favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Walter Savage Landor: Những đối thoại tưởng tượng

07/09/2025 23:41

 

Joseph Scaliger và Montaigne
 

Montaigne. Điều gì đã khiến ngài, thưa M. de l’Escale [gọi theo danh xưng của Julius Caesar Scaliger, cha của Joseph Justus Scaliger, vốn là một người Ý, sau khi đến Pháp định cư ông lấy tên Jules Cesar de l’Escale de Bordonis], đến thăm lão già miền núi này, nếu không phải bởi một trái tim nhân hậu? Ôi, tôi vui mừng và cảm kích biết bao khi nghe ngài nói về vùng Gascony tuyệt diệu đến thế. Ngài dậy sớm, tôi biết: ngài hẳn đã thức dậy cùng lúc với mặt trời, để đến được đây vào giờ này; phải mất nửa tiếng đi bộ thật khỏe từ chỗ con suối. Tôi có rượu vang trắng hảo hạng, và thứ pho mát ngon nhất vùng Auvergne. Ngài đã trông thấy đàn dê và hai con bò trước lâu đài.

Pierre, làm tốt lắm: đặt nó lên bàn, và nói ngài Matthew đem nướng hai con gà, nhưng rắc tiêu một con thôi. Ngài thích tiêu không, M. de l’Escale?

Scaliger. Không thích lắm.

Montaigne. Chờ đã! Khỏi cần tiêu: ta ghét tiêu. Bảo ông ta nướng thật nhiều giăm bông; mỗi lần hai lát thôi, cho đến khi nào ông ta được cứu rỗi.

Scaliger. Chỗ này, tôi thấy, là tiền sảnh thư viện của ngài: đây là sách đọc hàng ngày của ngài.

Montaigne. Lòng tin! Tôi không còn gì khác. Như vậy là nhiều lắm rồi, tôi nghĩ vậy; đó không phải cũng là ý của ngài sao?

Scaliger. Ngài có những nguồn lớn bên trong mình, và bởi vậy có thể cần đến ít sách hơn.

Montaigne. Sao cơ, thế ngài nghĩ ở đây có thể có bao nhiêu cuốn?

Scaliger. Thoạt nhìn tôi tin rằng không thể nhiều hơn tám mươi.

Montaigne. Chà! Tám mươi mà ít? – chúng ta đang nói về các loại đậu hay sao?

Scaliger. Tôi và cha tôi (tổng cộng) đã viết được suýt soát chừng ấy rồi.

Montaigne. À! Viết chúng lại là chuyện hoàn toàn khác: nhưng một người đọc sách thì chẳng cần bị thúc, hoặc thậm chí một cái vuốt nhẹ của Quý bà Huyễn hoặc của chúng ta. Ngài thấy rượu của tôi thế nào? – nó làm ra từ cái gò nhỏ đằng kia: ngài không thấy nho đâu, còn mấy cây dẻ kia nằm ở giữa gò.

Scaliger. Rượu ngon tuyệt; nhẹ, thoảng mùi thơm, với một sự tinh tế như tiếng bi bô rõ rệt của trẻ con.

Montaigne. Nó không bao giờ gây choáng, cũng không khiến căng thẳng, điều mà nhiều loại khác gây ra như thể chúng là dây đàn guitar. Tôi uống vài chai mỗi ngày, mùa đông và mùa hè, và chưa bao giờ bởi vậy mà tệ đi. Các ngài ở Agennois có loại rượu ngon của các ngài, và quả thực đó là loại ngon nhất. Tôi không ngạc nhiên khi Nghị viện của Bordeaux lại ghen tỵ với các đặc quyền của các ngài, và gọi mình là Bordeaux. Giờ thì, nếu ngài thích rượu vùng ngài hơn, cứ nói thẳng ra: tôi có vài chai trong hầm rượu, nút bần dài như gươm, và cũng bóng loáng như vậy. Tôi không biết, M. de l’Escale, liệu ngài có đặc biệt chú tâm vào những vấn đề như vậy không: không hẳn, tôi tưởng tượng, là một thẩm phán xuất chúng trong những chuyện thế này?

Scaliger. Tôi biết ba thứ: rượu, thơ, và thế giới.

Montaigne. Vậy thì ngài biết quá nhiều. Tôi không chắc mình có biết tí gì về thơ hay không; bởi tôi thích Clem Marot hơn là Ronsard. Ronsard quá đỗi cứng nhắc và oai nghiêm đến phát bực, ở những chỗ chẳng cần phải như thế; tôi thực sự nghĩ rằng người đàn ông này hẳn phải ngủ với vợ mình trong một bộ áo giáp.

Scaliger. Tôi rất vui vì ngài thích Marot. Các bản Thánh Vịnh của ông ấy gần đây đã được phổ nhạc, và bổ sung vào Tân Ước Geneva.

Montaigne. Như thế là bỏ một lát tổ ong vào thùng giấm, thứ chẳng bao giờ vì vậy mà ngọt hơn.

Scaliger. Chắc chắn, nhưng ngài không nghĩ theo lối ấy về Tân Ước chứ!

Montaigne. Ai lại nghĩ thế? Bất cứ thứ gì dịu dàng và tử tế đều ở đó. Nhưng Jack Calvin đã quẳng nhựa bẫy chim và a-xít vào đó, và chỉ cần chạm vào bìa thì ai cũng bị bẩn hoặc bỏng tay.

Scaliger. Calvin là một người vô cùng vĩ đại, tôi đảm bảo với ngài, M. de Montaigne.

Montaigne. Tôi không thích những người vĩ đại của ngài, những người ra dấu gọi tôi đến với họ, gọi tôi là con đẻ của họ, là đứa con thân yêu, là ruột gan của họ; và, giả như tôi có dịp nào đó mà nói rằng, ‘tôi xin phép, thưa ngài, được phản đối ngài một chút,’ thì họ giậm chân thét, ‘Đồ xấu xa!’ rồi huýt gọi đao phủ.

Scaliger. Ngài nói quá rồi, ông bạn đáng kính của tôi!

Montaigne. Tôi phóng đại sao, ngài de l’Escale? Thế hôm nọ ông ta đã làm gì với con quỷ tội nghiệp có cái tên kỳ lạ kia vậy? – Melancthon, hình như là thế.

Scaliger. Tôi không biết: gần đây tôi không nhận được tin gì từ Geneva.

Montaigme. Mới tối hôm qua ông trợ tế của chúng tôi cưỡi ngựa từ Lyons (có thể đoán được là ông ấy đã dành hai ngày ở đó) đến ăn tối với tôi. Ông ấy bảo tôi rằng Jack đã treo cổ và thiêu người bạn cũ của mình. Tôi không thể hùa theo trò đùa này, bởi tôi không thấy điều gì giống như thế trong Tân Ước, mà ông ta dựa vào để lập luận; và, nếu có chi tiết nào như thế, đó chẳng phải lối tôi thích hay gu của tôi.

Scaliger. Tôi không thể tin được điều này, thưa ngài thân mến. Nhưng ông ta cũng đã rất sốt sắng, thực vậy, trong việc thiêu sống tay Michael Servetus dị giáo vài năm trước.

Montaigne. Cược một nghìn ăn một, người hướng đạo của tôi nhầm tên. Ông ấy đã nghe nói về cả hai người, tôi bảo đảm với ông ấy như vậy, và đã nghĩ với đầy đủ lương tâm của ông ấy rằng cả hai trường hợp đều bị quay chín như nhau.

Scaliger. Các nhà thần học rất kiêu ngạo và cố chấp, và thực sự là những người xa rời thần học nhất, nếu thần học nghĩa là lý trí của tôn giáo, hoặc thực sự có dính líu theo cách nào đi nữa đến tôn giáo. Melancthon là nhà cải cách xuất sắc nhất; trầm lặng, điềm đạm, nhân hậu, gan dạ, trung thành trong tình bạn, nhiệt thành trong đức tin, sắc sảo trong lập luận, và uyên bác trong học vấn.

Montaigne. Ai quan tâm đến lập luận hay học vấn của ông ta đâu, nếu ông ta giống hệt phần còn lại?

Scaliger. Tôi hy vọng ngài sẽ hoãn lại phán quyết của ngài về vụ việc này cho đến khi biết thêm thông tin nào chắc chắn và khả quan hơn.

Montaigne. Tôi có thể tin được Sieur Calvin đã làm vậy.

Scaliger. Tôi thì không thể. John Calvin là một người nghiêm túc, biết trật tự và có lý lẽ.

Montaigne. Theo tôi thấy ông ta chẳng có trật tự cũng như lý trí bằng ông đầu bếp nhà tôi. Mat chưa bao giờ xem một người giống như một con lợn sữa, mà đi rửa sạch, cạo lông, phết bơ và quay chín anh ta; cũng chưa bao giờ kéo vạt áo Chúa và thề rằng Người không được làm theo cách của Người.

Scaliger. Thưa M. de Montaigne, ngài đã bao giờ nghiên cứu học thuyết về sự tiền định chưa?

Montaigne. Nếu có nghiên cứu thì tôi hẳn cũng không hiểu được nó; và tôi sẽ không phá đi một hàng rào cũ chỉ để chui vào hang. Tôi chẳng muốn mất một xu một cắc nào để biết sự thật về nó, dù có bất kỳ ai có thể dạy cho tôi được. Liệu nó có khiến tôi thành thật hay hạnh phúc hơn, hay, về những sự khác, khôn ngoan hơn?

Scaliger. Tôi không biết liệu nó có thực sự giúp ích gì không.

Montaigne. Tôi phải là một tên đặc biệt ngẫn mới quan tâm đến nó. Những bàn cãi của chúng ta về những điểm còn gây nhiều tranh luận đã khiến đất nước này tràn ngập cái đám truyền giáo và đi cắt cổ người ta. Các bên đều tỏ ra muốn biến căn nhà cũ tiện nghi này của tôi thành một pháo đài. Nếu tôi ngả về bên nào, bên kia tiêu luôn. Dạo quanh một vòng với tôi; sau một chuyến đi dài, không gì tốt hơn thế để xua tan mệt mỏi.

Scaliger. Gian bếp thật vô cùng rộng!

Montaigne. Nhìn lên trên!

Scaliger. Ngài có chừng hơn hai chục tảng thịt xông khói treo ở đó.

Montaigne. Và nếu tôi là một nhà bác học hay một tướng lĩnh, ở chỗ đó hẳn phải là mạng nhện và thuyết tiền định. Các chiến sĩ tôn giáo của ngài ở một bên, và bên kia là lòng tin cũ chân thành, thì ngay cả bà già tốt bụng đằng kia cũng không để tôi được bình yên đâu.

Scaliger. Ô, đúng thế! Họ phải vậy, tôi hy vọng.

Bà già. Sao lại cười khúc khích thế, Mat? Lão ta thì biết gì? Lão nói tiếng Pháp dở tệ, và ác như quỷ. Tạ ơn Chúa, chúng ta có một ông chủ tốt bụng, nghĩ đến chúng ta, và thông cảm với chúng ta.

Scaliger. Quả là, thưa M. de Montaigne, phòng trưng bày này thật thú vị.

Montaigne. Tôi chẳng thể cho ngài xem gì ngoài căn nhà và xưởng làm sữa của tôi. Chúng ta không có thú để săn vào tháng Năm, ngài biết đấy – trừ phi ngài muốn nhử con lửng nhốt trong chuồng. Đây là trò hiếm của ngày mưa.

Scaliger. Ngài nói thật chứ, M. de Montaige?

Montaigne. Không, không, không, tôi không thể khiến nó hoàn toàn bấn lên ngay được: chỉ để tiêu khiển chút thôi – vui đùa buổi sáng với những chú chó và các thiếu nữ.

Scaliger. Vậy thì ngài đúng là có một tính khí quá vui vẻ đến mức, ở tuổi này, ngài còn có thể đùa vui bằng cách chọc một con lửng!

Montaigne. Sao lại không? Cha của ngài, một người khôn ngoan, nghiêm nghị và lớn tuổi hơn tôi, lại đã đùa vui bằng việc chọc một giáo sư hay nhà phê bình. Ở đây tôi chẳng có con chó nhốt trong cũi nào lại đối xử với con lửng kia tệ hơn Julius dũng cảm đã xử với Cardan và Erasmus, và với hàng chục kẻ khác nữa. Chúng ta đều trẻ con, người già cũng như người trẻ; và cái răng cuối cùng của chúng ta hẳn sẵn lòng, thưa M. de l’Escale, cắm vào chỗ êm ái nào đó nơi nhà hàng xóm. Lũ trẻ ranh cười nhạo một người ngã xuống bùn; đám đàn ông còn cười nhiều hơn khi họ đẩy ông ta ngã, và nhất là khi đống bùn kia là do họ bày ra.

Hành lang không phải khá lạnh sao, phía sau nhà bếp? Chúng ta phải đi qua đó để vào cái sân tôi nuôi đám thỏ thuần hóa; cái chuồng ngay gần đây: đi nào, đi nào.

Scaliger. Cho phép tôi ngó qua một chút những lá cờ kia. Vài cái đã thật sự rất cũ rồi.

Montaigne. Thật lòng mà nói, tôi đỏ mặt khi nghĩ rằng mình chưa bao giờ chú ý đến việc chúng rách nát như thế nào. Tôi có không ít hơn ba phụ nữ trong nhà, và trong một buổi tối mùa hè, chỉ cần hai giờ đồng hồ, những mảnh rách nhất cũng có thể vá xong.

Scaliger. Chắc chắn ngài sẽ không làm vậy!

Montaigne. Tôi chẳng phải người quá tằn tiện; lẽ ra những người phụ nữa kia có thể được trả tiền nhiều hơn. Nhưng vậy là cũng được rồi, phải không?

Scaliger. Tôi nghĩ thế.

Montaigne. Thôi thì cứ để vậy.

Scaliger. Chúng nhắc tôi nhớ đến gia đình mình, chúng tôi là hậu duệ của Cane della Scala vĩ đại, Hoàng tử của Verona, và của Nhà Habsburg, như cha tôi hẳn đã kể cho ngài.

Montaigne. Thế giới có làm sao đâu nếu Cane vĩ đại có gắn bó với bà của mình hay không? Về phần Nhà Habsburg, nếu ngài có thể gom lại thật nhiều những gia tộc như thế để tạo nên một thành phố lớn hơn cả Cairo, thì họ cũng chẳng đáng để ông ấy nghiên cứu, hoặc ghi chú vào một mẩu giấy trên bàn.

 

Louis XVIII và Talleyrand
 

Louis. M. Talleyrand! Cũng giống như toàn thể gia tộc ta, toàn thể nước Pháp, toàn thể châu Âu, ta đánh giá ở mức cao nhất tài năng và sự chính trực của ngài. Ngài đã thuyết phục được ta rằng trái tim ngài, xuyên suốt giông bão của cách mạng, luôn luôn hướng về hoàng gia; và rằng ngài đã cho phép và thậm chí còn khuyến khích những ve vuốt của kẻ tiếm quyền [tức Napoleon], chỉ để rồi có thể bóp nghẹt cách thật chắc chắn và dễ dàng đế chế non nớt của hắn. Sau tất cả những chuyện này, ta không thể nào không tin tưởng ngài.

Talleyrand. Ý thức được sự chế giễu mà tính tự phụ và kiêu ngạo của hắn gây ra, kẻ tiếm quyền đã cố sức làm câm lặng và kìm nén nó bằng những cảm xúc hoàn toàn khác. Một nửa sự tàn bạo của hắn được thực thi để quyền uy phù phiếm của hắn không bị tổn thương: bởi sự khinh miệt đã thế chỗ cho nỗi kinh hoàng. Bất cứ khi nào hắn thực hiện một hành động hoặc biểu lộ một tình cảm khiến hắn trở thành đối tượng để chế giễu, hắn ngay lập tức trút giận lên kẻ khác khiến cho tê liệt bởi sự độc ác khủng khiếp ấy. Hắn sẵn sàng xóa sổ một quốc gia để dập tắt một nụ cười. Chẳng ai còn sống có thể lừa dối bệ hạ: số tuyệt đối ít những kẻ muốn làm vậy nằm rạp dưới con mắt cảnh giác và xuyên thấu kia, vốn phân biệt rõ trước phối cảnh những khu vườn của Hartwell với cung điện Tuileries và Versailles. Giống như niềm vui trỗi dậy từ tai ương, mùa xuân cũng trỗi dậy từ trong lòng mùa đông, chỉ để tiếp đón bệ hạ, mời gọi hậu duệ uy nghiêm của vị sáng lập vinh quang đến tô điểm và tiếp thêm sức sống cho chúng bởi sự hiện diện nhân từ và khoan dung của người. Những dòng suối thì thầm, bằng giọng nửa kìm nén, bài thánh ca về hòa bình được khôi phục: rừng cây cúi đầu…

Louis. Nói về rừng cây, ta e rằng tất tật thú săn đã bị giết rất thảm thương trong các khu rừng của ta.

Talleyrand. Chỉ một năm thôi chúng sẽ lại đông đúc.

Louis. Trong khi đó! M. Talleyrand! Trong khi đó!

Talleyrand. Cần phải tìm những người gác rừng trung thực, hoạt bát và cẩn thận, với số lượng đủ lớn; và ngay lập tức.

Louis. Than ôi! Giả như con cái giới quý tộc của ta được giáo dục như con cái người Anh, ta hẳn có thể khuyến khích hàng trăm người trong số ấy làm công việc này. Nhưng tài năng của họ hoàn toàn nằm trong cặp bìa những cuốn kinh nhật tụng. Những người trong số đó biết bắn súng, lại chỉ bắn được súng lục; thành tích họ đạt được ở Anh ấy, để mà có thể thách thức bất kỳ dân đảo nào tình cờ nhìn họ với vẻ ngạc nhiên hay khó chịu hiển hiện trên mặt, đang chờ được họ chú ý tới ở Paris, nhờ lòng hiếu khách nho nhỏ mà các quý ông trẻ tuổi kiêu ngạo, và các ông bố còn kiêu ngạo hơn, được phép chìa ra cho họ ở London và tại các dinh thự nông thôn. Cái chúng ta gọi là dò xét, họ gọi là lòng biết ơn, đối xử với một cố nhân như với một con nợ. Đây là sự kém lịch sự, một khiếm khuyết của nền văn minh, mà chúng ta cần đáp ứng. Ký ức của chúng ta cũng bền bỉ như của họ, thậm chí còn đa dạng hơn.

Kể từ khi trở về vương quốc của mình ta đã phải chịu đựng mọi sự sỉ nhục lớn từ những người dân thiếu suy nghĩ này. Một tạy Canova, một nhà điêu khắc ở Rome, đã đến thăm Paris nhân danh đức Giáo hoàng, với tư cách là sứ giả của ngài, và khăng khăng đòi được nhượng lại các bức tượng và tranh đã được đem vào Pháp bởi quân đội Pháp. Ông ta khởi sự dời chúng ra hành lang: ta đã bảo ông ta rằng ta sẽ không bao giờ đồng ý: ông ta đáp, chỉ cần ông ta có những gì của Wellington là đủ rồi. Bởi vậy, khi Wellington lại trình diện ở Tuileries sau đó, ta đã quay lưng lại với ông ta ngay trước toàn thể triều đình. Hãy để cho người Anh và các đồng minh của họ biết, rằng ta nợ sự khôi phục của ta không phải ở nơi họ, mà một phần nơi Chúa và phần kia nơi Thánh Louis. Họ và quân đội của họ chỉ là những công cụ thô bạo trong tay tổ tiên và người cầu bầu cho ta.

Talleyrand. May mắn thay, kẻ chinh phục nước Pháp lại không giống như kẻ chinh phục Tây Ban Nha. Peterborough (thần rùng mình với ý này) hẳn sẽ ra lệnh cho một toán lính đưa bệ hạ lên cỗ xe của ngài, và đặt ngài trở lại Hartwell. Tay người Anh ấy man rợ đến mức sẽ làm điều đó không chỉ với lối miễn trừ mọi hậu quả, mà còn với vẻ hoan nghênh.

Louis. Nhưng quốc vương của nước hắn… ngài quốc vương có chịu được không?

Talleyrand. Than ôi! Thưa bệ hạ! So với những người như thế, các quốc vương thì có là gì, khi mà người dân là thẩm phán? Wellington có thể điều khiển quân đội: Peterborough có thể thống lĩnh các quốc gia.

Louis. Tạ ơn Chúa! Chúng ta không còn những kẻ thú vật như thế trên trái đất nữa. Vị tướng tài giỏi nhất thời chúng ta (giống như Wellington) chẳng thấy bất cứ gì khác ngoài chiến trường; và ông ta rất coi trọng kỷ luật, đến nỗi nếu như ta có sai đánh đòn ông ta trước mặt quân đội đồng minh, ông ta cũng chẳng than phiền hay nhún vai; ông ta chỉ cần viết một công văn.

Talleyrand. Nhưng binh lính của ông ta sẽ thực thi bản tuyên ngôn của Công tước Brunswick, và Paris sẽ chìm xuống hầm mộ của mình. Không ai ít được yêu mến lại được tuân lệnh tốt đến vậy: và không một người nào ở Anh, dù thuộc đảng nào, dù là công dân hay quân nhân, lại chẳng thà chết hơn là thấy ông ta bị thất sủng. Sự kiên định, liêm chính, ôn hòa của ông ta, đặt ông ta đối lập với Napoleon còn hơn cả trên chiến trường Waterloo. Kìa phòng tuyến Torres Vedras cao ngạo của ông ta, chẳng có kẻ thù nào dám công phá suốt toàn bộ chiều dài của nó.

Louis. M. Talleyrand! Liệu có phải phép khi ca ngợi một kẻ thù và một người Anh theo cách này không?

Talleyrand. Xin thứ lỗi! Thưa Bệ hạ! Thần xin nhận lời khiển trách. Xin tha thứ cho cơn bốc đồng của thần, vì đã ưa thích những phẩm chất mà nhờ chúng, dẫu đó là phẩm chất của một người Anh, thần lại được đặt dưới sự sai khiến của bệ hạ.

Louis. Từ giờ chúng ta sẽ phải nghiêm túc. Wellington cùng quân đồng minh đã làm gián đoạn và chiếm đóng chúng ta. Ta sẽ ngay lập tức tự tay viết thư cho Hầu tước Buckingham, yêu cầu ông ấy gửi cho ta năm trăm trứng gà lôi. Ta đã được khôi phục ngai vàng, M. Talleyrand! Vậy mà trong tình trạng thế nào kia chứ! Chẳng có một con gà lôi nào trên bàn! Ta phải phó thác cho lòng thương xót của bọn ngoại quốc, ngay cả một con gà lôi! Khi đã viết xong thư, ta sẽ sẵn sàng trao đổi với ngài về công việc mà ta đã mong sự hiện diện của ngài. (Viết.) Đây; đọc nó đi. Cho ta biết ý kiến: có phải là một bức thư mẫu mực không?

Talleyrand. Nếu sự mê hoặc của ngôn từ có thể sao chép, bức thư này đã làm được. Nhưng những gì dự định gây niềm vui có thể kết thúc trong tai họa: và có những từ, vốn không thể tiếp cận bởi khoảng cách và sự cao cả, có thể làm úa tàn vòng nguyệt quế trên vầng trán văn chương cao quý nhất.

Louis. Thật duyên cái cách diễn đạt của ngài, M. Talleyrand! Thực sự không có cái duyên dáng nhỏ nhặt trong đó. Niêm phong thư của ta: gửi đến Hầu tước Buckingham ở Stowe. Chờ đã: mở nó ra: không, không: hãy viết một bức khác bằng tên ngài: bảo cho ông ấy biết ngài vô cùng chắc chắc rằng ta sẽ hài lòng đến thế nào, nếu như ông ấy hồi đáp kèm theo năm mươi hay một trăm cả chim lẫn trứng. Tim ta tan nát, M. Talleyrand! Nó gần như bị moi ra khỏi lồng ngực của ta. Ta không còn bận tâm, không còn nghĩ ngợi chuyện gì khác, ngày cũng như đêm, ngoài ngoài hạnh phúc của thần dân ta. Các đồng minh, những kẻ đã vô cùng xấu hổ khi bỏ qua cảnh khốn cùng căn bếp của ta, dường cương quyết chìa lỗ tai điếc đặc về phía những kêu gào của nó mãi mãi; không những thế còn làm cho chúng càng lúc càng chát chúa hơn. Các đồng minh, ta ngờ vậy, đã quyết tâm thực thi mưu đồ của tên Pitt gian manh.

Talleyrand. Xin bệ hạ cho thần biết đó là kẻ nào trong số họ; bởi hắn đã tạo ra cả ngàn cái tên, tất tật đều hung hiểm, nhưng gây hại cho nước Anh thì nhiều hơn nước Pháp. Cương quyết chộp lấy thanh kiếm, trong cơn say, hắn nắm đằng lưỡi, và đâm vào chúng ta đằng chuôi, cho đến khi hắn làm gãy nó và làm chính mình kiệt sức vì hụt hơi và mất máu. Chúng ta đều mang ơn hắn bởi sức mạnh quân đội, những công trình đẫm máu của an ninh công cộng, Triều đại của Khủng bố, đế chế của kẻ soán ngôi, và cuối cùng, giống như bình yên ngay sau giông bão, quả ngọt theo sau hạt đắng, phước lành của sự khôi phục uy danh bệ hạ. Ngoại trừ sự việc này, hắn đã gây hại cho đất nước của chúng ta; nhưng trong mọi sự việc và trong mọi hành động, hắn đều tự làm hại chính mình. Chưa từng có ai mang đến thế gian này cái ác dai dẳng như thế; ít kẻ nào có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng như thế.

Louis. Vua của hắn đã đòi như thế. George III yêu chiến trận và máu.

Talleyrand. Nhưng ông ta rất thận trọng trong cơn háu đói của mình.

Louis. Ông ta nói về việc nghiền nát dân của mình cứ như ta nói về việc nghiền một con gà.

Talleyrand. Sau khi đã xé nó ra. Dân của ông ta tự chia rẽ nhau chỉ là trò nhảy cà tưng cái đùi cừu của ông ta. Không một cung điện hay công viên nào của ông ta có quang cảnh thôn dã, đem lại bình yên cho linh hồn ông ta hơn những cảnh tượng hỗn loạn. Khi những thứ ấy không còn mới nữa, giá treo cổ sẵn sàng.

Thần cầu mong những quả trứng gà lôi may mắn hơn các mưu đồ của Mr. Pitt. Chẳng nở ra được bất cứ cái gì.

Louis. Không hề: nhưng ông ta đã tuyên bố trước Nghị viện của mình, và trước châu Âu, rằng ông ta sẽ đòi bồi thường cho những gì đã qua và đảm bảo về tương lai. Đó là lời ông ta nói. Giờ thì, toàn bộ tiền và những của cải khác mà quân đội Pháp đã trưng dụng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, và bất kỳ đâu khác, khó mà đủ cho khoản bồi thường này.

Talleyrand. Nước Anh sẽ không bao giờ nhận được từ chúng ta một phần mười số tiền ấy.

Louis. Một phần mười! Họ có thể đòi một phần tư hay một phần ba, và khiến chúng ta phải ngạc nhiên về sự ôn hòa và khoan dung ủa họ.

Talleyrand. Vấn đề phải được giải quyết ngay lập tức, trước khi họ có thời giờ để tính toán hoặc suy nghĩ. Một nền hòa bình mới khiến nước Anh phát rồ đến cực điểm giống như một cuộc chiến mới làm phát rồ nước Pháp. Họ đã cử bộ trưởng sang đây… hay đúng hơn là bản thân ông thủ tướng của họ đã đến đây giải quyết tất tật mọi việc… một người thiếu hiểu biết nhất và thiển cận nhất có thể tìm thấy ở bất kỳ vị trí nào trong bất kỳ cơ quan công quyền nào trên toàn châu Âu. Hắn phải được xem là tài phán của họ: chúng ta phải nói chuyện với hắn về việc khôi phục, tái tạo đất nước ấy, việc bảo tồn nó, dẫn dắt nó, điều mà (chúng ta phải khẳng định với bàn tay nhét trong vạt áo) chỉ mình hắn mới có thể thực hiện. Chúng ta phải khuếch trương sự hào phóng của hắn (và hắn quả thực hào phóng), và sẽ không có gì mà hắn không nhượng bộ.

Louis. Nhưng nếu họ không đến đây trong vòng một tuần, chúng ta sẽ lỡ mùa. Đáng lẽ ta phải được ăn một con gà lôi tơ vào giữa tháng bảy. Ô, nhưng ngài đang nói với ta về chuyện khác, và có lẽ đó là việc hệ trong hơn; phải, chắc chắn rồi. Nếu khoản bồi thường này được trả cho nước Anh, thì ngân sách nội các của chúng ta, phẩm cách gia tộc và tùy tùng của ta sẽ ra sao đây?

Talleyrand. Thần xin đảm bảo với bệ hạ, nước Anh sẽ không bao giờ nhận đủ… thần đã nói là một phần mười sao?... Thần nói rằng họ sẽ không bao giờ nhận được một phần năm mươi số tiền họ đã chi cho cuộc chiến chống lại chúng ta. Sẽ là trái với mọi lý lẽ, và vượt quá mọi thói thường của họ nếu mong đợi nó. Thật ra việc này sẽ đặt họ vào tình trạng hầu cũng tốt đẹp giống như chúng ta. Ngay cả khi bị đánh bại họ cũng khó có thể hy vọng có số tiền ấy: trong ba thế kỷ qua họ chưa bao giờ đòi nó khi chiến thắng. Trong số tất tật những kẻ khốn khổ bởi chiến tranh, chúng ta sẽ là kẻ có lợi nhất.

Louis. Người Anh là những kẻ biết tính toán và buôn bán.

Talleyrand. Những tên đầu cơ man rợ, bọn cờ bạc trong thương mại, những kẻ liều lĩnh vung tay nhiều hơn sổ sách của họ ghi nhận. Nước Anh sẽ mất vài năm để tính toán tổng số mà nó thua lỗ.

Louis. Nhưng họ, cùng với các đồng minh của họ, sẽ khăng khăng đòi chúng ta nhượng lại các vùng mà Louis XIV người tiền nhiệm của ta đã sáp nhập vào vương quốc của ngài ấy. Hãy hoàn toàn chắc chắn rằng không gì khác ngoài Alsace, Lorraine, và Franc Comté, sẽ làm thỏa mãn các hoàng tử Đức. Họ phải khôi phục tiếng Đức trong những vùng đó: bởi ngôn ngữ là ranh giới thực sự của các quốc gia, và sẽ luôn luôn có bất đồng ở đâu tồn tại khác biệt ngôn ngữ. Chúng ta cũng phải sẵn sàng trao trả phần còn lại cho Hà Lan; chứ không phải cho Anh, vốn đã khước từ họ dưới triều đại Elizabeth: họ chỉ muốn Dunkirk, và họ sẽ có Dunkirk.

Talleyrand. Điều này có vẻ hợp lý: bởi vậy sẽ không bao giờ xảy ra. Khoa ngoại giao, một khi nhượng bộ trước những lập luận đơn giản mà lý lẽ ngay thẳng thúc giục chống lại nó, sẽ mất đi chức năng, sự hiệu quả, và danh tiếng của nó.

Louis. Ta sẽ không từ bỏ các cuộc chinh phạt của chúng ta tại Đức, nếu ta có thể.

Talleyrand. Không có gì dễ hơn. Hoàng đế Alexander có thể bị thuyết phục rằng nước Đức thống nhất và toàn vẹn, như nó đã trở thành, hẳn là một kình địch đáng gờm của Nga.

Louis. Ta thấy rằng Ba Lan sẽ còn hơn thế nữa, với các thể chế tự do của nó.

Talleyrand. Chỉ có một chính khách trong số những người tụ họp tại Paris tin rằng các thể chế của Ba Lan sẽ tiếp tục tự do; và ông ta muốn nó không được như thế hơn; nhưng ông ta lại ra điều kiện cho nó, để làm vừa lòng và gây bối rối cho người dân Anh.

Louis. Điều này ta thấy rõ. Ta rất muốn cử Blacas sang Stowe. Ta có thể giao phó cho ông ta trông nom các thùng và chuồng, đảm bảo cho đám gà lôi có đủ không khí và nước, và ngài thống đốc Calais sẽ tìm được chỗ thích hợp để nhốt chúng, cấm tiệt đánh trống hay làm rầy chúng, cả sáng lẫn tối. Đêm tiếp theo đó, theo tính toán của ta, chúng sẽ được nằm nghỉ ở Montreuil. Ta phải đến xem xét trước khi chúng được thả ra. Ta không thể tưởng tượng được tại sao các viên chức công cộng ở Anh lại thường xuyên, quả thực là lúc nào cũng kém cỏi hơn những đồng nghiệp ở Pháp, Phổ, Áo, và Nga. Ngài nghĩ sao, M. Talleyrand? Ta không bảo đám gà lôi; ý của ta là các đặc sứ ngoại giao.

Talleyrand. Chỉ có thể là vì thần đã xem xét vấn đề này thường xuyên và kỹ hơn so với mức phù hợp đối với ngài, thưa bệ hạ, nên lý do mới hiện ra trước mắt thần thật rõ ràng và hiển nhiên. Các thủ tướng, của tất tật các nước này, đều làm việc độc lập, và không bị kiểm soát trong việc lựa chọn những người đại diện. Một ông thủ tướng Pháp có lẽ sẵn sàng bị thúc đẩy bởi lợi ích gia tộc của mình; bởi vậy ông ta có thể bổ nhiệm trong số họ hàng ấy những người có địa vị không xứng đáng với chức vụ. Đối với các gia đình khác, ông ta chẳng hề quan tâm, vì biết rằng quyền lực của mình nằm ở cung điện, chứ không ở phòng câu lạc bộ. Trong khi đó ở Anh ông thủ tướng phải hòa giải các gia tộc lớn, những người thừa kế thế hệ trước của phe mình, Whig hoặc Tory. Bởi vậy ngay cả những mệnh lệnh cao nhất cũng được giao cho những kẻ ngu xuẩn và vô giá trị như Công tước xứ York và Bá tước Chatham, dẫu ông thủ tướng hoàn toàn biết rằng danh dự quốc gia đã bị hoen ố, và sự an toàn của nó bị đe dọa bởi chính những sự bổ nhiệm này. Tuy nhiên trong khi đó ông ta vẫn giữ được ghế của mình, và nuôi nấng những sinh vật thuần hóa của mình giữa đàn con.

Louis. Ngài có tính đến nguy cơ (nói về đàn con) đám gà lôi của ta sẽ bị bầm dập vì va vào vách gỗ, hay là bị say sóng không? Ta sẽ không lệnh cho các giám mục của ta cầu nguyện công khai cho những bất trắc như vậy: bởi người dân không bao giờ được phép có bằng chứng rõ ràng về việc những lời cầu nguyện của Giáo hội có thể vô hiệu: và chúng ta không thể cầu nguyện cho đám gà lôi giống như chúng ta cầu xin thời tiết đẹp, trước cái phong vũ biểu. Chúng ta phải gác lại đó. Giờ thì hãy tiếp tục với các nước khác, nếu ngài đã xong việc với nước Anh.

Talleyrand. Liên tiếp những người khôn ngoan cai trị các nước Phổ, Nga, và Áo; bởi ba nước này rất tiết kiệm, và phải đi kiếm miếng ăn bằng cách bò, ngày này qua ngày khác, qua hàng rào các nước láng giềng, và bằng cách ăn cắp một hoặc hai bó lúa, từ sớm đến tối, của trại chủ hoặc nông phu; nói cách khác, của các nước tự do và các hoàng thân nhỏ. Nước Phổ, giống như một con chó lai, sẽ lao vào chân Áo và Nga, vồ lấy họ cùng với cái bao trên vai họ, trừ phi họ cởi bao ra mà quẳng cho nó một miếng. Những cường quốc này đặc biệt chú trọng việc áp đặt nghĩa vụ bảo vệ trí tuệ; không cho ai xâm nhậm vào, và không cho ai rời khỏi đó mà không có giấy thông hành. Các nhà ngoại giao của họ cũng khôn ngoan và ôn hòa như những đồng sự ngu ngốc và đáng ghét người Anh, những kẻ, trong khi họ chìa ra một khoản tiền mật vụ không đếm xuể bằng tay trái, lại tát thẳng vào mặt họ bằng tay phải.

Louis. Chúng ta, bằng cách áp dụng một chính sách ngược lại, có được nhiều thông tin hơn, gây được sự tôn trọng lớn hơn, khiến kinh sợ nhiều hơn, và thi hành quyền lực cao hơn. Khoản phải tiêu nặng nhất của chúng ta là những nụ cười và lời nịnh hót, với một dải ruy băng và một cây thập giá chốt lại. Nhưng, phải thú nhận rằng, giữa Công tước xứ York và Bá tước Chatham, ta thấy có rất ít sự khác biệt.

Talleyrand. Tuy vậy vẫn có. Kẻ này chỉ say xỉn suốt đêm; kẻ kia chỉ ngủ suốt ngày. Tất tật sương mù tích trữ của Walcheren dường tụ lại trong trong não hắn, chỉ thỉnh thoảng phun ra vừa đủ để gây bệnh sốt phát ban và bệnh mù cho bốn ngàn quân. Một dúm thuốc súng làm gỉ sét đĩa mồi những khẩu súng hỏa mai của họ, mà họ lại quá yếu để mở ra và lau chùi. Quay sang bên đống rơm mục nát, họ thấy đám lưỡi lê ngổn ngang dựa vào bức tường xanh rì của căn hầm, nơi cả lưỡi lên lẫn binh lính đều chẳng bao giờ còn ra khỏi.

Louis. Chúng ta đau khổ vì sự hiện diện của quân đội đồng minh ở thủ đô của chúng ta: nhưng chúng ta sẽ sớm được trả thù: ông thủ tướng Anh sau hai tuần nữa sẽ quay trở về quê hương.

Talleyrand. Nước Anh đã từng say mê đến độ nhượng Malta cho chúng ta, dẫu cho năm mươi Gibraltar cũng chẳng là gì so với họ. Napoleon cười nhạo họ: họ tức tối: họ bắt đầu ngờ rằng mình đã bị lừa như tên ngốc: và họ phản bội lòng tin.

Louis. Lần đầu tiên, M. Talleyrand, và để đi theo một kẻ chưa từng tồn tại.

Talleyrand. Bây giờ chúng ta sẽ thuyết phục họ rút khỏi Sicily, vi phạm lời hứa với người dân của đảo ấy. Lòng tin, sau khi đánh mất sự trinh bạch, thách thức dư luận, và không bao giờ xấu hổ hơn thế được nữa.

Louis. Sicily là chìa khóa của Ấn Độ, Ai Cập là ổ khóa.

Talleyrand. Vậy, nếu thần thuyết phục được ông thủ tướng trả lại cho chúng ta Pondicherry thì sao?

Louis. M. Talleyrand! Ngài đã làm được những điều vĩ đại, mà chẳng hề khoe khoang. Bất cứ khi nào ngài khoe khoang, hãy nhớ rằng ngài sẽ chỉ làm những điều có thể. Người Anh hiểu rõ điều đó nghĩa là gì để cho phép chúng ta có một vị trí hầu vững vàng ở bất cứ đâu. Nếu họ cho phép một người Pháp đặt chân này lên Ấn Độ, thì toàn bộ châu Á sẽ bị lộn nhào trước cả khi chân kia kịp chạm đất. Họ có nghĩa vụ phải cấm bất kỳ ai trong chúng ta đặt chân lên các bờ biển ấy. Khó mà tin được rằng một người hội tụ ở cùng mức độ giống như Hyder-Ali về thiên tài chính trị và quân sự, sẽ lại xuất hiện một lần nữa trong nhiều thế kỷ tới; hầu hết các hoàng thân đều là chính trị gia, một số rất dũng cảm, và có lẽ không ít kẻ cả tin. Trong khi nước Anh tin cậy vào lòng trung thành của chúng ta, chúng ta có thể chỉ trích sự bội tín của họ, và nước mắt chúng ta rơi lã chã trên cây quyền trượng gãy đổ giữa bụi mù Delhi. Dù các thủ tướng của nhà vua có kém cỏi và ngu tới đâu, Công ty Đông Ấn vẫn rất am hiểu về các lợi ích của nó, và luôn cảnh giác trong khi duy trì chúng. Ta tự hỏi tại sao một nền cộng hòa thật giàu có và thông thái như vậy lại được nâng đỡ trên bộ ngực của hoàng gia. Tin ta đi, các thương gia của họ sẽ phát hoảng, và khơi dậy cả nước.

Talleyrand. Chúng ta phải làm tất cả những gì cần làm, trong khi đất nước đang tiệc tùng và mất cảnh giác. Nó sẽ thức dậy với con mắt đau nhức và tay chân cứng đờ.

Louis. Dù người Anh có hào phóng đến đâu, họ cũng sẽ không bao giờ trút cạn hầu bao.

Talleyrand. Họ đã làm xong việc ấy rồi. Bất cứ khi nào thần nhìn về phía bờ biển Anh, thần tưởng tượng mình nhìn thấy Danaïds ở đó, đang miệt mài đổ đầy vào những cái bình đục lỗ của họ, và tất tật Nereids đang liếc mắt và cười nhạo họ với ác ý ngập tràn trong tim. [Danaïds: năm mươi con gái của Danaus, khét tiếng vì giết chồng đêm tân hôn và bị trừng phạt bằng cách lấp đầy bình không đáy ở Địa ngục. Nereids: năm mươi con gái của thần biển Nereus, nổi tiếng với vẻ đẹp và lòng tốt.]

Louis. Chắc chắn họ không thể gây hại gì cho ta vào lúc này, và trong nhiều năm sắp tới: nhưng chúng ta phải luôn để mắt đến họ, và sẵn sàng khẳng định sự vượt trội của chúng ta.

Talleyrand. Chúng ta cảm nhận được điều đó. Trong năm mươi năm nữa, bằng cách kiêng chiến tranh, chúng ta có thể trả hết nợ và bổ sung kho vũ khí. Nước Anh sẽ không bao giờ rũ bỏ được gánh nặng của ông già trên vai. Bị quá tải và phiền muộn, họ sẽ bị tê liệt ở cánh tay lúc nào họ cũng giơ lên chống lại Ireland. Kiêu ngạo và ngang ngược, họ lao vào nội chiến cũng mù quáng giống như nước pháp lao vào chiến tranh ngoại quốc: và họ từ chối trao cho dân của họ những gì họ dâng cho kẻ thù.

Louis. Toàn bộ chính sách của họ nhắm tới sự an toàn của ta.

Talleyrand. Giờ đây chúng ta phải xem xét làm thế nào bệ hạ có thể tận hưởng điều đó tại quê nhà, trong suốt thời gian còn lại của triều đại ngài.

Louis. Quả thật ngài phải làm thế, M. Talleyrand! Giữa ngài và ta, nói thẳng, ta rất ít tin tưởng những thần dân trung thành của ta; lòng trung thành của họ quá cuồng nhiệt, đến nỗi thường tràn khỏi cái bình đựng nó, và là một đặc quyền của đám trinh sát và người giúp việc. Chẳng phải ta muốn làm mất lòng ngài đâu.

Talleyrand. Thật sự thần không thấy có biện pháp nào chắc chắn hơn để kiềm chế và kiểm soát họ, ngoài việc xây dựng các pháo đài và công sự, bao quanh toàn thành phố.

Louis. M. Talleyrand! Ta sẽ không nghi ngờ sự chân thành của ngài: ta tin chắc ngài đã để dành toàn bộ số tiền ấy cho ta; và còn phải trả rất nhiều khoản nợ lớn. Nhưng M. Talleyrand! Một nỗ lực như thế hẳn sẽ bị phản đối bởi bất kỳ dân tộc nào từng biết đến tự do, và càng khó khăn hơn nữa đối với dân tộc nào mơ ước được hưởng nó.

Talleyrand. Pháo đài được xây dựng khắp nơi ở Genoa.

Louis. Đúng vậy; bởi kẻ đã chinh phục nó, không phải vua của nó.

Talleyrand. Bệ hạ có cả tước hiệu và luật, giống như tổ tiên vĩ đại của ngài,

Et par droit de conquête et par droit de naissance. [bởi quyền của kẻ chinh phục và quyền của đấng sinh thành].

Louis. Đúng vậy; cánh tay ta đã khuất phục quân nổi loạn; nhưng không phải là không có sự kiên định và lòng dũng cảm to lớn từ phía ta, và một vài hỗ trợ (dù muộn màng) đến từ phía các đồng minh của ta. Kẻ chinh phục phải hòa giải: các vua cha phải ban cho những đứa con ốm yếu của mình miếng thịt dễ tiêu. Sẽ có tiếng gào thét và đấm đá buồn thảm nếu ta bọc con ta trong những bức tường đá. Không đâu, M. Talleyrand; nếu Paris có bao giờ bị bao vây bởi các công sự để cưỡng bách dân chúng, thì đó phải là tác phẩm của tay dân chủ nào đó, của ai đó khao khát quyền lực tối cao, kẻ quyến tâm duy trì nó, thực hiện một sự thống trị quá mức liều lĩnh đối với chính nghĩa. Ta sẽ chỉ cạo sạch khỏi các căn phòng những bọt nổi của lời lẽ sáo rỗng và luật lệ sói mòn.

Talleyrand. Thưa bệ hạ! Dưới mọi chính quyền của mình người dân Paris lương thiện đã phải phục tùng thuế octroi. Giờ đây, mọi lời than phiền, dù thuộc loại thể xác hay chính trị, đều xuất phát từ dạ dày. Nếu thần dân được phép một cách đàng hoàng đặt câu hỏi (dù nhún nhường tới đâu đi nữa) cho đức vua, thần xin được phép hỏi bệ hạ, theo sự thông thái của ngài, liệu một cái ách đè ngang trên vai có ít khó chịu hơn chắn ngang vòm miệng không. Thưa bệ hạ! Người Pháp có thể chịu đựng bất cứ điều gì khi họ được vinh dự rạp mình trước bệ hạ.

Louis. Lời khe ngợi này có hơi (quá mức) mơ hồ, và (phần lớn theo như ta phê bình, M. Talleyrand) không được diễn đạt nhã nhặn như ngài vốn dĩ. Hãy thông báo rằng theo ý nguyện và niềm vui của ta Công tước de Blacas sẽ giám sát việc đưa gà lôi lên bờ; và ta cầu xin Chúa, M. de Talleyrand, che chở cho ngài trong sự quan phòng thiêng liêng của Người.

 

Southey và Porson
 

Porson. Tôi ngờ, Mr. Southey, ông đang giận tôi vì lời lẽ tự do mà tôi đã nói về thơ của ông và thơ Wordsworth.

Southey. Điều gì đã khiến ông nghĩ ra điều đó, thưa Giáo sư? Ông quả thực đã nhìn tôi, từ khi chúng ta gặp nhau, với đôi chút phạt lòng và thách thức: tôi đồ rằng ông đã tưởng tượng tôi là một nhà bình luận. Ông đã nhầm về tôi khi tin rằng bất kỳ ý kiến nào về các tác phẩm thơ của tôi đều quấy rầy tôi; nhưng ông còn ban cho tôi nhiều hơn cả sự đền bù khi cho rằng tôi vô cùng cảm thông với sự bất công Wordsworth phải chịu. Nếu chúng ta phải trò chuyện về những chủ đề này, chúng ta sẽ nói về ông ấy. Có con người nào từng tồn tại lại trải qua một cuộc sống vô hại hơn, hay tô điểm cho nó bằng những nghiên cứu cao quý hơn thế không?

Porson. Tôi cũng tin vậy; và những kẻ công kích ông ấy với ác tâm là những kẻ thiếu cả đạo đức cũng như suy nghĩ. Tôi đã chứng minh rằng một trong số họ, người viết cuốn Những kẻ theo đuổi văn chương [Pursuits of Literature], không thể diễn giải một câu tiếng Hy Lạp hay đọc lướt một câu thơ; và tôi đã rơi trúng ngay cái Mục lục mà từ đó hắn ta đã rút ra cái hy vọng thảm thương của mình cho cuộc diễu hành. Đây là kẻ trơ tráo nhất tôi từng đọc, kẻ bịa chuyện, anh biết đấy, trong một vùng mà ở đó sự trơ tráo chẳng hiếm.

Tôi đã ghé thăm một người bạn ở King’s Road, rồi hắn ta bước vào.

‘Ông đã xem tờ Review chưa?’ hắn kêu tướng lên. ‘Tệ chưa từng thấy! Tôi quyết định chèn một bài vào giữa các trang, tuyên bố rằng tôi chẳng liên quan gì đến số trước.’

‘Tệ lắm hay sao? Tôi nói, thật nhỏ.

‘Bẩn thỉu! Đáng tởm!’ Hắn la lên.

‘Thì cứ ngồi xuống đi: chẳng có ai tin ông đâu,’ tôi trả lời.

Kể từ sáng hôm đó hắn đã khám phá ra rằng tôi uống nhiều hơn thường lệ, rằng các giác quan của tôi đang suy tàn nhanh chóng, rằng tôi đã từng, quả thực, có một ít tiếng Hy Lạp trong đầu, nhưng – hắn gõ ngón trỏ vào một bên mũi, chầm chậm ngước mắt lên và nhìn với vẻ đầy thương cảm và bình tĩnh.

Southey. Thôi nào, Mr. Porson, hãy công nhận công lao của hắn: chẳng nhà phê bình nào có thể làm tốt hơn thế khi biến bất kỳ tác phẩm nào thành sách xuất bản hàng tháng, không nhà văn nào khéo léo hơn thế trong việc hoàn thiện tác phẩm.

Porson. Kẻ đạo văn có quyền lựa chọn rộng hơn chúng ta nhiều; và nếu hắn ta đem về nhà một củ cải vàng hay phần ngọn củ cải, trong khi có thể dễ dàng bỏ túi một quả xuân đào hay một quả dứa, hắn hẳn phải là một tên ngẫn. Tôi chưa bao giờ nghe tên của Kẻ theo đuổi văn chương, kẻ mà công trạng dành cho việc ăn cắp còn ít hơn so với giả như hắn chưa bao giờ ăn cắp; và tôi đã quên mất kẻ kia, kẻ đã chứng tỏ mình xứng đáng là nhà kiểm duyệt của thời chúng ta, bằng một bản dịch những tác phẩm châm biếm trần trụi và ô uế nhất của thời cổ đại – những tác phẩm của Juvenal, vốn được lưu giữ nhờ sự thiên vị của các tu sĩ. Đánh giá của tôi về hắn hẳn không thỏa đáng nếu như hắn đã dịch tốt: lạy chúa, hắn có làm được đâu?

Southey. Thực ra, tôi không biết. Tôi đọc các nhà thơ vì thơ của họ, và để chiết lấy dưỡng chất cho trí tuệ và trái tim mà bài thơ hẳn chứa đựng. Tôi không bao giờ nghe những con thiên nga bơi trong hố thải, và buộc phải tuyên bố rằng chẳng có gì nặng nề với tôi hơn là thối rữa và băng hoại.

Porson. Ông nói đúng, thưa ông, hoàn toàn đúng. Một người dịch Juvenal sẽ mở nắp cống công cộng để tìm một cây kim, và có thể bỏ sót. Lỗ mũi tôi không dễ bị xúc phạm; nhưng tôi phải có gì đó lấp đầy bụng đã. Nào, chúng ta hãy gác lại túi đựng chuyển vị và cái bị của kẻ truy đuổi, để dành cho những ngày ăn bánh không men; và thêm nữa, nếu ông muốn, cho vùng hồ và núi. Giờ thì cả hai ta đã vui vẻ hơn, tôi phải thú nhận với ông rằng đôi khi ở người bạn Wordsworth của ông có chút gì đó vô giá trị.

Southey. Một cái đùi nai hẳn là vô giá trị với một người Bà La Môn, một chai Burgundy cũng thế đối với giới quý tộc Mecca. Chúng ta được dẫn dắt bởi giáo lý, bởi thói quen, gu thẩm mỹ, thể chất. Cho đến nay tình cảm của chúng ta với thơ được đặt ra cho chúng ta bởi kẻ có thẩm quyền; và nếu có thể chứng minh được, như tôi nghĩ, rằng người có thẩm quyền thì không đủ, và rằng điều chỉ định thì thường không thể dùng được và thường giải thích sai, ông sẽ cho phép tôi rút đơn kiện khỏi tòa. Ai cũng có thể thấy những chỗ rất tệ trong một bài thơ; hầu như ai cũng có thể thấy những chỗ rất hay: nhưng ông, Mr. Porson, người đã lật giở tất tật các tập sách của mọi nhà bình luận, sẽ cho tôi biết liệu tôi đúng hay sai khi khẳng định rằng chưa từng có nhà phê bình nào có thể xác định hoặc phân biệt chính xác mức độ xuất sắc tại một điểm cụ thể.

Porson. Không có.

Southey. Lý do là, chẳng con mắt nào từng đặt ở cùng độ cao với nó. Giả sử, để tiện cho lập luận, đã diễn ra cuộc tranh luận về Hesiod và Homer: các thẩm phán đã quyết định ủng hộ người tệ hơn, và người này, quả thực, trong thơ ca, chẳng có mấy giá trị, những người ấy có thể là những người thanh lịch, thông thái, và đầy thiện tâm. Quyết định của họ nghiêng về những gì mà họ quen thuộc hơn cả. Corinna được ưu ái hơn Pindar không dưới năm lần, và các thẩm phán giỏi nhất ở Hy Lạp đã dành sự ưu ái cho bà ta; nhưng dẫu sức mạnh của bà ta là gì, và chẳng cần phải nghi ngờ là chúng phi thường, chúng ta có thể chắc chắn được rằng bà ta ở rất thấp bên dưới Pindar. Chẳng có gì vô lý hơn lời đồn rằng các thẩm phán bị ám ảnh bởi vẻ đẹp của bà ta. Plutarch nói với chúng ta rằng bà ta lớn tuổi hơn nhiều so với đối thủ, người đã tham vấn ý kiến bà ta trong những bài tụng ca sớm sủa của ông. Cứ cho là cuộc thi đầu tiên giữa họ diễn ra khi Pindar hai mươi tuổi, và các cuộc thi khác trong những năm tiếp theo, vẻ đẹp của bà ta chắc hẳn phải phần nào suy giảm; bởi vì ở Hy Lạp rất ít phụ nữ giữ được nét duyên dáng, chẳng ai vẫn còn nét xuân thì khi đã ngoài hai mươi ba. Vẻ mặt bà ta, tôi không hề nghi ngờ, rất biểu cảm: nhưng sự biểu cảm, dẫu thường đem lại vẻ đẹp cho đàn ông, khiến phụ nữ phải trả giá đắt cho những dấu ấn của nó, và phải trả rất sớm. Tự nhiên dường, để bảo vệ vẻ yêu kiều của họ, đã ra lệnh rằng những người vượt trội hơn trong chúng ta về sự nhanh nhẹn và nhạy cảm phải ít có khuynh hướng suy nghĩ nặng nhọc, hoặc những chuyến du ngoạn dài trong mê cung của trí tưởng tượng. Chúng ta có thể tin chắc rằng phán quyết của các thẩm phán không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ điều gì khác ngoài thói quen suy nghĩ; chúng ta có thể tin rằng, sống trong thời mà thơ ca được trau dồi ở mức cao, và được chọn lọc từ những ai sắc sảo và không tư vị nhất, họ không mắc phải những sai lầm về quan điểm nhiều hơn những đồng môn uyên bác trong các trường đại học Anh của chúng ta.

Porson. Ông rộng lòng hào phóng với những người Hy Lạp xin đẹp của ông hơn so với một người bạn tôi, vốn sống ở Athens để học ngôn ngữ này. Anh ta quả quyết với tôi rằng vẻ đẹp ấy chớm nụ ở tuổi mười ba, nở rộ năm mười lăm, rụng một hoặc hai cái lá mỗi ngày năm mười bảy, run rẩy đến từng mấu gai vào tuổi mười chín, và nằm dưới gốc cây khi hai mươi.

Southey. Mr. Porson, với tôi dường chẳng cần phải làm gì, ngay từ đầu, ngoài việc tự vấn xem trái tim mình bởi đâu mà bị ảnh hưởng. Nếu đôi tai được thỏa mãn; nếu ngay lúc này lồng ngực dấy lên cơn chấn động, lúc khác lại lắng dịu, với ý thức hoàn hảo về sức mạnh ngang bằng tác động trong cả hai trường hợp; nếu chúng ta thức dậy sau khi đọc tác phẩm với một cơn phấn khích mạnh đối với suy nghĩ, tưởng tượng, cảm giác; trên hết, nếu chúng ta ngồi xuống với một chút khuynh hướng về phía cái ác, và bước đi với khuynh hướng mạnh hơn nhiều về phía cái thiện, ở giữa một thế giới mà chúng ta chưa từng bước vào và về nó ta chưa từng mơ trước đây – liệu ta có nên ngoan cố khoác lên lại bộ mặt cũ của sự chỉ trích, và giả vờ rằng chúng ta đã được dẫn dắt bởi một thiên tài nhân từ nhất và có quyền uy lớn nhất? Không gì chỉ cho tôi thấy thật rõ những khoang cách ly của nó đang ở trong tình trạng độc hại đến mức nào, bằng khi tôi nhận thấy thật quá ít sự phản đối lại những người dùng từ ngữ thay thế cho sự vật, và thật nhiều sự chống đối lại những kẻ dùng sự vật thay thế cho từ ngữ.

Hãy để Wordsworth chứng minh với thế giới rằng vẫn có thể thật sống động mà chẳng cần đổ máu hay gãy xương, và sự dịu dàng cách xa các món thịt hầm. Vài người sẽ nghi ngờ điều đó; bởi ngay cả những điều hiển nhiên nhất cũng chẳng mấy khi được nhận ra và bị đánh giá cách kỳ lạ. Swift chế nhạo nhạc của Handel và tài chỉ huy của Marlborough; Pope chế nhạo sự sáng suốt và học thức của Bentley; Gray chế nhạo tài năng của Shaftesbury và tài hùng biện của Rousseau. Shakespeare hầu chẳng tìm thấy ai chịu sưu tầm các vơ bi kịch của ông; Milton lại được đọc theo lối đầy tin kính; Virgil bị cho là lỗi thời và thô kệch; Cicero, kiểu Á đông. Cả một bọn hèn hạ đã dày vò bạn tôi! Một con voi sinh ra để bị kiến ăn thịt giữa chốn cô độc không thể chạm tới: Wordsworth là con mồi của Jeffrey. Sao lại phải than vãn? Chúng ta hãy tự giải trí bằng những câu chuyện ngụ ngôn, và nhớ rằng Chúa trong cuộc tạo dựng đã đặt tạo vật cao quý nhất của Người dưới sự thương hại của một con rắn.

Porson. Wordsworth cố tình để cho bị tấn công; ông ấy nhặt lên một cục đất, quẳng nó lên tấm thảm giữa đám đông, và kêu lên, Đây là con người tốt hơn bất kỳ ai trong các bạn! Ông ấy quả thực đã nhào nặn vật liệu cơ bản thành hình dạng mà ông ấy chọn; nhưng tại sao không mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng nó thay vì thách thức chúng ta lên án nó? Đây chắc chắn là gu sai.

Southey. Lời buộc tội chính và phổ biến nhất chống lại ông ấy là, phương tiện suy nghĩ của ông ấy không ngang bằng với của họ. Vậy thì các giám khảo tại Thế vận hội có bao giờ nói thế này đâu: ‘Chúng tôi nhẽ ra đã trao cho ngài phần thưởng chiến thắng rồi, nếu cỗ xe của ngài cân xứng với ngựa của ngài: đúng là chúng đã thắng; nhưng người ta lại không hài lòng với một cỗ xe không mới cũng không mạ vàng lộng lẫy, và chẳng có hình quái thú hay nhân sư nào khắc trên trục xe’? Ông ngưỡng mộ sự giản dị của Euripides; ông lại phê bình nó ở Wordsworth: tin tôi đi, thưa ông, điều đó không xuất phát từ suy nghĩ bần hèn – vốn hiếm khi dẫn đến điều này – mà từ sức mạnh của sự tiết chế, và theo đề xướng của nguyên tắc.

Hãy cầm một bài thơ của Wordsworth và đọc – tôi muốn nói là, đọc hết toàn bộ; và, biết rằng một đầu óc giống như ông phải nắm bắt được những gì chứa trong đó, vậy tôi xin hỏi ông liệu có nhà thơ nào của đất nước chúng ta, kể từ Milton, đã thể hiện được sức mạnh lớn hơn mà ít phải gắng sức và phô trương hơn không. Tôi, tuy vậy, với sự cho phép của ông ấy, trình bày với ông một bài thơ vẫn chưa được xuất bản và chưa hoàn tất.

Porson. Tiếc thay, với những khả năng như thế, ông ấy lại không bắt chước những người cổ xưa nhiều hơn một chút.

Southey. Vậy họ đã bắt chước ai? Nếu thiên tài của ông ấy ngang bằng với thiên tài của họ ông ấy chẳng cần một người dẫn đường. Ông ấy cũng sẽ là một người cổ xưa; và chính những người hiện đang chê bai sẽ ca ngợi ông ấy sau một nghìn năm nữa theo lối đầy ác ý trước mặt thế hệ lúc bấy giờ.

 

Công Hiện dịch

 

Emerson về Walter Savage Landor

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công