favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2024
Next

Hình tượng trên tấm thảm

15/05/2024 03:43

Henry James có một số câu chuyện lặp đi lặp lại: chuyện về cô gái Mỹ trong trắng (sự trong trắng hòa trộn lạ lùng với sự dạn dĩ và vô tri) lên đường sang châu Âu và rơi vào bẫy của một đồng hương Âu hóa (Vẽ một phụ nữ và Bốn cuộc gặp); chuyện về một dự cảm tiên tri nhưng không bao giờ được hé lộ và nỗi hãi hùng nó gây ra cho những kẻ dám tìm cách nhìn rõ nó (Con quái vật trong rừng và Một vấn đề); chuyện về hình bóng ám ảnh của một người đã qua đời - lúc nào cũng như ở đó nhưng lúc nào cũng vuột mất (Ban thờ người chếtDaisy MillerDi sản Aspern). Trong tất cả các truyện, cái chết và bí mật quấn lấy nhau: người chết canh giữ bí mật, đặt cuộc truy tìm bí mật vào trung tâm sự sống. 

Đoạn sau đây rút ra từ ba chương giữa của "Hình tượng trên tấm thảm" - một trong những truyện tiêu biểu nhất ở phương diện này. Tóm tắt phần trước: một nhà phê bình trẻ tuổi, vừa viết một bài báo về một trong những tác giả mà anh ta ngưỡng mộ nhất - Hugh Vereker - tình cờ gặp ông không lâu sau đó. Tác giả không giấu anh ta việc mình thất vọng với nghiên cứu anh ta viết. Không phải vì nó thiếu sự tinh xảo; nhưng nó không gọi tên được bí mật nơi tác phẩm của ông, bí mật ấy vừa là nguyên tắc động lực vừa là nghĩa tổng quát của tác phẩm.

 

Hình tượng trên tấm thảm

- Henry James

 

Chương III

“Tôi không biết phải giải thích thế nào cho anh hiểu,” ông nói, “nhưng chính việc bình luận của anh có rất nhiều trí tuệ, chính sự sắc bén khác thường của anh đã gây cho tôi cảm giác ấy - chuyện này rất thường với tôi, xin anh tin là thế - để rồi khiến tôi thốt ra với quý cô đáng kính những lời tất nhiên phải làm anh căm giận. Quả tình tôi không đọc những gì người ta viết trên báo trừ khi bị dúi vào tay như ban nãy - người làm chuyện đó bao giờ cũng là một trong số bạn chí thân! Từng có lúc tôi vẫn thi thoảng đọc - cách đây mười năm rồi. Tôi dám nói là hồi đó báo chí về cơ bản ngớ ngẩn hơn bây giờ nhiều; lúc nào họ cũng đọc lệch tôi, dù vỗ vai khen tôi hay đá vào cẳng chân tôi thì vẫn lệch chừng ấy - thế mới giỏi. Kể từ hồi đó, lần nào tình cờ ngó qua các báo, tôi cũng vẫn thấy họ đọc lệch - lệch rực rỡ, lệch huy hoàng. Anh cũng đọc lệch, bạn quý ạ, dẫu là với lập luận vững chắc vô song; cả sự sắc bén khác thường của anh lẫn cái tông nhiệt thành trong bài viết của anh cũng không làm chuyện khác đi một tị nào. Chính với những ngôi sao trẻ đang lên như các anh,” Vereker cười lớn, “tôi lại thấy mình thất bại thê thảm nhất!”

Tôi hết sức lắng nghe, càng lúc càng căng thẳng. “Ông mà thất bại - Chúa ơi! Vậy rốt cuộc ‘cái đó’ của ông là gì?” 

“Tôi thực sự phải bảo cho anh ư, sau chừng ấy năm lao động?” Có điều gì đó trong lời trách hiền hậu, hơi đùa này khiến tôi, một người tuổi trẻ đi tìm sự thật, ngượng đến buốt chân tóc. Tôi vẫn chẳng hiểu gì cả, dù đã quen với sự chậm hiểu của mình; nhưng chính khoảnh khắc ấy, tông giọng vui vẻ của Vereker lại khiến tôi thấy mình như một con lừa đẹp đẽ - và chắc ông cũng thấy tôi như vậy. Suýt chút nữa tôi đã kêu lên, “À vâng, xin đừng bảo cho tôi biết: vì danh dự của tôi, vì danh dự của nghề nữa, xin đừng!” Nhưng ông đã tiếp tục, chừng như đọc được suy nghĩ của tôi, có lẽ ông nghĩ rằng biết đâu sẽ đến lúc đám trẻ ngơ ngẩn chúng tôi hiểu được. “Cái đó là - nói thế nào được nhỉ? - là cái mà nó tôi viết. Chẳng phải nhà văn nào cũng có một điều gì như thế hay sao, điểm dồn tụ mọi năng lượng của anh ta? Nếu không phải là để có cơ may chạm đến nó thì chẳng đời nào anh ta viết, nó là dục vọng của dục vọng nơi anh ta, là phần công việc mà ngọn lửa nghệ thuật trong anh ta cháy nhất và sáng nhất. Nó đấy!”

Tôi tư lự - nghĩa là, tôi hổn hển cố bắt kịp ông, giữ một khoảng cách kính trọng. Tôi bị mê hoặc - bạn có thể nói là quá dễ bị mê hoặc; nhưng dẫu thế nào tôi cũng sẽ không để mình mất cảnh giác. “Ông tả đẹp lắm, nhưng cái thứ ông tả cũng chẳng vì thế mà rõ ràng hơn.”

“Tôi hứa với anh là sẽ rất rõ ràng, nếu nó hiện ra với anh.” Tôi thấy ngay là sức quyến mị của chủ đề đã khơi lên trong ông một vọt trào mãnh liệt chẳng kém gì tôi. “Ít nhất,” ông tiếp tục, “thì tôi có thể nói về mình: trong công việc của tôi có một ý mà nếu không có nó thì tôi sẽ chẳng lý gì đến toàn bộ chuyện viết lách. Đó là ý hướng đẹp nhất, đầy đủ nhất trong tất cả, và chỉ riêng việc bám chắc vào nó đã là cả một chiến công của kiên nhẫn và trí lực. Cái đó đáng ra tôi nên để người khác nói, nhưng chúng ta đang nói về chính chuyện chẳng ai nói được ‘cái đó’ đấy thôi. Cái mẹo nhỏ của tôi - nó trải từ cuốn này sang cuốn kia, và mọi thứ khác đều chờn vờn trên bề mặt nó. Trật tự, hình thức, kết cấu các cuốn sách của tôi có lẽ một ngày kia sẽ dựng ra cho kẻ được khai tâm một trình hiện hoàn chỉnh về nó. Chính đó là điều một nhà phê bình cần phải tìm kiếm. Thậm chí tôi còn thấy,” vị khách mỉm cười, “đó là điều nhà phê bình nên tìm ra.” 

Đúng là một trách nhiệm nặng nề! “Ông gọi đó là ‘cái mẹo nhỏ’ ư?”

“Nhún nhường thôi. Thực sự thì đó là một dự đồ ghê gớm đấy.”

“Và ông thấy mình đã thực hiện được dự đồ ấy?”

“Những gì tôi làm được khiến tôi cảm thấy đời mình cũng có chút đáng tự hào.”

Tôi khựng lại. “Ông không nghĩ là ông nên giúp nhà phê bình - dù chỉ tí ti - à?”

“Giúp anh ta? Nhưng tôi đâu có làm gì khác, với từng nét bút của mình? Tôi chẳng đã hét ‘nó’ vào cái mặt trống rỗng của anh ta ư?” Lại bật cười, Vereker đặt tay lên vai tôi để tỏ rằng ông không có ý ám chỉ cái mặt tôi.

“Nhưng ông nói về những người được khai tâm. Thế thì, ông thấy đấy, dẫu sao cũng phải cuộc khai tâm chứ.”

“Vì Chúa, nếu phê bình không phải là thế thì là gì?” Tôi e là cả câu này cũng làm tôi đỏ mặt, nhưng tôi lảng luôn, nhắc lại là câu chuyện sét đánh của ông có điều gì đó mà một người bình thường khó lòng hiểu nổi. “Chỉ là vì anh chưa bao giờ được thấy nó thôi,” ông bật lại. “Nếu đã nhác một lần thì anh gần như sẽ không thấy gì khác nữa. Với tôi thì mọi thứ rành rành như cẩm thạch trên lò sưởi này vậy. Vả lại, nhà phê bình đâu phải chỉ là một tay thô lậu tầm thường: nếu thật thế thì, trời ơi, anh ta làm gì trong vườn nhà hàng xóm thế? Chính anh cũng đâu phải hạng tục nhân và toàn bộ raison d'être[1] của các anh chẳng phải nằm ở chỗ các anh là loài quỷ của gu tinh tế, của cảm năng à? Nếu dự đồ vĩ đại của tôi là bí mật thì đâu phải là bởi tôi thích thế - mọi thứ đã an bài để nó phải trở thành bí mật. Chẳng những tôi không bao giờ cố giữ nó bí mật mà còn không bao giờ mơ rằng mọi sự sẽ thành như thế. Nếu thực vậy thì ban đầu tôi sẽ chẳng có can đảm để tiếp tục đâu. Chỉ dần dần tôi mới hiểu ra, và trong lúc ấy tôi đã làm xong việc của mình rồi.”

Và giờ ông tận hưởng nó chứ?” tôi đánh bạo hỏi.

“Công trình của tôi ấy à?”

“Bí mật của ông. Cũng vậy cả.”

“Việc anh đoán được điều đó,” Vereker đáp, “là bằng chứng cho thấy anh sáng ý đúng như tôi nói!” Được khích lệ, tôi nói thêm rằng chắc ông sẽ đau lòng lắm nếu phải rời xa nó, và ông thú nhận là đúng thế, giờ nó là nguồn vui lớn của đời ông. “Tôi gần như chỉ sống để rình xem liệu sẽ có ai nhìn thấu nó không.” Ông tinh quái nhìn tôi; điều gì đó sâu trong mắt ông như đang nhòm ra, cợt đùa thách thức. “Nhưng tôi không việc gì phải lo cả - nó sẽ chẳng bị phát hiện đâu!”

“Ông làm tôi cháy như chưa bao giờ được cháy,” tôi tuyên bố; “ông làm tôi quyết hoặc chết, hoặc phải tìm cho ra.” Rồi tôi hỏi: “Đó là một dạng thông điệp bí truyền à?”

Câu này khiến mặt ông chùng xuống - ông đưa tay ra như thể muốn chúc ngủ ngon. “Bạn yêu quý, không thể tóm được nó bằng thứ sáo ngữ báo chí rẻ tiền ấy đâu!”

Tất nhiên tôi đã biết ông sẽ khắt khe kinh khủng, nhưng cuộc nói chuyện khiến tôi thấy rõ thần kinh ông nhạy chừng nào. Tôi không thỏa mãn - tôi vẫn giữ tay ông. “Thế thì tôi sẽ không dùng lối diễn đạt ấy,” tôi nói, “trong bài báo công bố khám phá của tôi, dù phải nói rằng tôi sẽ phải rất nhọc công nếu quyết không dùng nó. Nhưng ông không thể cho người tuổi trẻ này một gợi ý, chỉ để thúc cuộc sinh nở khó nhọc ấy ư?” Tôi đã thấy thoải mái hơn nhiều.

“Toàn bộ dụng công trong suốt của tôi đã cho anh ta gợi ý - từng trang, từng dòng, từng chữ. Cụ thể như một con chim trong lồng, một miếng mồi trên lưỡi câu, một miếng pho mát trong bẫy chuột. Nó được nhét vừa in vào từng cuốn như chân xỏ khít vào giày. Nó chi phối từng dòng, nó quyết định từng chữ, nó chấm từng chữ i, nó đặt từng dấu phẩy.”

Tôi gãi đầu. “Nó thuộc về phong cách hay tư tưởng? Là yếu tố của kỹ thuật hay tình cảm?”

Ông lại hiền từ bắt tay tôi, và tôi thấy câu hỏi của mình thật thô lậu, phân biệt của mình thật thảm hại. “Chúc ngủ ngon, chàng trai trẻ của tôi - đừng bận tâm về điều đó. Dẫu sao thì anh cũng thích văn chương ấy mà.”

“Và một chút gợi ý có thể làm hỏng nó ư?” tôi vẫn chưa chịu để ông đi.

Ông trầm ngâm. “Thế này, trong cơ thể anh có một trái tim. Nó thuộc về kỹ thuật hay tình cảm? Tôi cho rằng chưa bao giờ có ai nhìn ra được trong tác phẩm của tôi cơ quan của sự sống.”

“Tôi hiểu rồi - đó là một ý về sự sống, một dạng triết học. Trừ khi nó là,” tôi thêm vào, với một ý đột khởi có lẽ còn chuẩn hơn, “một trò chơi phong cách mà ông theo đuổi trong ngôn ngữ. Chuyện ông ưa dùng chữ P chẳng hạn!” Tôi đánh bạo tung ra một phỏng đoán thô lậu. “Papa, potatoes, prunes - vân vân?” Ông tỏ ra độ lượng đúng như cần phải thế: ông chỉ bảo tôi bắt chưa đúng chữ. Nhưng ông đã hết hứng; tôi thấy là ông bắt đầu chán rồi. Nhưng vẫn có một việc tôi nhất định phải biết. “Ông có thể, khi cầm bút trong tay, nói rõ nó ra - gọi tên nó, biểu đạt nó, khuôn lấy nó không?”

“A,” ông thở dài nồng nhiệt, “giá tôi là một trong các anh, bút trong tay!”

“Tất nhiên đó sẽ là cơ hội lớn cho ông. Nhưng tại sao ông lại khinh bỉ chúng tôi vì không làm điều mà chính ông cũng không làm được?”

“Không làm được ấy à?” Ông mở to mắt. “Chẳng phải tôi đã làm thế trong cả hai mươi quyển sách hay sao? Tôi làm theo cách của tôi chứ,” ông tiếp tục. “Các anh cũng phải làm đi, theo cách của các anh.”

“Cách của chúng tôi khó như quỷ ấy,” tôi yếu ớt nhận xét.

“Của tôi cũng thế thôi. Mỗi người chúng ta chọn đường cho mình. Có ai ép đâu. Anh không xuống lầu hút thuốc à?”

“Không. Tôi muốn nghĩ cho thông đã.”

“Thế thì sáng mai anh hãy cho tôi biết là đã lột trần tôi được chưa nhé?”

“Tôi sẽ xem mình có thể làm gì; tôi sẽ ôm chuyện này đi ngủ. Nhưng một câu nữa thôi,” tôi nói. Chúng tôi đã rời phòng, tôi lại bước vài bước cùng ông dọc hành lang. “Cái ‘ý hướng tổng quát’ kỳ dị ấy, như ông gọi - đó là miêu tả sống động nhất về nó mà tôi có thể khiến ông bật ra - nó có phải là một dạng kho báu bị chôn giấu không?”

Mặt ông sáng lên. “Phải, gọi thế cũng được, dù có lẽ tôi không nên gọi thế.”

“Vớ vẩn!” tôi bật cười. “Tôi biết ông tự hào về nó lắm.”

“Chà, tôi không định nói điều đó với anh, nhưng nó đúng là nguồn vui của tâm hồn tôi!”

“Ý ông nói nó là một cái đẹp hiếm và cao quý vô ngần?”

Ông lại ngập ngừng một quãng, rồi, “Thứ đẹp nhất trên đời!” ông đáp. Chúng tôi đã dừng bước, và ông bỏ lại tôi với mấy từ đó, nhưng đến cuối hành lang, trong khi tôi vẫn trân trối nhìn ông, ông quay lại và bắt gặp khuôn mặt hoang mang của tôi. Nó khiến ông nồng nhiệt, thậm chí còn có vẻ hơi lo lắng lắc đầu, xua tay, “Bỏ đi - bỏ cuộc đi!”

Đó không phải là lời thách thức - đó là lời khuyên nhân từ của một người cha. Nếu đang có sẵn một quyển sách của ông, tôi sẽ lặp lại cử chỉ của lòng tin tôi đã thực hiện gần đây - sẽ dành nửa đêm ấy cho ông. Ba giờ sáng, không ngủ được và nhớ ra ông quan trọng đến thế nào với Lady Jane, tôi cầm nến mò xuống thư viện. Tôi lật tung mọi ngóc ngách, nhưng cả ngôi nhà không có lấy một dòng viết của ông.

 

Chương IV

 

Quay về London, tôi cuống cuồng thu thập hết; tôi cầm từng cuốn lên theo đúng thứ tự để săm soi, cố đưa ra ánh sáng. Cứ thế, một tháng điên rồ vụt qua. Trong thời gian ấy, nhiều sự đã xảy ra. Một trong đó, và tôi phải nói ngay là sự cuối cùng, là tôi đã theo lời khuyên của Vereker: tôi từ bỏ cố gắng ngớ ngẩn của mình. Thực sự chẳng thể làm gì được; rõ ràng sẽ chỉ công cốc mà thôi. Dù sao tôi cũng đã, như chính ông nhận ra, luôn thích ông; và giờ thì hiểu biết mới cùng những đeo đuổi vô vọng của tôi đã khiến tôi không thích nổi nữa. Tôi không những không kéo được ý hướng tổng quát cao vời của ông xuống đất để nhìn cho rõ mà còn thấy mình mất dấu luôn các ý hướng phụ trợ từng thích thú bao nhiêu. Sách của ông thậm chí hết cả sức mê hoặc đối với tôi; cuộc tìm kiếm bất lực khiến tôi chẳng còn chút tự tin nào khi xử lý chúng. Thay vì là nguồn vui, chúng trở thành vùng tuyệt vọng, bởi từ lúc không theo kịp gợi ý của tác giả, tất nhiên tôi thấy vì danh dự, tôi không được phép dùng hiểu biết về chúng cho công việc nữa. Tôi đâu hiểu biết gì - chẳng ai có cả. Thật nhục nhã, nhưng tôi chịu được - chúng chỉ làm tôi bực bội mà thôi. Dần dà tôi còn chán ghét chúng và tôi giải thích sự hoang mang của mình - theo lối lươn lẹo, tôi thừa nhận - bằng ác ý của Vereker, hẳn ông ta đã cố tình biến tôi thành một con lừa. Kho báu chôn giấu là một trò đùa ác, ý hướng tổng quát là một thứ làm dáng quái quỷ.

Nhưng quan trọng nhất là tôi đã kể cho George Corvick những gì xảy ra với tôi và điều đó tác động không ngờ đến anh. Cuối cùng anh cũng đã quay lại nhưng đáng tiếc là bà Erme cũng thế, và tôi thấy ngay là viễn cảnh kết hôn của anh vẫn xa tít mù khơi. Anh bị kích động ghê gớm bởi giai thoại tôi mang về từ Bridges; nó hoàn toàn khớp với ấn tượng anh đã ấp ủ từ lâu, rằng ở Vereker có nhiều kho báu hơn những gì mắt thường bắt được. Khi tôi nhận xét rằng trang giấy in được tạo ra là để gặp con mắt, anh chàng lập tức buộc tội tôi là hằn học vì thất bại. Chúng tôi lúc nào cũng bộc toạc với nhau như thế. Thứ Vereker nhắc tới chính xác là thứ mà anh ta, Corvick, đã muốn tôi nói được trong bài phê bình. Khi cuối tùng tôi bảo rằng với những gì tôi đã tiết lộ, anh hoàn toàn có thể tự mà viết lấy, anh ta đáp, không chút dè dặt, rằng trước khi làm thế thì phải hiểu cho rõ một số chuyện đã. Nếu bình luận về cuốn sách mới, anh sẽ viết rằng trong thẳm sâu nghệ thuật của tác giả vẫn có điều gì đó phải được nhìn cho thấu, hiểu cho ra. Tôi thậm chí còn chẳng rờ được đến mức ấy: thảo nào nhà văn không hài lòng! Tôi hỏi Corvick rút cuộc cảm năng hết mực tinh tế của anh đã bắt được gì và, rõ ràng đã hăng máu, anh ta đáp gọn lỏn: “Cái đó không dành cho hạng phàm phu - không dành cho hạng phàm phu!” Anh ta đã tóm được đuôi thứ gì đó; anh ta đã giật mạnh và lôi phắt được nó ra. Anh ta hút từ tôi tất cả những gì có thể về tiết lộ kỳ dị của Vereker và, tuyên bố tôi là kẻ may mắn nhất đời, tuôn ra cả tá câu hỏi mà, vì Chúa, đáng ra tôi phải đặt. Vậy nhưng anh ta cũng không muốn được cho biết quá nhiều - như thế sẽ làm hỏng hết niềm vui được chứng kiến những gì rồi sẽ đến. Lúc gặp lại Corvick, tôi vẫn chưa hoàn toàn bị rút cạn niềm vui đối với văn chương Vereker, nhưng tôi đã thấy trước rồi sẽ đến lúc đó, và Corvick cũng thấy là tôi thấy. Tôi, về phần mình, cũng thấy được ngay là anh ta sẽ vội vàng chạy đến rỉ cho Gwendolen chuyện của tôi.

Ngay sau hôm nói chuyện với anh ta, tôi kinh ngạc nhận một lá thư từ Hugh Vereker, ông bảo đã nhớ lại cuộc gặp ở Bridges khi tình cờ va phải, trên một tờ tạp chí, một bài ký tên tôi. “Tôi đọc nó rất hào hứng,” ông nói, “và nhờ đó nhớ lại cuộc trò chuyện sôi nổi bên lò sưởi phòng anh. Kết quả là tôi bắt đầu nhận ra sự khinh suất của mình khi khoác lên anh một hé lộ mà đối với anh có thể là gánh nặng. Giờ, khi cơn bốc đã qua, tôi chẳng thể hình dung được làm sao tôi lại để mình mất tự chủ đến thế. Trước đây, dù bốc đến thế nào, tôi cũng chưa bao giờ đả động đến sự tồn tại của bí mật nho nhỏ này, và tôi sẽ không bao giờ nhắc đến nó nữa. Tôi đã vô tình nói quá rõ với anh, hơn nhiều những gì trò chơi của tôi cho phép, tới nỗi tôi thấy trò chơi ấy - ý tôi là khoái thú của cuộc chơi - bị ảnh hưởng nặng nề. Tóm lại, tôi đã làm hỏng nguồn vui của mình, nếu anh hiểu điều đó nghĩa là gì. Tôi thực sự không muốn cho bất kỳ ai cái mà các tay trẻ tài trí các anh vẫn gọi là mẹo. Đó tất nhiên là một toan tính ích kỷ và tôi đã để lộ nó, với mọi lợi thế nó có thể mang lại cho anh. Nếu anh muốn làm tôi vui lòng thì xin đừng nhắc lại tiết lộ của tôi cho bất kỳ ai. Cứ nghĩ tôi mất trí cũng được - đó là quyền của anh; nhưng đừng kể cho ai hết.”

Kết quả của lá thư này là ngay sáng sớm hôm sau, tôi phải đi xe đến thẳng nhà ông. Những năm ấy, ông ngụ ở một trong những ngôi nhà già nua đán kính trong Kensington Square. Ông tiếp tôi ngay, và ngay khi gặp ông, tôi nhận ra mình vẫn chưa mất khả năng làm ông vui vẻ. Ông cười lớn khi thấy cái mặt tôi, rõ là đang bấn tợn. Tôi không thể giấu - sự ăn năn của tôi quá lớn. “Tôi kể cho người khác mất rồi,” tôi hổn hển, “và tôi chắc rằng giờ người đó đã kể cho một người khác nữa! Lại còn là phụ nữ nữa chứ.”

“Cái người anh kể ấy à?”

“Không, người kia cơ. Tôi khá chắc là anh ấy đã cho cô ta hết.”

“Tốt cho cô ta thôi - đúng hơn là tốt cho tôi!  Phụ nữ thì chẳng bao giờ nhìn ra được.”

“Phải, nhưng cô ta sẽ đi kể khắp nơi; cô ta sẽ làm đúng những gì ông không muốn.”

Vereker ngẫm nghĩ một chốc nhưng không lo lắng như tôi đã sợ: ông cảm thấy nếu đã thế thì phải thế thôi.  “Không sao đâu - đừng lo.”

“Tôi sẽ làm hết sức, tôi hứa với ông, để những gì ông tiết lộ cho tôi không tràn thêm ra ngoài.”

“Tốt lắm; cứ làm những gì anh có thể.”

“Trong lúc đó,” tôi tiếp tục, “việc George Corvick nắm được mẹo có thể thực sự dẫn đến điều gì đó đấy.”

“Sẽ là một ngày oai hùng cho xem.”

Tôi kể cho ông về trí tuệ của Corvick, sự ngưỡng mộ của anh ta, niềm hào hứng cuồng nhiệt của anh ta đối với câu chuyện của tôi và, không nói quá nhiều về chênh lệch giữa tôi và anh trong nhận định về ông, nhắc đến cả việc bạn mình đã sớm đoán được rằng trong một số vấn đề, ông nhìn xa hơn hầu hết mọi người nhiều. Anh ta đã cháy chẳng kém gì tôi khi ở Bridges. Thêm nữa anh ta còn đang yêu quý cô trẻ tuổi: có lẽ hai người họ sẽ giải ra được điều gì đó.”

Vereker dường như thực sự chấn động bởi điểm này. “Ý anh là họ sẽ kết hôn?”

“Tôi dám nói rằng cuối cùng sẽ thế.”

“Chuyện đó có thể giúp họ,” ông ôn tồn nói, “nhưng ta phải cho họ thời gian!”

Tôi nói về cuộc tìm kiếm mới của chính tôi, thú nhận là rất khó, và ông nhắc lại lời khuyên lần trước: “Từ bỏ đi, từ bỏ đi!” Rõ ràng ông thấy tôi không đủ trí tuệ cho cuộc phiêu lưu. Tôi nán lại nửa giờ, ông rất hòa nhã nhưng tôi không thể không thấy rằng tâm trạng ông thật thất thường. Ban đầu ông bộc bạch hết với tôi, rồi ông hối hận, và giờ thì dửng dưng. Sự thất thường này giúp tôi tin được rằng chuyện cái mẹo thực ra cũng chẳng có gì to tát. Nhưng tôi vẫn cố bắt ông trả lời thêm vài câu hỏi về nó, dù rõ ràng ông đã mất kiên nhẫn khi đáp lại tôi. Chẳng nghi ngờ gì nữa, điều mà tất cả chúng tôi mù mờ thì với ông đã rõ rành rành. Hẳn, tôi nói, nó đã nằm trong dự đồ nguyên thủy, giống như một hình tượng phức tạp trên tấm thảm Ba Tư. Ông rất tán thành hình ảnh của tôi, rồi ông viện tới một hình ảnh khác, của ông. “Nó là sợi dây xâu những viên ngọc trai của tôi!” Hôm qua ông gửi lời nhắn ấy cho tôi bởi ông thực sự không muốn cho chúng tôi bất cứ trợ giúp nào - sự mờ tối của chúng tôi quá hoàn hảo theo cách riêng, ông không muốn làm hỏng nó. Ông đã quen trông cậy vào nó, và nếu lời nguyền bị phá vỡ, nó sẽ phải vỡ bởi một lực nội sinh. Ở lần gặp cuối ấy - bởi sẽ không còn lần nào nữa - ông gây cho tôi ấn tượng của một người cố giữ một khoảng riêng bí mật cho vui thú của mình, và tôi tự hỏi, khi cáo từ, không biết ông đã lấy được cái mẹo của mình ở đâu.

 

Chương V

 

Khi tôi nói với George Corvick về lời cảnh báo mà tôi nhận được, anh ta khiến tôi cảm thấy rằng bất cứ nghi ngờ nào về sự kín đáo của anh cũng gần như là xúc phạm. Anh ta đã kể ngay với Gwendolen, nhưng phản ứng nồng nhiệt của Gwendolen tự nó đã là lời hứa giữ mồm giữ miệng. Câu hỏi ấy giờ sẽ hút lấy họ và cho họ một thú tiêu khiển quá quý giá để có thể chia sẻ với đám đông. Họ có vẻ đã bắt được, bằng bản năng, cái ý cao vời của Vereker về khoái thú. Sự kiêu hãnh trí tuệ của họ, tuy thế, không khiến họ dửng dưng trước ánh sáng thêm vào mà tôi vừa mang tới. Rõ ràng họ thuộc “khí chất nghệ sĩ” và một lần nữa tôi lại phải kinh ngạc bởi năng lực của người đồng nghiệp trong việc tung mình vào một vấn đề nghệ thuật. Anh ta gọi đó là văn chương, anh ta gọi đó là cuộc sống, nhưng tất cả là một với anh. Tôi nghĩ tôi cũng hiểu ra rằng những điều này anh nói không chỉ cho anh mà còn cho cả Gwendolen, và ngay khi bà Erme đủ khỏe để cho cô tạm nghỉ ngơi, anh nhất định sẽ giới thiệu cô với tôi. Tôi nhớ một Chủ Nhật tháng Tám, chúng tôi đã cùng đến một ngôi nhà chen giữa bao nhiêu ngôi nhà khác ở Chelsea, nhớ cả nỗi ghen tị lại lần nữa dấy lên khi thấy Corvick có một người bạn sở hữu thứ ánh sáng hòa được với ánh sáng của chính anh. Anh có thể nói với cô những điều tôi chẳng bao giờ nói được với anh. Cô nàng thực ra không có tí hài hước nào, và với cái kiểu nghoẹo đầu làm dáng của mình, cô quả thật là một trong những nữ nhân khiến ta muốn rung thật mạnh - như người ta vẫn nói - nhưng đã tự học tiếng Hung một mình. Có khi đúng là cô dùng tiếng Hung để chuyện trò với Corvick thật; cô rõ ràng không đủ tiếng Anh để làm người tri kỷ của anh. Sau này Corvick bảo tôi rằng tôi đã khiến cô mất hứng khi không muốn kể chi tiết những gì Vereker đã nói với tôi để chiều ý hai người. Tôi đáp rằng tôi cảm thấy mình đã dành đủ suy nghĩ cho chuyện đó: chẳng phải tôi đã đi đến kết luận rằng thật ra chẳng có gì cả, đeo đuổi chỉ công toi ư? Tầm quan trọng mà hai người họ gắn cho nó khiến tôi bực bội và chỉ càng đào sâu những ngờ vực của tôi.

Nói thế có vẻ thật thiếu thiện chí, và có lẽ sự thật là tôi đã thấy bị sỉ nhục khi chứng khiến người khác bị mê hoặc đến thế bởi một thí nghiệm đã chẳng đưa lại gì cho tôi ngoài sự bẽ bàng. Trong khi tôi lang thang ngoài trời lạnh thì họ, bên lò sưởi, dưới ánh đèn, hăm hở lao theo cuộc săn mà chính tôi đã hú tù và khởi động. Họ làm đúng như tôi đã làm, chỉ khác là hệ thống hơn và ít cô độc hơn - họ rà lại tác giả từ khởi thủy. Chẳng việc gì phải vội, Corvick nói tương lai còn ở trước mặt và sự hào hứng sẽ chỉ có thể dâng lên; họ sẽ đọc Vereker từng trang, hệt như với những gì đã thành kinh điển; họ sẽ hít lấy ông từng hơi chậm rãi và để ông ngấm đến gan ruột mình. Còn lâu họ mới hăng hái đến thế, tôi thầm nghĩ, nếu họ không yêu: bí mật cao vời của Vereker khốn khổ cho họ vô số dịp để chụm hai cái đầu trẻ trung vào nhau và giữ yên chúng ở đó. Tuy thế, không thể phủ nhận rằng đây là dạng vấn đề mà Corvick đặc biệt có khiếu; nó khơi được từ anh thứ kiên nhẫn sắc bén đặc thù mà, nếu còn sống, anh hẳn sẽ cho thấy nhiều ví dụ đáng kinh ngạc hơn và, hy vọng vậy, nhiều thành quả hơn. Ít nhất thì anh đúng là, mượn lời của Vereker, một con quỷ của cảm năng, của gu tinh tế. Chúng tôi đã bắt đầu bằng tranh cãi, nhưng tôi sớm nhận ra rằng chẳng cần tôi nhấc một ngón tay, sự mê đắm của anh chàng cũng phải chịu những giờ trì trệ. Anh ta sẽ lạc đường, bị lừa bởi những mùi giả, hệt như tôi trước đây - anh ta sẽ chụm tay bắt lấy những luồng sáng vừa hiện ra để rồi thấy chúng bị thổi bay khi lật sang trang tiếp. Anh ta, tôi nhận xét thẳng, chẳng khác gì những tên cuồng cứ ôm mãi thứ lý thuyết Bedlam về bí ẩn số học trong các tác phẩm của Shakespeare. Anh ta đáp lại rằng nếu được nghe chính Shakespeare thừa nhận điều đó, anh sẽ tin ngay lập tức. Đó là một ca khác hẳn - chúng ta chẳng có gì ngoài lời chứng của ông Snooks. Tôi đáp rằng tôi sửng sốt khi thấy anh coi trọng lời của ông Vereker đến thế. Và thế là anh ta vặn lại, hỏi có phải tôi nghĩ ông Vereker nói dối không. Có lẽ tôi không sẵn sàng đi xa đến thế khi bật ra cái câu lỡ làng ấy, nhưng tôi vẫn khăng khăng rằng cho đến khi có thể chứng minh ngược lại, tôi thấy những lời ấy là một tưởng tượng quá đà. Nhưng tôi phải thú nhận rằng lúc đó tôi đã không nói - chính tôi cũng không biết hết - tất cả những gì mình cảm thấy. Trong thâm tâm, như cô Erme hẳn sẽ nói, tôi bứt rứt, dường như chờ đợi một điều gì. Cốt lõi tâm trạng rối bời của tôi - bởi sự tò mò bị dập đi vẫn âm ỉ sống trong đống tro tàn của nó - là cảm giác nhói buốt rằng có lẽ Corvick cuối cùng sẽ tìm ra được điều gì đó. Để biện hộ cho sự cả tin của mình, anh chàng không ngừng rao lại rằng đã từ lâu, trong quá trình nghiên cứu về thiên tài ấy, anh đã chớp được những dấu hiệu và gợi ý không thể nói rõ là gì, những nốt trôi dạt rất mờ của một âm nhạc ẩn. Chính đó là báu vật, là nguồn mê hoặc: nó hoàn toàn khớp với những gì tôi đã tường thuật cho anh.

Nếu tôi có vài lần trở lại ngôi nhà nhỏ ở Chelsea thì ấy là để hóng tin Vereker cũng chẳng kém tin về bà mẹ đau yếu của cô Erme. Những giờ ở đó bên Corvick hiện lên trong tưởng tượng của tôi như những khoảng cúi mình cau có của một kẻ chơi cờ lặng lẽ, dưới ánh đèn leo lét suốt mùa đông - triền miên cúi mình trên bàn cờ, trên từng nước đi của hắn. Khi tưởng tượng của tôi hoàn chỉnh bức tranh ấy, nó cứ thế tóm chặt tôi, bám đuổi tôi. Phía bên kia bàn, đối diện kẻ chơi cờ là một bóng hình còn ma quái hơn, cái bóng mờ của một đối thủ ở vị thế rất an toàn, hòa nhã nhưng có phần mệt mỏi - đối thủ ấy ngả lưng vào ghế, tay đút túi, nụ cười trầm ngâm trên gương mặt đẹp sáng rỡ. Gần Corvick, đằng sau anh ta, là một cô gái trẻ ban đầu có vẻ xanh xao tiều tụy, nhưng nhìn kỹ thì khá xinh, đang dựa vào vai anh ta, dõi theo từng nước đi. Anh ta sẽ lấy một quân cờ và giữ nó lơ lửng một hồi trên một trong các ô vuông nhỏ, rồi đặt nó trở lại vị trí cũ với một tiếng thở dài thất vọng. Quý cô trẻ, trước động tác ấy, sẽ khẽ cựa mình bồn chồn và nhìn - rất gắt, rất lâu, rất lạ lùng - vào cái bóng mịt mù của người đối diện. Từ rất sớm tôi đã hỏi họ liệu nói chuyện trực tiếp với ông có thể tăng cơ may thành công hay không. Chuỗi sự việc đặc thù vừa qua chắc chắn sẽ cho tôi quyền giới thiệu họ. Corvick lập tức đáp rằng anh không mong đến gần điện thờ trước khi chuẩn bị xong tế vật. Anh đồng ý với người bạn của chúng tôi về cả khoái thú lẫn vinh quang của cuộc săn tìm - anh sẽ hạ gục con mồi bằng chính súng của anh. Khi tôi hỏi cô Erme có phải là một tay thiện xạ như anh không, anh đáp sau một hồi ngẫm nghĩ: “Không, tôi lấy làm ngượng phải nói rằng cô ấy chỉ chăm chăm đặt bẫy thôi. Cô ấy sẽ không từ gì để được gặp ông ta; cô ấy cứ khăng khăng là phải có một mẹo nữa. Cô ấy thực sự phát bệnh vì chuyện đó. Nhưng cô ấy phải chơi đẹp - cô ấy sẽ không được gặp ông ta!” anh nhấn mạnh. Tôi tự hỏi có khi nào hai người bọn họ đã cãi nhau về chuyện này không - và nỗi nghi ngờ không dịu đi khi anh thốt lên với tôi, không chỉ một lần: “Cô ấy văn chương lắm, anh biết đấy - văn chương đến kỳ dị!” Tôi nhớ anh từng nói rằng cô nàng cảm nhận bằng chữ nghiêng và nghĩ bằng chữ in hoa. “Ôi, ngay khi tôi bắt bài được ông ấy,” anh nói thêm, “khi đó, anh biết đấy, tôi sẽ đến gõ cửa nhà ông ấy. Không - xin anh tin cho điều này. Tôi sẽ bắt chính miệng ông ta phải công nhận: ‘Phải, chàng trai của tôi, lần này anh bắn trúng rồi!’ Ông ta sẽ phải tự tay trao cho tôi vương miện người chiến thắng - vòng nguyệt quế của nhà phê bình.”

Cho tới lúc đó, anh chàng đã thực sự né mọi cơ hội gặp tiểu thuyết gia trứ danh mà cuộc sống London có thể hồn nhiên dâng tặng; nhưng nguy cơ ấy cũng biến mất khi Vereker đi khỏi Anh, chưa biết khi nào quay lại, như được thông báo trên báo chí - đi đến miền nam vì sức khỏe của bà vợ, bà ta đã phải rút khỏi mọi giao tế từ lâu. Một năm - hơn một năm - đã qua kể từ sự kiện ở Bridges, nhưng tôi không gặp lại ông lần nào. Tôi nghĩ trong thâm tâm, tôi xấu hổ - tôi ghét phải để ông thấy rằng dù tôi thất bại thảm hại trong việc giải bí mật của ông, danh tiếng về cái nhìn nhạy bén và sáng suốt đã vùn vụt bám lấy tôi. Sự xấu hổ khiến tôi lẩn như chạch; tôi không dám bén mảng đến nhà Lady Jane, thậm chí còn từ chối quay lại dinh thự trang nhã ấy khi Lady - mặc cho phong thái vụng về của tôi - ngỏ lời mời. Một lần tôi nhác thấy Lady ở một buổi hòa nhạc, được Vereker hộ tống, và tôi chắc chắn họ cũng thấy tôi, nhưng tôi lại lủi đi, không để mình bị tóm. Tôi cảm thấy, khi lao ra giữa trời mưa hôm ấy, rằng tôi chẳng thể làm gì khác được, thế nhưng tôi nhớ đã nhủ với mình rằng làm thế thật quá quắt, thậm chí còn độc ác. Tôi không chỉ mất những cuốn sách mà còn mất luôn tác giả: cả hai với tôi thế là hỏng, không cách nào hồi được. Tôi cũng biết tôi tiếc nuối mất mát nào hơn. Tôi ngẩn ngơ vì mất người còn hơn bất cứ khi nào từng ngẩn ngơ vì sách.


[1] Lý lẽ tồn tại (tiếng Pháp trong nguyên bản).

Anh Hoa dịch

 

"Hình tượng trên tấm thảm" sẽ xuất hiện đầy đủ trong ấn bản tiếp theo của dự án Henry James (bắt đầu từ đây). Để nhận tin về các đợt xuất bản của FORMApubli, độc giả có thể đăng ký tại đây.

 

 James viết 

 Những người châu Âu

Vẽ một phụ nữ

Con quái vật trong rừng & Ban thờ người chết

Daisy Miller & Di sản Aspern

Bi kịch từ lỗi

Một vấn đề

Bốn cuộc gặp

Hình tượng trên tấm thảm

Richard khốn khổ

 

 James đọc

đọc Flaubert

đọc George Eliot

đọc Turgenev

đọc Balzac

đọc phê bình

 

đọc James

William Dean Howells

Mona Ozouf

E.M.Forster

Gertrude Stein

Pietro Citati

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công