favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Joseph Conrad: Nhiệm vụ của nhà văn

26/12/2025 13:00

I. “Tôi chưa đọc sách của tác giả này, mà nếu có đi nữa thì giờ cũng quên hết nó viết về cái gì rồi.”

Câu nói được cho là đã thốt ra giữa chúng ta chưa đầy một trăm năm trước, một cách công khai, từ vị trí một người xét xử, bởi một vị thẩm phán của thành phố. Lời nói của người coi quản đô thị chúng ta mang theo một sự trang nghiêm và sự hệ trọng vượt xa lời nói của các phàm nhân khác, bởi người coi quản đô thị của chúng ta, hơn bất kỳ loại quan chức hay ông lớn nào khác, đại diện cho trí tuệ trung bình, khí chất trung bình, lương tri trung bình và đức hạnh trung bình của cộng đồng. Sự khái quát này - cần phải nói ngay vì công lý vĩnh hằng (và tình hữu nghị gần đây) - không áp dụng cho trường hợp của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ở đó, nếu có thể tin vào những bất bình liên miên và bạo lực trên các tờ nhật báo hoặc tuần báo của họ, thì đa số những người coi quản đô thị chẳng khác gì những tay trộm cướp thuộc loại đặc biệt khó trị. Nhưng đây chỉ là ý phụ. Điều tôi quan tâm là một tuyên bố phát ra từ khí chất trung bình và trí tuệ trung bình của một cộng đồng lớn và thịnh vượng, và được thốt ra bởi một vị thẩm phán thành phố, rõ ràng là không chút sợ hãi và không chút tự hổ.

Tôi thú nhận là tôi hài lòng với thái độ của ông ta, một thái độ sinh ra từ sự cẩn trọng.

“Tôi chưa đọc những cuốn sách ấy,” ông ta nói, và ngay lập tức bổ sung, “mà nếu có thì cũng quên rồi.” Đó là sự cẩn trọng tuyệt vời.

Và tôi thích phong cách của ông ta: không màu mè, đậm dấu ấn của sự thành thực nam tính.

Xét như một mẩu thông tin được ghi chép lại, tuyên bố này dễ đọc và không khó tin. Rõ ràng có nhiều cuốn sách ông chưa đọc; nhiều hơn nữa là những cuốn đã bị lãng quên. Xét như một bài diễn văn trước dân chúng, tuyên bố này có hiệu quả nổi bật. Được tính toán sao cho phù hợp với khuynh hướng tâm trí đại chúng, vốn quá quen với mọi hình thức quên lãng, nó có sức mạnh khơi dậy một cảm xúc tinh tế, đồng thời mở ra một chuỗi suy nghĩ - và còn sức mạnh nào lớn hơn có thể trông đợi từ lời nói con người? Nhưng chính ở sự tự nhiên mà tuyên bố này có được sự thú vị tuyệt đối của nó, bởi chẳng gì tự nhiên hơn việc người chở che của thành phố quên đi nội dung những cuốn sách ông đã từng một lần đọc qua, từ lâu lắm rồi, có lẽ tận hồi tuổi trẻ ngông dại của mình.

Và những cuốn sách được nhắc đến là tiểu thuyết, hoặc đã được viết như tiểu thuyết, dù sao đi nữa. Tôi tiếp tục một cách thận trọng như vậy (noi theo tấm gương lẫy lừng ấy) bởi tôi thú nhận ngay rằng tôi cũng không đọc chúng, một cách không chút sợ hãi và với khao khát rằng sẽ không phải tự hổ.

Tôi đã không đọc; và trong số hàng triệu (hoặc hơn) người được cho là đã đọc chúng, tôi chưa từng gặp ai có thể trình bày và phát triển cho tôi một bản tường thuật mạch lạc về nội dung của chúng. Nhưng chúng là sách, một phần không thể tách rời của nhân loại, và với tư cách đó, trong sự đông đảo ngày càng tăng, ngày càng chen lấn nhau của chúng, chúng xứng đáng được quan tâm, ngưỡng mộ và thương cảm. Đặc biệt là thương cảm. Từ lâu người ta đã nói những cuốn sách có số phận riêng của chúng. Số phận của chúng rất giống định mệnh của con người. Chúng và ta đều có sự bấp bênh lớn lao giữa vinh và nhục, giữa công lý nghiêm minh và sự bạc đãi vô lý, giữa vu khống và hiểu lầm, nỗi hổ thẹn của thành công không xứng. Trong tất tật những vật vô tri, trong tất tật những sáng tạo của con người, sách là thứ gần gũi nhất với chúng ta, bởi chúng chứa đựng trong đó chính tư tưởng, tham vọng, bi phẫn, ảo tưởng, tấm lòng son sắt với sự thật và khuynh hướng dai dẳng dạt về phía sai lầm của chúng ta. Nhưng hơn hết, chúng giống chúng ta ở sự bám víu cực kỳ mong manh vào cuộc sống. Một cây cầu nếu được xây dựng theo đúng các quy tắc và kỹ nghệ xây cầu chắc chắn có sự nghiệp lâu dài, đáng kính và hữu ích. Nhưng một cuốn sách dù có có được sự hay ho của mình theo cách của một cây cầu vẫn hoàn toàn có khả năng chết đi trong thầm lặng ngay cái ngày nó chào đời. Nghệ thuật của những nhà sáng tạo ra chúng không đủ để cho chúng hơn một khoảnh khắc của sự sống. Trong số những cuốn sách sinh ra từ sự khôn nguôi, thi hứng và hư danh của tâm trí con người, các Nàng Thơ lại yêu nhất những cuốn sách nằm dưới sự đe dọa của cái chết non yểu.

Đôi khi chính những khiếm khuyết của chúng sẽ cứu lấy chúng. Đôi khi một cuốn sách chỉnh tề trong mắt thiên hạ (một cách diễn đạt cao quý) có thể không có cái linh hồn của riêng nó. Rõ ràng, một cuốn sách như thế không thể chết đi. Nó chỉ có thể tan thành cát bụi. Nhưng những cuốn sách hay nhất, những cuốn sách hút nhựa sống từ sự đồng cảm và ký ức con người, lại mấp mé về bờ hủy diệt, bởi ký ức của con người thì ngắn ngủi, và sự đồng cảm của con người, ta phải thừa nhận, là một cảm xúc hết sức bừa phứa, thiếu nguyên tắc.

Không có bí quyết nào trong công thức nghệ thuật có thể đem đến sự trường sinh cho sách chúng ta, cũng như không thể tìm thấy trong thân thể chúng ta một sự kết hơn mang tính cứu chữa được chỉ định. Điều này không phải vì một số cuốn sách không xứng đáng có sự sống vĩnh cửu, mà bởi các công thức nghệ thuật phụ thuộc vào những thứ biến đổi, bất ổn và không đáng tin; vào sự đồng cảm của nhân loại, vào thành kiến, vào yêu ghét, vào ý thức về đức hạnh và ý thức về sự đoan trang, vào những niềm tin và lý thuyết vốn tự thân không thể bị hủy diệt, nhưng luôn thay hình đổi dạng - thường là trong vòng đời của một thế hệ phù du.

 

II. Trong tất thảy các loại sách, tiểu thuyết - thứ mà các Nàng Thơ đáng lẽ phải yêu quý hơn cả - là thứ đòi hỏi nơi nỗi thương cảm trong chúng ta sự nghiêm túc nhất định. Nghệ thuật của tiểu thuyết gia thì đơn giản; nhưng nó đồng thời cũng là thứ khó nắm bắt hơn cả, dễ bị che khuất hơn cả bởi sự câu nệ từ những người phục vụ nó và tôn thờ nó, và là thứ nghệ thuật mang trong mình định mệnh mang lại phiền muộn cho tâm trí và trái tim của nghệ sĩ. Sau cùng, việc sáng tạo ra một thế giới không phải là nhiệm vụ nhỏ nhặt, trừ phi với những ai được trời phú, có lẽ thế. Thật vậy, mọi tiểu thuyết gia đều phải bắt đầu bằng việc tạo ra cho mình một thế giới, dầu lớn dầu nhỏ, một thế giới mà anh ta có thể thành thực tin tưởng. Thế giới này chỉ có thể được tạo ra bằng cách dựa trên chủ kiến của anh ta: nó được trao cho định mệnh vẫn có tính cá nhân và một chút bí ẩn, nhưng đồng thời cũng giống với một cái gì đó quen thuộc đối với trải nghiệm, suy nghĩ và cảm nhận của độc giả. Tại trung tâm của một tác phẩm hư cấu, ngay tại nơi ít xứng đáng nhất với cái tên đó, vẫn có thể tìm thấy một loại chân lý nào đó - dù chỉ là chân lý của sự nhiệt thành đầy tính kịch như con nít trong trò chơi cuộc sống như các tiểu thuyết của Dumas cha. Nhưng chân lý tươi đẹp tồn tại nơi sự tinh tế của nhân loại có thể được tìm thấy trong các tiểu thuyết ngài Henry James; và chân lý vừa hài hước vừa kinh hoàng về lòng tham con người được thả ra giữa những chiến lợi phẩm của sự tồn tại thì ngụ trong thế giới quái dị mà Balzac đã tạo ra. Cuộc truy đuổi hạnh phục bằng những phương tiện hợp pháp và bất hợp pháp, thông qua sự cam chịu hay nổi loạn, bằng sự thao túng tinh vi của quy ước hay bằng cách bám ghì vào vạt áo của những lý thuyết khoa học mới nhất, là chủ đề duy nhất có thể được phát triển một cách chính đáng bởi các tiểu thuyết gia - người ghi chép biên niên về các cuộc phiêu lưu của nhân loại giữa trần gian trập trùng hiểm nguy. Và bản thân vương quốc trần gian này, mảnh đất mà trên đó các nhân vật của anh ta đứng vững, vấp ngã hoặc chết đi, phải đi vào dự án ghi chép trung thực của anh. Bao quát tất cả những điều này trong một ý niệm hài hòa là một công việc đòi hỏi sự kỳ công lớn; thậm chí ta chỉ riêng việc làm nó một cách chủ ý với nỗ lực nghiêm túc, không phải từ sự thúc giục vô nghĩa của một trái tim đần độn, cũng đã là một tham vọng đáng trân trọng. Bởi cần một chút dũng khí để bình tĩnh bước vào nơi những kẻ ngốc có khả năng xồng xộc xông vào. Như một tiểu thuyết gia người Pháp xuất chúng và thành công từng nhận xét về văn chương: “C’est un art trop difficile” [Đó là một nghệ thuật quá khó].

Vậy không quá khó hiểu khi tiểu thuyết gia nghi ngờ khả năng đương đầu với nhiệm vụ của anh ta. Trong mắt anh ta nó thường to tát hơn nhiều so với thực tế. Thế nhưng, sáng tạo văn chương với tư cách đơn thuần là một trong hình thức hoạt động chính đáng của con người, chỉ có giá trị với điều kiện là nó không loại trừ sự thừa nhận đầy đủ nhất đối với tất cả các hình thức hành động rõ rệt hơn. Điều này đôi khi bị người cầm bút lãng quên, kẻ, đặc biệt trong tuổi trẻ của mình, thường có xu hướng đòi hỏi sự ưu việt độc tôn cho công việc của mình giữa tất tật những nhiệm vụ khác của tâm trí con người. Khối lượng thơ văn có thể lấp lánh chỗ này chỗ kia với ánh sáng của một tia lửa thiêng thánh, nhưng trong tổng thể những nỗ lực của nhân loại, nó không có tầm quan trọng đặc biệt nào. Không có một công thức biện minh nào cho sự tồn tại của nó, cũng như cho sự tồn tại của bất kỳ thành tựu nghệ thuật nào khác. Giống như phần còn lại của nghệ thuật, định mệnh bắt nó sẽ bị lãng quên, có lẽ tuyệt không dấu vết. Nơi tiểu thuyết gia có lợi thế hơn so với những người lao động trong các lĩnh vực tư tưởng khác chính là đặc quyền tự do của anh ta - tự do biểu đạt và tự do thú nhận những niềm tin sâu kín nhất - một dạng an ủi cho kiếp nô lệ khổ sai của ngòi bút.

 

III. Tự do tưởng tượng rất có thể là tài sản quý giá nhất của một tiểu thuyết gia. Việc cố công phát minh ra những giáo điều trói buộc của thứ gọi là chủ nghĩa lãng mạn, hiện thực hay tự nhiên nào đó trong một tác phẩm tự do sinh ra từ cảm hứng của chính nó là thủ đoạn ngang bướng đặc trưng của con người, thứ sau khi phát minh ra một thứ vô lý, lại truy về các bậc tiền bối lỗi lạc để hình thành gia phả cho cái sự vô lý đó. Đó là một điểm yếu của các tâm trí thấp kém, nếu không phải là mưu mẹo xảo quyệt của những kẻ muốn tìm cách tô điểm thêm cho tài năng của mình (thứ anh ta cũng không chắc chắn) bằng uy quyền của một trường phái. Chẳng hạn như các đại tư tế, những người đã tuyên bố Stendhal là người tiên tri của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng chính Stendhal cũng sẽ không chấp nhận bất kỳ sự giới hạn nào cho sự tự do của mình.

 

Tâm trí Stendhal thuộc hàng thượng thặng. Linh hồn ông trên cao kia hẳn phải đang giận dữ cùng sự khinh bỉ và phẫn nộ cùng cực kiểu Stendhal điển hình. Bởi sự thật là hơn một loại hèn nhát trí tuệ đang ẩn nấp sau các công thức văn chương. Mà Stendhal thì nổi tiếng là con người khẳng khái, dũng cảm. Hai cuốn tiểu thuyết ông viết - thứ mà rất ít người từng đọc qua - với một tinh thần tự do không sợ hãi.

Nói vậy không có nghĩa là tôi đòi cho người nghệ sĩ ở thể loại hư cấu sự tự do của sự hư vô luân lý. Tôi yêu cầu từ anh ta nhiều hành động của đức tin, mà hành động tiên quyết phải là nuôi dưỡng một niềm hy vọng bất diệt; và hy vọng, rõ ràng và hiển nhiên, hàm chứa tất cả lòng thành kính của nỗ lực và cả sự từ bỏ. Nó là hình thức do Chúa ban của lòng tin vào sức mạnh huyền nhiệm và nguồn cảm hứng nằm ở phía sự sống trên thế giới này.

Ta hay quên rằng con đường của sự xuất chúng nằm ở sự khiêm nhường trí tuệ, khác với sự khiêm nhường cảm xúc. Điều khiến người ta cảm thấy vô vọng đến cằn cỗi trong chủ nghĩa bi quan là sự kiêu ngạo của nó. Dường như nhiều người ở nhiều thời điểm đã chứng minh rằng những điều xấu xa trên thế giới này lại là nguồn vui kiêu hãnh và bất kính đối với một số nhà văn hiện đại. Trạng thái tâm trí đó không phải là trạng thái thích hợp để tiếp cận nghiêm túc nghệ thuật tiểu thuyết. Nó cho tác giả một cảm giác tư mãn về sự siêu đẳng của mình (chỉ Chúa mới biết tại sao). Và không gì nguy hiểm hơn sự tự mãn như vậy đối với lòng trung thành tuyệt đối dành cho cảm xúc và cảm năng mà một tác giả nên nắm giữ trong những khoảnh khắc sáng tạo cao quý nhất của mình.

Để giàu đức hy vọng theo nghĩa nghệ thuật, không cần thiết phải nghĩ rằng thế giới này chỉ tuyền điều tốt đẹp. Chỉ cần tin không có gì ngăn nó trở nên tốt đẹp là đủ. Nếu tư suy tưởng tượng của tiểu thuyết gia được để cho bay cao hơn thứ đạo đức chung đang được toàn nhân loại chia sẻ, dẫn đến một nhà văn nghĩ mình có bản chất ưu việc hơn người khác, anh ta sẽ đánh mất điều kiện tiên khởi để thực hiện thiên chức của mình.

Có cái tài dụng chữ không phải điều gì quá to tát. Một khẩu súng, hay những khí tài siêu hạng, không khiến người ta trở thành một thợ săn hay chiến binh; để trở thành người này hay người kia, nhiều phẩm chất trong tính cách và khí chất là cần thiết. Với kẻ mà từ kho khí tài ngôn từ của mình, phải trăm ngàn lời bắn ra mới có một lời trúng được cái đích xa xôi và khó nắm bắt của nghệ thuật, tôi sẽ yêu cầu anh ta, trong thái độ đối xử với nhân loại, phải có khả năng dành một sự thừa nhận trìu mến đối với đức tính mờ nhạt nơi họ. Tôi sẽ đề nghị anh ta không được thiếu kiên nhẫn đối với các sai sót nhỏ nhặt của họ và không được chán ghét những các lỗi lầm của họ. Tôi sẽ mong muốn anh ta không trông đợi quá nhiều lòng biết ơn của nhân loại - số phận của họ, thứ đã được minh họa rất tường minh ở mỗi cá nhân, anh ta hoàn toàn có thể khắc họa bằng sự nực cười hay kinh khủng. Tôi sẽ mong muốn anh ta nhìn những ý tưởng và định kiến của con người bằng sự bao dung độ lượng, bởi chúng hoàn toàn không phải là kết quả của ác ý, mà ảnh hưởng nhiều vào giáo dục, địa vị xã hội, thậm chí nghề nghiệp của họ. Nghệ sĩ chân chính không nên mong đợi người khác thừa nhận sự khổ nhọc của mình hay ngưỡng mộ tài năng của mình, bởi công việc của anh ta khó mà được đánh giá đúng, và tài năng của anh ta chẳng có nghĩa lý gì đối với những kẻ thất học - những kẻ, ngay cả khi được tiếp cận với nguồn trí tuệ rúng động từ thuở kim cổ, cho đến nay, cũng chỉ lượm lặt được toàn những điều nhảm nhí và sáo rỗng. Tôi sẽ mong muốn anh ta mở lòng đồng cảm bằng sự quan sát kiên nhẫn và yêu thương, còn bản thân mình thì phát triển sức mạnh tinh thần mình. Chính trong chuyển động không thiên vị của cuộc sống, lời hứa về sự hoàn hảo trong nghệ thuật của anh ta mới có thể được nhìn thấy, chứ không phải trong những công thức vô lý cố gắng quy định phương pháp kỹ thuật hay quan niệm cụ thể này nọ. Anh ta hãy cố gắng làm chín muồi sức mạnh tưởng tượng của mình giữa những điều trần thế này, những thứ anh ta có nhiệm vụ phải trân trọng và hiểu biết, và đừng cầu khẩn nguồn cảm hứng có sẵn từ một thiên đường hoàn hảo nào đó mà anh ta chẳng biết gì. Và tôi sẽ không tiếc dành cho anh ta ảo ảnh kiêu hãnh đôi khi sẽ đến với một nhà văn: ảo tưởng rằng thành tựu của anh ta gần như đã có thể sánh ngang với sự vĩ đại anh ta mơ.

Bởi đâu có gì khác có khả năng cho anh ta sự bình nhiên và sức mạnh để ôm ấp vào lồng ngực, như một điều đáng yêu và đầy tính người, đức hạnh, sự chính trực và sáng suốt của Thành phố anh ta sống, khi vị Cha Cao Quý của nơi ấy hùng hồn tuyên bố thật giản đơn rằng: “Tôi chưa đọc sách của tác giả này, mà nếu có đi nữa thì giờ cũng quên hết nó viết về gì rồi.”

Bùi Gia Bin dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công