favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2024
Next

Dịch các từ

07/05/2024 06:16

Đã có Clarice Lispector  Gertrude Stein, vậy thì cũng phải cho Ingeborg Bachmann xuất hiện (tuy đã có hiện diện thuộc một loại khác từ trước). Tức là đã đủ ba ba

 ba thứ nhất & ba thứ hai (vừa xong)

Ba phụ nữ này có một điểm chung: họ đi lại giữa nhiều thế giới, với nỗi băn khoăn thường trực về ngôn ngữ và danh tính. Họ phá các giới hạn, đồng thời thực hiện những phép nối fantastic giữa các thế giới tưởng như chẳng bao giờ có thể gặp nhau. Họ viết một thứ văn chương kỳ dị, phá tung tất cả những gì có sẵn để tìm ra hình thức đúng, dẫu cuộc đi tìm khó khăn đến chừng nào.  

“Giới hạn ngôn ngữ của tôi là giới hạn thế giới của tôi.”

"Dịch các từ" là truyện ngắn rút ra từ tập Ba lối tới hồ của Bachmann, do Thanh Nghi phụ trách. Các chú giải được tạm thời bỏ đi, để độc giả chỉ còn tập trung vào bản thân tác phẩm.

 

Dịch các từ

- Ingeborg Bachmann

Bože moj! bàn chân cô lạnh, nhưng cuối cùng có vẻ đã tới Paestum, có một khách sạn cũ ở đây, tôi không hiểu bằng cách nào cái tên của nó lại trượt khỏi tôi, nó sẽ nảy ra trong giây lát, gần như đã trực chờ nơi đầu lưỡi tôi rồi, nhưng cô vẫn chẳng thể nhớ ra, hạ cửa sổ xuống và căng mắt nhìn xung quanh rồi phía trước, cô tìm kiếm con đường rẽ sang bên phải, credimi, te lo giuro, dico a destra. À, kia rồi, đúng vậy, Nettuno. Khi anh giảm tốc độ ở ngã tư và bật đèn pha, cô lập tức nhận ra biển báo, được rọi sáng trong bóng tối giữa hàng chục biển hiệu khách sạn và mũi tên chỉ đường đến các quán bar và khu nghỉ dưỡng bãi biển, và cô lẩm bẩm, nó từng rất khác, ở đây vốn chẳng có gì cả, hoàn toàn không, chỉ mới năm sáu năm trước, thực tình, thật chẳng lý nào. 

Cô nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo dưới lốp xe cùng tiếng đá đập vào khung xe và nằm dài trên ghế; cô xoa cổ, rồi vươn vai, ngáp, và khi quay người lại anh bảo, loại chỗ này ra, họ cần tới một trong số những khách sạn mới, ở đây người ta thậm chí còn không thèm trải ga giường, những khách sạn cũ kỹ này được xây cạnh các ngôi đền, bao bởi hoa hồng và phủ đầy hoa giấy, chẳng ai còn cần chúng nữa, lúc ấy cô vừa thất vọng vừa nhẹ nhõm. Dù thế nào thì cô cũng không thực sự quan tâm, cô nói, mệt chết đi được.

Trong suốt chuyến đi họ không thể nói gì nhiều: trên cao tốc, tiếng rít của gió và của tốc độ khiến cả hai  im lặng, chỉ trừ thời gian họ tìm lối ra ở Salerno, khi đó còn có chuyện này hay chuyện khác để nói: họ nói tiếng Pháp, rồi chuyển sang tiếng Anh, tiếng Ý của anh chưa được tốt, và dần dần cô lại bắt được điệu ê a cũ, tạo ra những giai điệu trầm bổng từ các câu tiếng Đức của cô và điều chỉnh chúng theo lối phát âm tiếng Đức uể oải của anh, thú vị làm sao khi cô lại có thể nói như thế, sau mười năm, càng lúc cô càng thích thú, và giờ cô thực sự còn đang đi cùng một người đến từ Vienna nữa chứ! Dẫu thế cô vẫn tự hỏi thực sự thì họ có bao nhiêu điều có thể nói với nhau, vì họ chỉ có thành phố này là điểm chung, thêm cách nói chuyện giống nhau, với cùng ngữ điệu, có lẽ cô chỉ muốn tin rằng sau ly whiskey thứ ba trên vườn thượng khách sạn Hilton thì chính anh có thể giúp trả cô lại thứ gì đó cô đã đánh mất, một hương vị thất lạc, một ngữ điệu đã nhạt, một cảm giác bồng bềnh ma quái về quê nhà, dù cô sớm đã không còn ở quê nhà nữa.

Anh từng sống ở Hietzing, anh bắt đầu nói, chỉ để rồi đột ngột ngừng lời, chắc hẳn có điều gì ở Hietzing làm anh khó nói; cô thì lớn lên ở Wickenburggasse thuộc Josefstadt, và rồi đến màn name-dropping không thể tránh, họ lần dò toàn bộ địa dư Vienna mà vẫn chẳng thấy bất kỳ người quen chung nào có thể giúp họ, nhà Jordan, nhà Altenwyl, tất nhiên cô biết họ, nhưng chưa bao giờ gặp họ, không, cô cũng không biết nhà Lowenfeld, hay nhà Deutsche, tôi đã đi quá lâu, tôi đi từ hồi mười chín tuổi, tôi không bao giờ nói tiếng Đức nữa, tôi chỉ dùng nó khi bắt buộc, nhưng chẳng bao giờ còn như trước. Lúc đầu cô gặp đôi chút khó khăn tại hội nghị ở Rome, đúng hơn là giống một chứng sợ sân khấu, vì tiếng Ý, nhưng rồi mọi điều cũng diễn ra tốt đẹp, tất nhiên với anh thì điều đó thật khó mà tưởng tượng, làm sao một người như cô, một người nhiều khả năng đến thế lại có thể rơi vào nỗi sợ tê cứng. Cô chỉ muốn nhắc tới chuyện đó vì nếu không có nó, họ sẽ chẳng bao giờ gặp nhau và cô đã hoàn toàn không ngờ, không một ý niệm mơ hồ, sau cơn căng thẳng ấy, khi ý nghĩ đã bay tứ phía, dưới giàn che ở khách sạn Hilton, và có thực vậy không, rằng anh chỉ cần tiếng Anh và tiếng Pháp ở F.A.O? Anh có thể đọc tiếng Tây Ban Nha rất tốt, nhưng nếu giờ anh định ở lại Rome thì đó thực sự là việc nên làm, và anh vẫn luân phiên đảo mình giữa các buổi kèm riêng và lớp tiếng Ý do F.A.O tổ chức.

Anh từng ở Rourkela vài năm, ở Châu Phi hai năm, ở Ghana, rồi Gabon, tất nhiên cũng đã dành rất nhiều thời gian ở Mỹ, điều đó không cần bàn, anh thậm chí còn từng học ở đó mấy năm, khi cha mẹ anh di cư; họ lang thang hơn nửa địa cầu và cuối cùng mỗi người cũng có hình dung sơ lược về những nơi người kia đến định kỳ, nơi cô làm phiên dịch, nơi anh làm nghiên cứu. Nghiên cứu gì mới được? cô tự hỏi nhưng không cất thành lời, và họ rời Ấn Độ để trở lại Geneva, nơi cô học tập, trở lại cuộc thương lượng giải trừ quân bị, cô có năng lực và cô biết điều đó, cô được trả thù lao rất khá, cô sẽ không bao giờ chịu đựng được việc ở nhà, không thể với một tinh thần độc lập như cô, đó là công việc đòi hỏi rất khắt khe, nhưng dù vậy tôi vẫn thích nó, không, kết hôn ư? không bao giờ, cô chắc chắn sẽ không bao giờ kết hôn.

Các thành phố quay cuồng trong đêm: Bangkok, London, Rio, Cannes, rồi không thể tránh khỏi, Geneva và, tất nhiên, Paris. Chỉ trừ San Francisco, cô thực lòng tiếc điều đó, không, không bao giờ, và đó chính là điều cô đã luôn muốn, sau tất cả những nơi khủng khiếp kia, Washington hết lần này đến lần khác, thật kinh khủng, đúng, anh cũng thấy nó thật kinh khủng và là nơi anh không bao giờ có thể, không, cô cũng không thể, rồi họ im lặng, kiệt sức, và sau một hồi, cô khẽ thở dài, làm ơn, anh có phiền không, je suis terriblement fatiguée, mais quand-même, c'est drôle, n'est-ce pas, d'être parti ensemble, tu trouves pas?  Tôi đã rất sửng sốt khi ông Hau Háu ngỏ ý với tôi, không, tất nhiên là không, tôi chỉ gọi ông ta là “ông Hau Háu” vì ông ta dường như luôn hau háu điều gì đó, bao gồm cả cô, trong bữa tiệc ở khách sạn Hilton, nhưng chúng ta hãy nói chuyện gì đó dễ chịu hơn đi, tôi tởm ông ra kinh khủng.

Ông Hau Háu, trên thực tế có một cái tên khác và là người đứng chắn trước Ludwig Frankel trong hệ thống cấp bậc của F.A.O., trở thành chủ đề chung tại giao điểm đường tàu ở Battipaglia, nhưng sự hào hứng cũng sớm nhạt vì cô thực chất mới chỉ gặp ông ta một lần và Frankel cũng mới chỉ làm việc dưới quyền ông ta ba tháng, một người Mỹ ăn mặc tuềnh toàng, un casse-pied monolingue, emmerdant, nhưng, điều này thì anh buộc phải thừa nhận, cả với chính mình, rằng ở những mặt khác thì đó thực sự là một người rất hữu ích và chân thật. Cô lại phải phản đối và ngắt lời, tôi không thể đồng ý với anh, tôi chỉ thấy ghê tởm cách hành xử của ông ta, ông ta nghĩ mình là ai, ông ta phải năm mươi tuổi là ít, với cái đầu hói sáng loáng lồ lộ dưới những sợi tóc mỏng, rồi cô luồn những ngón tay vào mái tóc đen dày của Frankel và đặt tay lên vai anh.

Anh chưa ly dị, không, nhưng đang trong quá trình, quá trình mà anh và bà Frankel nào đó ở Hietzing đang vạch ra, anh vẫn chưa hoàn toàn bị thuyết phục rằng ly dị là một quyết định đúng đắn. Cô từng suýt có một đám cưới nhưng rốt cuộc họ đã chia tay vào phút cuối và suốt nhiều năm cô vẫn tự hỏi “tại sao” song chưa bao giờ thực sự đến được tận cùng vấn đề, chưa bao giờ hiểu chuyện gì đã xảy ra. Khi họ dừng ở Lido thuộc Paestum và cô lại ngồi trong xe chờ anh hỏi thăm các khách sạn mới, suy nghĩ của cô bắt đầu dạt về lúc ấy: đã không có người thứ ba, chẳng hề có đổ vỡ nào trong mối quan hệ, cô không tin những thứ như thế và sẽ không bao giờ chấp nhận điều gì tương tự xảy đến với mình, dù cô có biết những người đã trải qua nhiều xen khủng khiếp, những cặp đôi thấy cuộc đời như một vở kịch, hoặc có thể họ chủ ý dựng sân khấu để mọi việc diễn ra theo cách đó, chỉ để họ có thể cảm thấy một điều gì đó, thật đáng ghê tởm, gu tồi, không bao giờ cô cho phép những thứ degôutant như thế đến gần mình; việc không thành đơn giản vì cô đã không thể lắng nghe anh, chỉ thỉnh thoảng thôi, khi họ nằm cạnh nhau và anh cả quyết với cô hết lần này đến lần khác rằng có rất nhiều thứ hay ho về cô, và anh đặt cho cô những cái tên bé bỏng bắt đầu bằng “ma petite chérie”, còn cô thì dành cho anh những cái tên lớn lao đều kết thúc bằng “mon grand chéri”, và họ quấn lấy nhau, say đắm, có lẽ cô vẫn đang bám vào anh, đó là từ chuẩn nhất, bám vào bóng ma của một người đàn ông, nhưng ngày đó khi họ cuối cùng cũng nhổm khỏi giường, rất muộn, vào buổi sáng hoặc buổi chiều bởi đơn giản là vẫn chưa xong, không thể cứ bám lấy nhau mãi, anh bắt đầu kể cô nghe điều gì đó mà cô chẳng quan tâm, cũng có thể anh chỉ đang lặp lại chuyện cũ như một người đã chớm lão hóa, song điều đó là không thể, làm sao anh lại mắc chứng xơ cứng động mạch ở tuổi ba mươi được, rồi anh sẽ sớm kể về ba hay bốn sự kiện lớn trong đời mình và đôi khi là một vài sự kiện nhỏ nhặt khác, cô đã thuộc lòng tất cả chúng trong vài ngày đầu, và nếu cô, giống như những người khác, cũng phải giao nộp cuộc sống riêng tư cho các tòa án của thế giới này, phải xuất hiện trước thẩm phán để bảo vệ hoặc đòi quyền của mình thì tòa án sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài  đưa ra kết luận rằng quả thật sẽ là quá nhiều nếu trông đợi một người đàn ông chịu đựng việc ở bên người phụ nữ không chú ý tới những gì anh ta nói, nhưng cũng sẽ là quá nhiều nếu trông đợi nơi người phụ nữ, bởi cô ta phải lắng nghe: thường thì anh sẽ khuyên nhủ hoặc lên lớp cô, về nhiệt kế và khí áp kế, bê tông cốt thép và bia được sản xuất như thế nào, lực đẩy tên lửa là gì và tại sao máy bay lại bay, hay Algeria trước kia và sau đó thế nào, và trong suốt thời gian ấy cô đã giả vờ lắng nghe với đôi mắt mở to như một đứa trẻ, nhưng cô luôn nghĩ về điều gì đó khác – về anh, về cảm xúc cô dành cho anh, về những tiếng đồng hồ đã trôi qua và những tiếng đồng hồ sắp tới – chẳng đọng lại được bất cứ điều gì trong hiện tại, đừng nói đến chuyện chú tâm, và chỉ đến lúc này, khi năm tháng đã muộn màng, khi câu hỏi đã trở thành vẩn vơ, khi cái “tại sao” đã trở nên mờ nhạt đến gần như không thấy nữa, câu trả lời mới hiện ra. Nó cuối cùng cũng đến với cô bởi cô không còn tìm kiếm nó thông qua tiếng Pháp nữa mà bằng ngôn ngữ của chính mình và bởi cô có thể nói chuyện với một người đàn ông đã trả lại ngôn ngữ cho cô và người này, cô chắc chắn, cực kỳ tử tế, chỉ có điều cô chưa một lần gọi anh là Ludwig, vì thật không thể hình dung gia đình và bạn bè anh có thể gọi anh như vậy. Cô tự hỏi làm sao có thể qua được ba, bốn ngày tới mà không gọi tên anh, cô sẽ chỉ đơn giản gọi anh là anh yêu hoặc caro hoặc mein Lieber, và khi anh đến mở cửa cho cô, cô đã hiểu và trèo ra ngoài— anh có hai phòng trên cùng một tầng. Anh thu dọn túi xách, khăn quàng cổ và tấm chăn mỏng của cô và, trước khi người khuân vác khách sạn đến, cô vụng về ôm lấy anh từ phía sau và thốt lên, em vui quá vì chúng ta đã gặp nhau, anh thật sự rất tốt với em, và em thậm chí còn không xứng đáng với điều đó.

Họ ngồi trong nhà hàng khách sạn đang sửa soạn đóng cửa, hai vị khách cuối cùng với món súp ấm cuối cùng. Cô có nghĩ đây có thể là cá tuyết đông lạnh không, bên dưới vụn bánh mì? Cô thờ ơ chọc vào một miếng trên đĩa của mình, ở đây không còn phục vụ món cá nữa à, khi mà Địa Trung Hải chỉ cách đây một quãng ngắn? Ở Rourkela ta thực sự có cảm giác mình có thể làm trọn điều gì đó, đó là khoảng thời  gian tuyệt nhất trong cuộc đời anh, chính ở Ấn Độ, mặc cho những thứ khác; anh vạch đường ray từ Calcutta đến Bombay trên tấm khăn trải bàn màu trắng bằng chiếc nĩa của mình, hãy thử hình dung nó, khoảng chỗ này, chúng tôi gần như đã bắt đầu chỉ bằng một chiếc máy ủi và tự mình xây dựng khu trại đầu tiên, nhưng ba năm bào sức là thời gian tối đa mà bất kỳ ai có thể chịu được, tôi đã bay tới bay lui giữa Calcutta và Châu Âu đúng hai mươi mốt lần, rồi chịu hết nổi. Khi rượu cuối cùng cũng được phục vụ, cô giải thích kỹ càng hơn: họ luôn luôn làm việc theo cặp trong một buồng, không giống như cơ trưởng và cơ phó, không, người ta sắp xếp như vậy để dễ dàng đổi chỗ sau hai mươi phút, đó là quãng nghỉ hợp lý, chẳng ai có thể phiên dịch lâu hơn khoảng đó, mặc dù đôi khi phải gắng gượng đến ba mươi, thậm chí bốn mươi phút, thật điên rồ. Buổi sáng có lẽ vẫn cố được nhưng đến chiều thì sẽ càng lúc càng khó tập trung, phải lắng nghe thật chăm chú, điên cuồng, phải hoàn toàn chìm vào một giọng khác. Vận hành một tổng đài như thế cũng khá dễ, nhưng cái đầu cô, cứ tưởng tượng mà xem, t'immagini! Vào các quãng nghỉ, cô uống hỗn hợp nước ấm và mật ong rót từ phích ra, mỗi người trong số họ đều có cách riêng để trụ qua ngày, nhưng thường đến tối thì tôi hầu như không nhấc nổi tờ báo lên nữa, tôi phải thường xuyên đọc tất cả các tờ báo lớn, chuyện đó rất quan trọng, phải cập nhật những cách diễn đạt mới nhất. Nhưng thuật ngữ là thứ xuất hiện ít nhất trong số đó, có những báo cáo, những danh sách mà cô phải ghi nhớ trước, cô không thích hóa học; nông nghiệp là một trong những mảng cô thích, vấn đề tị nạn, cái đó cũng được, chừng nào cô còn làm việc cho Liên Hợp Quốc, nhưng Liên minh Bưu chính Thế giới và Liên minh Bảo hiểm Hàng hải Quốc tế, chúng là những cơn ác mộng tồi tệ nhất với cô, sẽ dễ dàng hơn cho những người chỉ học hai ngôn ngữ, song cô phải bắt đầu làm việc ngay khi buổi sáng bắt đầu, trong khi thực hành các bài tập thở và bài thể dục, một lần cô đến bệnh viện, một bác sĩ dạy cô các bài tập thư giãn và giãn cơ, rồi cô tự phát triển phương pháp của riêng mình, không hẳn chính thống, đúng thế, nhưng có tác dụng với cô. Hồi ấy tôi thực sự đã trải qua một thời gian vô cùng tồi tệ.

Ngài Frankel, rõ ràng chưa bao giờ phải trải qua những khoảng thời gian tồi tệ, để ý ngay là cô thường kết thúc bằng câu: Tôi đã trải qua một thời gian rất khó khăn. Hoặc: Mọi chuyện lúc đó thực sự rất tệ. Trên thực tế, về cơ bản, người ta cứ nói xưng xưng như thế, làm như một thứ như thế có thể tồn tại! Có một phụ nữ Nga, một phụ nữ lớn tuổi, cô vô cùng ngưỡng mộ bà ấy, bà ấy biết mười ba thứ tiếng, thực sự thông thạo chúng, anh xem, tôi không biết diễn tả thế nào, cô thú nhận một cách bối rối, cô dự định sẽ ngừng học một ngôn ngữ vào ngày nào đó, tiếng Nga hoặc tiếng Ý, nó đang giết chết tôi, tôi quay lại khách sạn, nhấp một ly whiskey, chẳng nghe thấy, chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ ngồi đó, hoàn toàn bị vắt kiệt, ngồi với tập tài liệu và đống báo. Cô cười lớn, có một sự việc tình cờ xảy ra ở Rio, không phải với người phụ nữ Nga mà với một thanh niên trong phái đoàn Liên Xô thực hiện việc giám sát, người đồng phiên dịch với cô đã phiên dịch rằng đại biểu Mỹ là một thằng ngu, và sau đó họ đã nghiêm túc kinh khủng khi nhấn mạnh rằng durak nghĩa là ngu, không hơn không kém, và họ đều có điều gì để cười, đúng, còn cười nữa cơ đấy.

Tiếng Đức – thứ ngôn ngữ được sử dụng càng ngày càng ít, phải không, anh nói, ít nhất đó là ấn tượng của chúng tôi, cô có nghĩ những người khác cũng bắt đầu để ý thấy điều đó không? Khi họ rời đi, anh lại hỏi: cô nghĩ sao, liệu sẽ có một thứ ngôn ngữ phổ quát chăng, một ngày nào đó? Cô không lắng nghe hoặc thực sự đã không nghe thấy, và trên bậc thang cô dựa vào anh, vờ là không bước nổi nữa và anh dìu cô xuống. Tu dois me mettre dans les draps tout de suite. Mais oui. Tu seras gentil avec moi? Mais non. Tu vas me raconter un tout petit rien? Mais bien sûr, ça oui.

Anh lại trông vào phòng cô, gọi dịu dàng: Nadja, Nadja! và nhẹ nhàng đóng cửa lại, trở về căn phòng của anh, nơi cô vừa đi khỏi. Chiếc giường vẫn còn ấm và bện hơi cô, cô đã nói với anh khi họ lần đầu rời Rome, cô đơn giản là không thể nữa, kể từ một cú sốc nào đó mà cô từng trải qua, đã khá lâu rồi, cô sẽ giải thích sau, không thể ngủ cùng phòng với bất kỳ ai khác, huống chi là trên cùng một chiếc giường, và anh cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe chuyện này, anh cũng không còn chút ham muốn nào, anh quá lo lắng và quá quen với việc ở một mình. Bất chấp sàn đá, khách sạn bắt đầu rung lên: cửa ban công kẽo kẹt trên bản lề, muỗi vo ve khắp phòng, anh hút thuốc và ngẫm nghĩ: đã ba năm rồi kể từ lúc có điều gì đó khác thường xảy đến với anh, bên một người hoàn toàn xa lạ, vội vàng ra đi mà không nói lời nào. Tiết trời u ám và nỗi trống rỗng khủng khiếp choán lấy anh, muỗi đốt, anh đập vào cổ nhưng lại trượt lần nữa, mình hy vọng ngày mai cô ấy không đòi đi xem mấy ngôi đền, dù sao cô ấy cũng đã xem chúng hai lần rồi, tốt nhất là lên đường từ sáng sớm, tìm một làng chài nhỏ, một khách sản nhỏ cổ quái, xa khỏi những đám du khách này, xa khỏi mọi thứ, và nếu không có đủ tiền mặt thì anh đã luôn mang theo tập chi phiếu, song có lẽ ở những xó ấy người ta cũng chẳng biết chi phiếu là gì, dù sao anh cũng có biển số ngoại giao, cái biển ấy không bao giờ thất bại trong việc gây ấn tượng, và hơn hết, quan trọng nhất là có thời gian vui vẻ bên nhau, với cô thì chẳng có gì rắc rối, trong nội một tuần cô sẽ biến mất sang Hà Lan, anh chỉ bối rối vì chuyện mình đã phải lòng cô như thế nào, tuần trước ở Rome, hôm ấy là thứ bảy, cứ như thể sự giản đơn xưa cũ đã được lập lại trong đời anh, một niềm vui đau đớn, một niềm vui đã bị lãng quên đã biến đổi hẳn anh sau chỉ vài ngày, đến độ mọi người ở F.A.O cũng nhận thấy điều gì đó giữa những ừ, à, được rồi, được rồi, hiểu chứ?. Anh dập điếu thuốc; cơn buồn ngủ vừa ập đến đã bị xua tan bởi khúc nhạc trôi ngoài hành lang, “Strangers in the Night”, các cánh cửa gần đó được mở khóa, và trong sự lộn xộn của ý nghĩ, cái tên nhập vào“Tender Is the Night”, anh phải cố hết sức mấy ngày này, trong bồn rửa nước đột ngột chảy ồng ộc qua đường ống, anh lại bắt đầu, phòng bên người ta đang nói chuyện ầm ĩ, cái khách sạn này thật không thể chịu nổi, một nỗi bồn chồn run rẩy trong đêm, lo scirocco, sto proprio male, nó bắt đầu ở Calcutta hay đâu đó, và giờ ở Rome, nỗi lo lắng bắt đầu tấn công anh với tần suất càng lúc càng dày, hội đồng quản trị, nhân viên, dự án mới, mệt, mình quá mệt mỏi, quá chán nản rồi, rốt cuộc anh cũng uống nó, Valium 5, mò mẫm trong bóng tối, mình không thể chìm vào giấc ngủ nếu thiếu nó, thật nực cười, cũng thật nhục nhã, nhưng đã quả đủ cho hôm nay, chạy xồng xộc khắp nơi, ngân hàng thì đóng cửa, nhưng anh muốn rời khỏi thành phố cùng cô, cô quả là một fanciulla ngọt ngào và hòa nhã, không trẻ lắm nhưng trông như thiếu nữ, mình thích thế, cặp mắt to tròn, mình sẽ không hy vọng rằng hạnh phúc là có thể, nhưng không thể ngăn được, mình đã lập tức rơi vào hạnh phúc khi ở bên cô ấy.

Họ bước nhanh tới ngôi đền thứ hai, và sau cái liếc mắt ra hiệu, đã vòng lại trước khi đến ngôi đền thứ ba. Anh cầm cuốn hướng dẫn du lịch mở trong tay và máy móc đọc to một đoạn, nhưng vì rõ ràng là cô không muốn nghe, anh quyết định không giải thích thêm. Họ tản bộ đến khu vườn ở Nettuno, ở đó đầy những ghế xếp bỏ hoang, tìm một chỗ có tầm nhìn đẹp ra ngôi chùa, gọi cà phê và nói chuyện. Năm nay quả là một năm kỳ cục, anh đồng ý với cô, hẳn là do gió Sirocco, thật lạ lùng và buồn bã, trời luôn quá ấm hoặc quá lạnh hoặc quá ẩm ướt, bất kể tôi ở đâu, thật kỳ lạ, cứ thế mãi, năm này qua năm khác. Tues sûr qu'il s'agit des phénomènes meteorologiques? một số hiện tượng vũ trụ? moi non, je crains plutôt que ce soit quelque chose dans nous-mêmes qui ne marche plus. Hy Lạp không còn giống những ngày trước, thậm chí cũng chẳng giống hôm qua, không còn gì nữa của mười, mười lăm năm trước, và khi anh cố tưởng tượng xem điều gì đã xảy ra trong hai nghìn năm, suốt lúc đó hầu như vẫn không thể hình dung được khoảng thời gian ngắn ngủi này cùng lịch sử của chính mình để ghim nó trong tầm mắt, và thật choáng ngợp, thậm chí điên rồ khi họ có thể ngồi đây uống cà phê trong lúc ngắm nhìn những ngôi đền Hy Lạp - come fosse niente, cô ngắt lời anh, và anh không hiểu cô có thể nắm bắt được bao phần dòng suy nghĩ nơi anh. Anh không thể diễn đạt nó thành lời và cũng chẳng thể tự mình nắm bắt nó. Lẽ tự nhiên nhiên việc cô từng cùng ai đến thăm những ngôi đền này trước đây không phải việc của anh, song tại sao cô lại đột ngột ác cảm với việc đi thăm chúng? Anh không thể là lý do, chắc chắn là bởi thứ gì khác, nhưng cô nói về mọi thứ với cùng vẻ ơ hờ, những khi cô nói về chúng, và tất cả những gì anh biết về cô là điều gì đó liên quan tới một cú sốc, rằng cô thường phải trải qua khoảng thời gian khó khăn vì nó, nhưng ai mà quan tâm.

Ngay cả khi anh đón cô tại một khách sạn ở Rome, pha khởi hành với cô lúc ấy vẫn chỉ như một phần của cuộc phiêu lưu bình thường, nhưng khoảng cách cô vạch ra giữa bản thân mình và môi trường quen càng lớn – đối với cô môi trường ấy quan trọng hơn nhà đối với bất kỳ ai khác và đi xa khỏi đó vì thế càng khó khăn hơn – thì nỗi bất an trong cô cũng càng đậm đặc. Cô không còn là hiện diện đầy tự tin lúc ở sảnh khách sạn, trong quán bar, như bước ra từ những trang tạp chí Vogue hay Glamour, đúng váy vóc cho đúng dịp. Không còn bất cứ bằng chứng nào về danh tính thực sự của cô, cô có thể là bất kỳ ai trong quần jeans bạc màu và áo sơ mi bó sát, cùng chiếc vali và túi đi biển. Anh hoàn toàn có thể đón cô trên phố. Không muốn anh nhận ra nỗi e ngại của mình khi phải phụ thuộc vào anh, cô đã cố thuyết phục anh rằng kiến thức về địa lý xung quanh và khả năng định hướng của cô là tuyệt đối cần. Cô lật giở các bản đồ, tất cả đều cũ kỹ và lỗi thời, và ở một trạm xăng trên đường, cô đã mua một tấm bản đồ đường biển hóa ra cũng sai, nhưng anh không tin điều đó và vẫn giữ tay trái trên vô lăng, mắt trái nhìn đường để đồng thời nhìn được bản đồ, và cô buộc phải giấu đi nỗi bực bội, bởi anh không cách nào biết được rằng cô có thể giải mã thời gian biểu, bản đồ đường đi và lịch trình chuyến bay tốt hơn bất kỳ người khuân vác, đại lý du lịch hay nhân viên nào trong văn phòng thông tin. Suy cho cùng, cuộc sống của cô được tạo nên từ những kết nối, liên kết và mọi thứ gắn liền với chúng, và khi anh nhận thấy nỗi cáu kỉnh và khó chịu ở cô, anh tinh nghịch véo tai cô, non guardare così brutto. Này, tôi cần đôi tai của mình, veux-tu me laisser tranquille! Cô nuốt một tiếng “chéri” vì từ đó từng thuộc về Jean Pierre, và xoa tai ở vị trí cô thường đeo tai nghe, nơi công tắc tự động bật và mạch ngôn ngữ bị ngắt. Cô có một cơ chế thật kì lạ, sống mà không mang lấy bất kỳ suy nghĩ nào của riêng mình, nhấn chìm mình trong những câu của người khác, như một kẻ mộng du, tiếp thu, phát ra những câu giống hệt nhau nhưng nghe khác đi ngay sau đó; cô có thể tạo ra các từ “machen”, “faire”, “fare”, “hacer” và “delat'” từ “to make”, cô có thể xoay mỗi từ đến sáu vị trí khác nhau trên một bánh xe, chỉ cần không nghĩ rằng "to make" thực sự có nghĩa là “make”, “faire faire”, “fare fare”, delat' delat'”, điều này có thể khiến đầu cô mất kiểm soát, và cô thực sự cần đề phòng để không bị chôn vùi bởi một trận lũ ngôn từ.

Sau đó: những tiền sảnh tại các trung tâm hội nghị, sảnh khách sạn, các quán bar, những người đàn ông, thói quen kết thân với họ, nhiều đêm dài cô đơn và nhiều đêm quá ngắn song vẫn đơn độc, luôn luôn là từng ấy người đàn ông khoe khoang cợt đùa xen giữa những lời khoác lác. Họ hoặc đã kết hôn, béo phì và say xỉn, hoặc có khi gầy gò, đã có gia đình và cũng say xỉn nốt, hoặc khá tốt bụng và mắc chứng loạn thần không thể chữa khỏi, hoặc rất tốt bụng và đồng tính như cái tay ở Geneva. Một lần nữa, cô kể về những ngày đầu của mình ở Geneva, cái thành phố không thể thoát khỏi ấy, và ở chừng mực nào đó cô có thể hiểu, cô nói, những gì anh đã nghĩ sáng hôm ấy, trong vườn, nếu anh xem xét một quãng ngắn hoặc một quãng dài, song phải thừa nhận rằng thời gian cuộc đời cô không đủ để tính là quãng dài, nếu riêng những thứ đã xảy ra và đã không thể xảy ra ở Geneva là dấu hiệu cho tồn tại ngắn ngủi của cô thì điều đó cũng chẳng thể nắm bắt, và những người khác tìm đâu ra sức mạnh để có thể nắm bắt nó, tôi chỉ biết rằng ở tôi thì nó cứ phai dần, hoặc là tôi ở quá gần, khi làm việc, hoặc khi tôi rời khỏi đó và nhốt mình trong phòng, tôi quá xa, tôi không thể nắm bắt. Anh luồn tay mình vào giữa hai chân cô và cô nhìn thẳng về phía trước như không để ý, nhưng khi anh dừng và quên mất cô, tập trung vào con đường, cô bắt đầu chòng ghẹo anh và anh đánh vào tay cô, thôi nào, hãy cư xử chừng mực, tôi hy vọng cô không muốn tôi chở cả hai chúng ta xuống vực thẳm này chứ. Những gì đang diễn ra trên thế giới trong vài ngày tới về cơ bản không liên quan gì đến họ, mọi thứ thay đổi thế nào, tất cả vô vọng ra sao; anh chỉ cần chú ý con đường để đảm bảo tìm thấy lối rẽ tới Palinuro, chỉ cần thế, và anh cũng cần chú ý tới người phụ nữ xa lạ này, người đã cùng anh lái xe xa khỏi thế giới, nhưng anh bực mình vì tâm trí vẫn không chịu đè nén những điều anh muốn bỏ lại phía sau, đúng vậy, anh muốn đi xa một thời gian, muốn điên cuồng, bởi những ngày này thuộc về anh chứ không thuộc về Lương thực hay Nông nghiệp và bởi anh chẳng thể hình dung được bất kì kế hoạch nào cho đời mình sau khi đã nhìn thấu cái cách những người khác hành động như thể họ biết họ muốn gì, tất cả những người anh biết, với những câu chuyện của họ, vấn đề không nằm ở việc họ nửa thật hay nửa vờ, đáng thương, hài hước hay điên rồ, toàn là thất bại ê chề, tất cả bọn họ, những người chen nhau leo hết bậc thang này đến bậc thang khác, từ P3 đến P4, chỉ để hau háu nhìn P5, rồi cả những người đã mắc kẹt và rơi; như thể sự leo lên và rơi xuống có thể bù cho một vị trí đã mất, một nhiệt hứng đã tắt, một niềm vui đã ra đi, mãi mãi.

Giờ anh đặt tay mình trên đầu gối cô, và cô cảm thấy thật quen thuộc, lái xe như thế này, như trong bao chiếc xe với một người đàn ông, như với tất cả đàn ông trên một chiếc xe, nhưng cô phải cố gắng kéo mình lại, phải làm vậy, phải ở ngay tại đây và ngay lúc này chứ không phải ở một quá khứ nào khác, không phải ở nơi nào đó trên đường, không phải ở đất nước này nhưng một thời điểm khác: cô đang ở đây với ông Ludwig Frankel, học ngành Kinh tế Quốc tế ở Vienna và rồi đi nửa địa cầu, mang thân phận nhà ngoại giao và sở hữu biển số ngoại giao, thứ chẳng có ý nghĩa gì trên bờ biển dốc này, tại đây, nơi rìa xa nhất. Thôi nào, hãy cư xử đúng mực! nhưng nếu cô không muốn thế mà nắm lấy tay lái, chỉ cần giật nhẹ một chút và cô sẽ đảo về phía anh, xác lập mối tương thuộc giữa họ một lần và mãi mãi, lao xuống biển cùng anh không hối hận. Cô nhấp vài ngụm từ cái phích rồi uống một viên thuốc, ồ không có gì, chỉ là cơn đau đầu khó chịu này, cô thường xuyên mắc phải, bờ biển này thật quá mức có thể chấp nhận, những chỗ này thật không thể chịu nổi, bất cứ khi nào rẽ ra để ngắm nhìn, họ đều bắt gặp khu cắm trại, khu hội chợ hoặc những bãi tắm nhỏ không làm sao đến được xa bên dưới. Tôi có thể đoán trước, chúng ta sẽ phải dành nguyên đêm trong xe, cô than phiền. Ở Sapri, chuyện cũng tương tự; rồi đột nhiên cô kêu lên, nhưng đã quá muộn; trên một bãi biển bằng phẳng, tối tăm, không một bóng cây, cô đã nhìn thấy một khối xi măng với có cái biển neon đề chữ “HOTEL”, chúng ta phải quay lại đây nếu không tìm thấy gì khác. Mười giờ tối, cả anh cũng đã sẵn sàng bỏ cuộc. Chắc chắn là Maratea, cô nói, bây giờ là mười giờ mười phút; cô luôn chắc chắn về thời gian và không gian mình đang ở, nếu đó là điều cuối cùng cô biết. Tôi bảo anh, lái xe xuống đó đi, ti supplico, dico a sinistra, anh quay lại và cô chỉ đường cho anh, có thứ gì đang treo lơ lửng bởi sợi chỉ bên trong cô, giá mà cô có thể kiểm soát được và không để giọng mình vỡ ra, và cô nói rất bình tĩnh, chỉ để nói điều gì đó, trước khi anh dừng: sud’ba, Maratea, sud’ba.

Cô không đợi trong xe mà loạng choạng bước ra, thèm không khí, và khi leo cầu thang lên lối vào cô cảm thấy nó rất rõ, cảm thấy mà không nhìn thấy gì nhiều, bị lóa mắt bởi ánh đèn, giống như ai đó đánh hơi được bầu khí quen thuộc: đây không phải một khách sạn cỡ nhỏ hay cỡ vừa ở một làng chài mà là một khách sạn hoàn toàn khác, một sự tái nhập đầy an ủi vào thế giới của cô. Cô đi phía sau anh với đôi mắt nhắm hờ, ngay lập tức vào tư thế của một người không chỉ kiệt sức mà còn thể hiện điều đó rất thản nhiên, một người không thể bị làm cho ngạc nhiên hay kích động – dù trong bộ quần áo bằng vải thô bạc màu và đôi sandal lấm bụi – trước tiền sảnh khách sạn tỏa mùi sang trọng từ mọi ngóc ngách, từ những trao đổi thì thào và giọng nói lịch duyệt trầm tĩnh đến sự vắng bóng tuyệt đối của bất cứ thứ gì lạc quẻ. Cô để người khuân vác mang chiếc túi đi biển của mình, thả mình lên cái ghế bành ở sảnh và nhìn anh tiến đến từ quầy tiếp tân. Anh nhìn cô băn khoăn, cô gật đầu, cô đã sợ điều đó sẽ xảy ra: chỉ còn một phòng duy nhất. Cô ngáp và trân trân nhìn tờ giấy người quản lý đưa cho một cách uể oải, nguệch ngoạc ký, vậy là quá đủ, như thể chẳng thể đợi tới mai. Lên đến phòng, cô nhanh chóng sà xuống chiếc giường cạnh cửa sổ; nếu không thể có phòng riêng, ít nhất cô cần được ngủ cạnh cửa sổ để giữ mình yên trí. Người phục vụ phòng đến, anh ta lắc đầu, không có Mumm, anh chưa từng nghe nói tới Pommery, Krug hay Veuve Cliquot; vậy thì Moet Chandon, nhưng Dom Perigon nguyên chất đi, vui lòng cho tôi cái đó, nếu đấy là tất cả những gì anh có. Trong phòng tắm, anh nhìn cô tắm, lau khô người và xoa bóp cho cô tỉnh táo. Khi người phục vụ quay lại, cô đang ngồi ở bàn, quấn chiếc khăn tắm dài màu trắng. Sao anh có thể biết hôm nay là sinh nhật cô, hiển nhiên anh đã xem cuốn hộ chiếu, song việc anh đã nghĩ đến chuyện đó, sono commossa, sono così tanto commossa. Họ cụng ly nhưng không phát ra tiếng. Cô uống thêm một ly và anh uống nốt phần còn lại trong chai; không phải năm của anh kết thúc ở Maratea. Cô nằm đó, mỗi phút càng tỉnh táo hơn, chen chúc trong không gian chật hẹp với một người lạ như thể đang ở trong toa tàu hoặc trên máy bay, rồi cô ngồi dậy trên giường và lắng nghe - hoặc anh vẫn đang thức, hoặc anh ngủ lặng lẽ đến khó tin. Trong phòng tắm, cô trải hai chiếc khăn tắm dày vào bồn rồi chui vào trong, hút thuốc và hút mãi đến tận khuya mới lẻn vào phòng. Giường cô cách anh hai thước, cô thọc chân vào khoảng giữa hai giường, lưỡng lự, rồi cẩn thận bò lên sát người anh, và khi anh kéo cô vào lòng trong giấc ngủ, cô nói: một chút thôi, anh phải ôm em một chút đấy, nếu không em sẽ chẳng thể nào ngủ được.

Mặt trời không chiếu sáng, những lá cờ nhỏ màu đỏ phất phơ trên bãi biển và họ ngồi tranh luận xem nên làm gì. Anh hướng sự chú ý về phía biển; cô quan sát một nhóm người Milan đủ can đảm nhảy xuống nước. Anh lấy mặt nạ cùng vây bơi, và khi quay lại, anh giải thích cho cô cách nhảy xuất phát và bơi trở về. Một bên thủy triều cuốn trôi những tảng đá; một chiếc thang sắt trắng vươn xuống nơi nước chảy dữ dội trên các bậc thang và những con sóng nhảy múa điên cuồng trên các tảng đá xung quanh nó. Anh dạy cô hoàn chỉnh bảng chữ cái ngôn ngữ ký hiệu và hứa gặp lại ở chỗ bậc thang. Một tín hiệu có nghĩa: chờ; tín hiệu khác: gần hơn chút, một cái khác: xa hơn chút, và rồi: nhanh lên, nào! và rồi cô mù mờ bơi bằng tất cả sức lực về phía cái thang chỗ anh đứng, cô mất dấu anh trong lớp bọt và anh kéo cô lên hoặc cô tự mình đứng dậy mà không cần giúp sức. Hầu như ổn cả, một lần cô nuốt đầy nước, ho, nhổ ra và phải nằm xuống.

Anh bơi nhiều và lâu hơn cô, trong lúc chờ đợi, cô thấy khó chịu rồi khởi sự nói chuyện với anh trong suy nghĩ, như thể đã quen biết nhiều năm. Cô sẽ đột ngột mở đầu: Em đau khổ tột độ, anh chỉ vừa biến mất, em tìm anh khắp nơi, mắt em căng ra nhìn, em bắt đầu nghĩ rằng anh chết đuối, dĩ nhiên điều đó làm em khốn khổ, anh thật chẳng nghĩ cho em gì cả, anh không hiểu ư? Cô lại đưa mắt nhìn ra biển rồi xem đồng hồ, anh vẫn chưa lên bờ sau năm mươi phút, cô tự hỏi nên làm gì với một người đàn ông chết đuối ở khách sạn. Đầu tiên cô cần đến gặp ban quản lý và xác minh cô không phải vợ anh, nhưng họ luôn đoán ngay ra điều đó, tiếp theo cần gọi cho ai đó, F.A.O hẳn nhiên rồi, ông Hau Háu, ông ta là người duy nhất cô biết có liên quan tới anh. Pronto, pronto, chắc chắn đường truyền sẽ rất tệ, Maratea-Rome, Nadja đang nói đây, ông nhớ chứ, nói ngắn gọn là tôi đi cùng ông Frankel tới Maratea, đúng vậy, không, pronto, giờ ông nghe được rồi chứ, một chốn nhỏ bé ở Calabria, tôi nói là Calabria, mọi chuyện sẽ khá đơn giản, ông Hau Háu sẽ hết sức đau buồn và thoắt biến thành một quý ông không đời nào tiết lộ với ai về người đã cùng ông Frankel lái xe đến Calabria, và cô sẽ không khóc, ồ không, cô sẽ uống thuốc an thần mà cô đã thấy trong những thứ anh mang, gấp ba liều lượng, những người ở Rome có thể cáng đáng chuyện này nhưng với cô thì thật quá sức, cô sẽ trả bất cứ giá nào để có ai đó chở cô thẳng tới Rome bằng ô tô, đến khách sạn, như thế sẽ vẫn còn ba ngày mới tới hội nghị IBM ở Rotterdam, sẽ có thời gian để phục hồi, để học, để chôn cất và thương tiếc, và để bơi qua lại trong hồ bơi lấy lại vóc dáng.

Cô quàng khăn tắm qua vai anh, lau khô người và bắt đầu lên lớp, anh còn tệ hơn một đứa trẻ, anh đang run rẩy, anh tê cóng, nhưng rồi một cơn sóng lớn ập đến, và cô đón lấy con dao, súng phóng lao và đèn anh ném cho cô rồi đặt chúng lên tảng đá cao nhất trước khi cô tiếp tục la lên. Cô không còn nghe thấy tiếng chính mình và ra hiệu cho anh rằng cô muốn vào, cô nắm tay anh và bám chặt, việc dùng thang lúc này là bất khả. Hãy đến sát mép nhất có thể, đặt chân cô lên mép, và cô dùng ngón chân bám chặt vào những viên đá trơn trượt. Sẽ tốt hơn nếu cô cúi xuống và lao thẳng vào làn sóng, ở đó, nơi nó đạt đến đỉnh. Nào. Cô nhảy xuống hơi muộn, rơi giữa hai đợt sóng, cô hét lên: Thế nào? Không tệ! Nông quá, mais c'etait joli a voir, tu es . . . Cái gì? Gì cơ? Tu es...

Cô lặn thêm vài lần nữa trước bữa trưa, lần nào cũng ngập ngừng để rồi lỡ nhịp, cô canh không chuẩn, bụng cô đau, rồi đến đầu, nhưng tôi thật sự cảm thấy thế, thật đấy, anh nghĩ điều đó là không thể nhưng vẫn nhẹ nhàng đỡ lấy đầu cô và an ủi cho đến khi cô nhận ra mình đói bụng; cô quên cả cơn đau đầu và họ đi bộ trở lại lều thay đồ.

Quãng từ chiều đến bữa tối, trong khi cô làm việc thì anh phải gắng gượng và thấy rất nhàm chán, anh muốn tiếp tục đi lặn, nhưng chiều thì không ai dám lao vào sóng nữa. Anh kể cô nghe về con cá anh nhìn thấy lúc sáng, một mẫu vật tuyệt vời, năm ngoái, ở Sardinia anh cũng phóng lao nhiều nhưng cũng không bắt gặp cernia nào đẹp đến thế. Tôi và nó nhìn nhau một lúc nhưng tôi cũng chẳng vì thế mà khá hơn, tôi rất thường ngắm sai chỗ, cần phải ngắm trúng cổ nó, chẳng có ý nghĩa gì nếu bắn hú họa để rồi lớ ngớ trúng phần đuôi, cái đó cũng sai quy định, đó là tinh thần thể thao tồi, ít nhất thì anh chưa bao giờ làm thế. Cô nói, ồ, anh vẫn nghĩ về điều ấy, tôi không muốn anh giết nó. Nhưng anh nhất quyết ngày mai sẽ đi tìm nó, rồi anh chỉ cho cô cách bắt các loại cá và nơi có thể tìm thấy chúng. Trước đây cô từng thấy cá heo và biết chúng thông minh đến thế nào, và anh cũng biết một người phụ nữ, chính là vợ anh nhưng anh không nói ra, cô từng bị một con cá heo bám đuôi, nó chỉ đơn giản muốn bơi sát cạnh hoặc cũng có thể đã phải lòng cô, nhưng cô bơi nhanh như bị cá mập đuổi, ngã gục trên bờ biển, kể từ đó cô không bao giờ xuống nước và cũng không bơi được nữa. Ồ, cô nói trong khi từ từ cựa mình bên dưới anh và chạm vào khóe miệng anh bằng lưỡi của cô, vâng, ljublju tebja, ồ thật buồn cười – cô ghìm mình lại – một câu chuyện buồn. Ljublju tebja. Một con tàu đơn lẻ, hoặc thậm chí một quả mìn – thật khủng khiếp, không chỉ với những con cá bị đâm trúng mà cả những con ở xa nữa – những cơn chấn động dữ dội, những xáo trộn kinh hãi, ngay đến loài cá cũng chẳng được sống yên bình, dù đó không phải lỗi của chúng. Là lỗi của tôi chăng? cô hỏi, tôi không tạo ra những sự tàn nhẫn này, tôi tạo ra thứ gì khác, thứ gì nhỉ? đúng vậy, tôi tạo ra thứ đó, đúng, cô tạo ra thứ đó, và cô đấu tranh cay đắng và điên cuồng cho điều cô tạo ra, câm lặng hướng đến ngôn ngữ duy nhất, thứ duy nhất rõ ràng và chính xác.

Anh không muốn quay lại Vienna, quá nhiều điều đã bị phá vỡ, và anh còn có thể làm gì, ở chỗ của anh, tại Vienna? Hoài niệm chăng? Không, một điều gì khác, đôi khi là nỗi buồn chẳng thể cắt nghĩa. Thường thì anh chỉ đi nghỉ vào mùa đông vì thích trượt tuyết cùng bọn trẻ, vợ anh sẽ gửi chúng cho anh trong một tháng, năm nay thì chỉ có hai tuần, ở Cortina, trước khi đi St. Christophe như thường lệ; anh luôn dành trọn kỳ nghỉ của mình cho bọn trẻ, chúng đã sớm nhận ra có điều gì bất thường, tới một ngày anh sẽ phải giải thích, không thể giấu giếm lâu hơn nữa. Hình dung xem, cô nói, từng có người hỏi thẳng mặt tôi vì sao không có con và lý do là gì, anh thấy thế nào? anh thì chẳng bao giờ hỏi những điều như thế. Thay vì trả lời, anh nắm lấy tay cô. Cô nghĩ, thật không gì dễ dàng hơn ở bên một người cùng quê, ta sẽ luôn hiểu điều gì nên và không nên nói hay phải nói như thế nào, như thể giữa hai người tồn tại một hiệp ước bí mật, khi cô nghĩ về những gì mình phải chịu đựng từ người khác, không thể lúc nào cũng giải thích, xem này, đây là giới hạn của tôi, đừng vượt quá giới hạn. Sự phẫn nộ của cô với Jean Pierre lại bừng bừng sống dậy; anh ta luôn thấy khó chịu với mọi thứ, bất kỳ thứ gì cô nói hay làm, anh ta thậm chí chẳng thèm cố gắng hiểu cô mà chỉ một mực ép cô vào sự giam cầm của một đời sống xa lạ, trong một căn hộ hũ nút với cả lũ trẻ con. Anh ta thích cô dành cả ngày trong căn bếp nhỏ và cả đêm trên chiếc giường rộng mênh mông nơi cô chỉ là một sinh vật bé tí hin, un tout petit chat, unpetit poulet, une petite femmelle, nhưng hồi đó cô đã ra sức tự vệ, đã thút thít, đã khóc, đã ném bát đĩa xuống sàn, quăng nắm đấm của cô vào mặt anh ta và anh ta chỉ cười điềm tĩnh rồi tiếp tục thưởng thức màn trình diễn của cô cho tới khi cô phát điên, hoặc anh ta sẽ đánh cô, không bao giờ là vì tức giận mà chỉ vì việc anh ta thỉnh thoảng đánh cô là điều rất tự nhiên, pour te calmer un peu, cho đến khi cô lại bám lấy anh ta và ở lại.

Frankel hỏi, cô có nghĩ một ngày nào đó con người sẽ nói cùng một ngôn ngữ không? Điều gì khiến anh nghĩ thế, đúng là một ý tưởng điên rồ! Dây quai sandal của cô liên tục tuột và cô phải kéo chúng lên trên gót chân. Quả thật có rất nhiều ngôn ngữ đang biến mất, nhưng ở Ấn Độ vẫn có tới bốn mươi ngôn ngữ, ngay cả một đất nước cỡ Gabon cũng có tới bốn mươi ngôn ngữ, phải có đến hàng trăm hoặc hàng nghìn ngôn ngữ, chắc chắn ai đó sẽ đếm hết chúng, người ta luôn thích đếm một cái gì, cô nói thêm đầy mai mỉa, không, thực sự cô chỉ không thể mường tượng được điều đó nhưng thật khó diễn đạt chính xác tại sao. Anh thì lại có thể dễ dàng hình dung viễn cảnh ấy và cô phát hiện ra rằng anh là một người lãng mạn không thuốc chữa, điều đó khiến cô hài lòng hơn ấn tượng ban đầu của cô về anh: một người đàn ông thành đạt, đầu óc thực tế. Sẽ thật nhẹ nhõm nếu ngôn ngữ biến mất, cô nói, nhưng như vậy tôi sẽ chẳng còn giá trị gì nữa cả. Một người lãng mạn, ồ đúng là một đứa trẻ, dù chỉ là kiểu lãng mạn Lương thực và Nông nghiệp, những máy bay trực thăng cần mua để kiểm soát dịch hại, hay những chiếc tàu cá từ Iceland đến Ceylon; cuối cùng khi anh cúi xuống và thắt chặt đôi sandal cho cô, cô hỏi, nhưng rồi anh sẽ nói cái này thế nào, “Wuerstel mit Kren”, hay: “Sie geschlenkertes Krokodil”? Anh có bỏ cuộc không, t’arrendi? Anh gật đầu và ngước lên nhìn cô, thích thú; anh đã quên Kren và Krokodil. Và thêm một lần, suy nghĩ của anh lại trở về với con cernia: anh không biết tên tiếng Đức của nó là gì.

F.A.O. không phải là một tổ chức mới; nó bắt nguồn từ một ý tưởng lâu đời hơn nhiều so với Liên Hợp Quốc, một đứa trẻ từ miền Tây nước Mỹ đã nghĩ ra nó, một tay David Lubin nào đó, cái tên tiết lộ gốc gác Đông Âu của ông ta, rất có thể đó cũng là nguồn gốc của chính họ - nếu họ chịu khó tìm hiểu. Ông ta đã cưỡi ngựa xuyên qua vùng đất mới và phát hiện ra rằng chỉ cách đó vài dặm, người dân hoàn toàn không biết gì về những kinh nghiệm mà những người láng giềng đã tích lũy được trong quá trình canh tác đất đai; mỗi vùng lại có những mê tín và quan niệm riêng về ngũ cốc, dưa và gia súc, vì thế Lubin bắt đầu tổng hợp những quan niệm đủ loại này để trao đổi chúng khắp thế giới, và vì không ai hiểu nên ông đã trình ý tưởng của mình đến tận vua nước Ý; có những thứ chỉ bắt đầu như thế, tựa như truyện cổ tích, và đó là lý do cho việc hôm nay anh có một vị trí ở nơi trước kia tên là Cục Các vấn đề Châu Phi tại Rome, chẳng hạn có những người Mexico, lúa mì của họ tốt hơn bất cứ đâu, nhưng cô đã ngừng nghe và thốt lên, quả là câu chuyện tuyệt hay! Và anh nói một cách nghiêm khắc, nhưng tôi có kể chuyện cho cô đâu, thật đấy chứ. Chà, cô nói, thông thường khi ai đó đến và nảy ra một ý tưởng liều lĩnh, bắt đầu một điều gì mới mẻ, các anh sẽ tới và quản nó đến chết, ồ, tôi xin lỗi, xin hãy gắng hiểu ý tôi, tôi chỉ không thể nhìn nhận sự việc theo cách nào khác, khi tôi nghe những lắp bắp loạn xị giữa Paris, Geneva và Rome, khi anh nghe như cô đã phải nghe và “giúp” bọn họ hiểu lệch nhau rồi dồn ép nhau càng tợn, lũ đàn ông chết tiệt các anh như nhau tất, lúc nào cũng quản cho mọi thứ bé lại, về kích cỡ thường, còn cái ông đó, anh gọi ông ta là gì nhỉ, ông David đó, tôi thích ông ta và ghét những tay còn lại. Tôi cá rằng ông ta phi nước đại trên lưng ngựa thật, không giống các V.I.P trong những trường cưỡi ngựa, học cưỡi ngựa chỉ để giữ dáng, không, ông ta khác hẳn, tôi chắc chắn, anh cứ theo lũ đàn ông hiện đại chết dẫm đi, rồi cùng xuống địa ngục là vừa.

Anh bật cười bỏ qua, anh nghĩ cô quá đúng để khiến anh phải lập tức thừa nhận điều đó, anh nghĩ cô xinh, thậm chí rất xinh khi cáu, còn xinh hơn nhiều lúc ở khách sạn Hilton với mi giả và khăn choàng tô điểm, chìa tay chéo góc để nhận những cái hôn. Khi tức giận, mắt cô trở nên nguy hiểm, ướt và to hơn, dường như cô chỉ thực sự sống khi đi quá xa, vượt khỏi bản thân và giới hạn của chính mình. Khi chúng ta quay lại, tôi sẽ cho cô xem những việc tôi làm ở văn phòng, tôi không chỉ quản mọi thứ đến chết và cũng không thồ hồ sơ khắp nơi đâu, chúng được vận chuyển bằng thang máy chuyên dụng vì chúng quá nặng đối với tôi, ngay cả Ngài Vũ trụ hay Atlas trong hình dạng con người cũng sẽ thấy thế. Atlas nào? cô hỏi, đầy ngờ vực, và anh buồn cười đến nỗi phải gọi thêm rượu. Chúc sức khỏe Atlas, để ông ta có thể cân được toàn bộ cái gánh ấy! Ci sono cascata, vero? Cô đẩy ly của mình đi, tôi không muốn nữa, chẳng hiểu tại sao chúng ta phải nói về những chuyện này, tôi không muốn làm những việc mà ngày nào tôi cũng phải làm, trước khi ngủ tôi thường đọc tiểu thuyết trinh thám, chỉ để thoát khỏi thực tế ban ngày vốn đã quá đủ phi thực, với tôi mỗi cuộc hội thảo dường như chỉ là nối tiếp của một indagine vô tận – anh nói sao nhỉ? – họ luôn tìm kiếm nguyên nhân cho một điều gì đã xảy ra từ lâu, một điều gì khủng khiếp, và họ không thể vượt qua bởi con đường ấy đã quá nhiều người giẫm chân lên, bởi những người khác cố tình giấu đi dấu vết của họ, bởi mọi người chỉ tiết lộ một nửa sự thật nhằm bảo vệ bản thân và rồi anh lần qua hàng núi các mâu thuẫn cùng phối cảnh giả, rồi anh chẳng tìm được gì, anh cần tới một mặc khải để nhìn thấu được những gì đang diễn ra và cùng lúc, biết mình nên làm gì với nó.

Đúng vậy, anh lơ đãng nói, một mặc khải. Cô muốn dùng chút trái cây không? Còn một điều anh thích ở cô, đó là cách cô phản ứng, nói những gì cô muốn, từ chối hoặc chấp nhận, cô quá tự phụ, cũng quá khiêm tốn, quá hiếu thắng, cũng lại quá đơn giản: liên tục biến đổi, một người mà ta có thể đi cùng tới bất cứ đâu; trong một quán cà phê nhỏ, cô sẽ như thể mình đã uống thứ cà phê tệ hại này suốt cả đời và chỉ sống dựa vào những chiếc sandwich cũ; trong một khách sạn thế này, cô lại cho người phục vụ thấy rằng mình không dễ giỡn mặt; trong quán bar, cô tạo ấn tượng mình là một trong những phụ nữ về nguyên tắc không bao giờ động một ngón tay, rất khó làm hài lòng và có thể chịu đựng cả sự nhàm chán lẫn niềm vui thú với cùng vẻ duyên dáng, dễ làm mồi cho những phấn hứng khó chịu và có thể bấn loạn chỉ vì thiếu vỏ chanh, vì quá thừa hay quá thiếu đá hoặc vì món daiquiri pha vụng. Khi anh dừng một nhịp để nghĩ, một trong những lý do khiến anh ngấm ngầm ác cảm với người vợ ở Vienna là bởi cái cách cô ta bước xuống phố, thật lóng ngóng với những cái túi quá khổ, đầu cúi gằm thay vì ngẩng cao kiêu hãnh. Chiếc áo khoác lông thú mặc trên người trở nên lãng phí vì cô mặc nó với dáng vẻ nhẫn nhịn chịu đựng, và cô chẳng bao giờ hờ hững đưa mắt liếc quanh với vẻ tán thành cùng điếu thuốc trên tay như Nadja, cái nhíu mày của Nadja nói: ít nhất thì ở đây họ cũng có gạt tàn và vì Chúa tôi không muốn Vat, tôi đã nói Dimple, và nếu họ không hiểu ngay, nét ngạc nhiên sẽ hiển ra trên khuôn mặt cô, như thể Dimple hay không Dimple là quyết định cho kết quả của một cuộc tranh luận phi thường nào đó. Trong suốt chuyến đi, cô quấy nhiễu anh không ngừng, để mình bị lôi ra khỏi xe ở Motta hay Pavesi sau mỗi trăm cây số, như thể chính cô chứ không phải anh đã phải điều khiến chiếc xe qua dòng xe cộ đông đúc vào cuối tuần của tháng Tám, và dĩ nhiên cô là người duy nhất lạnh chân, nhưng thậm chí cô cũng không thèm với lấy chăn, cô chỉ lầm bầm yếu ớt, chỉ làm ơn, grazie caro, Chúa ơi, tôi lạnh đờ rồi, và giờ đây khi mặt trời cuối cùng cũng ló dạng và anh đang suy nghĩ vẩn vơ về mặc khải, cô gối đầu lên chân anh, bởi hiển nhiên bàn chân anh ở đó để đỡ lấy đầu cô và giúp cô nằm thoải mái hơn, anh cúi xuống cô, khuôn mặt họ biến dạng, những đường nét bị đảo ngược vừa đầy chật hãi hùng vừa gieo rắc hãi hùng, nhưng anh nói chính điều cô muốn nghe, anh phải hôn cô vì đó là điều cô muốn, cô quay đi và cười, nhưng có ai nhìn đâu, bởi cô đã thấy anh ngước lên, vẻ bất định, cô thèm thuồng cắm ngập răng vào bàn chân và ống chân anh và để ngăn cô lại, anh trói tay và ghì cô xuống sàn cho tới khi cô không cựa được nữa. Belva, bestiolina, đúng từ cho em rồi phải không? anh hỏi, và vâng, cô vui vẻ đáp, vâng và, chà, nói thế còn là nhẹ.

Họ vẫn chưa tới thăm ngôi làng, vào buổi tối cuối cùng anh nói rằng anh muốn đi xem Maratea trông ra sao bởi khách sạn này chẳng có gì chung với phần còn lại của Calabria, và cô lập tức bật dậy, vui mừng, sẵn sàng lên đường, d’accord, anh đã hứa với cô rằng họ sẽ cùng đi dạo, thế mà họ vẫn chưa bước được một bước nào, tu m’as promis une promenade, cô phàn nàn, cuộc đi dạo của tôi đâu, vậy là họ nhanh chóng lái xe đi. Mặt trời ló ra từ sau những đám mây, nhưng nó đã bắt đầu lặn, và mặt trời, phô bày những sắc độ rực rỡ muộn màng trên mặt biển, cho họ biết rằng nó chỉ tái xuất trong toàn bộ vẻ huy hoàng khi anh và cô không còn ở đó. Tôi cá là cô có thể nhìn thấy toàn bộ vịnh từ trên đó, cả chuyến đi chúng ta đã chẳng thấy gì, tu te rends compte? Cô không muốn nhìn ngắm vịnh, cô chỉ muốn đi bộ một đoạn ngắn, ma promenade, tôi đã bảo, rồi khi họ lái xe lên cao hơn và những khúc cua nối tiếp nhau sau những khoảng càng lúc càng ngắn, cô nói nhưng làng ở đâu, tôi nghĩ nó nằm sau đồi, không phải trên đó, anh định đi đâu, không, làm ơn đừng lên vách đá. Cô im lặng và bám chắc chân lên sàn xe, nghe anh lý giải về người Saracen, một vị trí phòng thủ thuận lợi, rồi lại người Saracen tiếp, nhìn này, tôi bảo, nhìn này! Cô không nói gì, chớp mắt, bầu trời ửng đỏ, họ đang tiến gần tới các đám mây, họ sẽ rẽ vào trong mây, cô nhìn thấy rào chắn đầu tiên, rồi rào chắn thứ hai vút qua, cô không thể tìm thấy giọng của mình, thêm một cái rào chắn nữa. Anh không tưởng tượng được sẽ thấy nó ở đây, một cung đường hùng vĩ, rồi những cây cầu, nối tiếp nhau, dẫn lên cao và cao mãi, lơ lửng tự do, còn cô nhìn vào lòng mình, vào gói thuốc và bật lửa. Cơn tê cứng bắt đầu xâm chiếm đôi tay cô, cô không thể châm một điếu thuốc và cũng không thể nhờ anh làm điều đó, cô đang phụ thuộc vào anh toàn phần, gần như không thể thở, và một cảm giác trống rỗng bao trùm cô, có thể là khởi đầu của câm lặng, hoặc một thứ gì đang thiết lập sự hiện diện của nó bên trong cô, một căn bệnh chết người. Rồi xe dừng lại trước tấm biển xanh trắng đề chữ P, như thể xe của họ không chỉ là chiếc xe đầu tiên mà còn là chiếc cuối cùng dừng lại trên bãi đá hoang vắng này. C’est fou, c’est completement fou. Cô xuống xe, không biết nhìn đi đâu, trùm áo len của anh lên mình, trời lạnh đến thế, cô rúc mình trong lớp len. Họ đi qua những ngôi nhà hoang tàn, trống vắng, và trước một tu viện, một linh mục và ba phụ nữ già, tất cả đều mặc đồ đen, lịch sự chào họ. Cô không đáp lại lời chào.

S’ menja etogo dovol’no. Anh dẫn cô đi dọc một con đường đá mọc đầy những chùm cỏ thô leo đến vách đá cao nhất, hướng về vực thẳm. Cô trượt chân trên đôi dép sandal và cố theo kịp bước chân anh, ngước lên và thấy nó từ phía sau, một tượng đá khổng lồ, uy nghi quấn trong chiếc áo choàng dài bằng đá, hai cánh tay dang rộng. Lưỡi cô cứng đờ, cô nhận ra hình tượng quái đản mà cô từng thấy trên tấm bưu thiếp tại khách sạn, Chúa Kitô thành Maratea, nhưng giờ nó lờ mờ choán cả nền trời, và cô đứng sững. Cô lắc đầu rồi gạt tay anh ra, tỏ ý bảo anh đi tiếp đi. Cô nghe thấy anh nói gì đó, đứng đó cúi đầu rồi bước lùi về sau, cô lại trượt chân và ngồi xuống một tảng đá cạnh con đường, và điều đó có nghĩa: tôi không đi thêm một bước nào nữa đâu. Anh vẫn chưa hiểu, cô ngồi đó và bứt lá từ bụi cây, menthe, menta, mentuccia, cuối cùng cô cũng nói được, giọng trầm tĩnh nhưng kiên quyết: anh cứ đi đi, em không thể đi tiếp được nữa. Mareada. Chóng mặt. Cô chỉ vào đầu mình rồi ngửi chiếc lá bị vò nát như thể đã tìm thấy cách chữa trị, một loại thuốc nào đó. Aide-moi, aide-moi, ou je meurs ou je me jette en bas. Je meurs, je n’en peux plus. Khi anh đã đi, cô vẫn có thể cảm nhận được nó, ép vào lồng ngực cô, sự hiện diện của thứ khổng lồ điên rồ mà ai đó đã đặt trên vách đá, những kẻ điên đó, cho phép chúng làm, cho phép chúng làm thế, và trong một ngôi làng tồi tàn có thể sụp xuống biển bất cứ lúc nào, chỉ cần một bước chân mạnh hay một động tác bất cẩn là xong, và đó là lý do vì sao cô ngồi đây bất động càng lâu càng tốt, để vách đá này không đổ sụp và kéo chôn theo cả hai người họ cùng sự nghèo đói của ngôi làng, những hậu duệ của người Saracen, và tất cả những câu chuyện nặng như chì của những thời kỳ mệt mỏi ấy. Nếu mình không cử động, bọn mình sẽ không ngã. Cô muốn khóc nhưng không thể, đã bao lâu rồi kể từ lần cuối mình còn khóc được, không thể có chuyện mình đã quên cách khóc vì đi khắp nơi, lang thang giữa bao nhiêu ngôn ngữ và địa điểm, nhưng khóc cũng chẳng cứu được mình, mình phải đứng dậy, men đường xuống tới chiếc xe, lên xe và lái đi cùng anh ấy. Mình không biết điều gì rồi sẽ đến, sẽ là sự phá hủy của mình.

Cô từ từ trượt khỏi tảng đá và nằm xuống đất, hai tay dang rộng, như bị đóng đinh trên vách đá hiểm trở này, không thể thoát khỏi suy nghĩ của mình, giả định quái đản này, phận sự được giao phó, một nghị quyết mà hội đồng thị trấn đã thông qua vào thời điểm nào đó, giờ nó sẽ phá hủy mình. Cô không nghe thấy tiếng anh quay lại, đã gần tối, cô đứng dậy, đứng thẳng và bước bên cạnh anh mà không ngoảnh lại, họ đi qua tu viện nơi những bóng đen xếp thành hàng lặng lẽ, đến bãi đậu xe. Nó không giống bất kỳ thứ gì anh từng thấy trước đây, anh rất xúc động, anh đã thấy toàn cảnh vịnh khi mặt trời tan biến vào mây tím rồi bị biển nuốt chửng. Khi bắt đầu lái xe, anh chợt nảy ra điều gì đó và bình thản nhận xét, chẳng phải rất kỳ cục khi dựng một bức tượng khủng khiếp như vậy ở đây sao, cô có thấy không? Lúc họ di chuyển trên đường cô lập tức nhắm mắt lại và lại bám chắc chân xuống sàn, song cô vẫn cảm thấy những cây cầu, những vách đá, những khúc cua, và một miệng vực há hoác không thể nào vượt qua. Càng xuống dưới, cô càng thở đều. Với tôi chỗ này cao hơn cả ở trên núi, cao hơn, và thật kinh khủng. Nhưng cô ngốc của tôi, ở đây cao chất chỉ tầm sáu, bảy trăm mét thôi, và cô lại nói không, không, thậm chí còn tệ hơn cả việc hạ cánh trên chiếc Boeing đấy. Chúng ta sẽ hạ cánh sớm chứ?

Ở quán bar cô yêu cầu thứ gì đó, bất cứ thứ gì, như bệnh nhân cần gấp một mũi tiêm, thường cô sẽ cân nhắc các lựa chọn, song không phải bây giờ: chỉ cần thứ gì đó tác dụng nhanh chóng, và cô được đưa cho một ly, uống cạn một hơi và không nếm được gì, nhưng rượu làm cô ấm lên và sự kích động, rào cản ngăn cách cô với anh và thế giới này, cũng tan biến. Run rẩy, cô châm điếu thuốc đầu tiên của buổi tối. Trong phòng, khi anh ôm cô, cô lại bắt đầu run lên, không muốn, không thể, cô sợ bị ngạt thở hoặc chết trong vòng tay anh, nhưng rồi cô đổi ý, tốt hơn hết là bị anh bóp nghẹt và hủy hoại, thế rồi hủy luôn cả những thứ đã vô phương cứu chữa nơi cô, cô không chống cự nữa, bất động, mặc cho điều ấy ập tới, cô nằm đó chẳng cảm thấy gì, rồi cô lặng lẽ quay lưng lại với anh và thiếp đi.

Sáng thức dậy cô đã thấy anh gói xong đồ, và khi nghe tiếng dao cạo của anh trong phòng tắm, cô cũng bắt đầu thu dọn đồ đạc. Họ không nhìn nhau, và sau khi anh đi, cô bắt đầu men xuống con đường mòn dẫn ra biển. Cô không tìm được anh, rồi anh hiện lên ở cái thang và đưa cho cô một con sao biển lớn. Cô chưa bao giờ nhìn thấy sao biển sống, càng chưa được tặng con nào, và cô mỉm cười, vừa vui vừa buồn, ngắm nhìn con sao biển và muốn đem về làm kỷ niệm, nhưng rồi cô đột nhiên ném nó trở lại biển để nó được sống. Biển động mạnh hơn hôm trước, nhưng dẫu sao cũng đâu có ai cần tới cô, việc biết anh đang ở dưới nước không còn khiến cô lo sợ nữa. Cô chỉ về phía vách đá, ra hiệu, rồi đi dọc theo những tảng đá có màu đen, xanh và lốm đốm sáng nơi dòng nước gào thét dữ dội, cô leo lên leo xuống những phiến đá nứt nẻ và lởm chởm, hãi hùng giữa biển cả đang gầm rú.

Họ nhìn đồng hồ cùng lúc. Họ còn hai tiếng nữa, mệt mỏi sau bữa ăn, lặng lẽ, nằm cạnh nhau trên hai chiếc ghế xếp ở tầng sân thượng thấp nhất. Ban đầu họ nghĩ sẽ dành mấy ngày này để đắm chìm trong những câu chuyện và chia sẻ tâm sự, nhưng mọi chuyện đã diễn ra khác hẳn và cô tự hỏi liệu anh có đang nghĩ đến ai khác và liệu dòng suy nghĩ của anh có dẫn đến vô số khuôn mặt, cơ thể, bị tàn phá, bị đánh đập, bị sát hại, những điều đã nói và chưa nói, rồi đột nhiên cô nhìn anh với nỗi nhớ mong thực sự, trong cùng khoảng khắc nghĩ về Paris và tưởng tượng rằng không phải anh mà người kia nhìn cô như thế, và rồi Frankel nhìn cô và cô nhìn anh với vẻ khẩn thiết. Làm ơn hãy nói cho tôi biết anh đang nghĩ gì, anh đang nghĩ gì lúc này, hãy nói đi, nói đi, anh phải nói! Ồ, có gì đặc biệt đâu, anh do dự, rồi anh bảo anh đang nghĩ về con cernia mà anh không gặp lại, anh không thể bỏ nó khỏi đầu. Và đấy là những gì anh đang nghĩ, anh không nói dối, đó là sự thật, chuyện ấy choán lấy suy nghĩ anh, anh muốn bắn vào gáy nó. Đầu cô đột nhiên đau nhói, rồi cô đặt tay lên gáy mình và bảo: ở đây, tôi có thể cảm thấy nó ngay đây.

Trong giờ đồng hồ cuối cô đứng lên ba lần, một lần ra chỗ nhân viên cứu hộ, sau đó đến phòng tắm, rồi tới lều thay đồ, cô ngồi đó nhìn chằm chằm xuống sàn, và cô nghĩ anh chắc hẳn đã nhận ra điều gì đó, thế nên cô quay lại, quỳ xuống trước mặt và tựa đầu lên đầu gối anh. Anh có thể để tôi một mình cho đến khi ta đi không? Không có chuyện gì đâu, cô nói, chỉ là có chút khó khăn, bỏ qua cho tôi. Anh có thể mang đồ đạc của chúng ta về không? Được chứ?

Một lần nữa cô đi về phía những tảng đá, lần này không cẩn thận leo lên mà nhảy từ tảng này sang tảng khác khi có thể, một lần nữa suýt bật ra những giọt nước mắt chẳng bao giờ tuôn ra được, càng lúc cô càng liều lĩnh hơn, gan dạ hơn, và quả thật giờ cô đã băng qua một mỏm đá đen nằm xa phía sau, cô vừa đánh liều, suýt nữa là rơi, bắt gặp mình trông cơn mê sảng, cô tự nhủ đó là một nghĩa vụ, mình phải, mình phải sống, vô thức liếc nhìn đồng hồ theo thói quen, cô quay trở lại để không bị trễ giờ, sửa soạn lại bản thân, mình đã nói gì ở đó, điều đó nghĩa là gì, đó không phải một nghĩa vụ, mình không phải làm thế, mình không có bất cứ nghĩa vụ nào, mình có thể. Mình có thể và mình cuối cùng cũng phải hiểu nó, trong từng và trong mọi khoảnh khắc, ở đây cũng thế, và cô bật lên, bay bổng, chạy tiếp với tất cả những gì mình có, mình có thể, một sự vững vàng mà cơ thể cô chưa từng biết đã nâng gót mỗi bước nhảy của cô. Mình có thể, quan trọng là thế, mình có thể sống. Chỉ còn lại quần jeans và áo blouse của cô trong lều thay đồ, và cô nhanh chóng mặc quần áo rồi chạy gấp về khách sạn, không hụt hơi và cũng không cảm thấy trọng lượng. Giờ mình sẽ nhìn lại lần nữa, đó là biển, không phải tất cả biển, đương nhiên, không phải tất cả bờ biển, không phải tất cả vịnh – cô dừng lại và cúi xuống, có thứ gì đó nằm trên lối đi, áo len của anh ấy, chắc hẳn anh ấy đã đánh rơi. Cô nhặt chiếc áo lên, vui vẻ áp vào mặt và hôn. Cô quay lại nhìn mặt nước, khuôn mặt đỏ bừng, đó là biển, thật kỳ diệu, giờ mình mới có can đảm đề nhìn lại, để ngước mắt lên những ngọn đồi cao tuyệt đẹp và vách đá Maratea, cái mũi nhô ra biển, dốc nhất trong tất cả, và mắt cô tập trung vào nó một lần nữa, một dáng hình nhỏ bé, hầu như không thấy được, hai cánh tay dang rộng, không còn bị đóng đinh mà chuẩn bị cho một chuyến bay vĩ đại, sẵn sàng để bay hoặc lao xuống vực thẳm.

Ở sảnh khách sạn, cô dừng lại, thở không ra hơi, chưa muốn gặp anh ngay nên chạy vội lên phòng. Vali đã không còn, giường chưa được trải lại, cô đứng trước gương và cố gắng chải mái tóc dài rối bời để tạo chút sức sống cho những lọn tóc mặn khô. Kéo mở tất cả tủ đồ và ngăn kéo, cô ném bỏ những bao thuốc lá rỗng, những mảnh giấy vụn và khăn giấy, kiểm tra gầm giường và khi rời đi, cô phát hiện một cuốn sách trong ngăn kéo cạnh giường anh. Thật may mắn vì cô đã quay lại lần cuối. Cô nhét nó vào túi xách rồi lại lập tức lấy ra, cuốn sách này không thể thuộc về anh. Sách Phúc âm. Chỉ là Kinh thánh, một hạng mục trong những đồ được cung cấp của những khách sạn kiểu này. Cô ngồi xuống chiếc giường chưa được trải và, cũng như cách cô thường mê tín lật mở những cuốn từ điển để tìm từ, hy vọng có thể bắt gặp từ nào đó giúp cô vượt qua một ngày, như xin lời tiên tri, giờ cô mở cuốn sách này.  Với cô, nó cũng chỉ là cuốn từ điển, cô nhắm mắt lại, dùng ngón tay gõ vào góc trên bên trái và mở mắt ra thấy một câu duy nhất: IL miracolo, come sempre, è il risultato della fede e d’una fede audace. Cô trả cuốn sách về chỗ cũ, cố gắng lĩnh hội câu ấy, để nó lướt qua môi cô và biến hóa.

Phép màu

Phép màu vẫn luôn như thế

Không, phép màu là kết quả của lòng tin và

Không, của lòng tin và một cái gì đó táo bạo, không, hơn cả táo bạo, hơn thế nữa –

Và cô bắt đầu khóc.

Mình không giỏi đến thế, mình không biết tất cả mọi thứ, mình vẫn chưa biết tất cả mọi thứ. Cô không thể dịch câu ấy sang bất kỳ ngôn ngữ nào khác, mặc dù cô tin chắc mình hiểu nghĩa của từng từ và cách sử dụng chúng, song vẫn không hiểu câu đó thực sự được tạo thành từ gì. Cô đơn giản là không thể làm tất cả.

Cô dừng lại ở quầy bar, nơi anh đợi cô, nhưng anh không thấy cô bước vào và không nhận ra sự hiện diện của cô; anh ấy, những vị khách khác và cậu bé sau quầy bar đang xem ti vi trong góc. Những chiếc xe đạp, ban đầu là một nhóm, vút qua màn hình; hình ảnh chuyển sang một tay đua uốn người theo tay lái, sau đó đến đám đông đang tụ ven đường. Các từ của phát thanh viên tuôn ra như một cơn lốc cuồng, ông ta vấp, tự chỉnh rồi lại vấp, còn ba cây số là tới đích, ông ta nói càng lúc càng nhanh như thể cũng đang đạp xe, như thể không thể chờ thêm nữa, như thể tim ông ta chừng ngừng đập, lưỡi ông ta đã bắt đầu rỏ mồ hôi, cô tự hỏi, còn có thể kéo dài bao lâu, còn hai cây số nữa, cô quay sang cậu bé ở quầy bar đang dán mắt vào mình hình trong trạng thái mê man và nhã nhặn hỏi: chi vince? Cậu bé không trả lời, còn một cây nữa là tới đích, phát thanh viên thở hổn hển và ú ớ, không thể nói lời kết và phá vỡ băng phát sóng với tiếng kêu không thành lời. Trong khoảnh khắc đó, chiếc ti vi bùng nổ trong tiếng gào thét của đám đông ven đường, người ta bắt đầu hét lên cho đến khi những tiếng hét hỗn loạn ấy kết thành các quãng staccato rành rọt.

A

   dor

        ni

A

   dor

        ni

Cô lắng nghe, kinh hoàng và nhẹ nhõm, và trong những tiếng hét staccato đó, cô nghe thấy tất cả những tiếng hét staccato từ các thành phố và quốc gia mà cô từng đến. Thù hận staccato, hân hoan staccato.

A

   dor

        ni

A

   dor

        ni

Anh quay lại nhìn cô, bối rối vì cô hẳn đã ở trong quầy bar một lúc. Mỉm cười, cô chỉ vào chiếc áo len quấn trên tay. Cậu bé đằng sau quầy bar trở lại hiện thực, nhìn cô đờ đẫn và lắp bắp, commandi, Signora, cosa desidera?

Niente. Grazie. Niente

Nhưng lúc rời đi, khi đã nắm tay anh, cô quay lại, điều quan trọng nhất vừa nảy ra, và cô thốt lên với cậu bé vừa chứng kiến Adorni chiến thắng.

Auguri!

Thanh Nghi dịch 

một phụ nữ trôi dạt khác

 khác nữa

coming very soon

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công