favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Sebald về Stifter

17/11/2025 16:48

Cho đến những giới hạn cực điểm của tự nhiên

Tiểu luận về Adalbert Stifter

 

Thấy và nghĩ là hai hoạt động trong đó cái này không giải thích cái kia.

Franz von Baader

 

Người ta đã viết rất nhiều về Stifter, để xông hương cho ông hoặc chế nhạo ông, nhưng vẻ đẹp khó nơi tác phẩm của ông không vì thế mà trở nên dễ xâm nhập hơn. Ở quãng thời gian đầu tiên từng dường như Stifter có thể bước vào lịch sử văn chương ở tư cách nhà thơ Biedermeier của những bông hoa và những con bọ. Ít nhất đấy là vai trò mà các xa lông của Wien đã dành cho ông dưới thời Tái lập. Không ở đâu âm sắc sùng kính đẫm tình cảm đó thấy được rõ hơn như trong bức thư mà Jenny Lind, con họa mi Thụy Điển, gửi cho Stifter để chào mừng mùa xuân 1847 vừa đến. Ở đó bà nói tới "những buổi tối tuyệt vời ở nhà Bà Jager yêu quý của tôi" và triết lý với một chút tính cách nhà hát: "Số phận lạ thường, khi những con người phải nỗ lực nhằm học cách biết và nhận ra nhau, hiểu nhau và coi trọng nhau... để ngay sau đó vĩnh viễn phải rời xa nhau! Ông von Stifter rất yêu quý! Suốt đời mình tôi sẽ không quên ông."

 

Được phong quý tộc theo cách ấy, "Ông von Stifter" có cảm thấy, khi đọc lời tuyên bố tế nhị đó, biến đổi nào đấy nơi trạng thái tâm hồn của ông không? Câu hỏi vẫn còn đó. Dẫu thế nào, cảm giác về sự không tương thích xã hội, thứ được diễn tả theo lối điểm chấm trong những dòng mà Jenny Lind viết tương ứng khá chính xác với sự đánh giá mà Stifter có lên chính ông, vốn dĩ ông, tự cho là mình ở thấp hơn, không, theo chính lời chứng của ông, không bao giờ thật thoải mái tại các xa lông của những chốn học thức cao. "Ngay khi xâm nhập vòng tròn của những người nhiều phẩm chất, hết sức đều đặn tôi cảm thấy, lần nào cũng như lần nào, những gì mà đứa học trò có thể cảm thấy trước ông cha giáo đạo, ông linh mục hay ông giám mục." Sự se lòng mà Stifter miêu tả ở đây hẳn là một trong những lý do khiến ông đã không bao giờ được chấp nhận ở các tầng cầu cao; nhưng nó cũng sẽ là điều kiện cho tác phẩm sẽ đến của ông, thứ trình hiện những con người như là các nhân vật xa lạ không chỉ trong xã hội, mà cả ở tổ quốc đầu tiên của họ, tức là tự nhiên.

 

Sự nghiêm túc nơi tác phẩm của Stifter có được là nhờ chuyển động dần dà thụt lại của một tác giả, người, do bố trí tâm thần và xã hội của mình, đã không thể thỏa mãn những đòi hỏi của xã hội. Trong thời kỳ Wien của ông đã thế, và còn hơn nữa tại Linz, ở khu rừng vùng Bavaria và ở trên núi, gần Kirchschlag, Stifter làm việc trong một dạng lưu đày, điều này giải thích các cái bóng lớn xuất hiện trên văn xuôi của ông, in hằn vào đó một nỗi ủ dột, nó nâng ông lên cao hẳn bên trên thứ nghệ thuật mạ vàng nơi mép kỷ nguyên đang mở ra, kỷ nguyên của giới bourgeois muộn. Những cử chỉ đầy ý chí tốt đẹp đã chẳng thể làm gì chống lại sự bỏ phiếu cho nỗi nghi ngại mà các câu chuyện của ông chứa đựng ở chỗ khác. Nếu Stifter, ngay từ đoạn cuối của cuộc đời ông và cho đến thời kỳ Đại Chiến, càng lúc càng rơi vào sự quên, thì điều này ít do sự đón nhận của một xã hội xét sâu xa lẽ ra phải thích chiều chuộng ông hơn so với sự biệt lập mà chính ông tự áp đặt.

 

Việc phát hiện ông trở lại được thực hiện dưới dấu hiệu của một thứ thơ mạnh mẽ của ý thức về sứ mệnh riêng của nó, và từng đòi nhà văn xuôi kín đáo như là hình tượng thiêng. Người đầu tiên vào cuộc là Karl Kraus, người, bằng lối nói ngược theo cách của ông, vào năm 1916 đã khuyên các "lính đánh thuê của tiểu thuyết cùng các tên cướp của ngôn từ cùng những ý kiến tốt đẹp" đi ra mộ của Stifter và, tại đó, tự sát "trên đống lửa đốt đống giấy bẩn thỉu và những cái lông ngỗng bẩn thỉu của bọn họ". Bahr biến ông trở thành người thừa kế của Goethe; và Hesse nói, vào năm 1923, về một "tâm hồn nồng nhiệt", về một "sinh thể của một loài người đúng nghĩa", về một "cuộc truy tìm và kết quả của nó" và về một "tinh thần mộ đạo đúng nghĩa"; Hofmannsthal, hai năm sau đó, về "hình dung theo kiểu pha lê" nơi "những hình tượng được phác ra đầy dịu dàng" của ông và về "xoáy ốc bí mật của cuộc sống trí năng châu Âu". Bertram, một môn đệ của [Stefan] George, nêu bật, trong một bài diễn văn đọc năm 1928, "sự ngây thơ cùng sức mạnh", "giấc mơ và lòng trung thành", dồn tụ các kết hợp tính từ như là "nông thôn và Benedictine", "bình dân và quý tộc", "trung thành với đất đai và đại diện cho toàn nước Đức".

 

Được khai trương như vậy, phê bình liên quan tới Stifter trong một thời gian dài dấn vào con đường đó. Với nhiệt hứng lừng lẫy của mình, kể từ bấy các triết gia sẽ chăm chỉ loan truyền thánh truyện ấy, một truyền thuyết đậm bảo thủ sẽ còn dai dẳng cho đến những năm 60 của thế kỷ 20 và lên tới tột đỉnh nơi các lối nói vòng đầy sùng mộ với những âm sắc đáng ngờ của một Walther Rehm hay một Emil Staiger. Như Peter Stern đã chỉ ra, nghịch lý về sự soán ngôi của Stifter bởi phê bình khẳng định bắt nguồn từ sự thể nó mang lại cho tác phẩm của ông một lớp véc-ni của phi thời gian tính, trong khi chính nó vẫn cứ quá phụ thuộc vào tinh thần thời đại của mình. Đã ê hề gần như ad nauseam, văn chương phê bình vậy là chẳng mấy soi sáng được về các xung đột diễn ra trong sự sắp đặt mà Stifter, với đầy chủ ý, mang tới cho văn xuôi của mình. Đấy là lý do khiến, sau nhiều thập kỷ của sự quên, sau khi ông đã bị trưng dụng để phục vụ cho sự viết Đức và quốc gia Đức, được trưng ra ở tư cách nhà thơ của đất đai Áo và chứng nhân nhiều đặc quyền cho một văn hóa của sự nhẫn nhục, có lẽ kể từ nay người ta đi đến, lần đầu tiên, với việc đọc ông một cách đúng đắn.

 

Một tái diễn giải về Stifter trước hết bị làm cho trở nên khó khăn bởi các xây dựng nghĩa gây bực bội cũng ngang mức với không thể tránh được áp đặt với một sự khăng khăng đầy ngây thơ bởi chính tác giả ở các văn bản sát kề với sự hũ nút. Tuy nhiên ấn tượng thật mạnh, khi mà những xây dựng thực chứng của Stifter, chẳng hạn sự hạ mình kiểu Ki-tô giáo vẫn thường được trích lại của ông, tính tôn giáo phiếm thần của ông, sự khẳng định nguyên tắc đầy từ tâm vốn dĩ chủ trì cuộc sống tự nhiên cũng như thứ luân lý luận cứng nhắc của những câu chuyện mà ông kể, chẳng hề được cả phát triển lẫn phân tích ở bất kỳ đâu trong tác phẩm của ông. Là các điều sơ khai cuối cùng của một triết học về cứu rỗi bao trùm tự nhiên và lịch sử, những xây dựng ấy chỉ có thể được lưu giữ khỏi sự tan rã nếu chúng lần nào cũng được phát ra theo lối bất biến. Nhưng nghĩa được tuyên một cách hiển ngôn như thế lại chỉ có liên quan rất ít với hàm lượng sự thật của một tác phẩm mà điểm then chốt đích thực, ngược lại, nằm ở một bất khả tri luận sâu sắc cùng một sự bi quan được mở rộng ra đến kích thước vũ trụ. Ngay tức khắc vang lên ở miêu tả thế giới mà Stifter mang lại mối nghi đầy tai hại kia, mà về sau con chó do Kafka chế ra sẽ diễn tả, vốn dĩ ông [Kafka] bị thúc đẩy bởi một nỗi khát hiểu biết biến thái, từng ghi nhận "rằng một điều gì đó sai lạc từ hồi nảo hồi nào, rằng có một vết nứt mảnh", và rằng khiếm khuyết đó hé lộ toàn bộ sự phi lý của cuộc sống tự nhiên cùng xã hội. Và nếu nhân vật chính đầy chộn rộn của Kafka tự thú nhận mình lên cơn khó ở cho tới tận và kể cả "ở giữa các biểu hiện bình dân đáng kính hơn cả", người ta cũng có thể nói như vậy về tác giả của Witiko, mà sự dựng cảnh kỳ vĩ của lịch sử tập thể hé lộ là trống rỗng hơn cả và kỳ quặc hơn cả trong số tất tật những tác phẩm của ông. Hẳn ở đây sẽ không còn câu hỏi về sự hòa hợp giữa lịch sử và thần học về Jesus cứu thế được trình hiện ở kịch baroque với các hành động chính về chủ đề chính trị (Haupt-und Staatsaktionen) nữa. Stifter viết vào một thời kỳ nơi toan tính trao một diễn giải phổ quát bước vào pha què cụt của nó. Và nếu ông từng thực sự, như Emil Staiger từng nghĩ, là một linh mục ăn mừng thêm một lần mục vụ của một trật tự tuyệt đối, thì tuy vậy trong bí mật ông đã bận tâm, hơi giống viên linh mục khốn khổ trong Viên bác sĩ nông thôn của Kafka, đến việc biến quần áo mặc hành lễ mi-xa của mình thành đống giẻ rách.

 

(còn nữa)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công