹ giữa tờ Mercury mà ông Mencken đang làm bỉnh bút và những người Thanh giáo; và tôi xin thừa nhận điều này ngay từ đầu với sự bối rối đan xen sợ hãi. Tôi hiểu trọng tài có thể bị xé xác. Tôi biết rằng một trọng tài tự phong lại càng đáng bị xé xác hơn. Và trên hết, tôi biết điều đó lại càng đúng khi đụng tới bất cứ thứ gì dính dáng tới quan hệ quốc tế. Có lẽ loại phê bình đúng đắn duy nhất là tự phê bình. Điều này xem chừng đúng với để nói về các quốc gia hơn các cá nhân. Và tôi hoàn toàn hiểu ý thức được rằng, với cùng những đề xuất hệt nhau, nhiều người Mỹ sẽ tiếp thu nếu chúng phát ra từ người đồng hương anh em của họ và phủi phăng đi nếu nó tới từ miệng một kẻ ngoại quốc. Tôi chỉ có thể biện minh rằng mình đã cố gắng tuân theo nguyên tắc ái quốc tuyệt vời gọi là “Hãy nhìn nước Anh trước nhất”, thứ cũng có thể được diễn giải một cách ái quốc không kém thành “Hãy nhằm nước Anh mà chỉ trích trước nhất.” Tôi đã làm việc này đủ lâu để nhận ra rằng nước Anh đang dây vào những thứ tệ nạn mà nước Mỹ nhìn chung đã né được tương đối, trong đó, thứ tệ nạn rõ ràng nhất, như cách ông Belloc đã khiến nhiều người ngạc nhiên khi chỉ ra, chính là thói tôn thờ Tiền bạc đến rành rành, tuân phục, dị đoan và đầy thần bí.
Nhưng thứ khiến tôi bức bối nhất trong trận bút chiến lần này chính là cảm xúc đồng cảm không nhỏ của mình dành cho cả hai phe. Tôi sẽ cố gắng che giấu hết mức có thể cái thái độ gây tức giận đó bằng việc sẽ khéo léo phân phát những lời bỉ bôi nhắm vào những thứ mà tôi thực sự cho là tệ hại, đồng thời cũng giả vờ kinh tởm một cách điệu đà từng khía cạnh của mỗi lập luận phản bác. Nhưng nói trắng ra, nếu tôi là công dân mỹ, tôi sẽ thường xuyên hoà vào niềm vui khi American Mercury hạ gục được ai đó hoặc thứ gì đó; và bên cạnh lò sưởi con con mà vô can của mình, nếu American Mercury có bị hạ đo ván thì tôi cũng chẳng tội gì mà không có chút hả hê. Nhưng tôi dám khẳng định rằng cả hai phe trên đều cần một chuẩn mực tinh thần vững chãi, nhất là bên chủ trương phá dỡ tượng thần, ngay cả khi mục đích của họ là tranh luận trí tuệ thuần tuý – cái chuẩn mực đó chính thế giới thời nay cũng khuyết thiếu. Nói một cách hình tượng, điều đó cũng giống như việc tôi nói rằng tôi rất thích những nhà cách mạng, nhưng không mấy ưa những kẻ hư vô. Bởi như đúng cái danh xưng đã của họ đã ám chỉ đấy, bọn hư vô thì nổi loạn làm gì.
Về điểm này, chỉ cần viện đến bài viết cực kỳ thông tuệ, tinh tế và am tường của ông T. S. Eliot[3] thôi là đủ – đặc biệt câu then chốt khi ông bảo Giáo sư Irving Babbitt (người cũng thừa nhận mình đang cần chút nhiệt huyết) rằng nhiệt huyết không phải thứ ta muốn có là được. Nhân tiện, tôi nghĩ mình biết thứ chúng ta thực sự cần là gì. Giáo sư Babbitt vốn uyên áo; còn bản thân tôi vốn tiếng La–tin rất hạn hữu, tiếng Hy Lạp thì càng hẻo hơn nữa. Nhưng ngần ấy vẫn đủ để hiểu nghĩa của âm tiết thứ hai trong từ nhiệt huyết (enthusiasm), và tôi biết chính nó là chiếc chìa khoá tháo gỡ cuộc tranh luận này, cùng mọi cuộc tranh luận khác[4].
Tôi xin phép lấy hai ví dụ về điểm mình đồng tình với cả hai phe. Tôi thực lòng ngưỡng mộ ông Mencken, không chỉ vì sự hoạt bát và trí tuệ nơi ông, mà còn bởi mãnh lực, đôi khi bạo lực, trong ngòi bút của ông. Tôi hết lòng tán thưởng thái độ khinh bỉ và căm ghét của ông đối với thứ gọi là “Sự Phục Vụ” (Service); và tôi cho rằng ông đã chi ra một sự thật lịch sử khi tuyên bố, trích tờ The Forum: “Khi một lũ môi giới bất động sản, bán trái phiếu và đại lý ô tô tụ tập khóc lóc cho thứ gọi là ‘Sự Phục Vụ,’ chẳng cần đọc Freud cũng biết sắp có đứa bị lừa.” Tôi không hiểu tại sao ông không cứ nói toẹt ra cho rồi, ai lừa đảo thì cứ nói trắng ra là lừa đảo, có sao đâu. Ai trách được khi ông dùng những từ ngữ thô tục để nói về những thứ thô bỉ đâu. Nhưng tôi cũng muốn đồng thời chỉ ra hai điểm mà triết lý cự tuyệt của chính ông lại khiến lời phê bình của ông trở nên cạn cợt. Thứ nhất, rõ ràng lời châm biếm đó sẽ vô nghĩa hoàn toàn nếu lừa đảo không được quy là tội. Và cũng rõ như ban ngày rằng, nếu ta coi nó là tội, ta sẽ lập tức rơi vào vực thẳm của ‘chủ nghĩa đạo đức’ và ‘sùng đạo.’ Thứ hai, ít hiển nhiên hơn nhưng cũng quan trọng không kém: bản năng hướng thiện ông dùng để phản đối thứ đạo đức giả nhờn nhợt ấy thực ra không giúp được ông thực sự thấu hiểu cốt lõi của sự giả dối đó mấy.
Thực ra, vấn đề của tín điều “Sự Phục vụ” nằm ở chỗ, giống như nhiều khái niệm hiện đại khác, nó tôn thờ cái trung gian mà quên đi cái tối hậu. Nó từa tựa thứ ngôn ngữ rỗng tuếch của những kẻ nhấm nhẳng luôn mồm rêu rao về “Hiệu suất” nhưng không bao giờ phê phán “Kết quả.” Tội lỗi của “Sự Phục vụ” cũng giống như tội lỗi của Satan vậy: cả hai đều cố gắng đứng hàng đầu trong khi chúng chỉ có thể xếp hàng hai. Cái từ “Sự Phục vụ” đã đánh cắp chữ cái viết hoa linh thiêng từ chính thứ mà nó được cho là đã phục vụ[5]. Phục vụ Thượng Đế là hữu lý, phục vụ con người còn gây tranh cãi; nhưng phục vụ “Sự Phục vụ” thì hoàn toàn vô nghĩa. Phục vụ Thượng Đế ít nhất là phục vụ một tồn tại lý tưởng. Dù Ngài có là một tồn tại tưởng tượng, Ngài vẫn là một tồn tại lý tưởng. Lý tưởng ấy mang theo những thuộc tính rõ ràng, thậm chí cả những giáo điều như chân lý, công lý, lòng trắc ẩn, sự thanh khiết, v.v.. Thế nên phục vụ nó, dù không hoàn vẹn, vẫn là phục vụ một khái niệm nhất định về sự toàn mỹ. Nhưng kẻ nào chạy ào xuống phố, vung tay múa chân và đòi hỏi phải có thứ gì đó hoặc ai đó để mình phục vụ, rốt cũng sẽ lao đầu một sàn giao dịch lừa đảo hay sào huyệt của bọn cho vay nặng lãi, rồi hăm hở phục vụ chính chúng. Từ đó mới nảy sinh ý niệm kinh khủng rằng sự siêng năng, đáng cậy, đúng giờ và năng kinh doanh là điều tốt; rằng việc sẵn sàng phục vụ các thế lực trần gian lại là một kiểu đức tính Cơ đốc[6]. Đó mới là lập luận cần thiết để chống lại “Sự Phục vụ,” chứ không phải lời nguyên rủa “Sự Phục vụ” mà ông Mencken đã hầm hố cao hứng ném ra công chúng. Nhưng lập luận nghiêm túc này không thể trình bày mà không một lần nữa đặt ra câu hỏi mang tính cốt lõi: liệu nhân loại có nên phục vụ bất cứ thứ gì không và liệu rằng họ có nên cố gắng xác định rõ thứ mình muốn phục vụ là gì không? Tất cả những thứ ngớ ngẩn tương tự “Sự Phục vụ”, “Hiệu suất”, “Tính Thực tiễn” đều thất bại vì chúng tôn thờ phương tiện chứ không phải cứu cánh. Nhưng xét cho cùng, vấn đề vẫn nằm ở chỗ liệu rằng chúng ta có thực sự muốn tôn thờ một cứu cánh không, đặc biệt là một cứu cánh đúng đắn.
Xin dẫn tiếp hai đoạn trích tiêu biểu khác từ bài viết của ông Mencken, thứ sẽ cho ta thấy sự tự mâu thuẫn đến lạ lùng của mình. Một mặt, ông dường như khẳng định rất rõ ràng tính chất riêng tư và chủ quan của phê bình, ông biến nó thành một hành động cá nhân và gần như vô trách nhiệm: “Nhà phê bình, xét cho cùng, chỉ đang cố gắng thể hiện chính mình; anh ta chỉ đang cố gắng đạt được khoái cảm khi thể hiện chức năng của mình, như một căng thẳng được giải toả, tựa hồ đạt được sự giải phóng trong cảm xúc, thứ mà Wagner đã đạt được khi viết Die Walküre và một con gà mái đạt được mỗi khi nó đẻ trứng.” Tự điều này hoàn toàn nhất quán trong chừng mực của nó; nhưng không may là ông Mencken dường như lại tiếp tục một ý vả bôm bốp với ý đó. Sau đoạn trên, ông đã bùng nổ trong một bài ca khải hoàn vì giờ đây nước Mỹ không chỉ có phê bình, mà còn có tranh luận: “Giờ đây, lần đầu tiên sau nhiều năm, có sự xung đột trong phê bình ở nước Mỹ,… tai bị cắn đứt, mũi hộc máu. Có những cú thoi đấm vào trên lẫn dưới thắt lưng.”
Nói đi cũng phải nói lại, lập luận của ông ta về sự xuất hiện của tranh luận cũng có thể có lý; nhưng nó lại hoàn toàn đối đầu với lập luận của ông về sự tự biểu hiện của sáng tạo. Nếu nhà phê bình phê bình chỉ để tự khiến mình hài lòng, thì việc nó không làm hài lòng người khác cũng đâu có gì đáng quan tâm. Tha nhân hoàn toàn có quyền nói điều ngược lại để tự hài lòng mình cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện với bản thân. Nhưng họ không thể tranh luận với nhau vì họ không thể so sánh với nhau được. Sự so sánh giữa họ là bất khả bởi giữa họ không có thước đo chung. Tôi hay bất kỳ ai khác đều không thể tranh luận văn chương với ông Mencken, bởi không có cách nào để phê bình sự phê bình, ngoại trừ việc hỏi xem nhà phê bình có thoả mãn với mình chưa. Và tại đây, cuộc tranh luận vừa bắt đầu đã kết thúc: ai cũng chắc cú ông Mencken đã thoả mãn với những tranh biện của mình.
Nhưng để không biến ông Mencken thành nạn nhân của argumentum ad hominem (lối tranh biện công kích cá nhân), tôi sẽ đưa thử nghiệm về một thân xác thấp kém hơn, đó là chính bản thân tôi đây, và nguyện hiến mình cho cuộc mổ xẻ. Tôi dám chắc, trong sự nghiệp phê bình của mình, phần lớn tôi viết bằng tâm trạng tự biểu hiện của mình – và đúng thật là việc tự bộc lộ cái tôi đem lại cho tôi cảm giác thoả mãn nhất định. Tôi thường chọn nói về những thứ mình có những cảm xúc rõ ràng về chúng – chẳng hạn như triết lý của ông Dreiser, thứ vốn đã được nhắc đến nhiều hơn một lần trong cuộc tranh luận này. Viết những dòng sau, cái tôi trong tôi mới được vỗ về, mới khoan khoái làm sao:
“Ông ta miêu tả thế giới như thể một ảo giác nhạt nhẽo và xám xịt của một người mắc chứng đầy bụng, chưa đủ rực rỡ để được gọi là ác mộng; bốc mùi, nhưng thậm chí còn chưa thối rữa đủ mạnh; chỉ nồng nặc mùi khí độc ứ đọng từ những thí nghiệm hoá học ngu ngốc của lũ học trò bẩn thỉu, hay tính thậm thò – loại trẻ con ưa hành xác những con mèo trong xó tối; nhũn nhẽo và èo uột như loài giun; chậm chạp và nặng nề đến mức phát tởm, như một con sên bị kết án làm sên vĩnh viễn; tuyệt vọng, nhưng không phẩm hạnh; báng bổ, nhưng không can đảm; không trí tuệ, không ý chí, không tiếng cười hay niềm hân hoan; già đến mức không chết được, điếc đến mức không thể ngừng nói, mù đến mức không đứng lại được, ngu đến mức không bắt đầu lại được, chết đến mức không giết nổi, thậm chí còn không đủ tư cách để bị nguyền rủa, bởi qua bao thế kỉ miệt mài, nó vẫn chưa đạt đến tuổi dùng được não.”
Đấy, cảm nhận của tôi đấy; và việc trút bỏ cảm xúc chắc chắn mang lại cho tôi sự thoả mãn. Tôi đã tống khứ cục tức ra khỏi ngực. Tôi đã đạt đến sự giải phóng cảm xúc. Tôi đã đẻ được một quả trứng. Tôi đã đẻ ra một bài phê bình, bài phê bình thoả mãn mọi định nghĩa về phê bình của Mencken. Tôi đã làm xong một chức năng. Nói xong tâm trạng thoải mái ghê, cảm ơn nhiều.
Nhưng những cảm xúc của tôi sẽ tạo ra những ảnh hưởng gì đối với ông Dreiser hay bất kỳ ai đi ngược lại với tiêu chuẩn chân lý của tôi, tôi không thấy được. Làm sao mong đợi ông Dreiser sẽ chấp nhận lời bỉ bôi của tôi rằng thứ hoá học của ông ta là trò lăng băm được (thứ lang băm mà theo tôi là thiếu đi sự sống động mà ta có thể chính đáng mà mong đợi từ phường lang băm). Ông ta không nghĩ thuyết định mệnh là thấp hèn và mù quáng như tôi nghĩ. Ông ta không coi sự tuyệt vọng tự thân nó là một tội lỗi, thậm chí là tội tồi tệ nhất như những anh em Công giáo chúng tôi vẫn tin. Ông ta không nghĩ báng bổ là thứ kiêu ngạo nhỏ nhen và ngớ nhẩn nhất trên đời như không chỉ tôi mà những anh em ngoại đạo cũng nghĩ. Đương nhiên, ông ta không cho rằng nhận thức của chính mình về cuộc sống thực sự là một nhận thức sai lầm, đem ra so với đời thực chẳng khác gì lấy một mặt sàn điêu tàn lát simili đi so với rẻo đất hoa cỏ chen chúc, như tôi vẫn hằng nghĩ. Nhưng ông ta sẽ không là nó lệch lạc đi chỉ vì nó điêu tàn. Có lẽ ông ta sẽ thừa nhận nó ảm đạm, nhưng cũng đồng thời cho rằng sự ảm đạm là đúng lẽ. Có lẽ ông ta sẽ thừa nhận mình vô vọng, nhưng không thấy gì sai khi vô vọng. Những lời tôi đưa ra như buộc tội ông, rất có thể được ông xem như khen ngợi.
Trong hoàn cảnh như thế, tôi không thực sự hiểu làm thế nào để tôi, hay bất kỳ ai cùng quan điểm với tôi, có thể tranh luận với ông Dreiser. Dường như tôi hoàn toàn không có cách nào để chứng minh ông ta sai, bởi ông ta không chấp nhận quan niệm của tôi về cái gì là sai. Cũng chẳng có cách nào để ông ta chứng minh mình đúng, bởi tôi không chia sẻ khái niệm của ông về cái gì là đúng. Chúng tôi có lẽ sẽ gặp nhau trên phố và xông vào đánh nhau, và dù tôi tin cả hai bọn tôi đều to xác y hệt, tôi hoàn toàn khẳng định ông ta đáng gờm hơn. Khả năng bị đẩy vào cuộc giải thích không lời này có lẽ sẽ làm sáng tỏ phần nào mô tả kỳ lạ của ông Mencken về đời sống văn học mới ở nước Mỹ. “Tai bị cắn đứt,” như lời ông ta nói; và hình thức giao lưu văn hoá kỳ quặc này có lẽ thực sự là giải pháp duy nhất – khi tai không còn là cơ quan để nghe mà chỉ còn là một công cụ tự biểu đạt không hơn không kém. Kẻ có tai mà không biết nghe thì tốt nhất là để bị cắn đứt quách đi. Sự điếc đặc này dường như là không thể tránh khỏi nơi nhà phê bình sáng tạo, loại người vốn thơ ơ với mọi âm thanh khác mình, hệt như một con gà mái chỉ biết tới tiếng cục tác của chính mình sau khi đẻ xong mớ trứng. Dù sao, mấy con gà mái đâu có phê bình trứng của nhau hay thậm chí ném trứng vào nhau trong các cuộc tranh luận chính trị. Chúng ta chỉ có thể nói rằng, nhà văn được đề cập quả thực đã đẻ được một quả trứng lớn và cứng đến kinh ngạc – giống trứng đà điểu vậy; và sau đó, chẳng có gì ngăn con đà điểu vùi đầu vào cát để cưng nựng cái tôi bên trong nó cho tới lúc thoả mãn vì đã hoàn thành chức năng của mình. Nhưng chúng ta đều không thể tranh cãi với nó về việc quả trứng ấy có ung chưa hay đem đi rán thì ăn có ngon miệng không.
Do đó, trong tất cả những trường hợp này, vì thiếu vắng một chuẩn mực chung về các giá trị tối hậu, ngay cả những chức năng cơ bản nhất cũng không thể thực hiện được. Chúng không chỉ không thể được thực hiện với “một cảm giác mãn nguyện” hay “giải phóng cảm xúc,” mà về lâu về dài, chúng hoàn toàn không thể thực hiện được nữa. Chúng ta không thể thực sự lên án tên môi giới trái phiếu suốt ngày lăng xê “Sự Phục vụ” là kẻ lừa đảo, bởi giữa ta và tên ấy không có sự đồng thuận rằng lừa đảo là điều đáng xấu hổ. Chỉ cần vận dụng khéo léo một số lý thuyết mang đậm tính cá nhân chủ nghĩa của chính ông Mencken, những lý thuyết đã đi đến kết luận rằng tư duy thì vượt trội hơn đạo đức, thì bọn lừa đảo đó hiện ra chẳng khác nhau một siêu nhân. Chúng ta không thể thực sự tranh luận rằng mình ủng hộ hay chống đối cái lý tưởng “Sự Phục vụ” thuần tuý, bởi không bên nào thực sự xem xét cái gì cần được phục vụ hay làm thế nào để đạt được những quy tắc đúng đắn cho việc phục vụ đó. Hậu quả là, trên thực tế, cái gọi là Nhà nước Phục vụ thực chất không khác gì Nhà nước Phục dịch. Và cuối cùng, chúng ta không thể thực sự tranh luận về điều đó hay bất cứ thứ gì khác, bởi trò chơi tranh luận này không có quy tắc. Không có gì để chứng minh ai đã ghi điểm, ai chưa. Không thể có “xung đột trong phê bình trong phê bình ở nước Mỹ,” các giáo sư cũng không thể “bị buộc phải biện hộ.” Để làm được điều đó, cả nguyên đơn và bị đơn đều phải xuất hiện trước một toà án nào đó và đưa ra bằng chứng tuân theo những tiêu chuẩn chân lý cụ thể, vạch rõ. Ngược lại, tất cả những gì ta làm đều chỉ là hỗn chiến chứ không phải luận đàm.
Nói trắng ra, những chức năng bình thường của con người – phấn đấu, phản kháng, phán định, thuyết phục và chứng minh, đều bị cản trở và tê liệt bởi những phủ định của kẻ hoài nghi, ngay cả khi kẻ hoài nghi ấy ban đầu dường như chỉ muốn phủ nhận một viễn tượng xa xôi hay một cổ tích thần kỳ nào đó. Trên thực tế, mỗi chức năng đều phải quy chiếu về cùng một mục đích, một tiêu chuẩn kiểm định, một cách thức để phân biệt giữa sử dụng và lạm dụng – thứ mà kẻ hoài nghi cực đoan đã phá huỷ triệt để, hệt như cách hắn đã phá huỷ triệt để các huyền thoại hay các điều mê tín. Nếu chức năng ấy chỉ thực hiện để thoả mãn người thực hiện, như trong ngụ ngôn về nhà phê bình và quả trứng, thì việc tranh luận xem đó có phải trứng ung hay không sẽ trở nên vô nghĩa. Nhưng ngay cả trong khi thực hiện thao tác hòng chắc chắn về sự tỉnh táo của chính mình khi áp dụng các tiêu chuẩn kiểm định, chúng ta cũng thực sự phải quay ngược về những vấn đề căn nguyên, như câu đố xưa về việc trứng có trước hay gà có trước; giống những tôn giáo vĩ đại nhất, chúng ta phải bắt đầu ab ovo (từ trứng nước, từ ngọn nguồn). Những chuẩn mực căn nguyên thật sáng sủa đó bị xáo trộn thì toàn bộ đời sống thực tiễn cũng bổ nhào theo. Con người có thể bị thuyết định mệnh làm cho tê liệt, hoặc bị thuyết vô trị làm cho phát điên, hoặc bị thuyết bi quan dồn vào đường cùng; bởi hành động của con người không thể cứ trượt đi trên khuôn nền mà họ luôn cảm thấy là hoang đường mãi được. Và theo nghĩa hữu cơ và gần như là vật chất này, tôn giáo thực sự là cứu cánh của con người – nghĩa là nếu không có nó, con người rốt cục sẽ rơi vào bất lực và gần như bất động.
Ông Mencken, ông Sinclair Lewis và các nhà phê bình khác trong làn sóng Mercury đều sôi nổi và chân thành tới mức họ không quản nhọc kịch liệt tấn công biết bao nhiêu thứ chê trách trên đời, vạch trần thực tài biết bao trò giả mạo phải tội; điều ấy quả thực khiến khi tranh luận cùng họ, phe đối diện chỉ muốn ngửa bài lên bàn. Sẽ thật giả dối, thậm chí đạo đức giả, nếu tôi phớt lờ một sự thật rằng bản thân tôi tin vào một giải pháp tâm linh đặc biệt cho vấn đề này, một thẩm quyền tinh thần vượt trên mớ bòng bong ấy. Và thực ra, cũng có nhiều tâm trí khác ngoài tôi cũng đã lờ mờ nhận ra điều này. Cả Giáo sư Babbitt[7] và T. S. Eliot đều nhắc đến triết học Công giáo với sự tôn trọng, thậm chí với niềm hy vọng nào đó. Tôi dám chắc mình đã không hiểu lầm những lời lẽ lịch lãm hết sức của họ, cũng không cố đẩy đưa họ tiến xa hơn những điều họ thực sự muốn bày tỏ. Nhưng thực tế là, qua một loạt bước lập luận hoàn hảo không biết chê vào đâu, ông Eliot đã dẫn Giáo sư Babbitt đến gần cánh cổng Nhà thờ Công giáo đến nỗi cuối cùng tôi cảm thấy khá hồi hộp, nói nôm na là sợ rằng cả hai sẽ vô tình bước thêm một bước nữa và rơi tõm vào đó.
Tôi có lý do riêng mới viện đến chuyện ấy trong phần kết luận – lý do liên quan trực tiếp đến hiệu ứng kỳ lạ của chủ nghĩa hoài nghi trong việc làm suy yếu các chức năng vốn có của con người. Trong một tác phẩm thuộc hàng xuất sắc và hài hước nhất của ông Sinclair Lewis, có đoạn như vầy (tôi dẫn lại theo trí nhớ, nhưng chắc không sai được). Đại khái, ông viết rằng Đức tin Công giáo khác với Chủ nghĩa Thanh giáo hiện đại ở chỗ nó không yêu cầu con người từ bỏ khiếu thẩm mỹ cá nhân, hay óc hài hước, hay những thói xấu có thể bỏ quá được (ông ấy ám chỉ việc hút thuốc và uống rượu – những thứ vốn cũng chẳng phải thói xấu gì cho cam), nhưng lại đòi hỏi con người phải từ bỏ mạng sống và linh hồn, trí óc, thể xác, lý trí và tất tật những thứ khác. Tuyên bố này, tôi đề nghị độc giả hãy xem xét thật bình tĩnh và công bằng; xong, hãy đem nó so với chứng kiến thực tế của chính các bạn khi những nghi ngại căn cốt của thời chúng ta vẫn đang tiếp tục làm tê liệt chức năng con người.
Sự thật đã nói lên điều hoàn toàn đối nghịch: chính Đức Tin mới phục hồi nơi người ta thân xác họ, linh hồn họ, ý chí họ và ngay cả sự sống của họ. Sự thật là chỉ ai đón nhận Đức Tin mới giữ được tất cả những khả năng căn bản của con người mà các triết thuyết khác đang dần tước đoạt khỏi họ. Sự thật là, có thể nói rằng chỉ họ mới thực sự có được tự do, chỉ họ mới có ý chí thực sự – bởi chỉ có họ còn tin vào tự do ý chí; chỉ có họ mới thực sự có lý trí, khi mà sự hoài nghi tột cùng đã phủ nhận cả lý trí lẫn quyền hạn; chỉ những người đó mới thực sự hành động – bởi hành động đích thực phải hướng đến một mục đích gì đó. Ít nhất, đây không phải là một viễn cảnh quá xa vời: khi mọi thứ phỗng ra và bế tắc trong tuyệt vọng, rốt cục chỉ còn họ là những công dân biết đi đứng nói năng trong một thành phố chỉ toàn những kẻ tê liệt.
Bùi Gia Bin dịch
[1] (ND) Chesterton vạch trần những định kiến độc địa ẩn sâu dáng vẻ trung dung, hiền hoà về mặt chính trị của tầng lớp trung, thượng lưu Anh thuở đó. Tác giả viện tới hai thị trấn Bath và Cheltenham bởi đây đều là các chốn sang trọng, nơi người giàu đổ về sinh sống. “Tụi Ly giáo” (Dissenters) ở đây nhắm tới phái Tin Lành ly khai khỏi Anh giáo còn “đám bần nô người Ái Nhĩ Lan” lại có ý miệt thị dân Ái Nhĩ Lan nói chung – bấy giờ đa phần tín đạo Công giáo. Từ giờ, những cước chú hòng cung cấp bối cảnh và các lý giải cần thiết của người dịch sẽ được đánh dấu là (ND) để phân biệt với những chú thích hoặc dẫn nguồn chính do Chesterton và người biên tập của ông thực hiện.
[2] (ND) Cuộc bút chiến giữa G. K. Chesterton và William Ralph Inge (Tổng Giám mục St. Paul giai đoạn 1911–1934) về vai trò của Giáo hội Công giáo là một trong những màn luận đàm giữa xu hướng thế tục hoá và tôn giáo rất sôi nổi trên báo giới thời kỳ ấy, phản ảnh sự xung đột giữa tư tưởng Anh giáo tự do và Công giáo truyền thống. Inge nhiệt thành nằm hẳn về phe dân chủ với những Tocqueville và Burke, liên tục đăng đàn, tấn công Công giáo. Ông gọi Giáo hội La Mã là thế lực phản động lại tinh thần dân chủ Anh quốc và xem Công giáo là một tập đoàn gian trá, duy trì quyền lực bằng việc kiếm tiền dựa trên niềm mê tín đối với phép lạ và đàn áp tư tưởng (nhắm vào Toà án Dị giáo).
[3] Đọc bài Nhà phê bình và Cuộc sống Mỹ, đăng trên Tạp chí The Forum, số tháng Hai, 1928.
[4] (ND) Từ ‘enthusiasm’ trong tiếng Anh xuất hiện tầm thế kỷ 17, mượn từ chữ ‘enthusiasmus’ trong tiếng Latin, vốn lại được mượn từ chữ ‘enthousiasmos’ trong tiếng Hy Lạp. Từ ‘enthousiasmos’ (ενθουσιασμός) gồm âm ‘en–’ (εν) mang nghĩa ‘bên trong’ và ‘–theos’ (θεός) mang nghĩa ‘thần thánh’, cũng là từ Chesterton đang chỉ điểm. Ta biết rằng, cùng với sự phát triển của xu hướng thế tục, từ này đã mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ các niềm say mê sáng tạo, nhiệt tình nói chung và đánh mất dần sắc thái tôn giáo. Chesterton chỉ lại nghĩa gốc (theos = thần thánh) để châm biếm những người theo chủ nghĩa duy lý như Babbitt: họ luôn đề cao ‘sự nhiệt huyết’ nhưng lại gạt bỏ yếu tố thiêng liêng vốn hằng hiện hữu trong khái niệm này.
[5] (ND) Chesterton chơi chữ. Trong tiếng Anh, từ ‘Service’ (S viết hoa) để chỉ phục vụ có tính thương mại (phục vụ hàng hoá, dịch vụ) nhưng từ ‘serve’ (viết thường) để chỉ việc phụng sự Thượng đế. Ý nói ‘Sự Phục vụ’ ngày xưa vốn là thứ mang thứ cấp để dẫn ta đến những điều thiêng, nhưng ở thời hiện đại đã trở thành một ngẫu tượng được người ta tôn thường: nó đã tự trao cho mình quyền thiêng khi đánh cắp chữ ‘S’ viết hoa thuộc về những thiêng thánh (Saints).
[6] (ND) Đại khái, Chesterton cảnh báo rằng, sự nhiệt tình mù quáng, muốn phục vụ mà không có mục tiêu, sẽ dễ dàng đẩy người ta vào chỗ bị lợi dụng, đặc biệt trong xã hội tư bản – nơi đức tính tốt đẹp bị biến thành công cụ kiếm tiền, rồi dán nhãn "đạo đức" để hợp pháp hóa. Ông đề nghị rằng đạo đức thực sự phải gắn với cứu cánh thiêng liêng (Chúa, lý tưởng), không phải phục vụ quyền lực trần tục.
[7] Đọc bài Chủ nghĩa Nhân văn của Irving Babbitt, đăng trên tạp chí The Forum, số tháng Bảy, 1928.