favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges về Gibbon

10/11/2025 11:54

Edward Gibbon là một nguồn lớn của Borges: một nhân vật kỳ dị có thể nhìn một nhân vật cũng kỳ dị như thế nào? Tiểu luận của Borges về Gibbon nằm trong một cuốn sách mang nhan đề rất kỳ quái: Các lời tựa kèm một lời tựa cho các lời tựa.

 

Edward Gibbon

Những trang lịch sử và tự truyện
 

Edward Gibbon sinh tại vùng quanh London, ngày 27 tháng Tư năm 1737. Gia đình ông cổ xưa nhưng không đặc biệt xuất chúng, dẫu cho một trong số các tổ tiên của ông từng là Marmorarius hay kiến trúc sư của vua, hồi thế kỷ 14. Mẹ ông, Judith Porten, dường đã không lý gì đến ông trong những năm bất hạnh của tuổi thơ ông. Những chăm sóc tận tụy của một bà dì [hoặc cũng có thể là bà bác] độc thân, Catherine Porten, đã cho phép ông gượng dậy từ nhiều bệnh tật nghiêm trọng. Gibbon sẽ gọi bà, về sau này, là bà mẹ đích thực của tinh thần và sức khỏe ông; chính bà đã dạy ông đọc và viết, ở một cái tuổi nhỏ đến mức ông quên mất việc học đó và gần như tin rằng mình đã biết toàn bộ những cái đó ngay từ khi sinh ra. Ở tuổi lên bảy ông giành được, nhờ vài giọt nước mắt cùng không ít sự trừng phạt, các điều sơ đẳng đầu tiên về cú pháp Latin. Những truyện ngụ ngôn của Aesop, những anh hùng ca của Homer trong phiên bản tráng lệ của Alexander Pope và Nghìn lẻ một đêm, mà Galland vừa hé lộ cho trí tưởng tượng châu Âu, là những sự đọc mà ông ưa nhất. Cũng sẽ cần thêm vào các ma thuật phương Đông đó những ma thuật khác của thế giới cổ điển: Biến hình của Ovid, đọc trong chính văn.

Mười bốn tuổi, tại một thư viện ở Wiltshire, ông tri nhận được tiếng gọi đầu tiên của lịch sử: một tập phụ của bộ lịch sử La Mã của Echard khiến ông khám phá các thăng trầm của Đế chế sau khi Constantine sụp. "Tôi đang ở giữa chuyến băng ngang sông Danube của người Goth thì tiếng chuông báo tới giờ ăn làm tôi phải miễn cưỡng ngắt ngang bữa tiệc trí năng của mình." Sau Rome, phương Đông quyến dụ Gibbon, ông nghiên cứu tiểu sử Mahomet trong bản dịch tiếng Pháp và Latin từ các văn bản Ả Rập. Từ lịch sử, theo một triền dốc tự nhiên, ông chuyển qua địa dư học và lịch đại học, và năm mười lăm tuổi thì ông tìm cách dung hòa các hệ thống của mấy người, Scaliger, Petavius, Marsham và Newton. Chính quãng những năm này ông vào trường đại học Cambridge. Về sau ông sẽ viết: "Tôi không thấy lý do để công nhận một món nợ tưởng tượng để xứng đáng với một phần thưởng công bằng hoặc hào phóng." Về niên đại thành lập Cambridge ông nêu nhận xét: "Có lẽ rồi một ngày kia tôi sẽ tìm cách làm một nghiên cứu bất thiên ái về sự cổ xưa truyền thuyết hay có thực của hai trường đại học sinh đôi của chúng ta, chủ đề từng khơi dậy biết bao nhiêu cãi cọ mạnh mẽ và xuẩn ngốc giữa những kẻ cuồng tín từ đó chui ra. Lúc này chúng ta hãy tự giới hạn mình ở việc công nhận rằng hai thiết chế đáng kính ấy đủ cũ để thấy rõ tất tật các định kiến cùng phế tật của suy sụp." Các giáo sư - ông nói cho chúng ta - đã giải phóng ý thức của họ khỏi bổn phận về đọc, nghĩ hoặc viết; sự im lặng của họ - người ta chẳng mấy thiết tha việc đi nghe giảng - khiến Gibbon trẻ tuổi tiến hành nghiên cứu thần học cho riêng mình. Một cuộc đọc Bossuet đã cải ông sang Công giáo; ông tin - hoặc nghĩ là mình tin, vẫn ông nói với chúng ta - vào hiện diện thực của Ki-tô trong Lễ Ban Thánh thể. Một thầy tu dòng Tên làm báp têm cho ông trong niềm tin Rome. Gibbon gửi cho bố ông một bức thư dài nhiều tính tranh cãi "được viết với toàn bộ sự hào nhoáng, phẩm giá cùng niềm khoái trá của một kẻ tuẫn đạo". Là sinh viên tại Oxford và theo Công giáo là hai trạng thái bất tương thích; kẻ bỏ đạo trẻ tuổi và đầy nhiệt hứng bị trường đuổi học và bố ông bèn gửi ông sang Lausanne, khi đó là một pháo đài của Calvin luận. Ông ở trọ tại nhà một mục sư, ông Pavilliard, người, sau hai năm trò chuyện, đưa được ông về lại con đường ngay. Gibbon ở Thụy Sĩ năm năm; việc quen thuộc với tiếng Pháp và việc đọc văn chương của nó là kết quả quan trọng hơn cả của giai đoạn này. Chính trong những năm ấy có trường đoạn tình cảm duy nhất xuất hiện trong tiểu sử Gibbon: tình yêu của ông đối với Mlle Curchod, người sau đó sẽ trở thành mẹ của Mme de Staël. Ông Gibbon gửi thư phản đối cuộc hôn nhân; Edward "thở dài ở tư cách người yêu, nhưng vâng lời ở tư cách con trai".

Năm 1758, ông quay về Anh; công việc đầu tiên của ông là dần dà tự tạo dựng một tủ sách. Cả sự phô trương lẫn sự phù phiếm đều không can thiệp vào lựa chọn những quyển sách mà ông mua và, nhiều năm trôi qua, ông có thể biến châm ngôn của Pliny thành châm ngôn của mình, theo đó không có sách nào, dẫu tệ đến đâu, không chứa đựng một điều gì đó tốt đẹp. Năm 1761, tác phẩm đầu tay của ông được in, viết bằng tiếng Pháp, nó tiếp tục là ngôn ngữ ông dùng để nói ở chốn thân tình. Cuốn sách tên là Essai sur l'étude de la littérature và bảo vệ văn chương cổ điển vào lúc đó có phần bị các nhà bách khoa thư coi thường. Gibbon bảo chúng ta rằng cuốn sách của ông được đón nhận ở Anh với một sự thờ ơ lạnh lẽo, nó ít được đọc và mau chóng bị quên.

Một chuyến đi sang Ý, mà ông thực hiện vào tháng Tư năm 1765, đã đòi ông nhiều năm đọc những thứ tiền đề. Ông biết đến Rome; đêm đầu tiên của ông tại Thành phố Vĩnh cửu là một đêm mất ngủ, như thể ông đã có dự cảm đầy lo lắng về tiếng rì rầm của hàng nghìn từ sẽ cấu tạo nên bộ lịch sử của ông. Trong tự truyện của mình, ông viết là ông không thể cả quên lẫn diễn tả những cảm xúc mạnh đã náo động ông lúc đó. Chính trong đống đổ nát của Capitole, trong khi các thầy tu đi chân đất hát kinh tối trong ngôi đền Jupiter, mà ông nhằm tới việc kể lại sự suy tàn và sụp đổ của Rome. Độ rộng lớn của công trình thoạt tiên làm ông e dè và ông chọn cách viết, thay vì thế, một lịch sử về độc lập của Thụy Sĩ, cuốn sách sẽ không xong được.

Vào quãng thời gian này đã xảy ra một trường đoạn kỳ dị. Các nhà thần luận, vào giữa thế kỷ 18, cho rằng Cựu Ước không có nguồn gốc thần thánh, bởi trong đó không ở đâu được nói rằng linh hồn thì bất tử và người ta không tìm được ở trong đó bất kỳ ám chỉ nào đến một lòng tin đặt vào những khổ nhọc hay các phần thưởng tương lai. Mặc cho một số đoạn mù mờ, nhận xét này đúng; Paul Deussen, trong Philosophie der Bibel của mình, tuyên bố: "Mới đầu, những người Semite đã không hề có ý thức về sự bất tử của linh hồn. Sự thiếu hiểu biết này chỉ kết thúc khi những người Hebrew có quan hệ với những người Iran." Năm 1737, nhà thần học Anh William Warburton cho in một khảo luận dài tên là The Divine Legation of Moses, trong đó ông chứng minh, theo lối nghịch lý, rằng việc bỏ qua mọi quy chiếu đến sự bất tử là một lập luận ủng hộ cho uy quyền thần thánh của Moses, người tự biết là mình được Chúa gửi tới và không cần phải nhờ vào các phần thưởng hay các trừng phạt ở thế giới bên kia. Lập luận rất khéo, nhưng Warburton dự cảm được rằng các nhà thần luận sẽ đem ngoại giáo Hy Lạp ra đối lập lại ông, cái đó cũng không dạy về tồn tại của các tội phải chịu hay phần thưởng tương lai và nó, thế nhưng, không tin vào Chúa. Nhằm bảo vệ cho luận đề của mình, Warburton bảo rằng một hệ thống các phần thưởng cùng tội phải chịu bên ngoài trái đất đã tồn tại ở tôn giáo Hy Lạp, và ông cho rằng đấy là cái mà người ta hé lộ nơi các bí ẩn Eleusis. Demeter đã mất con gái Persephone của mình, do bị Hades bắt cóc, và sau khi đã lang thang nhiều năm khắp thế giới, bà tìm lại được nàng ở Eleusis. Đó là nguồn gốc huyền thoại của các nghi thức. Những nghi thức ấy, ở khởi đầu có tính cách nông nghiệp - Demeter là nữ thần lúa mì - do một dạng ẩn dụ tương đồng với ẩn dụ mà thánh Paul sẽ sử dụng (chuyện cũng giống thế với sự hồi sinh của người chết: những gì băng hoại được gieo xuống sẽ nảy lên dưới dạng bất khả băng hoại), sau đó tượng trưng cho sự bất tử. Persephone sinh ra trở lại từ vương quốc dưới đất của Hades; linh hồn sẽ sinh ra trở lại từ cái chết. Truyền thuyết về Demeter xuất hiện ở một trong những khúc ca của Homer, nơi người ta cũng có thể đọc thấy rằng người được khai trí sẽ hạnh phúc sau khi người đó chết. Như vậy, Warburton dường đã đúng ở cái phần của luận đề của ông dẫn chiếu đến nghĩa của các bí ẩn; nhưng không đúng trong một phần khác mà ông thêm vào như thừa ra, mà Gibbon trẻ tuổi phê phán. Quyển sáu của Aeneid kể chuyến đi của người anh hùng và của sibyl tới các vùng thuộc địa ngục; Warburton cho đây là sự khai trí của Aenea như là nhà lập pháp cho các bí ẩn Eleusis. Aenea, vốn đã đi xuống Averne cũng như Elysium, đi ra qua cái cửa ngà tương ứng với các giấc mộng hão, chứ không phải qua cửa sừng, cửa của những giấc mộng tiên tri; điều này có thể có nghĩa là địa ngục xét về nền tảng phi thực, hoặc giả thế giới nơi Aenea quay trở lại cũng thế, hoặc giả Aenea, nếu xét một cách cá nhân, là một giấc mộng, như có lẽ tất tật chúng ta đều vậy cả. Cả trường đoạn, theo Warburton, không có tính cách ảo tưởng mà bắt chước. Hẳn lẽ ra Virgil đã miêu tả trong hư cấu đó cơ chế của các bí ẩn; nhằm xóa đi hay giảm bớt sự thiếu trung tín bị phạm theo lối ấy ông đã phải cho người anh hùng của mình đi ra qua cửa ngà, nó, ta đã nói, là cửa của cái phi thực. Nếu không có lời giải thích này, hẳn người ta sẽ không hiểu rằng Virgil để người ta đặt giả định chuyện một thị kiến tiên tri cho sự lớn lao của Rome có thể là ngụy. Gibbon, trong một tiểu luận không ký tên vào năm 1770, có lập luận như sau: nếu Virgil đã không được khai trí, thì hẳn ông đã không thể hé lộ những gì mà ông đã không nhìn thấy, và nếu ông được khai trí cho, ông sẽ càng không thể làm điều đó hơn, bởi hé lộ này hẳn, trong trí óc ngoại giáo, là một phàm tục hóa và một điều nhơ bẩn. Những ai phản bội bí mật đã bị kết án tử hình và bị đóng đinh câu rút công khai; công lý thánh thần có thể đi trước bản án của con người và thật ương bướng khi sống dưới cùng mái nhà với kẻ thảm hại bị buộc cho một tội ác như thế. Những Critical Observations này của Gibbon là lần đầu tiên ông xuất bản bằng tiếng Anh, Cotter Morrison ghi nhận, và có lẽ là tác phẩm sáng sủa hơn cả và bộc phát hơn cả của ông. Warburton thì giữ im lặng về chuyện này.

Kể từ năm 1768, Gibbon tự hiến mình cho những công việc tiền đề dẫn tới sự hiện thực hóa dự đồ của ông; ông biết, gần như là thuộc lòng, các nhà cổ điển, và lúc đó ông khởi sự đọc và đọc lại, bút cầm tay, tất tật các nguồn đúng của lịch sử La Mã từ Trajan cho đến Caesar cuối cùng của phương Tây. Ông rọi sáng cho văn bản của mình, nếu muốn dùng lại các từ của ông, "bằng những luồng sáng bổ trợ tỏa ra từ các mề đay cùng các bi ký, từ địa dư học và từ lịch đại học".

Ông phải mất bảy năm thì mới viết xong tập thứ nhất, nó được in vào năm 1776, sách bán hết trong vòng vài hôm. Cuốn sách nhận được lời ngợi ca của Robertson và của Hume, và khơi lên cái mà Gibbon bị cám dỗ gọi là cả một tủ sách các cuộc tranh cãi. "Loạt đạn đầu tiên của pháo binh thuộc giới tăng lữ" - đấy là chính lời ông - khiến ông ngây độn, nhưng ngay lập tức ông nhận ra rằng sự ồn ào dớ dẩn này chỉ nguy hiểm trong ý đồ làm hại ông và ông đáp lại những kẻ nói trái mình bằng sự khinh bỉ. Ông nói, lúc nhắc tới Davies và Chelsum, rằng một thắng lợi giành được trước những địch thủ như vậy đối với ông có vẻ là một sự nhục nhã quá lớn.

Hai tập tiếp theo của Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã in vào năm 1781; chất liệu được xử lý có tính cách lịch sử chứ không phải tôn giáo. Những cuốn sách ấy không khơi lên sự cãi cọ mà được đọc, Rogers khẳng định, với một sự hau háu im lìm. Tác phẩm được hoàn thành tại Lausanne vào năm 1873. Ba tập cuối có niên đại là 1788.

Gibbon là thành viên của Hạ viện; hoạt động chính trị của ông không đáng để có các bình luận rộng lớn. Chính ông từng thú nhận rằng sự rụt rè khiến ông không có khả năng nhảy vào các cuộc tranh luận và những thành công của ngòi bút ông làm nản các nỗ lực nơi giọng nói của ông.

Việc viết tự truyện của ông chiếm những năm cuối cùng của sử gia. Tháng Tư năm 1793, cái chết của Lady Sheffield làm cho ông quyết định quay về Anh. Gibbon chết trong yên bình ngày 15 tháng Giêng năm 1794, sau một căn bệnh ngắn. Hoàn cảnh cái chết của ông được kể trong tiểu luận của Lytton Strachey.

Thật mạo hiểm khi đánh giá là bất tử một tác phẩm văn chương. Nguy cơ này càng trầm trọng thêm nếu đấy là một tác phẩm thuộc địa hạt lịch sử và nếu nó được viết nhiều thế kỷ sau những sự kiện mà nó nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu chúng ta sẵn lòng quên đi vài cơn tâm trạng xấu của Coleridge, cùng một sự không hiểu nhất định của Sainte-Beuve, thì sự nhất trí về phê bình của Anh và của lục địa đã trao một cách rộng rãi, từ gần hai trăm năm nay, danh hiệu cổ điển cho Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã và người ta biết rằng đánh giá này bao gồm một hàm ý về bất tử. Ngay các lỗ hổng, hoặc, nếu thích hơn, những im lặng của Gibbon, cũng tạo thuận lợi cho tác phẩm của ông. Nếu nó được viết để ủng hộ cho lý thuyết này hay lý thuyết kia, sự tán thành hay hay bất tán thành của độc giả sẽ tùy thuộc vào ý kiến của ông về luận đề liên quan. Chắc chắn đấy không phải là trường hợp của Gibbon. Ngoài sự phòng ngừa chống lại tình cảm tôn giáo nói chung và chống lại niềm tin Ki-tô giáo nói riêng, mà ông bày ra tại một số chương nổi tiếng, dường như Gibbon để mặc cho mình được dẫn lối bởi các sự vị mà ông thuật lại, và ông ghi nhận chúng với một sự ngoài ý thức thần thánh, thứ vốn dĩ thuộc số phận mù quáng, của chính dòng của lịch sử. Giống người nằm mơ và biết là mình đang mơ, giống người chấp nhận các ngẫu nhĩ cùng những vụn vặt lẻ tẻ của một giấc mơ, Gibbon, ở ngay giữa thế kỷ 18, đã lại mơ những gì mà các con người thuộc những chu kỳ đã qua sống hoặc mơ trong những bức tường của Byzance hoặc trên các sa mạc của Arabia. Để xây dựng tác phẩm của mình, ông đã phải tra cứu và tóm tắt hàng trăm văn bản không đồng chất; không thể bàn cãi, sẽ là dễ dàng hơn nếu đọc bản rút gọn đầy mỉa mai của ông, thay vì lạc đường trong những nguồn chính của các nhà biên niên tối tăm hay bất khả xâm nhập. Lương tri và sự mỉa mai là những thứ riêng biệt của Gibbon. Tacitus ca ngợi sự kính trọng của người Giéc-manh, những người không nhốt các vị thần của họ vào giữa bốn bức tường và không tự cho phép mình trình hiện họ bằng gỗ hoặc đá hoa cương; Gibbon tự giới hạn mình vào việc quan sát thấy rằng đối với họ hẳn sẽ khó mà có các ngôi đền và những bức tượng khi mà họ chỉ có mỗi các túp lều để chính họ trú thân. Thay vì viết rằng người ta chẳng hề có bất kỳ xác nhận nào về những phép mầu mà Thánh Kinh hé lộ, thì Gibbon phê phán sự lơ đãng không thể tha thứ của những kẻ ngoại giáo kia, những người, trong các catalogue dài dặc về những điều phi thường của mình, không mang lại cho chúng ta bất cứ sự cụ thể nào về cách thức với đó mặt trăng và mặt trời dừng cuộc chạy của chúng cả một ngày liền, cũng như về nhật thực và động đất đã đi kèm cái chết của Jesus.

De Quincey viết rằng lịch sử là một bộ môn vô tận hay ít nhất thì cũng bất xác định, vì cùng những sự vị có thể được kết hợp với nhau hoặc được diễn giải theo các cách khác nhau. Nhận xét này có từ thế kỷ 19; từ đó, các diễn giải đã được nhân lên rất nhiều lần dưới ảnh hưởng của tiến hóa về tâm lý học và người ta đã khai quật những văn hóa cùng những văn minh không được ngờ tới. Thế nhưng tác phẩm của Gibbon vẫn nguyên vẹn và có vẻ như là người ta có thể giả định là nó sẽ còn sống sót sau những thăng trầm của tương lai. Hai lý do tranh đấu với nhau để ủng hộ cho sự trường tồn đó. Lý do thứ nhất, và có lẽ là lý do quan trọng nhất, thuộc trật tự cảm năng; nó bám vào sự quyến rũ của tác phẩm, thứ, theo Stevenson, là công lao cốt yếu và không thể thiếu của văn chương. Lý do còn lại hẳn dựa vào sự thể, có lẽ đầy sầu muộn, rằng sau một khoảng thời gian nhất định chính sử gia cũng trở thành lịch sử và với chúng ta quan trọng không chỉ là chuyện biết trại của Attila từng như thế nào mà còn cả việc làm sao mà một nhà quyền quý người Anh của thế kỷ 18 tưởng tượng ra nó. Từng có một giai đoạn nơi người ta đọc những trang của Pliny để đi tìm các sự chính xác; ngày nay chúng ta đọc chúng để tìm trong đó cái tuyệt diệu và thay đổi về quang học này đã chẳng hề gây hại gì cho danh tiếng của Pliny. Đối với Gibbon giờ đó hẵng còn chưa điểm và có lẽ nó sẽ chẳng bao giờ điểm. Người ta có thể ngờ vực Carlyle, hay mọi sử gia lãng mạn khác, xa khỏi chúng ta hơn là Gibbon.

Hẳn người ta sẽ không thể nhắc Gibbon nếu không nghĩ đến Voltaire, tác giả ấy, mà ông từng đọc rất nhiều và về những phẩm chất thuộc sân khấu của người ấy ông đã mang lại một đánh giá rất ít hào hứng. Cả hai đều phát ra cùng một sự khinh bỉ dành cho các tôn giáo hoặc các mê tín của con người, nhưng bước đi văn chương của họ thì rất khác nhau. Voltaire đã dùng phong cách ngoạn mục của ông để bày ra hay gợi ý rằng các sự vị lịch sử vuột thoát khỏi chúng ta; Gibbon không có một ý kiến tốt đẹp hơn về con người, nhưng các hành động của họ thu hút ông ở tư cách cuộc biểu diễn, nhờ đó ông giải trí cho và quyến rũ độc giả của mình. Ông không bao giờ ôm lấy những dục vọng từng khuấy đảo các thời kỳ đã qua và nhìn nhận chúng với một sự bất khinh tín không thiếu mất cả độ lượng lẫn, chắc hẳn, thương hại.

Lướt qua Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã, tức là xâm nhập và đi lạc với đầy hạnh phúc vào một cuốn tiểu thuyết đông chật các nhân vật, nó có những nhân vật chính là các thế hệ con người, có sân khấu là thế giới, mà thời độ mênh mông được tính bằng các triều đại, bằng các cuộc chinh phục, bằng các khám phá và bằng chuyển dịch của các ngôn ngữ cùng các thần tượng.

Tags: Borges Gibbon
favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công