Allan Bloom: Đóng tinh thần
Tiểu luận này - một bài suy ngẫm về trạng thái tinh thần của chúng ta, đặc biệt là của thanh niên và giáo dục của họ - được viết từ điểm nhìn của một người thầy. Một điểm nhìn như vậy, mặc dù có những hạn chế nghiêm trọng và đi kèm với những cám dỗ nguy hiểm, vẫn là một điểm nhìn đặc quyền. Người thầy, đặc biệt là người thầy hiến mình cho giáo dục liberal, phải không ngừng hướng tới mục tiêu là sự toàn thiện con người đồng thời nhìn thật rõ bản tính học sinh mình chính ở đây, bây giờ, không ngừng tìm cách hiểu mục tiêu ấy và đánh giá khả năng học sinh tiếp cận được nó. Sự quan tâm chuyên chú dành cho những tâm hồn non trẻ, biết họ đói khát điều gì và có thể tiêu hóa được gì - ấy là điều cốt yếu của nghề thầy. Phải dò cho ra và khơi động những cơn đói ấy. Bởi chẳng sự giáo dục đích thực nào không tìm cách đáp ứng những nhu cầu thiết thân của tinh thần; ngoài đó ra, tất cả đều chỉ là trưng trổ vặt vãnh. Cách tốt nhất để tìm ra yếu tính của mỗi thế hệ là đọc nó trong tương quan với những mối quan tâm thường trực của nhân loại. Đồng thời, cũng có thể đọc thấy rõ nhất điều đó từ những sở thích, thú vui và đặc biệt là những nỗi bất bình của mỗi thế hệ (điều đặc biệt đúng ở một thời đại tự hào về khả năng tự nhận thức vô cùng bình tĩnh của mình). Đặc biệt quan trọng là việc nhìn vào những kẻ mạo danh đủ loại chuyên hút những người trẻ tuổi. Những tên bán rong văn hóa này có động cơ mạnh nhất trong việc lao vào tìm hiểu thị hiếu của giới trẻ - vì vậy bọn họ là những chỉ dẫn hết sức hữu ích để lần đường trong mê cung tinh thần của thời đại.
Thế đứng và điểm nhìn của người thầy không thể tùy tiện. Nó không đơn giản phụ thuộc vào những gì học trò nghĩ họ muốn hoặc tình cờ có trong thời điểm và hoàn cảnh ấy, và nó cũng không phải là thứ có thể bị ấn định bởi nhu cầu của một xã hội cụ thể hay những thay đổi thất thường của thị trường. Mặc dù người ta đã bỏ ra nhiều nỗ lực để cố chứng minh rằng người thầy luôn là tác nhân của những lực đó, thực tế là, dù muốn hay không, anh ta vẫn được hướng lối bởi nhận thức hoặc bởi cảm nhận siêu nhiên rằng thực sự có một thứ gọi là bản tính con người và nhiệm vụ của anh ta là hỗ trợ cho sự toàn thiện nó. Anh ta không đi đến kết luận này bằng con đường trừu tượng hay lý luận phức tạp. Anh ta nhìn thấy điều đó trong mắt học trò mình. Những học trò ấy chỉ là những khả thể, nhưng khả thể luôn trỏ đến xa hơn chính nó và đây là nguồn gốc của hy vọng, hầu như luôn phải thất vọng nhưng cũng luôn hồi sinh, rằng con người không chỉ là một tạo vật của tình cờ, bị xiềng vào và bị khuôn cứng bởi cái hang nơi hắn chào đời. Nghề hộ sinh - tức là việc đỡ ra đời những đứa trẻ đích thực mà nguồn gốc không phải là bà đỡ mà là tự nhiên - tả đúng và đủ nghề dạy hơn khái niệm socialization (tập cho quen xã hội). Sự chào đời của một đứa trẻ cứng cáp, độc lập với người đỡ đẻ, là niềm vui thực sự của người thầy, niềm vui ấy thúc đẩy anh ta hiệu quả hơn nhiều so với bất kỳ nghĩa vụ đạo đức vô tư nào và cũng là kinh nghiệm chính yếu của anh ta về sự chiêm ngưỡng hân hoan. Không một người thầy đích thực nào có thể nghi ngờ rằng nhiệm vụ của mình là giúp học trò hoàn thiện bản tính con người, chống lại mọi sức mạnh gây biến dạng của các quy chuẩn và định kiến. Viễn kiến về bản tính ấy có thể bị che mờ, người thầy có thể bị giới hạn nhiều hay ít, nhưng hành động của anh ta được thúc đẩy bởi một điều gì đó vượt ngoài anh ta, đồng thời cung cấp cho anh ta một tiêu chuẩn để đánh giá năng lực và thành tích của học sinh. Vả lại, không có người thầy đích thực nào trong công việc của mình lại không tin vào sự tồn tại của tâm hồn hoặc vào một ma thuật tác động lên tâm hồn thông qua lời. Tâm hồn, người thầy hẳn nghĩ thế, ban đầu có thể đòi hỏi những phần thưởng và hình phạt bên ngoài để thúc đẩy hoạt động, nhưng sau rốt, chính thể động nội tại mới là phần thưởng đích thực, tự đủ trong chính nó.
Đây là những lý do góp phần giải thích sự quái đản của một người trưởng thành thích bầu bạn với tâm hồn non trẻ hơn những người trưởng thành khác. Anh ta thích cái “có thể” đầy hứa hẹn hơn cái “đã là” khiếm khuyết. Người trưởng thành ấy phải chịu nhiều cám dỗ - đặc biệt là sĩ diện của mình và ham muốn rao giảng hơn là thực sự dạy - bản thân hoạt động dạy cũng mang theo nó mối nguy của việc thích dạy hơn là thích hiểu biết, bẻ cong mình theo những gì học trò có thể học hoặc muốn học, biết mình chỉ thông qua học trò của mình.
Như thế, dạy dỗ có thể là mối đe dọa đối với triết học bởi triết học là một con đường đơn độc, và kẻ theo đuổi nó không bao giờ được trông chờ khán giả. Nhưng sẽ là quá đáng khi yêu cầu người thầy phải là triết gia, và một chút gắn bó với khán giả là điều gần như không thể tránh. Nếu thực sự chống lại sự xấu xa thì chính sự xấu xa có thể trở thành nguồn cho phẩm chất và thúc đẩy suy tư triết học. Niềm say mê với học trò dẫn người thầy đến chỗ nhận thức các loại tâm hồn khác nhau và những khả năng khác nhau của những tâm hồn ấy đối với sự thật và sai lầm, cũng như khả năng học hỏi. Kinh nghiệm này là điều kiện để theo đuổi câu hỏi “Con người là gì?” trong tương quan với những truy cầu cao nhất - ngược với những nhu cầu thấp kém và tầm thường của con người.
Nghĩa chuẩn của một nền giáo dục liberal là giúp học sinh tự đặt ra câu hỏi này và dần nhận thức được rằng câu trả lời không hiển nhiên, nhưng cũng không đơn giản là không tồn tại, và rằng không có cuộc đời nào đáng sống mà câu hỏi này không phải là mối bận tâm thường trực. Bất chấp mọi nỗ lực nhằm bóp méo nó (một vài trong số đó sẽ được xem xét trong cuốn sách này), câu hỏi mà mọi người trẻ tuổi đều đặt ra, “Tôi là ai?”, niềm thôi thúc mạnh mẽ tuân theo mệnh lệnh của đền Delphi, “Tự biết mình”, vốn sinh ra trong mỗi chúng ta, trước hết có nghĩa: “Con người là gì?” Và trong sự thiếu chắc chắn kinh niên của con người chúng ta, câu hỏi này lại dẫn đến việc nhìn ra các đáp án thay thế khả dĩ và suy tư về chúng. Giáo dục liberal mang lại cơ hội tiếp cận những lựa chọn thay thế này, phần nhiều trong số đó đi ngược lại bản tính hoặc thời đại của chúng ta. Người được giáo dục theo lối liberal là người có khả năng cự lại những câu trả lời dễ dàng và được ưa chuộng, không phải vì anh ta cố chấp mà vì anh ta biết những con đường khác, đáng chú tâm hơn. Dù thật ngu ngốc khi tin rằng học qua sách là đủ cho toàn bộ sự giáo dục nhưng việc học từ sách luôn luôn cần thiết, đặc biệt là ở những thời đại nghèo nàn những ví dụ sống về những tâm hồn lớn. Và học qua sách là hầu hết những gì người thầy có thể mang lại - nếu được thực hiện đúng cách trong một bầu không khí nơi quan hệ của nó với cuộc đời là khả tín. Cuộc đời rồi sẽ đến với học trò của anh ta. Anh ta chỉ có thể hy vọng rằng những gì mình cho đi sẽ hướng lối cho học trò. Hầu hết học trò sẽ bằng lòng với những gì xã hội hiện tại coi là phù hợp; những người khác, nhiều tinh thần hơn, sẽ giảm dần nhiệt tình khi gia đình và tham vọng mang lại cho họ những đối tượng quan tâm khác; một số ít sẽ dành cả cuộc đời để nỗ lực giành sự tự chủ tinh thần. Chính cho những người này mà giáo dục liberal tồn tại. Họ trở thành hình mẫu cho việc huy động những năng lực cao quý nhất của con người và do đó là ân nhân cho tất cả chúng ta, chủ yếu nhờ chính con người họ, hơn là những gì họ làm. Nếu không có hiện diện của họ (và, cũng nên nói thêm, không có sự tôn trọng chung dành cho họ), không một xã hội nào - dù giàu có hay thoải mái đến đâu, dù tinh thông kỹ thuật hay tinh tế tình cảm đến đâu - có thể được gọi là văn minh.
Từ cái thế của người thầy, được hiểu như trên, trong hơn ba mươi năm qua, với sự chú tâm sâu sắc, tôi đã theo dõi và lắng nghe học sinh của mình. Những gì họ mang đến cho giáo dục bậc cao, các dục vọng, tò mò, khao khát và đặc biệt là kinh nghiệm trước đó của họ đã thay đổi; và do đó nhiệm vụ giáo dục họ đã thay đổi. Trong cuốn sách, tôi sẽ cố gắng góp phần tìm hiểu thế hệ này. Tôi không rao giảng đạo đức; tôi không muốn trở thành Jeremiah hay Pollyanna. Hơn bất cứ điều gì, cuốn sách này có thể được coi là một tường thuật từ tiền tuyến. Người đọc có thể tự mình đánh giá mức độ nghiêm trọng của hoàn cảnh. Mọi thời đại đều có những vấn đề của nó, và tôi không cho rằng mọi thứ trong quá khứ đều tuyệt vời. Tôi chỉ miêu tả hoàn cảnh hiện tại của chúng ta và không có ý so sánh với quá khứ để làm cơ sở chúc mừng hay trách móc mình mà chỉ để làm rõ điều gì là quan trọng đối với chúng ta và điều gì là đặc biệt trong hoàn cảnh chúng ta.
Đôi lời về “mẫu” của tôi trong nghiên cứu này: mẫu này bao gồm hàng nghìn sinh viên trí tuệ tương đối cao, được tự do về vật chất và tinh thần để làm hầu hết những gì họ muốn trong vài năm đại học mà họ may mắn có được - nói tóm lại, những người trẻ tuổi thuộc hai hay ba chục trường đại học tốt nhất. Có những dạng sinh viên khác mà hoàn cảnh loại này hay loại khác ngăn họ có được tự do cần thiết để theo đuổi một nền giáo dục liberal. Họ có những nhu cầu riêng và rất có thể có những đặc điểm rất khác những gì tôi tả ở đây. Mẫu của tôi, mặc cho các giới hạn của nó, có ưu điểm là tập trung vào những người có nhiều khả năng nhất trong việc tận dụng nền giáo dục liberal và có ảnh hưởng lớn nhất về mặt đạo đức và trí tuệ đối với quốc gia. Đôi khi người ta nói rằng những thanh niên có điều kiện thuận lợi này ít cần đến sự quan tâm và nguồn lực của chúng ta hơn vì họ đã có đủ rồi. Nhưng chính họ, hơn ai hết, mới cần giáo dục nhiều nhất, cũng giống như việc những tài năng lớn nhất là khó hoàn thiện nhất, và bản tính càng phức tạp thì càng dễ bị biến dạng.
Không cần phải chứng minh tầm quan trọng của giáo dục; nhưng cần lưu ý rằng đối với các quốc gia hiện đại, những quốc gia đã đặt nền tảng của mình trên lý trí trong nhiều phương diện hơn bất kỳ quốc gia nào trong quá khứ, một cuộc khủng hoảng tại trường đại học - ngôi nhà của lý trí - có lẽ là cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất mà họ phải đối mặt.
[…]
Chicago, Tháng Năm năm 1986
Có một điều mà một giáo sư có thể hoàn toàn chắc chắn: hầu như mọi sinh viên bước vào trường đại học đều tin hoặc nói rằng anh ta tin rằng sự thật chỉ là tương đối. Nếu niềm tin này bị cặn vặn, sinh viên sẽ không làm sao hiểu nổi. Việc có thể có bất kỳ ai coi mệnh đề này là không hiển nhiên khiến họ kinh ngạc như thể người đó đang cặn vặn 2 + 2 có bằng 4 hay không. Những thứ như thế hiển nhiên đến độ người ta không cần nghĩ gì về chúng nữa. Nền tảng của các sinh viên rất đa dạng, như chính nước Mỹ. Một số theo tôn giáo, một số vô thần; một số theo Tả, một số theo Hữu; một số có ý định trở thành nhà khoa học, một số muốn trở thành nhà nhân văn, chuyên gia hoặc doanh nhân; một số nghèo, một số giàu. Họ chỉ đoàn kết trong niềm tin vào chủ nghĩa tương đối và ở lòng trung thành đối với sự bình đẳng. Hai điều này gắn với nhau trong cùng một ý định đạo đức. Tính tương đối của sự thật không phải là một phát hiện lý thuyết mà là một định đề đạo đức, điều kiện của một xã hội tự do, ít nhất thì đó là cách nhìn của họ. Tất cả họ đều đã được ốp cái khung này từ rất sớm, và nó là sự thay thế hiện đại của các quyền tự nhiên tối cao, bất khả nhượng từng là nền tảng Mỹ truyền thống của xã hội tự do. Điều này đã trở thành một vấn đề đạo đức đối với sinh viên, thể hiện ở phản ứng của họ khi bị thách thức - một hỗn hợp giữa sự hoài nghi và phẫn nộ: “Vậy ra anh/ chị theo chủ nghĩa tuyệt đối?”, lựa chọn thay thế duy nhất của tương đối luận mà họ biết, và cái câu ấy được thốt ra với cùng giọng của “Anh/ chị theo quân chủ chuyên chế?” hay “Anh/chị thực sự tin là có phù thủy à?” Câu hỏi này dẫn đến phẫn nộ, vì một kẻ tin là có phù thủy rất có thể là thợ săn phù thủy hoặc thẩm phán Salem.[1] Mối nguy của chủ nghĩa tuyệt đối mà họ được dạy phải sợ không nằm ở khả năng sai lầm mà ở sự thiếu khoan dung của nó. Tương đối luận là cần thiết cho sự cởi mở; và đây là phẩm chất, phẩm chất duy nhất mà toàn bộ nền giáo dục sơ cấp trong hơn năm mươi năm qua đã hết lòng vun đắp. Sự cởi mở - cùng tương đối luận, cái khiến nó trở thành lập trường duy lý duy nhất khi đối mặt với những tuyên bố khác nhau về sự thật cũng như những cách sống và loại người khác nhau - là cái nhìn chi phối thời đại chúng ta. Người thực sự tin bị coi là nguy hiểm thực sự. Nghiên cứu lịch sử và văn hóa dạy rằng trong quá khứ thế giới điên rồ cả; con người luôn cho rằng mình đúng và điều đó dẫn đến chiến tranh, đàn áp, chế độ nô lệ, bài ngoại, phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa Sô vanh. Vấn đề không phải là sửa chữa sai lầm và tìm đến cái đúng đích thực; vấn đề là phải tìm cách không bao giờ nghĩ rằng mình đúng.
Tất nhiên, sinh viên không thể bảo vệ quan điểm của mình. Đó chỉ là thứ mà họ đã được tiêm vào óc từ nhỏ. Cùng lắm thì họ có thể chỉ ra tất cả các quan điểm và nền văn hóa đã và đang tồn tại. Và họ hỏi: tôi hay ai khác có quyền gì để nói rằng cái này tốt hơn cái kia? Nếu tôi đặt ra những câu hỏi thông thường để phản bác họ và bắt họ phải suy nghĩ, chẳng hạn, “Nếu anh/chị là một nhà quản lý người Anh ở Ấn Độ, liệu anh/chị có để những người bản xứ dưới sự quản lý của anh/chị thiêu sống người góa phụ trong đám tang của người chồng đã chết hay không?” thì họ hoặc im lặng hoặc đáp rằng ngay từ đầu lẽ ra người Anh không bao giờ nên có mặt ở đó. Không phải là họ biết nhiều về các quốc gia khác hoặc về chính họ. Mục đích sự giáo dục của họ không phải là biến họ thành học giả mà là trang bị cho họ một phẩm chất đạo đức - sự cởi mở.
Mọi hệ thống giáo dục đều có một mục tiêu đạo đức mà nó cố gắng đạt được và mục tiêu đó chi phối chương trình giảng dạy của nó. Nó muốn tạo ra một loại người nhất định. Ý định này có thể rõ ràng hoặc ngấm ngầm, và có thể là kết quả của sự suy ngẫm tính toán kỹ càng hoặc hời hợt; nhưng ngay cả những môn học trung lập như đọc, viết và số học cũng chiếm một vị trí trong viễn kiến tổng quát về một người được giáo dục. Ở một số quốc gia, mục tiêu là những tạo ra người ngoan đạo, ở những quốc gia khác thì là người hiếu chiến, ở những quốc gia khác nữa là người cần cù. Chế độ chính trị có tiếng nói tối cao: nó cần những công dân tuân theo nguyên tắc cơ bản của nó. Các chế độ quý tộc muốn những quý ông, những người thế lực biết tôn trọng và theo đuổi tiền bạc, còn các chế độ dân chủ thì muốn những người yêu chuộng bình đẳng. Giáo dục dân chủ, dù có thừa nhận hay không, muốn và cần tạo ra những đàn ông và phụ nữ có thị hiếu, kiến thức và và nhân cách tương hợp với chế độ dân chủ. Trong lịch sử cộng hòa của chúng ta, rõ ràng đã có những thay đổi quan điểm về việc loại người nào mới là tốt nhất cho chế độ. Chúng ta đã bắt đầu với hình mẫu con người lý trí và cần cù, trung thực, tôn trọng luật pháp và hết lòng vì gia đình (gia đình của chính anh ta - mà trong thời kỳ suy tàn của nó được gọi là gia đình hạt nhân). Trên hết anh ta phải hiểu về học thuyết quyền con người; Hiến pháp hiện thực nó và lịch sử Hoa Kỳ trình bày và tôn vinh sự thành lập của một quốc gia “hình thành trong tự do và cống hiến cho tuyên bố rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.” Sự gắn bó chặt chẽ với câu chữ và tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập được truyền tải một cách nhẹ nhàng, lôi cuốn lý trí mỗi người: ấy là mục tiêu của việc giáo dục con người dân chủ. Điều này đòi hỏi một điều gì đó rất khác với những kiểu gắn bó cần thiết cho các cộng đồng truyền thống, nơi huyền thoại và dục vọng cũng như kỷ luật, quyền lực nghiêm khắc và đại gia đình tạo ra một lòng yêu nước bản năng, không giới hạn, thậm chí cuồng tín, khác hẳn lòng trung thành đầy suy ngẫm, lý trí, điềm tĩnh, thậm chí bất thiên kiến mà nước Mỹ đòi hỏi - lòng trung thành không phải đối với đất nước mà đối với hình thức chính phủ và các nguyên tắc hợp lý của nó. Đây là một thử nghiệm hoàn toàn mới trong chính trị và kéo theo nó là một nền giáo dục mới. Nền giáo dục này đã phát triển trong nửa thế kỷ qua, đi từ sự giáo dục con người dân chủ sang sự giáo dục nhân cách dân chủ.
Sự khác biệt rõ ràng giữa hai điều này có thể thấy rõ trong sự biến đổi của cách hiểu chung về ý nghĩa của việc là người Mỹ. Quan điểm cũ cho rằng bằng cách thừa nhận và chấp nhận các quyền tự nhiên, con người tìm thấy nền tảng cơ bản của sự thống nhất và sự tương đồng. Giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hay văn hóa đều biến mất hoặc trở nên lu mờ khi được tắm dưới ánh sáng của các quyền tự nhiên, chúng mang lại cho con người những lợi ích chung và khiến họ thực sự là anh em. Người nhập cư đã phải bỏ lại phía sau những tuyên bố của Thế giới Cũ để ủng hộ một nền giáo dục mới và dễ dàng tiếp thu. Điều này không nhất thiết có nghĩa là từ bỏ những thói quen hay tôn giáo cũ, nhưng họ phải buộc chúng phục tùng các nguyên tắc mới. Có một xu hướng, nếu không phải là một yêu cầu nhất thiết là làm cho cả bản tính và tự nhiên trở nên đồng nhất.
Nền giáo dục gần đây, xoáy vào sự cởi mở, đã bỏ tất cả những điều đó. Nó không dành sự quan tâm cho các quyền tự nhiên hay nguồn gốc lịch sử của chế độ chúng ta, giờ đây bị coi là sai sót và phản động về cơ bản. Nền giáo dục mới tiến bộ và hướng tới tương lai. Nó không đòi hỏi sự đồng thuận chung hay từ bỏ những niềm tin cũ, mới để theo những niềm tin tự nhiên. Nó mở cửa cho mọi dạng người, mọi lối sống, mọi tư tưởng. Không có kẻ thù nào ngoài người không cởi mở với mọi thứ. Nhưng khi không có mục tiêu hoặc viễn kiến chung về công ích thì liệu khế ước xã hội có còn khả thi nữa hay không?
Ngay từ buổi đầu của tư tưởng liberal đã xuất hiện xu hướng tự do không phân biệt. Hobbes và Locke cùng những nhà lập quốc Hoa Kỳ theo sau họ muốn xoa dịu những niềm tin cực đoan, đặc biệt là niềm tin tôn giáo, vốn dẫn đến xung đột dân sự. Các thành viên của giáo phái phải tuân theo pháp luật và trung thành với Hiến pháp; nếu họ làm như vậy, những người khác sẽ phải để họ yên, cho dù niềm tin của họ có đáng ghê tởm đến đâu. Để thực hiện được sự sắp xếp này, đã có một nỗ lực có ý thức, dù là ngấm ngầm, nhằm làm suy yếu lòng tin tôn giáo, một phần - kết quả của một nỗ lực nhận thức luận to lớn - bằng cách đẩy tôn giáo vào địa hạt quan điểm thay vì địa hạt hiểu biết. Nhưng quyền tự do tôn giáo thuộc về địa hạt hiểu biết. Đó không phải là vấn đề quan điểm. Ở đây không cần một xác tín yếu. Ngược lại, địa hạt của quyền là địa hạt của xác tín nóng bừng trong một nền dân chủ.
Có thể mở rộng không gian được miễn trừ khỏi các quy định chính trị và xã hội hợp pháp chỉ bằng cách thu hẹp các tuyên bố về hiểu biết đạo đức và chính trị. Cơn khát vô độ quyền tự do sống theo ý mình sinh sôi mạnh trên khía cạnh này của tư tưởng dân chủ hiện đại. Và cuối cùng, có vẻ như chỉ có thể đạt được tự do hoàn toàn khi mọi tuyên bố về hiểu biết đạo đức và chính trị biến mất. Cách hiệu quả để vô hiệu hóa kẻ áp bức là thuyết phục họ rằng họ chẳng biết gì về cái thiện. Sự mẫn cảm quá độ sinh ra từ lý thuyết dân chủ cực đoan cuối cùng sẽ thấy mọi giới hạn là độc đoán và chuyên chế. Không có sự tuyệt đối; chỉ tự do là tuyệt đối. Tất nhiên kết quả là: một mặt, lý lẽ biện minh cho tự do biến mất và mặt khác, mọi lòng tin bắt đầu phải chịu sự suy nhược mà ban đầu chỉ lòng tin tôn giáo bị định là phải chịu.
Sự chuyển dịch dần khỏi các quyền tiến về phía sự cởi mở thể hiện rõ ở việc Oliver Wendell Holmes từ bỏ việc tìm kiếm một nguyên tắc xác định lời nói hoặc hành vi nào là không thể chấp nhận trong một xã hội dân chủ và thay vào đó viện dẫn một tiêu chuẩn mơ hồ và thực tế là vô nghĩa: tiêu chuẩn về “nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu”; tiểu chuẩn ấy, trong mọi khía cạnh, coi việc duy trì trật tự công cộng là lợi ích chung duy nhất.[2] Quan điểm của ông dựa trên một hình dung quá lạc quan về tiến bộ, theo đó sự suy tàn hoàn toàn của nguyên tắc dân chủ và sự sụp đổ vào man rợ là không thể xảy ra; cũng theo đó, sự thật luôn luôn chiến thắng trên thị trường các ý mà chẳng cần bất cứ trợ lực nào. Sự lạc quan này không được chia sẻ bởi các Nhà lập quốc của chúng ta; họ nhấn mạnh rằng các nguyên tắc của chính phủ dân chủ phải luôn luôn được xem xét và tuân theo, dẫu kết quả có thể rất khắc nghiệt đối với một số quan điểm: một số chỉ được dung thứ và không được tôn trọng, một số khác bị cấm hoàn toàn. Theo cái nhìn của họ, không nên khoan dung đối với những người không chịu khoan dung. Cái ý theo đó không nên có bất cứ hạn chế nào về tự do ngôn luận, trừ khi nó được chứng minh là mối nguy hiện hữu và rõ ràng sẽ khiến Lincoln không thể khăng khăng rằng nguyên tắc bình đẳng là không thể thỏa hiệp, rằng bình đẳng không phụ thuộc vào sự lựa chọn hay bầu cử của người dân mà là điều kiện tiên quyết để có bầu cử, rằng hình thức dân chủ đại nghị đối với vấn đề nô lệ da đen là không thể chấp nhận, ngay cả khi nó giúp tránh được nguy cơ rõ ràng và hiện hữu của một cuộc nội chiến đẫm máu.[3]
Tuy vậy, sự cởi mở cuối cùng đã chiến thắng các quyền tự nhiên, một phần thông qua phê phán lý thuyết, một phần do cuộc nổi dậy chính trị chống lại những ràng buộc cuối cùng của tự nhiên. Giáo dục công dân chuyển từ tập trung vào các nguyên tắc lập quốc sang tập trung vào tính cởi mở dựa trên lịch sử và khoa học xã hội. Thậm chí còn có xu hướng chung là giải thiêng sự Lập quốc, chứng minh rằng khởi đầu có nhiều sai sót, nhằm bật đèn xanh cho sự cởi mở hơn đối với cái mới. Những gì đã bắt đầu với chủ nghĩa Mác của Charles Beard[4] và sử luận của Carl Becker[5] trở thành thông lệ. Chúng ta đã quen nghe các Nhà sáng lập bị buộc tội phân biệt chủng tộc, giết người da đỏ, đại diện cho lợi ích giai cấp. Tôi hỏi giáo sư lịch sử đầu tiên của tôi ở trường đại học, một học giả rất nổi tiếng, rằng phải chăng hình dung về George Washington mà ông phác cho chúng tôi khiến chúng tôi coi thường chế độ của mình. “Không hề,” ông nói, “điều đó không phụ thuộc vào từng cá nhân mà phụ thuộc vào việc chúng ta có những giá trị dân chủ tốt đẹp.” Tôi đáp lại: “Nhưng thầy vừa cho chúng tôi thấy rằng Washington chỉ sử dụng những giá trị đó để nâng cao lợi ích giai cấp của chế độ quý tộc Virginia.” Ông ấy đã rất tức giận, và thế là xong. Ông được yên tâm khi tin rằng các giá trị của nền dân chủ là một phần của sự vận động lịch sử và không cần ông phải làm sáng tỏ hay bảo vệ. Ông có thể tiếp tục nghiên cứu lịch sử của mình với niềm tin chắc chắn về mặt đạo đức rằng các nghiên cứu ấy sẽ dẫn đến sự cởi mở hơn và do đó dân chủ hơn. Những bài học về chủ nghĩa phát xít và sự mong manh của nền dân chủ mà tất cả chúng ta vừa trải qua không có tác dụng gì với ông.
Liberalism không kèm các quyền tự nhiên, loại liberalism mà chúng ta học từ John Stuart Mill và John Dewey[6], đã dạy chúng ta rằng mối nguy duy nhất mà chúng ta phải đối mặt là đóng mình trước những biểu hiện mới, đang nổi lên của tiến bộ. Không cần phải chú ý đến những nguyên tắc cơ bản hay những phẩm chất đạo đức hướng lối cho cái sống của con người. Dùng đúng ngôn ngữ phổ biến hiện tại, văn hóa công dân đã bị bỏ quên. Và bước ngoặt này trong liberalism đã mở đường cho chủ nghĩa tương đối về văn hóa cùng sự tách bạch giữa giá trị và thực tế; chính nó đã đẩy tương đối luận đi xa hơn và mang lại cho nó sức nặng trí tuệ lớn hơn.
Lịch sử và khoa học xã hội được sử dụng theo nhiều cách khác nhau để vượt qua định kiến. Chúng ta không nên vị chủng (ethnocentric): một thuật ngữ rút ra từ ngành nhân học cho chúng ta biết nhiều hơn về chuyện cởi mở thực chất là thế nào. Theo đó, chúng ta không nên nghĩ con đường của mình tốt hơn người khác. Mục đích không phải là dạy học sinh về những thời khác và chốn khác mà là làm cho họ nhận thức được thực tế rằng các thiên hướng của họ đơn thuần là sản phẩm ngẫu nhiên của thời đại và nơi chốn họ sinh ra. Niềm tin của họ không cho phép họ - với tư cách cá nhân hay tập thể, như một quốc gia - được nghĩ rằng họ vượt trội hơn bất kỳ ai. John Rawls gần như là một sự nhại lại xu hướng này, ông ta viết hàng trăm trang để thuyết phục, để đề xuất một kế hoạch chính quyền buộc con người không được coi thường bất kỳ ai. Trong Lý thuyết Công lý, ông viết rằng nhà vật lý hay nhà thơ không nên coi thường kẻ dành cả cuộc đời để đếm những ngọn cỏ hay thực hiện bất kỳ hoạt động phù phiếm hoặc băng hoại nào. Thật vậy, kẻ ấy nên được tôn trọng, vì sự tôn trọng của người khác, khác với lòng tự trọng, là nhu cầu cơ bản của tất cả con người. Tóm lại, sự không phân biệt là một mệnh lệnh đạo đức vì ngược lại sẽ dẫn đến sự phân biệt đối xử. Và vậy nghĩa là không được phép tìm kiếm cái tốt tự nhiên trong thế giới con người và ngưỡng mộ nó khi tìm thấy, bởi khám phá ấy đi đôi với khám phá ra cái xấu và coi thường nó. Bản năng và trí tuệ phải bị giáo dục bóp nghẹt. Tâm hồn tự nhiên sẽ được thay thế bằng tâm hồn nhân tạo.
Căn nguyên của sự thay đổi đạo đức này là sự hiện diện ở Hoa Kỳ của đàn ông và phụ nữ thuộc nhiều quốc gia, tôn giáo và chủng tộc khác nhau, và thực tế là nhiều người đã bị đối xử tệ bạc vì họ thuộc các nhóm này. Franklin Roosevelt tuyên bố rằng chúng ta muốn “một xã hội không bỏ rơi ai”. Mặc dù các quyền tự nhiên vốn có trong chế độ của chúng ta hoàn toàn phù hợp để giải quyết vấn đề này, miễn là những người bên ngoài tuân thủ chúng (tức là họ trở thành người trong cuộc bằng cách tuân thủ chúng), điều này vẫn chưa làm hài lòng các nhà tư tưởng đã ảnh hưởng đến các nhà giáo dục của chúng ta, vì quyền quyền bầu cử và các quyền chính trị khác không tự động tạo ra sự chấp nhận của xã hội. Sự bảo vệ bình đẳng của luật pháp không bảo vệ một người khỏi sự khinh thường và thù hận bởi anh ta là người Do Thái, người Ý hay người da đen.
Phản ứng đối với vấn đề này trước hết là sự phản đối quan điểm cho rằng người ngoài phải từ bỏ cá tính “văn hóa” của mình và biến mình thành một thực thể trừu tượng, phổ quát, tham gia vào các quyền tự nhiên, nếu không sẽ phải chịu một tồn tại bên rìa; phản ứng thứ hai là sự phẫn nộ đối với số đông đã áp đặt một đời sống “văn hóa” lên một quốc gia mà Hiến pháp vốn rất trung lập. Sự cởi mở được thiết kế để cung cấp một vị trí đáng trọng cho các “nhóm” và “thiểu số” - để giành lấy sự tôn trọng từ những người không có ý định trao nó - và làm suy yếu cảm giác ưu việt của đa số thống trị (gần đây được gọi là WASP [White Anglo-Saxon Protestants: Người Tin Lành Anglo-Saxon da trắng], sự thành công của cái tên này cho thấy phần nào sự thành công của môn xã hội học trong việc diễn giải lại ý thức quốc gia). Đa số thống trị ấy đã mang lại cho đất nước một nền văn hóa thống trị với các truyền thống, văn chương, thị hiếu, yêu cầu đặc biệt về việc phải biết và giám sát ngôn ngữ cùng cả tôn giáo Tin lành của nó. Phần lớn bộ máy trí tuệ của tư tưởng chính trị và khoa học xã hội Mỹ thế kỷ XX được xây dựng nhằm mục đích tấn công vào đa số đó. Nó coi các nguyên tắc lập quốc là trở ngại và cố gắng vượt qua phần thứ hai trong di sản chính trị của chúng ta, tức là nguyên tắc đa số, để ủng hộ một quốc gia gồm các nhóm thiểu số và các nhóm theo niềm tin và khuynh hướng riêng của mình. Đặc biệt, thiểu số trí thức mong muốn nâng cao vị thế của mình, thể hiện mình là người bảo vệ và phát ngôn viên của tất cả các nhóm khác.
Đáng chú ý nhất là sự đảo ngược của ý định sáng lập đối với các nhóm thiểu số. Đối với các Nhà lập quốc, thiểu số về cơ bản là xấu, về cơ bản giống hệt các bè phái, những nhóm ích kỷ không quan tâm đến lợi ích chung. Không giống như các nhà tư tưởng chính trị lớp trước, họ không nuôi hy vọng đàn áp các phe phái và giáo dục để tạo ra một khối công dân đoàn kết hoặc đồng nhất. Thay vào đó, họ xây dựng một bộ máy phức tạp để ngăn chặn các phe phái theo cách khiến chúng triệt tiêu lẫn nhau và cho phép theo đuổi lợi ích chung. Cái tốt vẫn là mối quan tâm chủ yếu trong tư tưởng của họ, mặc dù nó được tiếp cận ít trực tiếp hơn so với tư tưởng chính trị cổ điển bởi phe phái khoan dung. Các Nhà lập quốc muốn đạt được một đa số gắn với các quyền cơ bản rồi ngăn đa số ấy dùng quyền lực của mình để phá các quyền cơ bản đó. Tuy nhiên, trong khoa học xã hội thế kỷ XX, hình dung về lợi ích chung biến mất và cùng với đó là cái nhìn tiêu cực về thiểu số. Nguyên tắc đa số - giờ được hiểu là lợi ích ích kỷ - bị hy sinh để bảo vệ thiểu số. Điều này phá vỡ cân bằng tế nhị giữa đa số và thiểu số trong tư tưởng Hiến pháp. Trong viễn cảnh ấy, khi lợi ích chung không còn được đặt ra, các nhóm thiểu số không còn là vấn đề nữa, và việc bảo vệ họ trở thành chức năng chính yếu của chính phủ. Điều này được thể hiện rõ trong Lời dạo cho lý thuyết dân chủ của Robert Dahl.[7] Các nhóm hoặc cá nhân thực sự quan tâm, trái ngược với những nhóm và cá nhân hờ hững, xứng đáng nhận được sự quan tâm đặc biệt hoặc các quyền đặc biệt vì “nhiệt huyết” hoặc “cam kết” của họ, và chính những điều này trở thành nền tảng giá trị mới cho chính trị, thay thế cho lý trí. Các nhà lập quốc muốn giảm bớt và xoa dịu chủ nghĩa cuồng tín, còn Dahl thì khuyến khích nó.
Sức hấp dẫn của công thức thiểu số là rất lớn đối với mọi loại người, phản động hay cấp tiến, tất cả những ai giữa độ tuổi hai mươi và ba mươi vẫn chưa chấp nhận giải pháp chính trị do Hiến pháp đặt ra. Những người phản động không thích việc đàn áp đặc quyền giai cấp và cơ sở tôn giáo. Vì nhiều lý do khác nhau, họ đơn giản là không chấp nhận sự bình đẳng. Người miền Nam biết rõ rằng trọng tâm của Hiến pháp là cam kết đạo đức đối với sự bình đẳng và do đó lên án sự phân biệt đối xử với người da đen. Hiến pháp không chỉ là một bộ quy tắc của chính phủ mà còn ngụ ý một trật tự đạo đức phải được thi hành trên toàn Liên bang. Tuy nhiên, ảnh hưởng, vốn chưa được ghi nhận đầy đủ, của các nhà văn và sử gia miền Nam đối với quan điểm Mỹ về lịch sử là rất mạnh. Họ đã thành công đáng kể trong việc miêu tả “thể chế đặc thù” của mình như một phần của sự đa dạng và cá tính văn hóa quyến rũ mà Hiến pháp không những thờ ơ mà còn vùi dập. Lý tưởng cởi mở, hoàn toàn vắng bóng sự vị chủng chính là lớp bảo vệ hiện đại của họ trước mọi xâm nhập của những người bên ngoài, những kẻ đòi quyền bình đẳng với người ở nhà. Miêu tả lãng mạn của người miền Nam về những sai sót mà họ thấy trong Hiến pháp và sự thù địch của họ đối với “xã hội cá mè một lứa” (mass society) cùng công nghệ, lối sống hám tiền, những cá nhân vị kỷ và sự phá hủy cộng đồng kèm theo đó, một cộng đồng hữu cơ và bám rễ. Quan điểm này đã thu hút những người bất mãn thuộc mọi xu hướng chính trị. Phong trào Tân Tả (New Left) trong thập niên 1960 thể hiện chính xác cùng ý luận đã được tạo ra để bảo vệ miền Nam khỏi mối đe dọa đối với các thực hành của họ do các quyền Hiến pháp và quyền lực của Chính phủ Liên bang trong việc thực thi chúng gây ra. Đây chính là liên minh cũ giữa Hữu và Tả chống lại nền dân chủ liberal, bị chế nhạo là “xã hội bourgeois”.
Những người cấp tiến của thập niên 1920 và 1930 không ưa sự bảo vệ của Hiến pháp đối với tài sản tư nhân hay những hạn chế đối với ý chí của đa số (majority will) và lối sống tự do theo ý mình. Đối với họ, bình đẳng vẫn chưa đi đủ xa. Những người theo chủ nghĩa Stalin[8] cũng thấy định nghĩa theo đó dân chủ nghĩa là cởi mở rất hữu ích. Hiến pháp xung đột quá mạnh với lý luận và thực tế của Liên Xô. Nhưng nếu dân chủ có nghĩa là mở đến vô cùng và việc tôn trọng các nền văn hóa khác ngăn cản sự lên án nặng tính giáo điều dựa trên các quyền tự nhiên đối với thực tế Xô Viết thì một ngày nào đó, đường lối của họ cũng có thể trở thành đường lối của chúng ta. Tôi nhớ cuốn sách giáo khoa lịch sử tiểu học của tôi, in trên giấy bóng mịn, vẽ những hình ảnh hấp dẫn về các trang trại tập thể, nơi những người nông dân cùng nhau làm việc và chung sống không vì động cơ lợi nhuận. (Không thể dạy cho trẻ em hiểu được vấn đề, nhưng rất dễ tuyên truyền cho chúng). Điều này khác hẳn lối sống của chúng ta, nhưng chúng ta không thể đóng kín mình trước nó, hay phản ứng với nó chỉ dựa trên những thành kiến văn hóa của chúng ta.
Các nhà thám hiểm tình dục như Margaret Mead[9], những người cho rằng nước Mỹ quá hạn hẹp đã nói với chúng ta rằng chúng ta không chỉ phải biết các nền văn hóa khác và học cách tôn trọng họ mà còn có thể hưởng lợi ích từ họ. Chúng ta có thể theo sự dẫn dắt của họ và thả lỏng, giải phóng bản thân khỏi quan niệm rằng những điều cấm kỵ của chúng ta còn có một ý nghĩa nào khác chứ không chỉ là những ràng buộc xã hội. Chúng ta có thể đến khu chợ của các nền văn hóa và tìm sự củng cố cho những khuynh hướng bị kìm nén bởi cảm giác tội lỗi đạo đức. Tất cả những thầy dạy về cởi mở này đều không quan tâm hoặc hết sức thù địch với Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp.
Phong trào dân quyền là một ví dụ điển hình về sự thay đổi tư tưởng ấy. Trong những ngày đầu, gần như tất cả các nhà lãnh đạo quan trọng, bất chấp những khác biệt về chiến thuật và tính khí, đều dựa vào Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp. Họ buộc tội người da trắng không chỉ về những bất công khủng khiếp nhất mà còn về việc đi ngược lại những nguyên tắc thiêng liêng nhất. Người da đen mới đúng là người Mỹ khi đòi hỏi sự bình đẳng thuộc về họ với tư cách con người theo quyền tự nhiên và chính trị. Lập trường này ngụ ý một niềm tin chắc chắn về sự thật của các nguyên tắc về quyền tự nhiên và hiệu lực của chúng trong truyền thống Hiến pháp, dù bị hoen ố nhưng về lâu dài vẫn có xu hướng thúc đẩy việc thực thi các nguyên tắc đó. Do đó, họ làm việc thông qua Quốc hội, Tổng thống và trên hết là Tòa án. Ngược lại, phong trào Quyền lực đen (Black Power)[10] thay thế phong trào dân quyền cũ, bỏ qua cả những thái quá của nó lẫn sự nhấn mạnh rất dễ hiểu của nó vào lòng tự trọng và từ chối cầu xin sự chấp nhận. Cốt lõi của nó là quan điểm rằng truyền thống Hiến pháp đã hỏng từ gốc rễ và được dựng ra để bảo vệ chế độ nô lệ. Phong trào này đòi căn cước người da đen chứ không phải các quyền phổ quát. Không phải quyền mà là quyền lực. Nó nhấn mạnh vào việc tôn trọng người da đen vì là người da đen chứ không phải vì là con người.
Nhưng Hiến pháp không hứa hẹn tôn trọng người da đen, người da trắng, người da vàng, người Công giáo, người Tin lành hay người Do Thái. Nó đảm bảo việc bảo vệ các quyền của con người cá nhân. Tuy vậy, thế vẫn là chưa đủ đối với những người có lẽ giờ đã trở thành đa số trong nước Mỹ.
Kết quả cuối cùng của tất cả những điều này đối với việc giáo dục thanh niên Mỹ là họ biết ít hơn nhiều về lịch sử nước Mỹ và những người được coi là anh hùng của nó. Đây là một trong số ít những thứ mà người ta từng mang đến trường đại học và có liên quan ít nhiều đến cuộc sống của họ. Đã chẳng có gì thế vào đó ngoài đôi mẩu dữ kiện lượm lặt về các quốc gia hay các nền văn hóa khác và một vài công thức khoa học xã hội. Chẳng gì trong đó có mấy ý nghĩa, một phần vì người ta dành quá ít chú tâm cho những gì cần thiết để thực sự truyền tải tinh thần của những nơi khác và thời khác tới những người trẻ tuổi hoặc bất kỳ ai, một phần vì sinh viên thấy những thứ ấy không liên quan gì đến cuộc sống mà họ hướng tới hoặc những theo đuổi hiện tại của họ. Hiếm lắm mới tìm được, giữa những người trẻ tuổi bị tiêm nhiễm thứ giáo dục này, một ai đó thực sự khao khát một hiểu biết sâu sắc về Trung Quốc, về người La Mã hay người Do Thái.
Thực tế trái ngược hoàn toàn. Người ta thờ ơ với những thứ ấy bởi chủ nghĩa tương đối đã làm tắt ngúm động cơ thực sự của giáo dục: tìm kiếm một cuộc sống tốt. Thanh niên Mỹ ngày càng ít hiểu biết và hứng thú với những vùng đất xa lạ. Trước đây có rất nhiều sinh viên thực sự có hiểu biết và tình yêu đối với Anh, Pháp, Đức hay Ý; họ mơ được sống ở đó hay tin rằng cuộc sống của họ sẽ trở nên thú vị hơn bằng cách tiếp thu ngôn ngữ và văn chương của những quốc gia ấy. Những sinh viên như vậy gần như đã biến mất, thay thế chủ yếu bằng những sinh viên quan tâm đến các vấn đề chính trị của các nước thuộc Thế giới thứ ba, đến việc giúp họ hiện đại hóa, tất nhiên với sự tôn trọng thích đáng đối với nền văn hóa cũ của họ. Đây không phải là học từ người khác mà là tư thế bề trên, trịch thượng, một hình thức trá hình của chủ nghĩa đế quốc mới. Đó là tinh thần của Đoàn Hòa bình (Peace Corps)[11], không phải là đòn bẩy cho việc học mà là một phiên bản thế tục hóa của chuyện từ thiện.
Trên thực tế, sự cởi mở dẫn đến chính sự tòng phục đồng hóa kiểu Mỹ - thế giới ngoài kia là một sự đa dạng buồn tẻ chẳng dạy gì ngoài việc mọi giá trị đều là tương đối, còn ở đây chúng ta có thể tạo ra mọi phong cách sống mà mình muốn. Nghĩa của sự cởi mở này là chúng ta không cần người khác. Quảng cáo là mở nhưng lại chính là đóng, mở tràn lan nghĩa là đóng hũ nút. Chẳng còn hy vọng rằng có những nhà thông thái vĩ đại ở những vùng đất khác, những thời đại khác có thể hé lộ sự thật về cuộc sống - ngoại trừ một số ít rơi rớt cố tìm một giải pháp ăn liền từ các guru. Đã mất hẳn rồi cảm nhận lịch sử đích thực của một Machiavelli, người cố giành giật vài giờ sau mỗi ngày bận rộn để “vận lên mình bộ đồ vương giả, triều đình của những người xưa và trò chuyện với họ”.
Những người quảng bá chương trình giảng dạy mới chẳng mảy may cần tới những điều này. Mục tiêu của họ là tuyên truyền việc chấp nhận những con đường khác nhau, và sự thờ ơ với nội dung thực sự của chúng cũng là một phương tiện tốt. Những thời mà người Công giáo và người Tin Lành nghi ngờ, ghét bỏ nhau không nhất thiết là những thời tốt đẹp nhất của nước Mỹ, nhưng ít nhất thì họ thực sự coi trọng lòng tin của mình và những dàn xếp, điều chỉnh ít nhiều thỏa đáng mà họ tìm ra không đơn giản là kết quả của sự hờ hững thiu lạnh đối với trạng thái tinh thần của họ. Gần như tất cả những gì mà thanh niên Mỹ có ngày nay là một nhận thức hời hợt về việc có nhiều nền văn hóa khác nhau, kèm theo một đạo lý thiêng liêng rút ra từ nhận thức đó: chúng ta nên sống hòa hợp với nhau. Tại sao lại đánh nhau? Năm 1980, trong cuộc khủng hoảng với Iran, mẹ của một trong những con tin đã thể hiện rất rõ các nguyên tắc giáo dục hiện tại của chúng ta. Bà đến Iran để cầu xin thả con trai mình, bất chấp ý muốn của chính phủ nước bà, ngay trong tuần mà một cuộc giải cứu con tin đã được tiến hành. Bà biện minh cho hành vi của mình bằng cách giải thích rằng một người mẹ có quyền cố gắng cứu con mình và cũng có quyền học một nền văn hóa mới. Đây là hai quyền cơ bản và chuyến đi của bà đã giúp bà một công đôi việc.
Thực ra, vấn đề khác biệt văn hóa có thể đã được đối mặt dễ dàng hơn ở Mỹ khoảng bốn mươi năm trước. Khi tôi còn học đại học, một thanh niên Mississippi đã ở trong phòng ký túc xá của tôi vài ngày trong chuyến thăm đội tranh biện của Đại học Virginia mà anh là thành viên. Đó là cuộc gặp đầu tiên của tôi với một người miền Nam trí tuệ và có học thức. Anh ta giải thích cho tôi về sự thấp kém của người da đen, lý do dẫn đến Jim Crow, và coi tất cả những điều đó là một phần lối sống độc đáo của người miền Nam. Đó là một chàng trai hấp dẫn, sôi nổi, dễ mến và khỏe khoắn. Nhưng tôi lại thấy kinh hãi trước anh ta vì tôi vẫn còn cái nhìn vị chủng (ethnocentric). Tôi coi niềm tin phương Bắc của mình là phổ quát. Triết lý “mỗi người một khẩu vị” vẫn chưa phát huy tác dụng. May thay, kể từ đó, sự đồng nhất hóa văn hóa Mỹ đã bắt đầu, giúp chúng ta tránh được những cuộc đối đầu khó chịu như vậy. Giờ đây chỉ những kẻ tầng lớp thấp bệnh hoạn mới giữ quan điểm phân biệt chủng tộc như vị khách trẻ tuổi của tôi. Người miền Nam đã đóng góp vào việc xây dựng lý thuyết của chúng ta về văn hóa, nhưng nền văn hóa miền Nam mà họ muốn bảo vệ đã biến mất.
Một trong những kỹ thuật để khai mở những người trẻ tuổi là bắt họ học một lớp đại học về một nền văn hóa không phải phương Tây. Mặc dù nhiều người giảng dạy những lớp như thế là những học giả thực sự và yêu lĩnh vực họ nghiên cứu, nhưng trong trường hợp nào tôi cũng thấy sự bắt buộc này - trong khi có rất nhiều thứ khác có thể và nên học nhưng không bắt buộc, nhất là khi khi triết học và tôn giáo không còn bắt buộc nữa - là một yêu cầu mị dân. Mục đích là buộc học sinh phải nhận ra rằng có những cách suy nghĩ khác và cách suy nghĩ của phương Tây cũng không tốt hơn. Một lần nữa, nội dung không phải là điều quan trọng mà là bài học được rút ra. Những yêu cầu như vậy là một phần trong nỗ lực tạo lập một cộng đồng thế giới và đào tạo thành viên của cộng đồng ấy - những con người không thành kiến. Nhưng nếu sinh viên thực sự học được điều gì đó về tinh thần của bất kỳ nền văn hóa không phải phương Tây nào - thực tế thì chẳng bao giờ họ học được gì - họ sẽ thấy rằng tất cả những nền văn hóa ấy đều vị chủng. Tất cả đều cho rằng cách của mình là tốt nhất, còn tất cả những cách khác là kém hơn. Herodotus[12] nói với chúng ta rằng người Ba Tư nghĩ rằng họ là tốt nhất, rằng những nước giáp với họ thì kém hơn và những nước giáp với các nước liền kề ấy lại kém hơn một bậc nữa: giá trị của họ giảm dần theo các vòng tròn đồng tâm xa dần từ trung tâm Ba Tư. Đây chính là định nghĩa của sự vị chủng, và điều này không đâu không có, giống như việc cấm loạn luân giữa mẹ và con trai.
Chỉ ở các quốc gia phương Tây, tức là các quốc gia chịu ảnh hưởng của triết học Hy Lạp, mới có sự sẵn sàng nghi ngờ việc đồng nhất cái tốt với lối sống của chính mình. Điều đáng kết luận từ việc nghiên cứu các nền văn hóa phi phương Tây là không chỉ việc ưa chuộng cách sống của mình mà còn tin rằng đó là cách tốt nhất, vượt trội hơn tất cả các lối sống khác, là điều cơ bản và thậm chí tự nhiên - hoàn toàn trái ngược với điều mà việc yêu cầu sinh viên nghiên cứu các nền văn hóa này mong muốn. Thực tế, chúng ta chỉ đang áp dụng một định kiến phương Tây - mà chúng ta ngấm ngầm coi là minh chứng cho sự vượt trội của nền văn hóa của mình - và bóp méo bằng chứng từ các nền văn hóa khác để chứng minh cho sự đúng đắn của nó. Nghiên cứu khoa học về các nền văn hóa khác hầu như chỉ là một hiện tượng phương Tây, và nguồn gốc của nó rõ ràng có liên quan đến việc tìm kiếm những cách sống mới và tốt hơn, hoặc ít nhất là để xác nhận niềm hy vọng rằng văn hóa của chúng ta thực sự là con đường tốt nhất, một sự xác nhận mà các nền văn hóa khác không thấy cần thiết. Nếu thực sự muốn học hỏi từ những nền văn hóa đó, chúng ta phải tự hỏi liệu nghiên cứu khoa học như vậy có phải là một ý hay hay không. Tính nhất quán dường như đòi hỏi các giáo sư dạy sự cởi mở phải tôn trọng chính cái nhìn lấy dân tộc làm trung tâm, tức là sự khép kín, mà họ tìm thấy ở mọi nơi khác. Tuy nhiên, khi tấn công chủ nghĩa vị chủng, điều họ thực sự làm là khẳng định một cách vô thức tính ưu việt trong hiểu biết khoa học của họ và sự thấp kém của các nền văn hóa khác, vốn không thừa nhận điều đó; đồng thời họ lại bác bỏ mọi tuyên bố về tính ưu việt này. Họ vừa khẳng định vừa phủ nhận sự tốt đẹp trong khoa học của mình. Họ phải đối mặt với một vấn đề tương tự như vấn đề Pascal đã gặp phải trong cuộc xung đột giữa lý trí và mặc khải, mà không có sự nhất quán trí tuệ đã buộc ông phải từ bỏ khoa học để theo đuổi đức tin.
Lý do cho sự khép kín, hay vị chủng luận, của các nền văn hóa phi phương Tây thật rõ ràng. Con người phải yêu thương và trung thành với gia đình và dân tộc của mình để bảo tồn chúng. Chỉ khi họ nghĩ rằng những gì thuộc về họ là tốt đẹp, họ mới có thể hài lòng với chúng. Một người cha phải yêu con mình hơn những đứa trẻ khác, một công dân phải yêu đất nước mình hơn những nước khác. Đó là lý do tại sao có những huyền thoại - để biện minh cho những sự gắn kết này. Con người cần một nơi chốn và những quan điểm để định hướng bản thân. Điều này được khẳng định mạnh mẽ bởi những người nói về tầm quan trọng của cội rễ. Vấn đề hòa hợp với người ngoài là thứ yếu và đôi khi xung đột với việc có một nội bộ, một dân tộc, một nền văn hóa, một cách sống xác quyết. Một sự hẹp hòi rất lớn không hề mâu thuẫn với sự khỏe mạnh của một cá nhân hay một dân tộc, trong khi quá mở thì rất khó để tránh tan lìa. Sự gắn kết chặt chẽ giữa cái tốt và cái thuộc về chính mình, sự từ chối nhìn nhận rằng hai điều này có gì khác nhau, hình dung rằng vũ trụ có một vị trí đặc biệt cho dân tộc mình: tất cả những điều này dường như là điều kiện của văn hóa. Đây là điều thực sự theo sau việc nghiên cứu các nền văn hóa phi phương Tây mà người ta đề xuất cho sinh viên đại học. Nó hướng họ trở lại với sự gắn bó mãnh liệt với văn hóa của mình và rời xa khoa học, thứ giải phóng họ khỏi điều đó. Giờ đây, khoa học có vẻ như một mối đe dọa đối với văn hóa, một thứ bùa phép nguy hiểm gây bật gốc. Sinh viên lạc vào một vùng đất không thể gọi tên giữa cái tốt đẹp của sự hiểu biết và cái tốt đẹp của văn hóa, nơi mà họ bị đặt vào bởi các thầy cô của mình, những người đã không còn đủ nguồn lực để dẫn dắt họ. Sự trợ giúp phải được tìm kiếm ở nơi khác.
Các triết gia Hy Lạp là những người đầu tiên nhìn nhận vấn đề lấy dân tộc trung tâm. Những phân biệt giữa cái tốt và cái thuộc về mình, giữa tự nhiên và quy ước, giữa công bằng và hợp pháp là những dấu hiệu của sự phát triển tư duy này. Họ gắn cái tốt với việc hoàn thiện khả thể tự nhiên của con người và nhận ra rằng rất ít, nếu có, các quốc gia có những cách thức cho phép sự hoàn thiện ấy. Họ mở tinh thần của mình ra với cái tốt. Họ phải dùng cái tốt, vốn không phải là của họ, để đánh giá cái thuộc về họ. Đây là một công việc nguy hiểm vì nó có xu hướng làm suy yếu sự gắn bó toàn tâm toàn ý với những gì thuộc về mình, từ đó làm suy yếu dân tộc của họ và cũng làm họ phải đối mặt với sự phẫn nộ của gia đình, bạn bè và đồng hương. Lòng trung thành đối lập với việc truy cầu cái tốt tạo ra một sự căng thẳng không thể giải quyết. Nhưng nhận thức về cái tốt đúng như nó là và mong muốn sở hữu nó là những thành tựu nhân văn vô giá.
Đây là động lực chính đáng trong khái niệm cởi mở như chúng ta hiểu, mặc dù có nhiều động lực khác không chính đáng như thế. Con người không thể hài lòng với những gì được văn hóa của họ trao cho nếu họ muốn trở thành con người trọn vẹn. Đây là điều mà Plato muốn chỉ ra bằng hình ảnh cái hang trong Cộng hòa và bằng cách mô tả chúng ta như những tù nhân trong đó. Một nền văn hóa là một cái hang. Ông không gợi ý rằng việc đi đến các nền văn hóa khác là giải pháp cho giới hạn của cái hang. Tự nhiên nên là tiêu chuẩn để chúng ta đánh giá cuộc sống của chính mình và cuộc sống của các dân tộc khác. Đó là lý do tại sao triết học, chứ không phải lịch sử hay nhân học, là khoa học nhân văn quan trọng nhất. Sự đảm bảo giáo điều rằng tư duy bị ràng buộc bởi văn hóa, rằng không có tự nhiên đã khiến các nhà giáo dục của chúng ta tin chắc rằng cách duy nhất để thoát khỏi những giới hạn của thời đại và nơi chốn là nghiên cứu các nền văn hóa khác. Lịch sử và nhân học được các triết gia Hy Lạp hiểu là hữu ích chỉ trong phạm vi khám phá xem quá khứ và các dân tộc khác có gì để đóng góp vào việc khám phá tự nhiên. Các nhà sử học và nhân học cần kiểm tra các dân tộc và quy ước của họ, như Socrates đã làm với các cá nhân, và đi xa hơn họ. Những nhà khoa học này vượt trội so với đối tượng nghiên cứu của họ vì họ thấy một vấn đề mà người khác từ chối thấy, và họ theo đuổi để giải quyết nó. Họ muốn có khả năng đánh giá bản thân và người khác.
Quan điểm này, đặc biệt là nhu cầu hiểu biết về tự nhiên để có một tiêu chuẩn, nằm ẩn mình một cách khó chịu dưới các khoa học nhân văn của chúng ta, dù người ta có muốn hay không, và giải thích cho những mâu thuẫn và nghịch lý mà tôi đã chỉ ra. Họ muốn biến chúng ta thành những sinh vật văn hóa bằng các công cụ được phát minh để giải phóng chúng ta khỏi văn hóa. Sự cởi mở trước đây từng là đức tính cho phép chúng ta tìm kiếm cái tốt bằng lý trí. Giờ thì nó có nghĩa là chấp nhận mọi thứ và phủ nhận sức mạnh của lý trí. Việc theo đuổi sự cởi mở không kiềm chế, không suy nghĩ, không nhận ra vấn đề chính trị, xã hội, hay văn hóa vốn có của cởi mở như là mục tiêu của tự nhiên, đã khiến khái niệm cởi mở trở nên vô nghĩa. Chủ nghĩa tương đối văn hóa hủy hoại cả cái tốt lẫn cái thuộc về mình. Điều đặc trưng nhất của phương Tây là khoa học, được hiểu như cuộc truy tìm để biết tự nhiên và do đó làm giảm giá trị của quy ước - tức là văn hóa hay phương Tây được hiểu chỉ như một nền văn hóa - để ủng hộ những gì có thể tiếp cận được với tất cả con người thông qua năng lực phổ quát và đặc thù của con người, lý trí. Những nỗ lực mới nhất của khoa học nhằm nắm bắt tình thế con người - chủ nghĩa tương đối văn hóa, chủ nghĩa lịch sử, phân biệt khăng khăng giữa sự vị và giá trị - chính là sự tự sát của khoa học. Văn hóa, tức là sự đóng kín, ngự trị tối cao. Điều chúng ta dạy hóa ra lại là phải cởi mở đối với sự đóng kín.
Chủ nghĩa tương đối văn hóa đã thành công trong việc phá hủy những tuyên bố phổ quát hoặc đặc thù cho sự thống trị trí tuệ của phương Tây, khiến nó chỉ còn là một trong vô vàn nền văn hóa. Tức là đã có sự bình đẳng trong cộng hòa của các nền văn hóa. Đáng tiếc là phương Tây được định nghĩa chính bởi nhu cầu biện minh cho lối sống và giá trị của mình, bởi nhu cầu khám phá tự nhiên, bởi nhu cầu triết học và khoa học. Đây là mệnh lệnh văn hóa của nó. Bị tước mất điều đó, nó sẽ sụp đổ. Hoa Kỳ là một trong những thành tựu cao nhất và cực đoan nhất của việc dùng lý trí để truy cầu cuộc sống tốt đẹp theo tự nhiên. Cấu trúc chính trị của nó có thể tồn tại là nhờ vào việc sử dụng các nguyên tắc lý trí của quyền tự nhiên để thành lập một dân tộc, từ đó thống nhất cái tốt với cái thuộc về mình. Hay nói cách khác, chế độ được thiết lập ở đây hứa hẹn tự do không bị giới hạn cho lý trí - không phải cho mọi thứ một cách bừa bãi, mà là cho lý trí, tự do cốt yếu biện minh cho những tự do khác; dựa trên đó và vì đó, nhiều sai lệch được dung thứ. Một sự cởi mở phủ nhận yêu sách đặc biệt của lý trí sẽ làm nổ tung động lực chính giữ cho cơ chế của chế độ này hoạt động. Và chế độ này, trái với tất cả các tuyên bố ngược lại, đã được lập ra chính để vượt qua chủ nghĩa dân tộc trung tâm, vốn không phải là một khám phá của khoa học xã hội.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là bài học mà sinh viên rút ra từ những sự học hành của họ hoàn toàn không đúng sự thật. Lịch sử và việc nghiên cứu các nền văn hóa không dạy hay chứng minh rằng các giá trị và văn hóa là tương đối. Trái lại, đó là một tiền đề triết học mà hiện nay chúng ta mặc định trong việc nghiên cứu chúng. Tiền đề này không được chứng minh mà chỉ được khẳng định một cách giáo điều vì các lý do chủ yếu mang tính chính trị. Lịch sử và văn hóa được giải thích dưới ánh sáng của tiền đề đó, rồi được cho là chứng minh nó. Nhưng thực tế rằng đã có nhiều quan điểm khác nhau về điều tốt và điều xấu ở những thời gian và địa điểm khác nhau hoàn toàn không chứng minh được rằng không tồn tại điều gì là đúng hơn hay vượt trội so với các quan điểm khác. Nói rằng nó chứng minh được điều đó thì cũng vô lý như nói rằng sự đa dạng của quan điểm trong một cuộc tranh luận ở trường đại học chứng minh rằng không có sự thật. Sự khác biệt về ý kiến chỉ đặt ra câu hỏi điều gì là đúng hoặc chính xác, chứ không phải là loại bỏ câu hỏi đó. Phản ứng tự nhiên là cố gắng giải quyết sự khác biệt, xem xét các nguyên do và luận điểm của từng ý kiến.
Chỉ có niềm tin phi lịch sử và phi nhân tính rằng các ý kiến được giữ mà chẳng có lý gì mới ngăn cản việc thực hiện hoạt động thú vị này. Con người và các quốc gia luôn nghĩ rằng họ có lý, và có thể hiểu rằng trách nhiệm quan trọng nhất của các nhà sử học và khoa học xã hội là làm sáng tỏ và kiểm chứng những cái lý đó. Ai cũng biết là có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều mâu thuẫn về chuyện cái gì là tốt, và mỗi quốc gia lại có một ý riêng. Herodotus nhận thức ít nhất cũng đầy đủ như chúng ta về sự đa dạng phong phú của các nền văn hóa. Nhưng ông coi quan sát đó là một lời mời để điều tra tất cả những nền văn hóa đó, xem điều gì là tốt và xấu ở từng trường hợp và xem từ đó có thể rút ra được gì về cái tốt và cái xấu phổ quát. Những người theo chủ nghĩa tương đối hiện đại thì lấy cùng quan sát đó làm bằng chứng rằng một cuộc điều tra như vậy là bất khả và rằng chúng ta phải tôn trọng tất cả. Do đó, sinh viên và cả chúng ta bị tước đi sự hứng thú từ việc khám phá sự đa dạng, xung lực lớn của Odysseus, người mà, theo Dante, đã du hành khắp thế giới để thấy được những đức hạnh và thói xấu của con người. Lịch sử và nhân học không thể cung cấp câu trả lời, nhưng chúng có thể cung cấp tư liệu để lý trí có thể làm việc.
Tôi biết rằng con người thường mang theo những định kiến của mình khi đánh giá các dân tộc xa lạ. Tránh điều đó là một trong những mục đích chính của giáo dục. Nhưng cố gắng ngăn cản điều đó bằng cách loại bỏ thẩm quyền của lý trí con người thì không khác gì khiến cho chính công cụ có thể điều chỉnh định kiến trở nên vô hiệu. Sự cởi mở đích thực đi cùng với khát khao tìm hiểu, và do đó là nhận thức về sự ngu dốt. Phủ nhận khả năng biết điều gì là tốt hay xấu mới là đàn áp sự cởi mở đích thực. Một thái độ lịch sử đúng đắn sẽ dẫn đến việc nghi ngờ chính chủ nghĩa lịch sử (quan điểm cho rằng mọi tư tưởng đều là sản phẩm thời đại của mình và không thể vượt qua nó) và coi đó là một đặc thù của lịch sử đương đại. Chủ nghĩa lịch sử và chủ nghĩa tương đối văn hóa thực chất là phương tiện để tránh kiểm tra những định kiến của chính chúng ta và tự hỏi, chẳng hạn, liệu con người có thực sự bình đẳng hay quan điểm đó chỉ là một định kiến dân chủ.
Người ta có thể tự hỏi phải chăng sự khôn ngoan về lịch sử và nhân học của chúng ta chỉ là một phiên bản được ngụy trang và khá mơ hồ cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của chủ nghĩa Lãng mạn, vốn cũng rất thuyết phục và bi thảm vào đầu thế kỷ XIX và tạo ra khát khao hướng về quá khứ xa xôi hoặc những vùng đất mới, cùng với một nghệ thuật để thỏa mãn khát khao đó. Theo lập luận ấy, là những người thừa kế khoa học, chúng ta biết nhiều hơn những dân tộc của các thời đại và nơi chốn khác bị buộc vào những định kiến và ảo tưởng phi khoa học của họ, tuy họ lại hạnh phúc hơn. Thế lưỡng nan này được thể hiện trong sự phân biệt giữa nghệ thuật ngây thơ và nghệ thuật của tình cảm[13]. Levi-Strauss là một nhân chứng không tự nguyện cho giả thuyết của tôi. Với một thứ chủ nghĩa Rousseau tiêu hóa nửa vời, ông cho rằng nền văn hóa tốt nhất được tìm thấy ở đúng thời điểm con người rời bỏ trạng thái tự nhiên và sống cùng nhau trong các cộng đồng đơn giản, chưa thực sự có sở hữu tư nhân hoặc sự bùng nổ của sự tự luyến (amour-propre)[14]. Nhưng một quan điểm như vậy cần có khoa học, mà khoa học lại cần một xã hội phát triển và tha hóa để xuất hiện. Bản thân khoa học cũng là một trong những biến thể của amour-propre, tình yêu sự bất bình đẳng. Như vậy, quan điểm này đồng thời cũng là một nỗi u sầu về khoa học. Nhưng cái thế lưỡng nan ấy chỉ có vẻ có lý nếu chúng ta chắc chắn rằng mình biết rất nhiều, mà điều này lại phụ thuộc vào khoa học. Từ bỏ sự chắc chắn đó, có lẽ chúng ta sẽ sẵn sàng kiểm tra những niềm tin của những dân tộc hạnh phúc hơn để xem liệu họ có biết điều gì mà chúng ta không biết hay không. Có lẽ thiên tài của Homer không ngây thơ như Schiller nghĩ. Nếu chúng ta từ bỏ niềm kiêu hãnh về tri thức, niềm kiêu hãnh hiện ra với dáng vẻ của sự khiêm tốn tự ý thức được sự ngu dốt của mình, cuộc thảo luận sẽ mở ra một chiều mới. Như vậy, chúng ta có thể đi theo một trong hai hướng: từ bỏ khoa học, hoặc tái lập đời sống lý thuyết như là một đời sống khả dĩ và tự thân sản sinh ra hạnh phúc tự đủ trong chính nó. Tư thế Lãng mạn là cách để không đối mặt với những điểm cực này, dưới lớp ngụy trang của sự chịu đựng anh hùng. Việc chúng ta dao động qua lại giữa khoa học và văn hóa là một hệ quả bị tầm thường hóa của tư thế đó.
Tóm lại, có hai loại cởi mở: cởi mở của sự thờ ơ - được thúc đẩy với hai mục đích là hạ thấp lòng kiêu hãnh trí tuệ của chúng ta và cho phép chúng ta trở thành bất cứ thứ gì mình muốn, miễn là không muốn trở thành những người tìm kiếm hiểu biết - và cởi mở mời gọi chúng ta bước vào cuộc truy tìm hiểu biết và xác tín, với những ví dụ tuyệt vời từ lịch sử và các nền văn hóa khác nhau để chúng ta khám phá. Loại cởi mở thứ hai khuyến khích chính thứ khao khát làm sống dậy tinh thần của mọi sinh viên nghiêm túc, đồng thời làm họ trở nên thú vị. Đó là khao khát của “Tôi muốn biết điều gì là tốt cho mình, điều gì sẽ khiến tôi hạnh phúc” - trong khi loại cởi mở thứ nhất làm thui chột khao khát ấy.
Cởi mở, như hiện nay được hiểu, là cách biến sự phục tùng đối với bất cứ điều gì mạnh nhất và sự tôn thờ thành công tầm thường trở thành có vẻ có nguyên tắc. Đó là mưu mẹo của chủ nghĩa lịch sử để loại bỏ mọi kháng cự đối với lịch sử, mà trong thời đại của chúng ta có nghĩa là dư luận, khi mà dư luận đã nắm quyền. Bao nhiêu lần tôi đã nghe việc từ bỏ các yêu cầu học ngôn ngữ, triết học hoặc khoa học được ca ngợi như một tiến bộ của cởi mở. Đây chính là điểm hai loại cởi mở đối lập nhau. Để thực sự mở tinh thần ra với việc tìm kiếm tri thức, có những điều cần phải biết mà hầu hết người ta không muốn bỏ công học và coi là nhàm chán, chẳng liên quan. Ngay cả đời sống lý trí cũng thường không hấp dẫn; và tri thức vô dụng, tức là tri thức không có lợi ích rõ ràng cho sự nghiệp, không có chỗ trong hình dung của sinh viên về chương trình học. Một trường đại học kiên định với sự học tập nhân văn tất nhiên sẽ trông có vẻ đóng kín và cứng nhắc. Nếu cởi mở có nghĩa là “hòa mình vào dòng chảy”, thì nó dĩ nhiên là sự thích ứng với hiện tại. Hiện tại này đóng kín với mọi nghi ngờ về những điều cản trở sự đẩy mạnh các nguyên tắc của nó, đến mức sự cởi mở không giới hạn sẽ chỉ còn có nghĩa là quên đi những sự thay thế bị khinh miệt cho hiện tại - những tri thức giúp chúng ta nhận ra điều gì trong hiện tại là đáng nghi ngờ. Còn cởi mở đích thực thì nghĩa là đóng kín mình với mọi cám dỗ khiến chúng ta thấy quá thoải mái với hiện tại.
Khi còn là một giảng viên trẻ ở Cornell, tôi đã từng tranh luận về giáo dục với một giáo sư tâm lý học. Ông ấy nói rằng nhiệm vụ của mình là loại bỏ các định kiến trong sinh viên. Ông hạ gục chúng như những quân cờ. Tôi bắt đầu tự hỏi ông thay thế những định kiến đó bằng gì. Ông dường như không có hình dung rõ ràng về chuyện đối lập của định kiến có thể là gì. Ông làm tôi nhớ đến cậu bé đã trang trọng thông báo với tôi khi tôi bốn tuổi rằng không có Ông già Noel, và muốn tôi tắm mình trong ánh sáng rực rỡ của sự thật. Liệu giáo sư này có biết những định kiến đó có ý nghĩa gì đối với sinh viên và việc tước bỏ chúng sẽ có tác động ra sao không? Ông có tin rằng có những sự thật có thể hướng đạo cho cuộc sống của họ như những định kiến từng làm được không? Ông có nghĩ đến việc làm thế nào để gieo vào sinh viên tình yêu cần thiết với sự thật để tìm kiếm những niềm tin không định kiến, hay ông chỉ biến họ thành những người thụ động, buồn bã, thờ ơ, và phụ thuộc vào những thẩm quyền như ông hoặc những tư tưởng đương đại nào mạnh nhất? Cậu bé đã cho tôi biết về Ông già Noel chỉ đang khoe khoang, chứng tỏ sự vượt trội của mình với tôi. Cậu ta không tạo ra Ông già Noel - vốn phải ở đó đã để có thể bị bác bỏ. Hãy nghĩ đến tất cả những gì chúng ta học được về thế giới từ niềm tin của con người vào những Ông già Noel, và tất cả những gì chúng ta học được về tâm hồn từ những người tin vào chúng. Ngược lại, việc loại bỏ một cách có phương pháp ra khỏi tâm hồn trí tưởng tượng thứ đã chiếu các vị thần và anh hùng lên bức tường của cái hang, chẳng hề làm giàu thêm hiểu biết về tâm hồn; nó chỉ làm nó què quặt và tê liệt.
Tôi đã bảo với vị giáo sư tâm lý rằng cá nhân tôi cố gắng dạy sinh viên những định kiến, vì ngày nay - với thành công chung của phương pháp của ông - họ đã học cách nghi ngờ niềm tin ngay cả trước khi họ tin vào bất cứ điều gì. Nếu không có những người như tôi, ông ấy sẽ thất nghiệp. Descartes có cả một thế giới tuyệt vời của những niềm tin cũ, của kinh nghiệm tiền khoa học và những biểu hiện của trật tự sự vật, những niềm tin vững chắc và thậm chí cuồng tín, trước khi ông bắt đầu sự nghi ngờ hệ thống và triệt để của mình. Người ta phải có kinh nghiệm về chuyện thực sự tin trước khi có thể cảm nhận sự giải phóng đầy phấn khích. Vì vậy, tôi đề xuất một sự phân công lao động, trong đó tôi sẽ giúp trồng những bông hoa trên cánh đồng và ông ấy có thể cắt chúng đi.
Định kiến, những định kiến mạnh, là các hình dung về cách mà sự vật vận hành. Chúng là những suy đoán về trật tự và do đó, con đường dẫn đến tri thức là thông qua những ý sai. Thật vậy, sai lầm là kẻ thù của chúng ta, nhưng chỉ có nó mới chỉ ra sự thật và do đó xứng đáng được chúng ta tôn trọng. Tâm trí không có định kiến ngay từ đầu là tâm trí trống rỗng. Nó chỉ có thể được hình thành bởi một phương pháp không nhận thức được từ đầu rằng việc nhận ra một định kiến là định kiến khó khăn đến mức nào. Chỉ có Socrates, sau một đời lao động không ngừng, mới biết rằng mình chẳng biết gì. Giờ thì học sinh trung học nào cũng biết điều đó. Làm sao việc này lại thành ra dễ dàng như vậy? Điều gì giải thích cho sự tiến bộ đáng kinh ngạc của chúng ta đây? Có phải kinh nghiệm của chúng ta đã bị làm cho nghèo rỗng đến thảm thương bởi đủ thứ phương pháp, trong đó cởi mở chỉ là phương pháp mới nhất, đến mức chẳng còn lại gì đáng kể để chống lại sự phê bình, và do đó thực sự không còn thế giới nào chúng ta thực sự không biết nữa? Phải chăng chúng ta đã đơn giản hóa tâm hồn đến mức nó giải thích nó chẳng còn gì khó khăn nữa? Với con mắt của sự hoài nghi giáo điều, tự nhiên, với tất cả sự phong phú trong các biểu hiện của nó, có thể có dáng vẻ của một định kiến. Thế vào chỗ tự nhiên, chúng ta đặt ra một mạng lưới xám xịt các khái niệm phê phán, những khái niệm được phát minh để giải thích các hiện tượng của tự nhiên nhưng lại bóp nghẹt những hiện tượng ấy và do đó hủy luôn lý do tồn tại của chính mình. Có lẽ nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là hồi sinh những hiện tượng này để lại có một thế giới phong phú, nơi chúng ta lại có thể đặt câu hỏi và triết lý. Điều này, với tôi, chính là thách thức cho cuộc giáo dục của chúng ta.
(còn nữa)
Anh Hoa dịch
[1] Vụ Salem được nhắc đến ở đây là “Salem Witch Trials” (1692-1693), một loạt các phiên tòa diễn ra tại thuộc địa Massachusetts, Hoa Kỳ, trong đó nhiều người, chủ yếu là phụ nữ, bị buộc tội là phù thủy. Vụ việc nổi tiếng vì sự cuồng loạn, bất công, và thiếu bằng chứng xác đáng, dẫn đến các vụ xét xử sai lệch và kết án tử hình cho một số người vô tội.
[2] Oliver Wendell Holmes Jr. (1841-1935) là một thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ từ năm 1902 đến 1932, nổi tiếng với những quan điểm có ảnh hưởng lớn về tự do ngôn luận trong luật pháp Hoa Kỳ. Ông được biết đến qua phán quyết trong vụ Schenck v. United States (1919), trong đó ông đưa ra khái niệm về “nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu” (“clear and present danger”), dùng để giới hạn quyền tự do ngôn luận khi ngôn luận đó có thể gây ra mối nguy hiểm trực tiếp đến trật tự xã hội. Holmes được coi là một trong những nhà tư tưởng quan trọng về tự do ngôn luận và vai trò của pháp luật trong việc duy trì trật tự công cộng trong các xã hội dân chủ.
[3] Abraham Lincoln cho rằng hình thức dân chủ đại nghị - cái ý rằng các tiểu bang nên quyết định riêng về vấn đề nô lệ của mình - là không thể chấp nhận được vì nó vi phạm nguyên tắc bình đẳng tự nhiên của con người. Xem Diễn văn Nhà ga Peoria năm 1854 và Diễn văn tại Cooper Union năm 1860.
[4] Charles Beard (1874-1948) và Carl Becker (1873-1945) là hai nhà sử học nổi tiếng người Mỹ. Charles Beard nổi bật với An Economic Interpretation of the Constitution of the United States (1913), trong đó ông lập luận rằng các Người Lập quốc đã thiết kế Hiến pháp chủ yếu để bảo vệ lợi ích kinh tế của tầng lớp thượng lưu. Cách tiếp cận này chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Marxist, tập trung vào vai trò của xung đột giai cấp trong lịch sử.
[5] Carl Becker, trong tác phẩm The Heavenly City of the Eighteenth-Century Philosophers (1932), sử dụng Sử luận (Historicism) để phê phán các lý tưởng Khai sáng, cho rằng chúng không hơn gì những ảo tưởng và rằng lịch sử phải được hiểu theo các bối cảnh văn hóa và tư tưởng thay đổi theo thời gian. Những cách tiếp cận này đã dần trở thành thông dụng trong nghiên cứu lịch sử Mỹ
[6] John Stuart Mill (1806-1873), trong tác phẩm On Liberty (1859), lập luận rằng tự do cá nhân là giá trị tối cao, và xã hội chỉ nên can thiệp khi hành động của một cá nhân gây hại cho người khác. John Dewey (1859-1952), triết gia người Mỹ, cũng cổ vũ cho một dạng liberalism nhấn mạnh vào tính linh hoạt, thí nghiệm xã hội, và giáo dục tiến bộ, thay vì dựa vào các quyền tự nhiên hay các quy tắc đạo đức bất biến.
[7] Robert Dahl (1915-2014) là một nhà khoa học chính trị nổi tiếng, có đóng góp lớn cho lý thuyết dân chủ hiện đại. Trong Lời dạo cho lý thuyết dân chủ (1956), Dahl lập luận rằng dân chủ phải dựa trên sự bảo vệ quyền lợi của các nhóm thiểu số, và ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra một hệ thống chính trị trong đó các nhóm và cá nhân có sự cam kết và nhiệt huyết đặc biệt cần được quan tâm hoặc trao các quyền đặc biệt.
[8] Chủ nghĩa Stalin, được thực thi tại Liên Xô từ thập niên 1920 đến khi Stalin qua đời vào năm 1953, đã xây dựng một hệ thống tập thể hóa nông nghiệp và kiểm soát nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế và chính trị. Các trang trại tập thể, hay kolkhoz, là một phần quan trọng trong chính sách này và được tuyên truyền rộng rãi như một mô hình kinh tế xã hội ưu việt so với chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, thực tế lại là nhiều người dân Liên Xô phải đối mặt với nạn đói và áp lực chính trị nặng nề trong hệ thống này.
[9] Margaret Mead (1901-1978), một nhà nhân chủng học nổi tiếng của Mỹ, được biết đến với các nghiên cứu về các nền văn hóa bản địa ở Thái Bình Dương và những quan điểm tiên phong về tình dục và các chuẩn mực xã hội, tác phẩm tiêu biểu là Coming of Age in Samoa (1928).
[10] Phong trào Quyền lực Đen (Black Power) nổi lên vào giữa thập niên 1960, được đại diện bởi các lãnh đạo như Stokely Carmichael và Malcolm X, nhằm nhấn mạnh sự tự quyết và lòng tự trọng của người da đen, thay vì tiếp tục đấu tranh trong khuôn khổ của phong trào dân quyền truyền thống, vốn dựa vào các nguyên tắc Hiến pháp về quyền bình đẳng.
[11] Đoàn Hòa Bình (Peace Corps) được thành lập vào năm 1961 theo lệnh hành pháp của Tổng thống John F. Kennedy, với mục tiêu thúc đẩy hòa bình và tình hữu nghị trên thế giới bằng cách cử các tình nguyện viên Mỹ đến cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, giúp người dân bên ngoài nước Mỹ hiểu về văn hóa Mỹ, và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa người Mỹ và các dân tộc khác. Qua thời gian, tổ chức này trở thành biểu tượng của nỗ lực phát triển và trao đổi văn hóa của Mỹ, dù cũng bị chỉ trích là một hình thức “chủ nghĩa đế quốc mới” vì có xu hướng áp đặt các lý tưởng và giải pháp phương Tây lên các quốc gia đang phát triển.
[12] Herodotus, nhà sử học Hy Lạp cổ đại, được biết đến với Lịch sử (Histories), trong đó ông ghi lại nhiều câu chuyện và quan sát về các nền văn minh đương thời.
[13] Johann Christoph Friedrich von Schiller, nhà triết học và nhà viết kịch người Đức, trong tác phẩm On Naive and Sentimental Poetry (1795-1796), đã phân biệt giữa nghệ thuật “ngây thơ” và nghệ thuật của tình cảm (sentimental). Schiller xem Homer là biểu tượng của nghệ thuật “ngây thơ”, một nghệ thuật tự nhiên và không bị ảnh hưởng bởi lý thuyết hoặc triết học phức tạp.
[14] Claude Lévi-Strauss, nhà nhân chủng học Pháp, đã phát triển những quan điểm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ triết học của Jean-Jacques Rousseau, đặc biệt là trong các tác phẩm như Tristes Tropiques (1955) và The Savage Mind (1962).
một ông thầy