Coetzee: Joseph Roth
Ở đỉnh cao của một triều đại khởi đầu từ năm 1848 và kéo dài đến năm 1916, Hoàng đế Franz Joseph của Áo và của Quốc vương Hungary đã cai trị khoảng năm mươi triệu thần dân. Trong số này, chưa đến một phần tư coi tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ. Ngay cả trong bản thân nước Áo, cứ hai người thì có một là người Slav thuộc một nhóm nào đó – Séc, Slovak, Ba Lan, Ukraina, Serbia, Croatia hoặc Slovenia. Mỗi nhóm dân tộc thiểu số này đều nuôi khát vọng trở thành một quốc gia độc lập, với đầy đủ yếu tố cần thiết, bao gồm một ngôn ngữ dân tộc và một nền văn học dân tộc.
Có thể thấy sai lầm của chính quyền đế quốc là đã xem nhẹ những khát vọng đó, tin rằng lợi ích khi thuộc về một nhà nước đa sắc tộc được xem là khai sáng, thịnh vượng và hòa bình sẽ lấn át chủ nghĩa ly khai cũng như sức đẩy của định kiến chống Đức (hoặc, trong trường hợp người Slovak, chống Hungary). Nhưng đến khi chiến tranh bùng nổ năm 1914 – được châm ngòi bởi một hành động khủng bố ngoạn mục của những người dân tộc chủ nghĩa – Đế chế đã quá suy yếu để chống đỡ các đạo quân Nga, Serbia và Ý ở biên giới, và nhanh chóng tan rã.
“Áo-Hung không còn nữa,” Sigmund Freud viết cho chính mình vào Ngày đình chiến năm 1918. “Tôi không muốn sống ở bất cứ nơi nào khác… Tôi sẽ tiếp tục sống với cái phần thân còn lại và tưởng tượng rằng nó là toàn bộ.” Freud đã nói thay tiếng lòng của nhiều người Do Thái thuộc văn hóa Áo-Đức. Sự tan rã của Đế chế cũ cùng việc tái vẽ bản đồ Đông Âu để tạo ra những quê hương mới dựa trên sắc tộc đã gây bất lợi nhất cho người Do Thái bởi họ không có lãnh thổ nào có thể nhận là của riêng từ thời tổ tiên. Nhà nước đế quốc siêu quốc gia xưa kia phù hợp với họ; còn trật tự hậu chiến lại là một thảm họa. Những năm đầu của nước Áo mới - nhỏ bé, bị lột trần và gần như không thể tồn tại - với nạn thiếu lương thực, tiếp theo là lạm phát nghiêm trọng quét sạch toàn bộ tiền tiết kiệm của tầng lớp trung lưu cùng bạo lực đường phố giữa các lực lượng bán vũ trang cánh Tả và cánh Hữu, chỉ càng khoét sâu thêm sự bất an của họ. Một số bắt đầu hướng mắt về Palestine như một quê hương dân tộc; số khác tìm đến niềm tin siêu quốc gia của chủ nghĩa cộng sản.
Nỗi hoài niệm về quá khứ đã mất và nỗi lo âu về một tương lai không chốn nương thân là trung tâm trong các tác phẩm chín muồi của tiểu thuyết gia Áo Joseph Roth. Roth hồi tưởng với niềm yêu mến về nền quân chủ Áo-Hung như quê hương duy nhất mà ông từng có. “Tôi yêu quê hương này,” ông viết trong lời tựa. “Nó cho phép tôi vừa là một người yêu nước, vừa là một công dân thế giới, và giữa tất cả các dân tộc Áo, tôi cũng là một người Đức. Tôi yêu những đức hạnh và công trạng của quê hương này, và hôm nay, khi nó đã chết và không còn nữa, tôi thậm chí còn yêu cả những khuyết điểm và yếu kém của nó.” Hành khúc Radetzky là kiệt tác của Roth, một khúc bi ca vĩ đại tiễn đưa nước Áo Habsburg, được sáng tác bởi một thần dân đến từ vùng ngoại vi của đế chế; đồng thời cũng là một đóng góp to lớn cho nền văn học tiếng Đức, từ một nhà văn vốn chỉ giữ vị trí rất khiêm tốn trong cộng đồng văn chương Đức.
Moses Joseph Roth sinh năm 1894 tại Brody, một thành phố cỡ trung chỉ cách biên giới Nga vài dặm, thuộc tỉnh Galicia, vùng đất đội vương miện của đế chế. Galicia trở thành một phần của Đế quốc Áo vào năm 1772, khi Ba Lan bị phân chia; đó là một vùng nghèo, đông dân, gồm người Ukraina (ở Áo gọi là Ruthenian), người Ba Lan và người Do Thái. Bản thân Brody từng là một trung tâm của Haskala, tức phong trào Khai sáng Do Thái. Vào những năm 1890, hai phần ba dân số của nơi này là người Do Thái.
Ở các vùng nói tiếng Đức của Đế chế, người Do Thái từ Galicia bị coi thường. Khi còn là một thanh niên lập nghiệp ở Vienna, Roth đã giảm nhẹ, thậm chí che giấu xuất thân của mình, nói rằng ông sinh ra ở Schwabendorf – một thị trấn chủ yếu là người Đức (chi tiết hư cấu này xuất hiện cả trong giấy tờ chính thức của ông). Tuỳ lúc, ông tuyên bố cha mình là một chủ xưởng, một sĩ quan quân đội, một quan chức nhà nước cao cấp, một họa sĩ, hoặc một quý tộc Ba Lan. Thực tế, Nachum Roth làm việc tại Brody với tư cách đại lý cho một công ty buôn ngũ cốc của Đức. Moses Joseph chưa từng biết cha mình: năm 1893, ngay sau khi kết hôn, Nachum lên tàu đi Hamburg và trên đường thì phát bệnh thần kinh. Ông được đưa vào một trại điều dưỡng, rồi sau đó rơi vào tay một rabbi chữa bệnh bằng phép mầu. Ông không bao giờ hồi phục, cũng không bao giờ trở lại Brody.
Moses Joseph được mẹ nuôi dưỡng trong nhà của ông bà ngoại, những người Do Thái khá giả và đã hòa nhập. Ông học tại một trường cộng đồng Do Thái, nơi ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Đức, rồi tiếp tục học ở Gymnasium dạy bằng tiếng Đức tại Brody. Một nửa bạn học của ông là người Do Thái: đối với những thanh niên Do Thái đến từ phương Đông, một nền giáo dục tiếng Đức mở ra cánh cửa bước vào thương mại và nền văn hóa thống trị.
Năm 1914, Roth ghi danh vào Đại học Vienna. Khi ấy, Vienna có cộng đồng Do Thái lớn nhất Trung Âu, khoảng 200.000 người, sống trong một dạng “khu ổ chuột tự nguyện”. Roth nhận xét: “Là một Ostjude (người Do Thái phương Đông) đã khó khăn rồi; nhưng không có số phận nào khó khăn hơn việc làm một Ostjude xa lạ ở Vienna.” Những người Ostjuden không chỉ đối mặt với nạn bài Do Thái, mà còn chịu sự lạnh nhạt của những người Do Thái phương Tây.
Roth là một sinh viên xuất sắc, đặc biệt trong môn văn học Đức, dù ông coi thường phần lớn các giảng viên của mình, cho rằng họ hèn hạ và giáo điều. Sự khinh miệt này phản ánh trong các tác phẩm ban đầu của ông, mô tả hệ thống giáo dục nhà nước như một nơi dành cho những kẻ chỉ biết leo thang sự nghiệp hoặc những người nhút nhát, thiếu cảm hứng.
Ông làm gia sư bán thời gian cho các con trai nhỏ của một nữ bá tước, và trong quá trình đó học được những thói quen kiểu công tử như hôn tay các quý bà, chống gậy, đeo kính một tròng. Ông bắt đầu xuất bản thơ.
Việc học của ông, vốn dường mở ra một sự nghiệp học thuật, đã bị chiến tranh cắt ngang. Vượt qua khuynh hướng chống chiến tranh ban đầu, ông nhập ngũ năm 1916, đồng thời bỏ cái tên Moses. Sự căng thẳng sắc tộc trong quân đội hoàng gia đủ lớn để khiến ông bị điều ra khỏi đơn vị nói tiếng Đức; những năm 1917–1918 ông phục vụ trong một đơn vị nói tiếng Ba Lan tại Galicia. Giai đoạn này trở thành nguồn cho những “tô điểm” tiếp theo trong tiểu sử của ông, bao gồm cả câu chuyện ông từng là sĩ quan và tù binh chiến tranh ở Nga. Nhiều năm sau, ông vẫn thường rắc vào lời nói của mình thứ tiếng lóng của giới sĩ quan.
Sau chiến tranh, Roth bắt đầu viết báo và nhanh chóng có lượng độc giả ở Vienna. Trước kia, Vienna là thủ đô của một đế chế hùng mạnh; giờ đây nó chỉ còn là một thành phố nghèo với hai triệu dân trong một quốc gia vỏn vẹn bảy triệu người. Tìm kiếm cơ hội rộng mở hơn, Roth và người vợ mới cưới Friederike chuyển đến Berlin. Ở đó, ông viết cho các tờ báo tự do, đồng thời cộng tác với tờ cánh tả Vorwärts, ký tên “Der rote Joseph” - Joseph Đỏ. Tác phẩm Zeitungromane (tiểu thuyết báo chí) đầu tiên của ông ra đời, gọi như vậy không chỉ vì nó chia sẻ chủ đề với các bài báo, mà còn bởi hình thức văn bản được cắt thành các đoạn ngắn, sắc gọn. Mạng nhện (1923) đã tiên liệu chính xác hiểm họa đạo đức và tinh thần từ phe phát xít cực hữu, và được xuất bản chỉ ba ngày trước cuộc đảo chính đầu tiên của Hitler.
Năm 1925, Roth được bổ nhiệm làm phóng viên Paris của Frankfurter Zeitung, tờ báo tự do hàng đầu thời đó, với mức lương biến ông thành một trong những nhà báo được trả cao nhất ở Đức. Ông đến Berlin để xây dựng sự nghiệp như một nhà văn Đức, nhưng ở Pháp, ông nhận ra rằng tận sâu bên trong, ông là một người Pháp - “một người Pháp đến từ phương Đông”. Ông say mê điều mà ông gọi là sự thướt tha lụa là của phụ nữ Pháp, đặc biệt là những người ông thấy ở Provence.
Ngay từ thời trẻ, Roth đã sở hữu một thứ tiếng Đức mạch lạc và linh hoạt. Giờ đây, lấy Stendhal và Flaubert - nhất là Flaubert trong Một trái tim đơn giản (Un Cœur simple) - làm mẫu mực, ông hoàn thiện phong cách trưởng thành, chính xác đặc trưng của mình. (Khi nói về Hành khúc Radetzky, ông nhận xét: “Der Leutnant Trotta, der bin ich” - “Trung úy Trotta chính là tôi”, một cách có ý thức gợi lại câu nói nổi tiếng của Flaubert: “Madame Bovary, c’est moi.”) Ông thậm chí đã nghĩ đến việc định cư ở Pháp và viết bằng tiếng Pháp.
Tuy nhiên, chỉ sau một năm, Frankfurter Zeitung đã thay thế ông ở văn phòng Paris. Thất vọng, ông xin thực hiện một chuyến đi Nga. Thói quen “đối xử một cách mỉa mai với một số thể chế, đạo đức và phong tục của thế giới tư sản”, như lời ông, không nên bị coi là khiến ông mất tư cách đưa tin về Nga và “những hệ quả đáng ngờ” của Cách mạng Nga. Loạt bài tường thuật của ông là một thành công lớn; tiếp nối là các bản tin từ Albania, Ba Lan và Ý. Ông tự hào về công việc báo chí của mình: “Tôi không viết những bình luận được gọi là dí dỏm. Tôi phác họa những đặc điểm của thời đại… Tôi là một nhà báo, không phải một phóng viên; tôi là một nhà văn, không phải một kẻ nhào nặn các bài xã luận.”
Trong suốt thời gian này, ông vẫn tiếp tục viết tiểu thuyết. Năm 1930, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ chín,Job, tiểu thuyết về một người thuần hậu. Bất chấp - hay chính nhờ - cái kết đượm màu cổ tích và cảm tính của nó: ông già Mendel Singer, bị số phận vùi dập và rơi vào cảnh nghèo túng ở khu ổ chuột New York, được cứu vớt bởi cậu con trai khờ khạo mà ông từng bỏ lại ở Thế giới Cũ - một đứa con mà ông không hề hay biết đã trở thành nhạc sĩ nổi tiếng toàn cầu - Job đã trở thành một thành công quốc tế (Roth thú nhận rằng ông không thể viết được đoạn kết này nếu không có sự trợ giúp của rượu.) Khi Hollywood, khi chuyển thể Job thành bộ phim Sins of Man, đã gạt bỏ toàn bộ yếu tố Do Thái.
Hai năm sau, Roth cho ra đời cuốn sách tham vọng nhất của mình: Hành khúc Radetzky. Sáu tiểu thuyết khác ra đời trong quãng đời còn lại của ông - tất cả đều có quy mô nhỏ hơn - cùng nhiều truyện ngắn.
Hành khúc Radetzky, kiệt tác vô song của Roth và cũng là tác phẩm duy nhất ông thực hiện mà không bị thúc ép bởi sự vội vã, kể lại số phận của ba thế hệ gia đình Trotta - những người phục vụ Hoàng gia: Trotta đầu tiên là một lính thường, được phong quý tộc hạng nhỏ vì một hành động anh hùng; Trotta thứ hai là một quan chức tỉnh cấp cao; Trotta thứ ba là một sĩ quan quân đội, người mà cuộc đời tan biến trong sự vô nghĩa khi huyền thoại Habsburg mất dần sức hút, và cuối cùng chết không con cái trong Thế chiến I.
Quỹ đạo của gia tộc Trotta phản chiếu quỹ đạo của Đế chế. Lý tưởng phụng sự vô vị lợi, hiện thân ở Trotta thứ hai, lung lay nơi người con trai không phải vì Đế chế có điều gì sai một cách khách quan, mà vì sự thay đổi trong “bầu không khí” khiến chủ nghĩa lý tưởng cũ không thể duy trì nữa (đó chính là sự thay đổi mà Robert Musil cũng lấy làm điểm khởi đầu để mổ xẻ nước Áo cũ trong Người không phẩm chất). Trotta trẻ, sinh vào thập niên 1890, có thể đại diện cho thế hệ của Roth và Musil (“Der Leutnant Trotta, der bin ich” - “Trung úy Trotta chính là tôi”), nhưng chính người cha - kẻ cuối đời không chỉ phải gánh nỗi nhục thất bại của con trai mà còn phải khiêm nhường thừa nhận rằng niềm tin cả đời mình theo đuổi đã trở nên lỗi thời - mới là nhân vật bi kịch trung tâm trong sách. Nhân vật này cho thấy Roth, với tư cách một nghệ sĩ phê bình, phức tạp và sâu sắc hơn nhiều so với hình ảnh một kẻ biện hộ cho nhà Habsburg mà về sau người ta gán cho ông.
Trong tác phẩm của Roth, chính những nhân vật ở rìa xã hội lại là những người trung thành nhất với Đế chế. Gia tộc Trotta, hình mẫu con người Áo-Hung lý tưởng, vốn không mang gốc Đức mà có gốc Slovenia. Sau khi “xóa sổ” một nhánh của gia tộc này, Roth tạo ra một người họ hàng Trotta xa để tiếp tục câu chuyện trong Die Kapuzinergruft (1938; dịch là Ngôi mộ Kapuziner, hay Lăng mộ Hoàng đế), phần tiếp nối khá nhạt nhòa của Hành khúc Radetzky, khép lại lịch sử hư cấu của ông về sự suy tàn của lý tưởng hoàng đế, biến thành chủ nghĩa hoài nghi và suy đồi của Vienna thời hậu chiến.
Trong khi đó, Friederike Roth (vợ ông) lâm bệnh tâm thần và phải nhập viện. Bà sống những năm 1930 trong các trại tâm thần ở Đức và Áo; khi phe Quốc xã lên nắm quyền, bà trở thành một trong những nạn nhân bị chọn để “an tử”.
Năm 1933, Roth đi khỏi Đức vĩnh viễn, và sau một thời gian phiêu bạt khắp châu Âu, ông quay lại định cư ở Paris. Tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ; xét trên nhiều phương diện, ông là một nhà văn thành công. Tuy vậy, tài chính của ông hỗn loạn. Hơn nữa, ông vốn nghiện rượu nặng, và đến giữa thập niên 1930 đã lậm trong cơn nghiện. Ở Paris, ông sống trong một phòng khách sạn chật chội, ngày ngày viết, uống rượu, tiếp bạn bè dưới quán cà phê tầng trệt. Phản đối cả phát xít lẫn cộng sản, ông tuyên bố mình là người Công giáo và tham gia hoạt động chính trị theo đường hướng quân chủ, cụ thể là nỗ lực đưa Otto von Habsburg, cháu gọi hoàng đế cuối cùng là bác, trở lại ngai vàng. Năm 1938, khi nguy cơ Đức thôn tính Áo ngày càng gần, ông tới Áo với tư cách đại diện phe quân chủ, tìm cách thuyết phục chính phủ trao ghế thủ tướng cho Otto. Ông đi khỏi trong thất vọng khi thậm chí không được gặp mặt. Trở lại Paris, ông kêu gọi thành lập “Quân đoàn Áo” để giải phóng đất nước bằng vũ lực.
Cơ hội sang Mỹ từng đến, nhưng ông bỏ qua. Một người bạn lo lắng hỏi: “Sao anh uống nhiều thế?”, Roth đáp: “Anh nghĩ mình sẽ thoát sao? Anh rồi cũng sẽ bị cuốn đi thôi.” Ông mất tại một bệnh viện ở Paris năm 1939 sau nhiều ngày mê sảng vì delirium tremens. Lúc ấy ông mới bốn mươi bốn tuổi.
Dù thỉnh thoảng thử sức với truyện ngắn, danh tiếng của Roth trong thế giới nói tiếng Anh cho đến nay vẫn chủ yếu dựa vào các tiểu thuyết, đặc biệt là Hành khúc Radetzky. Chỉ đến năm 2001, những tác phẩm ngắn hơn của ông mới được dịch và xuất bản trong tuyển tập của Michael Hofmann, kèm phần giới thiệu trong đó Hofmann khẳng định rằng, ở thời điểm xuất sắc nhất, Roth có thể sánh ngang Anton Chekhov.
Tựa đề The Collected Stories of Joseph Roth (Tuyển truyện ngắn của Joseph Roth) nghe như một lời hứa- và là lời hứa rõ ràng: rằng độc giả sẽ được thưởng thức toàn bộ truyện ngắn của Roth. Nhưng “truyện” là gì? Thay vì tìm cách đưa ra tiêu chí hình thức - một việc bất khả - Hoffmann chọn cách định nghĩa phạm vi của mình là toàn bộ văn xuôi hư cấu của Roth, ngoại trừ tiểu thuyết. Trong các tập tương ứng của bộ Werke sáu quyển tiếng Đức do Fritz Hackert biên soạn, có mười tám tác phẩm hư cấu không được gắn nhãn Roman (tiểu thuyết). Tuyển truyện ngắn đó gồm mười bảy trong số mười tám tác phẩm này; nó không bận tâm tới việc một số tác phẩm trong đó thực ra không phải truyện ngắn đúng nghĩa với mở đầu, cao trào và kết thúc, mà chỉ là những mảnh rời của các dự án lớn bị bỏ dở; cũng không quan tâm tới việc bốn tác phẩm từng được xuất bản độc lập, hoặc khi Roth còn sống hay sau khi mất: Tháng tư: Một lịch sử tình (1925), Gương mù: Tiểu thuyết ngắn (1925), Huyền thoại tên bợm thần thánh (1939), và The Leviathan (in năm 1940, chỉ được phát hành vào năm 1945).
Tác phẩm thứ mười tám bị thiếu là Huyền thoại tên bợm thần thánh, được Hackert phân loại chính xác là Novelle - truyện vừa - không phải Roman. Lý do nó vắng mặt trong Tuyển truyện ngắn, như phần giới thiệu đã nói ngắn gọn, là vì bản dịch (cũng do Hofmann thực hiện) vốn đã có mặt trên thị trường. Do đó, The Collected Stories thực ra không hẳn là toàn bộ truyện ngắn; để đầy đủ, nó cần được bổ sung bằng Huyền thoại tên bợm thần thánh (London: Chatto & Windus, 1989) hoặc tuyển Phải và Trái và Huyền thoại tên bợm thần thánh (New York: Overlook Press, 1992).
Tác phẩm đầu tiên thực sự xuất sắc trong tuyển tập là Ông trưởng ga Fallmerayer. Fallmerayer là mẫu người điềm tĩnh, tự lập, kiểu nhân vật xuất hiện thường xuyên trong Roth, sống qua các cung bậc tình yêu, hôn nhân, làm cha mẹ một cách đầy bổn phận nhưng thiếu cảm xúc. Rồi định mệnh can thiệp. Có một vụ tai nạn tàu hỏa gần thị trấn tỉnh lẻ ở Áo nơi ông làm trưởng ga. Một hành khách, bá tước phu nhân Walewska, người Nga (một điểm gây khó chịu trong bản dịch là việc giữ nguyên cách phiên âm tiếng Nga theo chuẩn tiếng Đức), được đưa về nhà ông để hồi phục sau cú sốc. Khi bà đi khỏi, Fallmerayer nhận ra mình đã yêu bà.
Vài tháng sau - năm đó là 1914 - Áo và Nga lâm chiến. Fallmerayer ra chiến trường phía Đông, sống sót nhờ ý chí gặp lại vị bá tước phu nhân. Trong lúc rảnh ông tự học tiếng Nga. Một ngày, ông tình cờ đến gần điền trang của gia đình Walewski. Ông báo tin mình đến; ông và phu nhân trở thành tình nhân.
Nhưng thiên đường của họ sớm bị gián đoạn bởi Cách mạng Bolshevik. Fallmerayer cứu bà khỏi tay phe Đỏ và hộ tống bà vượt biển tới biệt thự Walewski ở Monte Carlo. Khi hạnh phúc tưởng chừng được đảm bảo, bá tước Walewski - người mà họ tưởng đã chết - bất ngờ xuất hiện. Già nua, tàn tật, ông yêu cầu được vợ chăm sóc. Người vợ không thể từ chối. Fallmerayer nhìn thấu tình thế và, không một lời, lặng lẽ đi khỏi. “Không ai nghe tin tức gì về ông nữa.”
Cảm quan của Roth về những gì có thể và không thể đạt được trong hình thức truyện ngắn là vô cùng chắc chắn. Dưới con mắt của một tiểu thuyết gia - chẳng hạn Tolstoy, người để lại ảnh hưởng rõ rệt không chỉ ở truyện này mà còn trong Hành khúc Radetzky vừa hoàn thành - chuỗi sự kiện từ lần gặp đầu tiên giữa ông trưởng ga và bá tước phu nhân cho đến sự trở lại của bá tước mới chỉ dừng ở việc dựng bối cảnh cho câu hỏi cốt lõi: một người Áo trung niên đã bỏ gia đình và quê hương để theo một người phụ nữ, giờ đây lạc lõng giữa châu Âu hậu chiến, sẽ làm gì với phần đời còn lại? Roth thậm chí không chạm đến câu hỏi đó. Không phủ nhận sức mạnh của tình yêu, kể cả thứ tình cuồng si, trong việc khiến con người trở nên toàn vẹn hơn, ông đưa Fallmerayer đến bờ vực của câu hỏi “rồi sao nữa?” và để mặc nhân vật đứng đó.
Tượng bán thân của Hoàng đế (1935) thuộc hẳn về giai đoạn bảo thủ cực đoan của Roth. Lấy bối cảnh Galicia ngay sau Thế chiến I, truyện xoay quanh bá tước Franz Xaver Morstin, một kẻ kiêu hùng lập dị, dù tài sản giờ thuộc về lãnh thổ Ba Lan, ông vẫn giữ bức tượng bán thân của hoàng đế Franz Joseph trước dinh thự và mặc quân phục sĩ quan kỵ binh Áo khi đi lại. Câu chuyện được kể qua lời một người dẫn chuyện ẩn danh, người xem việc của mình là ghi nhớ và vinh danh hành động phản kháng mờ nhạt nhưng kiên định ấy trước dòng chảy lịch sử.
Người kể không phí lời bày tỏ quan điểm về thời hiện đại. Trong thế kỷ XIX, ông chua chát nhận xét rằng người ta “phát hiện” ra mỗi cá nhân đều phải thuộc về một chủng tộc hay một quốc gia nhất định. “Tất cả những người trước đây chưa từng là gì ngoài việc là người Áo… bắt đầu, tuân theo ‘mệnh lệnh của thời đại’, tự nhận mình là người Ba Lan, Séc, Ukraina, Đức, Romania, Slovenia, Croatia.” Trong số ít người vẫn tự coi mình là “vượt lên trên quốc tịch” có bá tước Morstin.
Trước chiến tranh, bá tước từng có vai trò xã hội như một người trung gian giữa dân làng và bộ máy quan liêu nhà nước. Giờ đây, ông mất hết quyền lực và ảnh hưởng. Thế nhưng, dân làng - người Do Thái, Ba Lan, Ruthenia - vẫn kính trọng ông. Họ, theo lời người kể, đáng được ca ngợi vì đã kháng cự “những thất thường khó hiểu của lịch sử thế giới.” “Thế giới rộng lớn không khác mấy so với ngôi làng nhỏ Lopatyny như các lãnh tụ và những kẻ mị dân muốn chúng ta tin,” ông nói với giọng u ám.
Khi bị chính quyền Ba Lan mới yêu cầu dỡ bỏ tượng bán thân Hoàng đế, Morstin đích thân giám sát lễ an táng long trọng của nó. Sau đó ông lui về miền Nam nước Pháp sống nốt những năm cuối đời và viết hồi ký. “Ngôi nhà cũ của tôi, [tức là] đế quốc… là một ngôi nhà lớn có nhiều cửa và nhiều phòng dành cho nhiều kiểu người khác nhau,” ông viết. “Ngôi nhà đó đã bị chia cắt, tan nát, tàn phá. Tôi không dính dáng gì đến cái đang tồn tại ở đó. Tôi quen sống trong một ngôi nhà, chứ không phải trong những túp lều.”
Những tác phẩm như Tượng bán thân của Hoàng đế và Lăng mộ Hoàng đế mang tính bảo thủ không chỉ ở quan điểm chính trị mà còn ở kỹ thuật văn chương. Roth không phải là một nhà văn hiện đại chủ nghĩa. Một phần vì ý thức hệ, một phần vì tính khí, và một phần, thẳng thắn mà nói, vì ông không theo kịp các trào lưu văn học. Roth không đọc nhiều; ông thích trích dẫn Karl Kraus: “Một nhà văn mà dành thời gian đọc sách thì cũng như một anh bồi bàn dành thời gian ăn uống.”
The Leviathan lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Ở đây, Roth từ bỏ sự dè dặt về nguồn gốc Ostjude của mình. Lấy bối cảnh không phải Galicia mà là vùng Volhynia láng giềng thuộc Đế quốc Nga, truyện mang giọng điệu rộng mở, trữ tình, phong cách dân gian. Nhân vật trung tâm là người Do Thái Nissen Piczenik, sống bằng nghề bán chuỗi hạt san hô cho phụ nữ nông dân Ukraina nhưng chưa từng thấy biển. Trong đại dương tưởng tượng của ông, mọi sinh vật, kể cả san hô, đều được một quái vật huyền thoại - Leviathan trong Kinh Thánh - trông nom.
Piczenik kết bạn với một thủy thủ trẻ, bắt đầu đến quán rượu cùng anh ta và bỏ lỡ giờ cầu nguyện. Ông bỏ gia đình để đi Odessa với bạn mới và lưu lại nhiều tuần, bị mê hoặc bởi đời sống bến cảng.
Khi trở về, ông phát hiện mình đang mất khách hàng vào tay đối thủ bán hạt nhựa celluloid mới lạ. Bị cám dỗ, ông bắt đầu trộn hạt nhựa vào hàng san hô. Nhưng ngay cả vậy, vận may cũng không quay lại. Ông quyết định di cư. Trên đường sang Canada, con tàu của ông chìm. “Xin cho ông yên nghỉ bên cạnh Leviathan cho đến ngày Đấng Messiah đến,” là những dòng cuối cùng của câu chuyện Do Thái đậm màu sắc nhất của Roth.
Ông trưởng ga Fallmerayer, Tượng bán thân của Hoàng đế và The Leviathan là những tác phẩm thuộc giai đoạn chín muồi của Roth. Các tác phẩm trước đó trong Tuyển truyện ngắn là một mớ hỗn tạp gồm những truyện hiện thực tầm thường, thử nghiệm thất bại, và các mảnh rời bỏ dở. Trong số các truyện hoàn chỉnh của giai đoạn này, có hai truyện nổi bật. Trò xuất sắc (1916) là một màn chào sân đầy tự tin đáng kinh ngạc. Lấy bối cảnh một thị trấn nhỏ ở Áo-Đức, truyện dõi theo bằng con mắt châm biếm hành trình thăng tiến của Anton Wanzl, học sinh xuất sắc trong nhan đề, một kẻ sốt sắng, kỷ luật, khúm núm, mưu mẹo… hoàn hảo để leo lên trong bộ máy giáo dục quan liêu. Tuy nhiên, giống nhiều tác phẩm đầu tay khác, nó khởi đầu đầy ý tưởng và sinh lực, rồi mất phương hướng và tàn lụi.
Nhân vật Wanzl được “cứu vớt” và làm lại khoảng mười lăm năm sau trong một truyện ngắn ngôi thứ nhất có tên Tuổi trẻ. Người kể chuyện hiện lên như một kẻ lạnh lùng, hoài nghi, ham khoái cảm nhưng keo kiệt với cảm xúc của mình, xuất sắc trong học thuật văn chương nhưng xa lạ với những ham mê thôi thúc nên các tác phẩm lớn. Tuổi trẻ hầu như không cố gắng giả dạng tiểu thuyết: ta có cảm giác đang đọc một mẩu tự phân tích cay độc và chỉ được che đậy sơ sài của chính Roth.
Gương mù (1925) là câu chuyện về một cô gái công nhân tầng lớp lao động khá bình thường, mơ mộng, ngoan ngoãn, ngây thơ về tình dục, tên là Fini - một süße Mädel (cô gái ngọt ngào) theo cách nói của người Viên. Ở đây Roth nhại phong cách tiểu thuyết tình cảm ngắn, làm dịu chất siro sến súa bằng những nét mỉa mai và vài tia chớp thi ca đen tối. Fini làm việc trong một văn phòng ở thành phố và sống chen chúc cùng người mẹ hay hành hạ cùng người cha bị thương tật, giải ngũ khỏi quân đội. Cô bị một người đàn ông lớn tuổi hơn quyến rũ, rồi sớm nhận ra cái gọi là cuộc sống gần như vợ chồng thật tẻ nhạt, một gã tình nhân lười tắm, đi dép lê quanh nhà, quên cài khuy quần.
“Mỗi tuần một lần, hoặc có khi hai, họ quan hệ trên chiếc ghế sô-pha ở xưởng vẽ - một sự đầu hàng thảm hại, im lặng và kèm theo những giọt nước mắt âm thầm, như những bữa tiệc sinh nhật tuyệt vọng của một bệnh nhân giai đoạn cuối.”
Muộn màng, Fini mới tìm thấy tình yêu đích thực trong vòng tay một nhà cách mạng hào hoa. Khi người tình này biến mất, cô gieo mình xuống nước tự tử. Câu chuyện khép lại với hình hài cô nằm trên bàn mổ xác của một trường y - một sự pha trộn không yên ổn giữa nhại, tình cảm và hiện thực đô thị.
Trong những bức thư của thập niên 1920, Roth liên tục nhắc tới một cuốn tiểu thuyết quy mô lớn mà ông đang viết. Cuốn tiểu thuyết đó rốt cuộc không bao giờ hoàn thành; tất tật những gì còn lại là hai mảnh rời, được in lại ở đây - chuỗi giai thoại, mang tính huyễn tưởng và điểm xuyết những hình ảnh nổi bật, dựa trên tuổi thơ của ông ở Galicia. Sau này Roth sẽ chuyển chất liệu đó sang một tông màu tối hơn và sử dụng nó trong một tiểu thuyết ngắn đầy sức mạnh, Das falsche Gewicht (Sai trọng lượng, bản tiếng Anh là Weights and Measures), một tác phẩm khác cũng viết về một người đàn ông tìm thấy tình yêu quá muộn để kịp hưởng trọn.
Michael Hofmann từng dịch Roth trước đây và đã đoạt giải thưởng cho các bản dịch của mình. Tiếng Anh của Hofmann biểu đạt cân bằng và chính xác chẳng kém gì tiếng Đức của Roth khi ông ở phong độ cao nhất. Tuy nhiên, Roth không phải lúc nào cũng viết đạt tới phong độ ấy, và cách Hofmann xử lý những đoạn Roth kém xuất sắc lại là điều đáng lo ngại.
Trong The Leviathan, chẳng hạn, Roth miêu tả bộ đồ ngủ ban đêm của vợ thương nhân san hô Piczenik: “một chiếc áo ngủ dài, rắc rải vài đốm đen không đều, bằng chứng về sự hiện diện của bọ chét”. Hofmann cô đọng lại thành “một chiếc áo ngủ dài lấm tấm bọ chét” (long flea-spotted nightgown). Cũng trong truyện này, Roth miêu tả cảnh Piczenik được khách hàng chào đón: “với những cái ôm và những nụ hôn, vừa cười vừa khóc, như thể trong ông họ tìm lại được một người bạn đã nhiều thập kỷ không gặp và luôn luôn nhớ thương”. Trong bản dịch của Hofmann, câu đó trở thành: “với những cái ôm và những nụ hôn, như một người bạn thất lạc từ lâu”.
Trong cả hai trường hợp, Hofmann dường như đã quyết định rằng ông có thể diễn đạt ý của Roth tốt hơn bằng cách viết lại hoặc rút gọn văn bản thay vì dịch từng từ. Nhưng nhiệm vụ của dịch giả có phải là dạy tác giả tiết kiệm câu chữ không?
Đôi khi Hofmann còn “cải thiện” Roth tới mức gần như viết lại ông. Trong bản dịch của Hofmann, ta đọc thấy cảnh một đôi samovar bằng đồng đỏ “được ánh hoàng hôn đánh bóng” (burnished by the setting sun). Từ “burnish” nghĩa là đánh bóng kim loại để làm nó sáng lên. Bên trong từ này, một cách ngẫu nhiên thú vị về ngôn ngữ, còn chứa gốc “burn” (đốt cháy) - đồng đỏ sáng lên dường như vì sức nóng cháy bỏng của mặt trời. Mọi phản đối rằng tiếng Anh “burnish” bắt nguồn từ tiếng Pháp “brunir” (đánh bóng), vốn chẳng liên quan gì tới “burn”, có thể bị gạt sang một bên, vì hóa ra các từ bắt nguồn từ “burn-” và “brun-” vốn đan xen từ ngữ hệ Ấn-Âu xa xưa. Vấn đề duy nhất là: tất tật sự khéo léo ngôn từ này hoàn toàn không tồn tại trong Roth, bởi trong tiếng Đức của ông, mặt trời chỉ đơn thuần “phản chiếu” (spiegelte sich) trên samovar.
Đôi lúc Hofmann như muốn đẩy Roth theo một hướng mà thực ra ông không hề đi: áp lực của những ngón tay một người đàn ông trên cánh tay cô gái trở thành “mãnh liệt” (insistent) trong bản dịch, trong khi nguyên tác chỉ đơn giản là “mềm” (soft). Ngược lại, có khi ông bỏ sót một nhấn mạnh quan trọng. Với người kể chuyện trong Tượng bán thân của Hoàng đế, thế hệ nắm quyền ở châu Âu sau năm 1918 đã đủ tệ, nhưng vẫn chưa tệ bằng (trong bản Hofmann) “những kẻ kế vị còn tiến bộ hơn và sát nhân hơn” (the still more progressive and murderous inheritors), rõ ràng ám chỉ Mussolini, Hitler và đồng bọn. Nhưng làm sao có thể gọi phát xít là “tiến bộ”? Trong tiếng Đức, từ ông dùng là “moderneren” (hiện đại hơn): với Roth ở giai đoạn cuối đời, đường lối “hiện đại” đã khai sinh ra quốc gia-dân tộc châu Âu cũng chính là thứ hợp thức hóa hận thù sắc tộc, đẩy châu Âu tới thảm họa.
Hofmann là người Anh, và đôi khi ông dùng những lối nói thuần Anh mà độc giả Mỹ có thể khó hiểu. Một chàng trai định “see off” (đuổi đi) tình địch tranh giành tình cảm của một cô gái. Một cô hỏi cô khác đã “been poorly” chưa (tức là có kinh nguyệt chưa). Ai đó “havers” (do dự) ở cửa bệnh viện. Cũng có lý khi lập luận rằng dịch giả nên dịch sang thứ tiếng Anh mà mình sử dụng thành thạo và sống động nhất; nhưng ngược lại, cũng có lý khi cho rằng nên dùng một thứ tiếng Anh trung tính nhất có thể, kiểu “giữa Đại Tây Dương” (mid-Atlantic) để ai cũng hiểu được.
Xuân Tín dịch