Ghi chú về Walter Savage Landor
Notes on Walter Savage Landor
- Thomas De Quincey
Walter Savage Landor nổi tiếng có tính khí nóng nảy và ưa gây gổ, ông từng theo học tại Rugby và Oxford nhưng bị đuổi khỏi cả hai trường, cũng như nhiều lần đã bị đuổi khỏi nhà. Suốt đời ông, bên cạnh các xung đột với đối thủ chính trị, Landor dường như luôn cãi vã với cha, vợ, hàng xóm và bất kỳ người quyền thế nào – từ các sĩ quan, viên chức bình thường cho đến các lãnh chúa hay Giám mục – khiến ông khó chịu. Tính khí ấy của Landor là nguồn để Charles Dickens tạo ra nhân vật Lawrence Boythorn trong Bleak House. Ngoài ra Landor còn nổi tiếng ở khoản thường bị các nhà xuất bản từ chối, bởi họ cho rằng sách của ông không bán được, dù các văn nhân nổi tiếng thời ấy quen biết và ngưỡng mộ ông. Trong số đó có thể kể tới Robert Southey, người từng là hàng xóm và có tình bạn lâu dài với Landor (Southey cũng là nhân vật đầu tiên xuất hiện khi Landor bắt đầu viết Những đối thoại tưởng tượng), William Wordsworth (giống như Wordsworth sau cách mạng Pháp Landor đã đến Paris trong thời hòa bình Amiens, vài năm sau đó Landor lại đến Corunna tham gia cuộc nổi dậy của Tây Ban Nha chống Napoleon), Samuel Taylor Coleridge, Charles Lamb… Ngoài ra, Ralph Waldo Emerson, trong chuyến thăm châu Âu đầu tiên năm 1833 và gặp gỡ rất nhiều các nhà văn Anh trong đó có các nhà thơ Vùng Hồ, Thomas De Quincey, Carlyle, và cả Walter Savage Landor, cũng nhận thấy rằng ở nước Anh Landor bị đánh giá thấp cách kỳ lạ, thường bị phớt lờ, và đôi khi bị công kích dữ dội.
Thomas De Quincey, tuy chưa từng gặp Landor, đã ngưỡng mộ tác giả của Những đối thoại tưởng tượng từ rất sớm khi còn đang là sinh viện tại Oxford: đó là bài thơ Gebir, bên cạnh tập Lyrical Ballads của Wordworth và Coleridge. Năm 1847, De Quincey đã xuất bản bốn tiểu luận về Landor trên Tait’s Magazine, mở đầu là Notes on Walter Savage Landor.
Không có ai của thế hệ này đọc tờ Spectator. Tuy nhiên, có vài người vẫn còn sống đã đọc số đầu tiên. Trong số đầu tiên ấy có một nhầm lẫn kỳ lạ. Ở đó người ta đòi hỏi theo như xúc cảm chung của bản tính con người, rằng không thể đọc một quyển sách mà thỏa mãn cho đến khi người ta xác định được tác giả của nó cao hay thấp, béo hay gầy, và về nước da, liệu đó có phải là một người ‘da đen’ (vào thời của tờ Spectator đó là cách diễn đạt vô lý để chỉ một người da ngăm), hay một người da trắng, hay một người vàng vọt, hay có lẽ một người da tái xanh, mà Southey khẳng định là mô tả chính xác về nhiều thợ thủ công to béo ở Birmingham, quá say mê làm việc trong làn khói kim loại; vì lý do này mà cái tên Southey là một điều đáng ghê tởm cho đến tận ngày nay trong một số lò nung ở Warwickshire. Nhưng còn điều gì sai trái hơn thứ học thuyết Spectator này? Có bao giờ một nữ độc giả trẻ tuổi nhất của tiểu thuyết, vào một ngày oi bức, không chịu ăn một chùm nho cho đến khi cô nàng biết người bán nho có phải là một người đàn ông ưa nhìn hay không? Ai trong chúng ta từng nghe một người lạ hỏi xin một cuốn ‘Hướng dẫn về Trosachs’ mà lại bảo rằng, ‘tuy nhiên, tôi còn do dự chưa trả tiền, cho đến khi nào biết được liệu tác giả của nó có bị phù chân hay không?’ Theo nguyên tắc này, giả như có bất kỳ nguyên tắc nào giống như thế được áp dụng, các tác giả chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm xem xét lại kiến thức vật lý của mình một cách nghiêm ngặt trước khi được phép đọc, cũng như trước khi được chấp nhận bảo hiểm tính mạng bởi các cố vấn y tế của công ty bảo hiểm; các tay khám bệnh bằng ống nghe, cứ thế véo, cấu vào sườn, cho đến khi người bệnh giận dữ, và – phòng trường hợp bảo hiểm bị hủy bỏ bởi báo cáo y tế – cân nhắc việc truy tố tên côn đồ y khoa vì tội hành hung, vì một vụ tấn công vô cớ, và, nếu có thể, bao gồm luôn việc cáo buộc công ty bảo hiểm đáng ghét kia là đồng phạm trước khi sự việc xảy ra. Trong khi đó điều kỳ lạ, chẳng phải là Addison đã phạm sai lầm, mà là ông và độc giả của ông trong sai lầm này đã nhận ra một sự thật ẩn giấu, sự sáng tỏ đột ngột của một khuynh hướng tiềm ẩn trong tất cả mọi người, nhưng giờ đây mới lần đầu được phơi bày; bởi vì thực sự có một khuynh hướng trong tất cả chúng ta rất giống với những gì Addison mô tả, dẫu đã rất khác biệt, nhưng sau một lần chỉnh sửa lại giống hệt nhau. Không độc giả nào quan tâm đến cá nhân tác giả trước khi đọc sách của anh ta: chính là sau khi đọc nó, và giả sử cuốn sách ấy tiết lộ đôi điều về bản chất đạo đức của tác giả, như thể nó đã điều chỉnh trí tuệ của anh ta, thì chính bởi niềm tui, trí tưởng tượng, nỗi buồn, thậm chí có thể bởi sự điên của anh ta, mà bất kỳ độc giả nào sẽ quan tâm đến việc trông thấy tác giả bằng xương bằng thịt. Bị hành hạ bởi cơn tò mò không thể kiểm soát, chẳng ai lại muốn gặp tác giả của một cuốn Sổ tính, hay một chuyên luận Thuế thập phân Nông nghiệp, hay về Hiện tượng thối khô ở khoai tây. ‘Biến đi, thưa ngài, càng nhanh càng tốt,’ một độc giả chăm chú nhất hẳn sẽ bảo tác giả của chúng như thế nếu ông ta cứ khăng khăng muốn được xem xét vẻ quyến rũ của mình, ‘Tôi đã quá đủ đau khổ vì đọc tác phẩm của ngài rồi, không cần thấy sự thối khô mà cơ thể ngài trình bày nữa.’ Cũng chẳng có bất kỳ ai, khi xuống tàu, lại quay lại nhìn xem toa mình ngồi có đẹp không, hoặc muốn được giới thiệu với người đóng xe. Hài lòng rằng người này không bị gãy xương, và người kia không chịu lệnh truy tố, anh ta xua đi với vẻ mặt lạnh lùng cả toa tàu lẫn tác giả của nó.
Nhưng, khi chuyện liên quan đến Mr. Landor, cũng như tất tật những ai liên quan đến học thuyết cải cách này của tờ Spectator, một khó khăn nảy sinh. Ông là một người có thiên tài lớn, và, bởi vậy, ông đáng lẽ thu hút sự quan tâm của công chúng. Bản tính mạnh, khác thường của ông được thể hiện còn còn hơn cả đầy đủ qua từng trang của khối tác phẩm giờ đây đã rộng mênh mông của ông, bởi vậy nhận được, trong số những người đã đọc ông, một sự quan tâm tương xứng đến tất tật những gì bộc lộ con người ông: các mối quan hệ xã hội, tiểu sử, các cung cách, và ngoại hình của ông. Trong số hai điều kiện để thu hút một sự quan tâm cá nhân, ông đã thực hiện một điều theo cách đầy sức mạnh. Bản tính đạo đức của ông, tỏa rạng với ánh sáng đầy màu sắc xuyên qua đền thờ pha lê các suy nghĩ của ông, sẽ không cho phép bạn quên nó. Một cảnh hoàng hôn của Claude, hay một con cá heo đang hấp hối, có thể bị lãng quên, và nhìn chung đều bị lãng quên; nhưng chẳng bị lãng quên những tia sáng rực rỡ của một tinh thần con người, được tạo nên bởi tự nhiên để tiếp thêm sức mạnh cho một nhà lãnh đạo trong giông bão, một thánh tử đạo, một nhà cải cách quốc gia, một kẻ phản loạn, tùy hoàn cảnh bắt buộc, nhưng lại quá giàu có, và các tai nạn của giáo dục, đã quay sang làm một ẩn sĩ trầm tư. Bởi vậy, nếu Mr. Landor được đọc ở bất kỳ mức nào tương xứng với công lao của ông, ông hẳn đã trở thành, đối với công chúng Anh, một đối tượng mang sức hút cá nhân phi thường. Chúng ta đáng lẽ phải có các tiểu thuyết viết về ông [tiểu luận này đăng trên Tait’s Magazine năm 1847, năm 1853 cuốn tiểu thuyết Bleak House của Charles Dickens mới ra đời], các bài châm biếm, phỉ báng ông; ông sẽ được đưa lên sân khấu cách đầy kịch tính; ông hẳn, theo câu chuyện tiếu lâm cũ, bị ‘bôi nhọ’ trong tiếng Pháp, và bị ‘lật nhào’ trong tiếng Hà Lan. Trong khi đó ông vẫn chưa được đọc. Hẳn thật khoa trương khi nghĩ như vậy. Nhiều nhà văn, bởi thói tâng bốc của giới văn chương, được cho là được đọc nhiều, nhưng trên khắp châu Âu chẳng có đến sáu con mắt chịu lướt qua trong suốt cả năm. Giới văn chương, với những lời dối trá hèn nhát của nó, bày ra phạm vi lớn nhất cho thứ nịnh hót có ý thức kiểu dân Phrygia mà cuộc sống con người từng phơi bày trước sự chế giễu của thiên đàng. Demosthenes, chẳng hạn, hay Plato, mỗi năm không được tới mười người ở châu Âu đọc quá hai mươi trang. Số sách bán được của họ chẳng đủ cho ba người đọc; sáu hoặc bảy người được hào phóng dành cho đặc quyền nơi các thư viện cộng đồng lớn. Nhưng, dẫu thế, Walter Savage Landor, dù ít viết bằng tiếng La Tinh, và rất ít bằng tiếng Ý, lại không hề viết bằng tiếng Hy Lạp. Cho đến nay ông vẫn có lợi thế hơn Plato; và, nếu ông viết chủ yếu ở dạng đối thoại, vốn ít người thích đọc hơn so với các tiểu thuyết viết dưới dạng thư từ, thì đó là một tội ác chung của cả hai. Vậy nên ông có cả vận may của quỷ và vận may của riêng ông, tất tật mọi vận may của Plato, và bên cạnh đó còn có thêm một trong các vận may của ông – tức là, tiếng Anh của ông. Dẫu vậy có liệt kê hết mọi cơ may cũng chẳng ích gì; sự thật mới quan trọng. Và các nhà in, dù của châu Âu hay của Anh, đều chứng minh được rằng cả Plato cũng như Landor đều không phải món hàng có thể bán được. Thực ra, hai người này giống nhau ở nhiều chi tiết hơn mức cần thiết phải kể ra vào lúc này. Đặc biệt cả hai đều có xu hướng sống xa hoa: cả hai ông đều thèm muốn thứ vải lanh mịn màu tía; cả hai ông đều ghét loại ‘trơn tuột bẩn thỉu’ với sự căm ghét dành cho những tay falstaff [tên một nhân vật của Shakespeare, ám chỉ kẻ thô kệch, gian giảo], dù là trong trang phục hay trong cách phát âm; và cả hai đều bỏ công sức mệt nhọc cho nghệ thuật bí mật của một đoạn hội thoại cũng tỉ mỉ như một thợ kim hoàn miệt mài cắt gọt viên hồng ngọc cho một ông vua.
Nhưng liệu một người có thể xây dựng danh tiếng trên cơ sở không được ai đọc không? Được đọc chắc chắn đã là một điều gì đó: được đọc bởi khoảng một triệu người, đó giống như cái lông gắn lên trên mũ một tác giả; nhưng cũng là cả một sự khác biệt nếu như anh ta hoàn toàn chẳng được ai đọc. Đã có những trường hợp, và một hoặc hai trong số đó xảy ra ở thời hiện đại, khi một tác giả có thể chỉ ra một loạt tác phẩm của mình, mà chẳng có bằng chứng nào cho thấy đã được mở ra bởi bàn tay con người, hay được mắt người ngó qua. Thật tồi tệ: giống như giấc ngủ của hàng nghìn trang sách trong bóng tối vĩnh hằng, không bao giờ được ánh sáng ghé thăm; như thể một sự miễn nhiễm hiếm hoi trước những trò gian trá của sự xuyên tạc; như thể một ngày Sabbath cấm ngặt mọi xấc xược của đám phê bình! Bạn rùng mình khi nghĩ rằng, trong bất kỳ trường hợp nào ngược lại, đã có những viên ngọc của sự thật được khai thác vô ích, hoặc kho báu bị đánh cắp mãi mãi vì ích lợi của con người. Nhưng một sự siêu việt thế kia lại hàm chứa sự khiếm khuyết hoàn toàn của độc giả; trong khi có thể chứng minh chống lại Mr. Landor, rằng ông đã được đọc bởi ít nhất hai chục người, tất tật đều tỉnh táo; và nếu có bất kỳ tội phản quốc nào chôn giấu trong một trang sách của ông, tạ ơn Trời, thì đến lúc này nó hẳn đã được phát hiện và báo cáo chính quyền. Vậy nên Landor vừa không thể biện hộ cho sự nổi tiếng vô hạn của một tiểu thuyết gia, được hỗ trợ bởi sự hấp dẫn của một câu chuyện, hay bởi một nghệ sĩ, cũng không thể biện hộ cho sự lu mờ hoàn toàn của một nhà siêu hình học Đức. Đám đông không đọc ông, giống như họ đọc M. Sue; và tất tật cũng chẳng ngoảnh mặt khỏi ông, như người ta làm với Hegel.
Điều này, tuy vậy, chỉ đúng với các tác phẩm văn xuôi của Mr. Landor. Tác phẩm đầu tiên của ông là một bài thơ, tức là Gebir; và nó có một sự khác biệt tuyệt diệu, trong một thời gian dài, bởi được thưởng thức bởi hai độc giả; hai người đó là Southey và tôi. Chính là khi mới bước chân vào Oxford tôi biết ‘Gebir’ được in và (trên danh nghĩa) xuất bản; trong khi đó, quả thực là, tất tật những quảng cáo cho sự ra đời và tồn tại liên tục của nó, chỉ thuần là những thông báo về sự bí mật tuyệt đối của nó. Lúc bấy giờ chưa hề biết Southey, tôi đã tự phụ cho mình là người duy nhất mua và đọc bài thơ này. Tôi thậm chí còn tưởng tượng rằng mình được nêu danh trên các phố ở Oxford, nơi nhà Landor đã nổi tiếng từ thời trước khi tôi đến, là kẻ không thể hiểu được duy nhất được biết đã sở hữu ‘Gebir,’ hay thậm chí (có thể được thì thầm vẻ bí ẩn) là đã đọc ‘Gebir.’ Chẳng rõ liệu điều này có thể thay thế được cho bất kỳ danh tiếng độc lập nào không, và liệu có nâng tôi lên một mức xuất chúng văn chương không. Thế hệ trước đã vô cùng coi trọng người được gọi là ‘Hamilton diễn văn-độc nhất;’ không hề là bởi bài diễn thuyết nọ (dù hay nhưng rất ít người đọc), mà hoàn toàn bởi sự thật được cho là ông đã tự vắt kiệt mình trong bài diễn thuyết ấy, và thành ra không còn đủ sức để có thể diễn thuyết lần thứ hai: vậy nên sau đó, khi ông thực sự đã diễn thuyết lần thứ hai, ai nấy đều tỏ ra ngờ vực; cho đến khi, mọi chuyện vượt quá sự cự tuyệt, đương nhiên cả thế giới đều ghê tởm, và hầu hết mọi người từ bỏ ông. Là một người theo thuyết Gebir-độc nhất cũng là một danh hiệu xứng đáng để nổi tiếng; và năm năm sau đó, khi tôi phát hiện ra mình có một người anh em ngồi chung ngai vàng, tức là Southey, sự tủi nhục đã khiến tôi sẵn sàng từ chức để ủng hộ ông ấy. Tôi có nên kể cho độc giả nghe câu chuyện của Gebir không?
Gebir là vua của Gibraltar; tuy nhiên, quả thực là lỗi thời nếu gọi là Gibraltar, bởi nó xuất phát từ chính cái tên Gebir này; và chắc chắn, làm như thế là để tưởng nhớ chàng. Người Hồi giáo lại kể một câu chuyện khác; nhưng ai quan tâm đến những gì đám ngoại đạo giải thích? Vị vua ấy, chúng ta hãy gọi là vua của Calpe; và chàng là một vị vua rất tốt; trẻ, dũng cảm, ý định ngay thẳng; nhưng cũng là một người hiếu chiến, và bị kích động bởi những ký ức của dân chúng về các sai lầm cổ xưa, chàng quyết tâm đi tìm sự đền bù ở nơi con cháu của con cháu của những kẻ làm điều sai trái; và chàng thả neo vào cuộc tìm ‘sự bồi thường cho quá khứ’ của Mr. Pitt, dẫu chẳng mấy quan tâm đến ‘sự đảm bảo cho tương lai’ của quý ông đáng kính này. Ai Cập là vùng đất che chở cho những kẻ khốn khổ vốn đại diện cho tổ tiên đã làm điều sai trái. Bởi vậy, vua Gebir lái đoàn viễn chinh của mình thẳng tiến Ai Cập, ước tính với 10.000 quân tinh nhuệ:
Loạn luân
Bằng cách suy ngẫm về những sai lầm nguyên thủy
Chàng thổi tù và chiến trận; khởi dậy
Toàn thể các quốc gia; đây mười ngàn quân hùng mạnh nhất
Chàng hô lớn; và chẳng mấy chốc Charoba thấy
Mũ trụ đen của chàng lơ lửng băng trên lãnh thổ sông Nile.’
Ai là Charoba? Đối với độc giả, nàng là nữ anh hùng của bài thơ: đối với Ai Cập, nàng là nữ hoàng bởi ân sủng Chúa, người bảo vệ đức tin, vân vân. Trẻ và quen với sự phục tùng vô điều kiện, làm sao nàng lại không hoảng hốt trước sự xuất hiện của một đạo quân hung hăng hơn nhiều so với dân tộc yếu đuối của mình, và mang một tính cách tôn giáo – những kẻ báo thù cho cái ác trong một thời đại lãng quên nào đó? Trong cơn hoảng loạn, nàng tìm đến sự giúp đỡ và khuyên nhủ từ vú nuôi Dalica. Nhân tiện, Dalica, xét như một từ, là một dactyle; nghĩa là, không được nhấn trọng âm ở i, mà ở âm tiết đầu tiên. Dalica, xét như một phụ nữ, là một người tệ hại nhất mà ngay cả Ai Cập cũng có thể tạo ra. Mụ là một dân du mục chính hiệu; một thầy bói, và thực sự thì phần nào còn tệ hơn thế nữa. Mụ là một phù thủy, ‘quan điểm cứng nhắc:’ và chẳng cần đến thẩm quyền của đức Giáo hoàng để suy ra được điều đó – đương nhiên mụ ‘luôn luôn sai.’ Theo lời khuyên của mụ, nhưng với mục đích chỉ mình mụ biết rõ, một cuộc gặp được dàn xếp giữa Charoba và vị vua xâm lược. Trong cuộc gặp này, hai quốc vương trẻ tuổi, Charoba, đầm cơ và Gebir già chuồn, đã yêu nhau lối chẳng thể nào cứu vãn. Luật lệ của lá bài chuồn chấm dứt; và Gebir sau đó bị tước vũ khí. Nhưng Dalica, mụ Dalica độc ác, mụ già dactyle sầu não, kẻ chỉ nhìn thấy mọi thứ xảy ra cách hai mươi năm, chẳng thể trông thấy cán cây cơ nếu nó ở quá gần mũi mụ; và đương nhiên mụ nhầm lẫn những rung động tình yêu của Charoba với cực điểm của cơn tức giận. Bản thân Charoba cũng có một phần lỗi trong chuyện này; nhưng bạn phải thông cảm cho nàng. Đứa trẻ tội nghiệp đã dễ dàng tâm sự nỗi kinh hoàng của mình với Dalica; nhưng làm sao nàng có thể trông đợi một người bạn tâm giao nơi một mụ phù thủy già nua màu hung như mụ ta? Tuy nhiên, dựa trên sai lầm này, toàn bộ phần còn lại của câu chuyện tiếp tục. Dr. Dalica (nghĩa là bác sĩ D. chứ không phải D. thân mến), đã hoàn toàn nhầm lẫn trong các triệu chứng, chẩn đoán [diagnosis], tiên lượng [prognosis], và tất cả những gì có đuôi –osis, đương nhiên cũng nhầm luôn cách điều trị cho ca bệnh, và, giống như mọi bác sĩ khác, khi không thể chữa khỏi, che đậy sai lầm của mình bằng một cuộc tàn sát tập thể. Mụ đến thăm chị gái mụ, một phù thủy còn mạnh hơn mụ, sống nơi
‘Sâu thẳm trong sa mạc của khổ đau, Masar.’
Ở giữa họ các câu thần chú địa ngục hòa vào nhau tạo thành một chiếc áo choàng độc, giống như cái của nhân mã Nessus. Thứ này, tại một cuộc gặp long trọng giữa hai quốc gia và các hoàng thân, được Charoba trao cho người yêu của nàng – người yêu của nàng, tuy chưa được chính nàng công nhận, và dù cho đến tận lúc chàng chết vẫn vậy, là điều chàng luôn tự nhận về mình. Gebir chết – cái áo choàng bị nguyền rủa, đã được nhúng vào ‘chất độc nhầy nhụa’ lấy từ nọc những con rắn lục Bắc Phi màu xám, và được tôi luyện bằng các loại dịch độc khác của động vật và thực vật, tỏ ra quá sức chịu đựng đối với thể chất rắn rỏi của chàng – Gibraltar chẳng phải là bất khả xâm phạm – những lầm lẫn của Dalica, mụ vú nuôi độc ác, và những kỹ thuật của chị gái mụ, Myrthyr, mụ phù thủy độc ác, quả thực quá mạnh; và chỉ trong một khắc sự hợp nhất của hai quốc gia, với hạnh phúc của hai vị quốc vương, bị phá hủy mãi mãi. Hoàn cảnh kết thúc của các bên – quân chủ và quân chủ, quốc gia và quốc gia, ông vua trẻ và hoàng hậu trẻ, hấp hối hoặc tuyệt vọng – quốc gia và quốc gia vừa được hòa giải, lại bắt đầu chia rẽ giữa lễ hội và hoa – những vật này có hiệu ứng sân khấu. Ý tưởng về các nhóm rất tuyệt, mise en scene [sự sắp đặt của bối cảnh và đạo cụ] rất tuyệt; nhưng, bởi thiếu tỉ mỉ, không được trình bày cách thỏa đáng để nổi bật; và những lời hấp hối của Gebir, để kết lại toàn bộ tác phẩm, lại quá sách vở; chúng có vẻ như là một phần của bài báo nào đó mà tác giả đã viết cho tờ Gibraltar Quarterly.
Có hai hồi, chiếm tổng cộng khoảng hai phần bảy bài thơ, chắc chắn không phải là những phần yếu nhất. Một đoạn mô tả cảnh Gebir xuống âm phủ. Dẫn đường cho chàng là một người đàn ông – đó là ai?
‘Sinh thời – họ gọi ông là Aroar.’
Vậy là ông ta còn sống? Không. Thế thì ông ta đã chết? Cũng chẳng chết. Aroar khốn khổ chẳng thể sống cũng chẳng thể chết – thế nên ông lâm vào một tình thế vô cùng khủng khiếp. Trong tình thế khó xử đầy bất tiện này, ông ta tìm cách giải khuây bằng chính trị – và, đúng hơn là theo kiểu Jacobin: giống như Aeneas của Virgil, Gebir được giới thiệu không chỉ với các hồn ma của quá khứ, mà còn của tương lai, ông ta nhìn thấy các bóng ma đã tồn tại từ trước khi các quý ông xuất hiện, im lìm như các hồn ma vốn phải vậy, nhưng được định sẵn vào một thời điểm ở xa hơn sẽ gây tiếng vang lớn trong thế giới thượng lưu của chúng ta. Trong số đó có vua George III già đánh kính, người (phải nói là thật kỳ lạ!) không được trông đợi đã phi nước đại từ Windsor đến Kew, được hộ tống bởi một đội kỵ binh hộ vệ, không mặc áo choàng đỏ thắm đuổi theo đuôi một con cáo, cũng không đi dạo mỗi buổi sáng giữa đàn cừu và các luống cải; nhưng trông giống như một tạo vật man rợ nào đó, mà nếu không có lông mày và cái trán ‘thụt’, độc giả sẽ chẳng bao giờ nhận ra:
‘Aroar! Kẻ khốn nạn nào kia đang tiến lại gần chúng ta? Kẻ khốn nạn nào
Có lông mày trắng và trán thụt?
Ôi đức vua!
Iberia sinh ra ngài; nhưng giống nòi đáng nguyền rủa;
Gió chướng ập đến từ phía đông bắc.’
Iberia là nước Anh của tinh thần; còn hướng đông bắc là Hanover huyền bí. Nhưng vậy thì tội ác của kẻ ‘khốn nạn’ là gì? Tôi phải thú nhận mình cũng có đôi lông mày bạc; đó chắc chắn là tội ác ở tầm vóc đáng kể: nhưng còn gì nữa? Gebir cũng tò mò giống như tôi, và thốt ra câu hỏi được chăng hay chớ:
‘Vậy thì ông ta là một chiến binh, lại chẳng sợ thần linh?
Aroar trả lời –
‘Gebir! Hắn sợ quỷ, chẳng sợ thần;
Dẫu trước họ, quả thực, ngày ngày hắn tôn thờ,
Và cũng chẳng phải chiến binh; song hàng ngàn sinh mạng
Bị phí hoài như chơi trò bắn ná, vv…’
Thật sự thì Aroar quá giống Tom-Painish, và dường có chút phản quốc. Ông ta khiến vị vua tội nghiệp phải chịu trách nhiệm cho nhiều hơn phần của mình trong các tội lỗi quốc gia, nếu chúng quả thực là như thế. Tất tật chúng ta trong thế hệ trước đều rất thích chiến đấu và tham gia các trận chiến với tư cách thuần là khán giả. Tôi chắc chắn rằng mình đã như thế. Nhưng nếu có bất kỳ sai lầm nào ở điều đó, thì Plato cũng vậy, mà ông ta (dù có lẽ kém hơn bạn và tôi, thưa độc giả, về mặt triết học) lại còn vượt trội hơn cả hai chúng ta về môn chọi gà. Socrates ở thế hệ trước đó cũng thế; bởi vì, vốn nổi tiếng là lúc nào cũng lui tới chỗ Alcibiades, hẳn là ông phải thường thấy học trò của mình đang tiêu khiển với những con chim cút chiến mà ông nuôi với số lượng lớn. Hãy yên tâm rằng ‘người thông thái nhất’ của những lời tiên tri đã rất vui vẻ mà giúp một tay đeo cựa vào các cái chân trước khi mỗi trận đấu diễn ra; và, về chuyện cá cược, có lẽ đó là lý do mà Xantippe lại thường xuyên mắng nhiếc mỗi khi ông về nhà ban đêm. Việc về nhà trong tình trạng quay cuồng sau một trận, chẳng còn đồng drachma nào trong túi, đương nhiên khiêu khích bất kỳ phụ nữ nào. Hậu thế đã hiểu sai rất nhiều về những chuyện như thế này; và, chẳng nghi ngờ gì nữa, đặc biệt là về phần Xantippe, người phụ nữ khốn khổ. Nếu bà có một môn đệ viết sách, giống như người chồng chọi gà của mình, có lẽ chúng ta đã được đọc một câu chuyện rất khác. Nhân tiện, khuynh hướng scandalum magnatum [tiếng La Tinh, trùm gây bê bối] ở Aroar là một trong những điều khiến tôi chú ý từ nhỏ, và có lẽ cả sự ngưỡng mộ của tôi nữa, dành cho Gebir. Về phần mình, như có lẽ độc giả đã biết, tôi đã và đang là một Tory; và ở một kỷ địa chất xa xôi sau này, xương tôi có lẽ sẽ được đào lên bởi một tay Buckland nào đó như một mẫu Tory hóa thạch. Tuy nhiên, dẫu thế nào đi nữa, tôi vẫn yêu sự táo bạo; và tôi đã nhìn chăm chú với vẻ tán thưởng mơ hồ một nhà thơ mà ngài tổng chưởng lý có thể muốn có dịp trò chuyện.
Tuy nhiên, đây chỉ là một thứ gia vị góp vào sức hấp dẫn chính của bài thơ. Điều đó nằm ở vẻ đẹp hoa mỹ của các hình ảnh, các tư thế, các nhóm, rải rác khắp nơi. Ánh mắt dường nán lại khắp mọi nơi trên các đám rước lễ hội, trên các tấm bảng hiệu trước cổng thành Theban, hay trên các bình chạm khắc. Những dòng đầu tiên tình cờ lọt vào mắt tôi chính là những dòng sau đây. Tôi trích dẫn chỉ thuần vì tuân theo sự thật mà chúng vốn thể hiện; ngoài ra còn những minh họa nổi bật hơn về khả năng chạm trổ hoa mỹ ở Mr. Landor; và đối với tài năng này cả tôi lẫn Southey dù theo cách riêng lẻ và độc lập đều đặt tên cho ông là Valerius flaccus người Anh [dựa theo tên thi sĩ La Mã Gaius Valerius Flaccus].
Gebir chuẩn bị cho cuộc hội kiến đầu tiên với Charoba.
‘Nhưng Gebir, khi nghe tiếng nàng đến gần,
Rũ bỏ giáp sắt: mũ trụ,
Khiên và giáp ngực chàng đặt xuống,
Và ra lệnh không ai được theo cùng: hai bên chàng
Hai con chó trung thành thúc giục lặng lẽ tiến,
Lông rậm, ngực rộng, dè dặt; cá sấu,
Tiếng kêu, khiến chúng dựng lên đôi tai rủ,
Và dụi đầu vào tay chủ.
Có sắc tái nhợt trên mặt chàng,
Giống như Diana nhô lên các tảng đá
Trên rặng Latmus cô độc; trên vầng trán chàng
Ngự trị nỗi phiền muộn, nhưng chẳng hề khốc liệt.’
‘Và ánh trăng dài trên mặt cát ướt cứng
Nằm đó như cột đá ngọc thạch dựng ngược.’
‘Vị vua, ngồi trước lều, trông thấy
Bụi bốc lên đỏ rực bởi mặt trời lặn.’
Giờ chúng ta hãy chuyển sang các đối thoại tưởng tượng: –
Thống chế Bugeaud và Tù trưởng Ả Rập. – Cuộc đối thoại này, thuộc vào những cuộc đối thoại ngắn nhất, hẳn sẽ chẳng đáng để đặc biệt nhắc đến, nếu không có sự mới mẻ đối với tâm trí công chúng, và vết thương chưa liền sẹo của sự tàn bạo mà nó tưởng niệm. Đây là một tường thuật chính xác của vị tổng tư lệnh: – ‘Trong số bảy trăm kẻ ương ngạnh và nổi loạn đã ẩn náu trong các hang động, ba mươi người’ (vị thống chế săn vinh quang nói), ‘và chỉ ba mươi, còn sống; và trong số ba mươi người này chỉ có bốn là còn khả năng lao động, hay đúng hơn là cử động.’ Thật quý giá biết bao đối với trái tim của vị Thống chế khi mà bởi vụ gặt khốn khổ ấy ông đã phải miễn cưỡng cho phép giảm giá khoảng không phẩy năm phần trăm. Chỉ có bốn trên tổng số bảy trăm người, ông vui vẻ cam đoan với các tín đồ Cơ đốc, là còn có thể nhảy lò cò; về chuyện làm việc, kiếm miếng cơm, hay làm bất kỳ việc phục vụ nào trên đời cho chính bản thân họ hay cho người khác, thật là điều đáng mừng khi thông báo, để công chúng đều biết, rằng tất tật những việc như thế sẽ phải chấm dứt vĩnh viễn.
Trong số bốn kẻ may mắn, vẫn còn sức để nhảy nhót, chúng ta phải kể đến vị Tù trưởng Ả Rập, người được giới thiệu vào cuộc hội đàm với tư cách là người trả lời. Ông ta có thể nhảy, đương nhiên, ex hypothesi [theo giả thiết đã cho], là một trong bộ tứ vô cùng may mắn; ông ta cũng có thể nhảy một chút với tư cách một nhà hùng biện; quả thực, về khoản này ông ta hơi quá sức đối với ngài Thống chế; nhưng mặt khác ông ta lại không thể nhìn thấy; cái hang đã chữa ông ta khỏi bất kỳ sự vô lễ nào như là nhìn chằm chằm vào mặt người khác; ông ta cũng bị què, cái hang đã làm cho ông ta thấy sự vô lý của việc đi loanh quanh; – và, cuối cùng, ông ta là một người ăn xin; hoặc, nếu ông ta không cho phép gọi mình bằng từ ấy, dựa trên lý lẽ (dường rất hợp lý) rằng ông ta không thể là một người ăn xin nếu không bao giờ đi ăn xin, thì cũng không kém chắc chắn rằng, trong trường hợp đặt cược sáu xu, vị tù trưởng sẽ thấy rất bất tiện nếu nhận được tiền mặt.
Ngài Thống chế, dường không hứng thú với sự nhã nhặn, gọi người Ả Rập bằng các lại biệt danh – ‘Tên cướp, tên sát nhân, kẻ phản bội! lão râu bạc mù! thằng què ăn mày!’ Ba danh hiệu đầu có thể bị nhầm là lời khen, người Ả Rập im lặng; nhưng trước cái ý quá gay gắt của hai danh hiệu sau ông ta đáp lại: – ‘Dừng lại. Ngươi không bao giờ có thể khiến ta cầu xin bánh mì, nước, hay mạng sống; bộ râu ta bạc là bởi Chúa; sự mù và què của ta là do ngươi.’ Đây là một lối làm ăn dễ chịu; hiếm khi nào những khoản nợ nhỏ được giải quyết và lập biên lai nhanh chóng như thế. Ăn mày ư? Nhưng nếu ta không cầu xin thì sao? Râu bạc ư? Chắc chắn là bởi Chúa. Què ư? Chắc chắn là do ngươi. Bực mình trước kiểu chống trả này của kẻ sinh ra ở sa mạc, ngài Thống chế mời ông ta bước vào một trong những tòa án mới lập của ngài, ở đó ông ta sẽ nghe thấy điều gì đó không có lợi cho ông ta. Tuy nhiên, người bạn Ả Rập của chúng ta chẳng phải là tay sành về tòa án: chẳng được chọn các phiên tòa trên sa mạc; ông ta không ‘tự cho mình vinh dự được từ chối’ mà chỉ giả điếc trước lời đề nghị này, và về phần mình ông ta gửi lời mời vị Thống chế dự một buổi tiệc dã ngoại đến các hang động ở Dahra. ‘Vào đi’ (tay Sheik không khoan nhượng nói) ‘hãy hát và huýt lên trong hang động nơi xương những con người dũng cảm không bao giờ bị tẩy trắng, và không bao giờ mục nát. Hãy đi, đến nơi mẹ và trẻ sơ sinh mãi không bao giờ tách rời – một khối than củi; bầu ngực đã đem lại sự sống, đôi môi đã đón nhận nó – tất cả, tất cả, chỉ trừ hai cánh tay, có màu và độ chai sạn như sắt bị ăn mòn, bám chặt vào thân cây giòn, co rúm, vẹo vọ, và nơi hai cái đầu bị nung chảy. Ngay cả vụ thảm sát này, chẳng nghi ngờ gì nữa, cũng sẽ được bảo vệ ở đất nước các ngươi, bởi phong tục của đất nước các ngươi là che đậy máu bằng dối trá, và che đậy dối trá bằng máu.’ ‘Và (ngài Thống chế khôi hài nói) đây đó rắc tro lên cả hai.’ Người Ả Rập. ‘Kết thúc trong niềm vui, thật thích hợp với các ngươi. Nhưng liệu đã kết thúc chưa?’ Nhưng nó đã kết thúc chưa? Kết thúc rồi; vùng hoang dã bên kia Algiers vọng lại những lời đáng ngại của vị tù trưởng mù và tàn tật. Không, người Ả Rập dũng cảm, dù ngài Thống chế giễu cợt đáp lại rằng ít nhất vơi ngươi thì nó đã kết thúc, còn bản thân nó thì chưa; vì cuộc tranh cãi lớn mà bản chất con người đang nài nỉ với một tinh thần chiến tranh tàn bạo như vậy, được tiến hành dưới sự chỉ đạo của kẻ đứng đầu quyền lực một quốc gia xếp thứ hai về quyền lực trong số các nước lãnh đạo của nền văn minh. Một cuộc tranh cãi kiểu này, một khi đã bùng lên, không bao giờ nguôi đi cho đến khi được giải quyết xong mãi mãi. Như vị thánh tử đạo người Anh ở Oxford đã nói với bạn tử đạo của mình – ‘Người anh em, hãy vui mừng, vì hôm nay chúng ta sẽ thắp lên một ngọn lửa ở nước Anh mà, nhờ ơn Chúa, mãi mãi không bị dập tắt’ – cũng giống như vậy những hành động của các chiến dịch con lai giữa nền văn minh hoang mang và sự man rợ, bị xúi giục trở thành cơn cuồng nộ, sẽ, giống như những kinh hoàng của hành trình giữa đại dương dâng lên từ đáy Đại Tây Dương, một cách đột ngột, trước tòa án Thượng viện Anh; dù sớm hay muộn cũng sẽ tái hiện trong các phản ứng mạnh của tâm trí xã hội trên khắp thế giới Cơ đốc giáo, trước tất tật những nỗi kinh hoàng cố ý và thừa thãi của chiến tranh. Khi đó, sẽ có một niềm an ủi dành riêng cho đồng bào của những kẻ, đàn ông, đàn bà, và trẻ con vô tội, chết trong lò lửa ở Dahra.
‘Tiếng rên rỉ của họ
Từ các thung lũng trải dài đến tận các ngọn đồi, và tất tật
Lên tới thiên đường.’
Các hang động của Dahra lặp lại nỗi thống khổ cho các ngọn đồi, và các ngọn đồi lặp lại cho Chúa. Nhưng một lò lửa như thế, dẫu dữ dội, cũng có thể được xem là ngắn ngủi nếu nó kết thúc bằng việc vĩnh viễn hướng cơn thịnh nộ của các quốc gia (như trong cuộc đối thoại này, nó đã hướng sự thịnh nộ của thiên tài) sang sự lăng mạ và loại lặng mạ cụ thể mà nó có liên quan đến. Cơn thịnh nộ của các quốc gia là một cơn thịnh nộ thiêu đốt, và sự khinh miệt của trí tuệ là một sự khinh miệt tàn khốc, đối với tất tật mọi sự ngược đãi mà một trong hai bên, bởi sức mạnh của hoàn cảnh, phải tự gánh chịu cách có hệ thống. Tổn hại chủ yếu là ở chỗ chính sự bạo lực của cảm xúc công chúng đã ru nó ngủ – cơn giông tố tự vắt kiệt bởi hành động thái quá của chính nó – và tiếng sấm của một hoặc hai vụ nổ tức thì, bằng cách thỏa mãn những kêu gào đầu tiên của công lý và sự phẫn nộ con người, quá dễ để chặn đứng tràng pháo kích liên tục vốn cần thiết cho cuộc tấn công hiệu quả vào các sự cưỡng ép đã tồn tại từ lâu. May mắn thay trong trường hợp cuộc thảm sát ở Dahra này ít có nguy cơ cho một kết cục như thế hơn, bởi cảnh tượng đẫm máu này tình cờ rơi vào đúng thời điểm công chúng đang ở trong trạng thái hết sức cảnh giác về cái ác của chiến tranh nói chung, và trong một trạng thái mong đợi gần như lãng mạn về khả năng tiêu diệt cái ác thuộc loại này cách dễ dàng hoặc nhanh chóng.
Trong khi đó việc hy vọng, dẫu vô lý, cũng trở nên khôn ngoan và thiêng liêng khi nó hướng đến một lối đi có mục đích nhân đạo hơn bình thường. Theo một minh họa tuyệt đẹp của Sir Philip Sidney, rút ra từ việc luyện tập bắn cung, bằng cách nỗ lực hơn những gì có thể đạt được, chúng ta sẽ vươn xa hơn bao giờ hết để chạm đến một cái đích ít tham vọng hơn; chúng ta sẽ làm được thật nhiều cho việc thanh lọc chiến tranh, nếu không làm được gì cho việc xóa bỏ nó; và các tội ác của chế độ Algérie này nằm trong số các tội ác đầu tiên sẽ bị khuất phục. Chúng sẽ chìm xuống trước khi sự khai sáng tăng lên, và (điều này quan trọng không kém) trước khi có nhiều hơn những kết hợp của các trí tuệ hoạt động đồng thời từ nhiều trung tâm khác nhau, ở các quốc gia khác biệt nhất. Với một sự chuyển động liên tục tăng tốc, sức mạnh tập hợp lại của báo chí, cùng với sự phát triển các phương tiện giao tiếp cá nhân, đang dần, ngày qua ngày, đưa châu Âu vào một trạng thái hợp nhất, trong đó cái tên cao cả của Cơ Đốc giáo sẽ ngày càng trở nên quan trọng hơn, và sẽ thể hiện sự thống nhất của một trật tự khủng khiếp nhất, tức là, ở giữa sự xung đột, tồn tại lâu dài về phía các lợi ích thấp kém và các quan điểm phụ thuộc, sẽ thể hiện một sự đồng thuận ngày càng chặt hơn, và một sự đồng thuận ngày càng hiệu quả hơn, về tất tật các vấn đề quan trọng liên quan đến các quyền con người, các nghĩa vụ và lợi ích của sự tiến bộ nhân loại. Trước tòa án này, nơi mà mỗi nhịp đập động cơ hơi nước, trong các nhà in và trên đường sắt, đang hối hả thiết lập, mọi sự cưỡng bách trắng trợn của các thế lực giao chiến sẽ phải sụp đổ; và, đặc biệt, không một hình thức giết người thuần túy và không cải trang nào còn được phép xen vào giữa các nhu cầu thiết yếu của một cuộc chiến tranh chính nghĩa.
Nhiều thứ đã được thực hiện trên con đường này; nhiều hơn so với những gì con người nhận thức được; sự tiến triển thật chậm và âm thầm. Lúa mì sinh trưởng thật lặng lẽ! Quan sát nó cả ngày lẫn đêm trong một tuần, bạn sẽ chẳng bao giờ thấy nó lớn lên; nhưng khi quay lại đó sau hai tháng, bạn sẽ thấy tất cả đã chín cho mùa gặt. Cũng giống như thế, và rất khó nhận thấy trong từng giai đoạn chuyển động, các chiến thắng của báo chí. Đây là một ví dụ. Chỉ bốn mươi bảy năm trước, bên bờ biển Syria, được tổ chức bởi Napoleon Bonaparte, lễ hội giết người tàn bạo nhất mà huyền thoại đã thêu dệt, hay lịch sử từng ghi chép. Hơn bốn nghìn người – thậm chí còn (như lính du kích Tyrol hay Tây Ban Nha) chẳng vờ là ‘dân quê nổi loạn,’ mà là quân chính quy, phục vụ Pacha và Quốc vương Ottoman, chẳng phải những người già vốn có lẽ được giải phóng khỏi cuộc sống đầy lo toan khổ sở, mà là tất tật người Albania trẻ tuổi, vào buổi sớm mai của tuổi trưởng thành, người lớn nhất chưa đầy hai mươi tư – đã bị tiêu diệt bởi các loạt súng hỏa mai liên tiếp, khi họ bất lực như trẻ nhỏ, tay bị trói quặt ra sau lưng như những tử tội trên đoạn đầu đài, và đã giao nộp súng của họ (nếu không hẳn trở thành một sự kháng cự tuyệt vọng) với niềm tin rằng mình đang đối mặt những người lính và những con người đầy danh dự. Tôi đã xem xét những nơi khác, như một đòi hỏi ngụy biện, tìm các lời lẽ giả vờ tầm phào cho vụ thảm sát khét tiếng này, nhưng cuộc tìm kiếm đó tôi chẳng muốn nhắc lại ở đây; vì nó hẳn làm xao nhãng sự chú ý khỏi một tình tiết của vụ việc, mà tôi muốn đem ra trước độc giả, đó là thảm kịch Jaffa này có mức độ tàn bạo chẳng kém gì vụ Dahra. Hơn bốn nghìn thanh niên Albania đã bị dụ, quyến rũ, lừa gạt, ở vị thế có quân số đáng kể, mà ở đó họ có thể và hẳn sẽ bán mạng mình với giá cắt cổ, bởi một lời hứa uy nghiêm về sự an toàn của các sĩ quan Pháp được ủy quyền. ‘Nhưng,’ Napoleon nói, một phần để bào chữa, ‘những người này, các phụ tá của ta, là những kẻ đớn hèn: để cứu mạng mình, họ đã hứa những điều không nên hứa.’ Cứ cho là vậy; và cứ cho là trong trường hợp này người nắm quyền tối cao có quyền từ chối các đại diện của mình; thế thì sao? Điều này cho phép kẻ nắm quyền từ chối phê chuẩn các điều khoản đã thỏa thuận; nhưng đồng thời, việc này buộc anh ta phải thay thế các bên thù địch bằng những lợi thế mà các đại diện của anh ta nhờ các điều khoản ấy đã lừa gạt họ. Một tên cướp, ngay cả khi tự nhận mình là như thế, sẽ không vờ rằng hắn có thể từ chối mức giá quá quắt của viên ngọc, và dẫu vậy vẫn giữ quyền sở hữu viên ngọc. Và tiếp theo đó là một lợi thế gian lận, không giành được bởi sự bất lương của viên sĩ quan phụ tá, mà bởi chính người chỉ huy. Việc giao nộp binh khí, và chịu trói chặt cánh khuỷu, không phải là sự nhượng bộ của người Albania, vốn bị đánh cắp bởi tùy tùng của Napoleon, hành động (như lời ông ta nói) mà không có lệnh, mà đó là bởi những lời dối trá rõ rệt, xuất phát từ chính ông ta. Viên sĩ quan chỉ huy ở Dahra không thể tiếp cận kẻ thù mà không có nguyên cớ gây sửng sốt mà ông ta sử dụng: Napoleon có thể. Viên sĩ quan chỉ huy ở Dahra không hề vi phạm giao ước: chính Napoleon đã vi phạm. Viên sĩ quan ở Dahra không nói dối nạn nhân của mình để họ từ bỏ lợi thế tự nhiên của họ: Napoleon đã nói dối. Đó chính là sự tàn bạo của Jaffa năm 1799. Giờ đây, mối liên hệ giữa cuộc tàn sát lớn đó với báo chí, lập luận bí mật mà nhờ đó cuộc thảm sát quy mô lớn này gắn liền với sự phát triển của báo chí, là thế này – rằng vào năm 1799, và hai năm sau đó, khi việc tìm hiểu tính cách và hành động của Napoleon trở thành việc quan trọng nhất, ngoại trừ Sir Robert Wilson, không nhà văn nào ở châu Âu, không một mục nào trên báo, quan tâm đến chuyện nhấn mạnh vào hành động, ở rất nhiều cấp độ, tồi tệ nhất trong đời sống quân sự hiện đại. Toàn bộ nước của Đại Tây Dương cũng không thể rửa sạch tội ông ta; tuy nhiên, từ năm 1804, chúng ta đã biết được nhiều hơn về các bệnh nhân bị ông ta đầu độc trong bệnh viện Syria của ông ta (đơn thuần là một hành động nhân đạo sai lầm), và biết còn nhiều hơn thế về vụ hành quyết công tước d’Enguien; dẫu vậy, dù có tàn bạo đến đâu, người ta vẫn thừa nhận các biện pháp xoa dịu dựa trên những khiêu khích đáng ngờ của kẻ bị hại, và nỗi kinh hoàng cá nhân tột độ ở kẻ thủ ác. Ở đây, chúng ta có một trường hợp giết người hàng loạt của quân đội, xuất phát từ Cơ đốc giáo, và chẳng kém phản trắc so với vụ việc tồi tệ nhất từng bị gán cho tín đồ Hồi giáo Timur, hay thậm chí cho bất kỳ Rajah Hindoo nào, mà hầu như không hề gây tức giận, hay bất kỳ một tiếng kêu phản đối lẻ loi nào từ báo chí châu Âu (lúc bấy giờ, có lẽ, đang tự bào chữa bằng nỗi sợ chết), hay thậm chí báo chí đạo đức Anh, không có lý do nào bào chữa cho nó. Năm mươi năm đã trôi qua, một vụ việc kém tàn bạo hơn được thực hiện, nhưng cũng lại bởi một nhà lãnh đạo người Pháp; và kìa! Châu Âu giờ đây đang rung chuyển bởi sự phẫn nộ không che giấu! Báo chí đã đi đến chiến thắng như thế: đó là ánh sáng nó khuếch tán, và tỏa thật rộng: đó chính là sức mạnh hành động mà bởi vậy liên kết tâm hồn các quốc gia.
Công Hiện dịch