favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Hạ 2025
Next

Cioran người định mệnh

17/08/2025 16:25

Cioran viết về định mệnh: sự tỉnh lẻ hết thuốc chữa của Châu Âu, về Nga, Tây Ban Nha và Rumani. 

Một văn minh hụt hơi

- Cioran

Người thuộc về, thuộc một cách hữu cơ, vào một nền văn minh thì không thể nhìn ra bản tính của căn bệnh đang gặm nhấm nó. Chẩn đoán của anh ta chẳng có giá trị gì; đánh giá anh ta đưa ra chỉ phản ánh chính anh ta; vì vị kỷ, anh ta tha thứ cho nền văn minh ấy.

Không bị ràng buộc, không thiên lệch, kẻ ngoại cuộc quan sát nó không toan tính và nhờ đó thấy rõ hơn những thất bại của nó. Nếu nó đang suy tàn, y sẽ chấp nhận, nếu cần, suy tàn theo - để thấy được trên chính nó và trên chính mình các dấu hiệu của định mệnh. Về phương thuốc: y chẳng có, cũng chẳng đề xuất. Bởi y biết chẳng thể nào chữa được số phận và không dám tự xưng là người cứu chữa. Tham vọng duy nhất của y: cùng nhịp với cái Không Thể Chữa.

*

Trước cảnh tượng thành công dồn dập của mình, các quốc gia phương Tây chẳng mấy khó khăn trong việc tán dương lịch sử, gán cho nó một ý nghĩa và một cứu cánh. Lịch sử thuộc về họ, họ là chủ thể hành động của nó: thế thì lẽ dĩ nhiên nó phải đi theo một lộ trình hợp lý… Vậy là họ đặt nó dưới sự bảo trợ lần lượt của Thượng đế Quan phòng, của Lý trí và Tiến bộ. Điều họ thiếu là cảm giác về định mệnh - mà rốt cuộc họ cũng đang bắt đầu học được - khi bị ngợp bởi nỗi trống rỗng đang rình chực, bởi viễn cảnh mờ nhòe. Từ vị thế chủ thể, họ đã trở thành đối tượng - vĩnh viễn mất hào quang, mất đi ảo tưởng vĩ đại từng che chở họ khỏi cái không thể cứu vãn. Họ đã ý thức điều đó đến độ có thể đo sự ngu xuẩn của một đầu óc bằng mức bám víu của nó vào sự kiện. Cũng phải thôi: làm sao tôn thờ sự kiện được, khi sự kiện giờ xảy ra ở nơi khác? Người ta chỉ tôn sùng sự kiện khi còn nắm thế chủ động. Nhưng một khi vẫn còn trĩu ký ức về một thời thượng tôn, người ta vẫn mơ đến việc vượt trội - dẫu chỉ trong hỗn loạn.

Pháp, Anh, Đức - thời kỳ bành trướng và điên của họ đã ở phía sau. Kế đến là hồi kết của điên, là khởi đầu của những cuộc chiến phòng vệ. Không còn những cuộc thập tự chinh tập thể, không còn công dân, chỉ còn những cá nhân xanh xao vỡ mộng, vẫn sẵn sàng đáp lại một lời triệu phi lai, miễn là nó phát ra từ nơi khác, miễn là họ không phải tự dựng ra nó. Nếu xưa kia họ từng chết cho phi lý của vinh quang thì nay họ đắm mình trong cơn sốt của những đòi hỏi nhỏ nhặt. “Hạnh phúc” dụ họ - ấy là định kiến cuối cùng của họ; Marxism - tội lỗi của chủ nghĩa lạc quan - rút năng lượng chính từ đó. Tự bịt mắt, tự phục tùng, tự dâng mình cho sự nực cười hay ngu ngốc của một lý tưởng - những điều phi thường ấy giờ họ chẳng còn làm được nữa. Khi một quốc gia bắt đầu già cỗi, nó sẽ hướng về tình trạng quần chúng. Dù có đến một nghìn Napoléon, nó vẫn từ chối đánh đổi sự yên ổn của mình hay của các quốc gia khác. Phản xạ mòn mỏi - nó còn có thể gây sợ hãi cho ai, và bằng cách nào đây? Nếu mọi dân tộc đạt đến cùng mức độ hóa thạch, hay cùng mức độ hèn nhát, thì việc đạt đồng thuận sẽ thật dễ dàng: bất ổn sẽ nhường chỗ cho sự trường tồn của một hiệp ước hèn nhát… Nhưng đặt cược vào việc mọi tham vọng hiếu chiến sẽ biến mất, tin vào sự già cỗi phổ quát hay vào một chuyện tình tập thể - ấy là nhìn quá xa, quá viển vông: phi lai là chứng viễn thị của các dân tộc già nua. Còn các dân tộc trẻ thì khinh miệt viễn tượng mơ hồ ấy; họ nhìn mọi thứ từ điểm nhìn của hành động: viễn tượng của họ tỷ lệ thuận với công cuộc họ theo đuổi. Họ hy sinh tiện nghi cho phiêu lưu, hạnh phúc cho hiệu quả, và không chấp nhận sự chính đáng của những ý mâu thuẫn hay sự đồng tồn tại của các lập trường đối kháng: mục tiêu của họ là làm vơi bớt hoang mang bằng khủng bố, củng cố bằng cách đánh sập. Tất cả thành công của họ xuất phát từ sự dã man, bởi quan trọng với họ không phải là giấc mơ mà là năng lượng. Nếu họ nghiêng về một ý luận, thì đó là ý luận nào có thể khơi bùng cơn thịnh nộ của họ, khai thác triệt để cái vốn man rợ, và khiến họ luôn trong cảnh giác. Trái lại, khi những quốc gia già cỗi tiếp nhận một ý luận, nó sẽ làm họ tê liệt - dẫu vẫn duy trì một cơn sốt nhẹ, đủ để tin mình vẫn đang sống theo một nghĩa nào đó: một hồi ảo tưởng đau đau…

*

Một nền văn minh chỉ thực sự tồn tại và khẳng định mình qua những hành vi khiêu khích. Một khi bắt đầu lắng xuống, nó liền rệu rã. Những thời khắc đỉnh cao của nó cũng là những thời khắc dữ dội nhất, khi thay vì giữ gìn sinh lực, nó lại phung phí. Khao khát được kiệt sức, nước Pháp đã chuyên chú vào việc tự hao mòn mình - và đã thành công, nhờ vào lòng kiêu hãnh, vào nhiệt thành hiếu chiến (trong vòng một nghìn năm, có nước nào gây chiến nhiều hơn?) Mặc cho ý thức về cân bằng - ngay cả những thái quá của nàng cũng là những thái quá may mắn - nàng chỉ có thể đạt đến quyền lực tối cao bằng cách hy sinh phần cốt tủy. Tự hủy diệt mình: đó đã trở thành một vấn đề danh dự. Say mê những công thức bùng nổ của huyên náo ý luận, nước Pháp đã đem thiên tài và sự phù phiếm của mình phụng sự cho mọi sự kiện suốt mười thế kỷ qua. Từng là một ngôi sao, giờ nàng trở nên cam chịu, sợ hãi, ngẫm nghĩ về những nuối tiếc và bất an của mình, rút khỏi hào quang và quá khứ. Nàng trốn chạy gương mặt mình, run rẩy trước gương… Những nếp nhăn của một dân tộc hiện rõ chẳng kém gì một cá nhân.

Khi đã làm ra một cuộc cách mạng vĩ đại, người ta không thể phát động thêm một cuộc tương đương. Khi từng là người phán quyết cái gì là đẹp để rồi đánh mất địa vị ấy, người ta không tìm cách giành lại. Khao khát ẩn danh tức là đã mỏi mệt vì phải làm hình mẫu, vì bị noi theo: vậy thì còn giữ một salon tiêu khiển cho thiên hạ để làm gì?

Nước Pháp hiểu quá rõ những sự thật hiển nhiên ấy. Một quốc gia của điệu bộ, một dân tộc sân khấu, nàng yêu diễn xuất chẳng kém yêu khán giả. Nhưng giờ mệt, nàng chỉ muốn rút lui. Pháp không còn mưu cầu điều gì nữa - ngoài decors của lãng quên.

Nước Pháp đã dùng cạn cảm hứng và tài năng của mình: điều đó chẳng còn gì phải nghi ngờ; nhưng vì thế mà trách cứ nàng thì thật bất công - chẳng khác nào trách nàng vì đã hiện thực và hoàn tất chính mình. Những phẩm chất từng khiến nàng trở thành một quốc gia đặc tuyển - nàng đã vận chúng đến kiệt cùng vì sự văn minh hóa quá mức, vì phát triển, và đâu phải vì thiếu rèn luyện mà tài năng nàng phai nhạt. Nếu khái niệm sống tốt (nỗi ám ảnh của mọi thời kỳ suy tàn) giờ chiếm trọn tâm trí nàng, thì ấy là bởi nàng đã không còn gì ngoài cái tên của một tập hợp cá nhân, một xã hội chứ không còn là một ý chí lịch sử. Nỗi chán ghét của nàng với những khát vọng phổ quát đã đến mức mà chỉ phép màu mới có thể cứu nàng khỏi một định mệnh tỉnh lẻ.

Từ khi từ bỏ các mưu đồ chinh phục và bá quyền, nước Pháp bị gặm mòn bởi hoài nhớ - nỗi u uất tràn lan. Tai ương của những quốc gia lâm vào thế thủ, nó làm tiêu tan sinh lực của họ; thay vì tự bảo vệ, họ cam chịu, quen dần với nó đến mức chẳng thể sống thiếu. Giữa sống và chết, họ luôn tìm đủ khoảng trống để tránh cả hai: trốn sống, trốn chết. Mắc một chứng mộng du tỉnh, họ mơ về một status quo vĩnh viễn - vậy thì làm sao còn đủ sức phản kháng bóng tối đang vây bủa hay sự trỗi dậy của những nền văn minh đục mờ?

*

Muốn biết một dân tộc từng là gì và vì sao nó không còn xứng với quá khứ của mình, ta chỉ cần nhìn những gương mặt từng in dấu lên nó. Nước Anh từng là gì, chỉ cần nhìn chân dung các vĩ nhân. Muốn bị ngợp, hãy đến National Gallery mà chiêm ngưỡng những gương mặt nam tính ấy - có khi rất thanh tú, nhưng phần lớn là quái dị - năng lượng chúng tỏa ra, sự độc đáo từng đường nét, ánh nhìn kiêu hãnh và vững chãi! Người Anh ngày nay xa lạ với những hình tượng đó như người Hy Lạp thời đế quốc xa lạ với Aeschylus. Trong họ chẳng còn gì của thời Elizabeth: chút “tính cách” còn sót lại chỉ để níu lấy vẻ ngoài. Người ta luôn phải trả giá đắt khi coi “văn minh” là nghiêm túc, khi tọng nó đến thừa mứa.

Ai là kẻ dựng nên đế quốc? Là những kẻ phiêu lưu, hung bạo, vô lại - bất kỳ ai không mang định kiến về cái gọi là “con người.” Cuối thời trung cổ, nước Anh tràn đầy sinh lực, dữ dội và u uất: chẳng thứ danh dự nào có thể cản được ham muốn bành trướng của nàng. Từ nàng phát ra u sầu của sức mạnh - thứ đặc trưng nơi các nhân vật Shakespeare. Những hoài nghi của Hamlet không hề làm suy yếu nhiệt năng của hắn. Lương tâm áy náy ư? Hắn tự khơi động nó bằng một cuồng hoan năng lượng, một cơn khát thành tựu, một ý chí căng thẳng và bệnh không bao giờ kiệt: chẳng kẻ nào hào phóng hơn trong việc ban phát nỗi dằn vặt cho chính mình. Những âu lo tráng lệ làm sao! Người Anh nào hôm nay còn có thể nâng mình đến mức đó? Mà có ai còn cố gắng không? Suốt hai thế kỷ qua, lý tưởng Anh là hành vi đúng mực, con người comme il faut - và họ đã suýt làm được đúng như thế. Sự thiếu tầm thường ở một số tầng lớp đã đạt đến mức đáng lo ngại: ở Anh, sự vắng mặt của cá tính đã trở thành mệnh lệnh: khiến người khác phải ngáp dài là luật bất di bất dịch. Chỉ bằng cường độ của sự xuất sắc lẫn vô vị, người Anh đã càng ngày càng trở nên không thể thâm nhập và khiến chúng ta phải ngượng trước bí ẩn ta cứ gán cho hắn, bất chấp mọi bằng chứng cãi lại cái đó.

Phản ứng cự lại chính độ sâu và hành xử quá khứ của mình, bị kìm kẹp bởi sự căn cơ và dè dặt, hắn đã tỉa tót một bộ quy tắc ứng xử ngăn hắn - không thể khác - khỏi thiên tài của chính mình. Còn đâu những trưng bày hauteur và ngạo nghễ xa xưa? Lãng mạn là cú vớt vát cuối cùng của kiêu ngạo. Kể từ đó, thận trọng và đầy mình phẩm chất, hắn đã để di sản hoài nghi và láo xược mà ta tưởng đâu đã lụi không còn gì. Ta cứ tìm miết những dấu vết kẻ man dã: những bản năng bị sự đứng đắn bóp nghẹt. Thay vì cổ vũ những điên rồ của hắn, các triết gia Anh lại đẩy thẳng hắn tới ngõ cụt của hạnh phúc. Đã bị định là phải hạnh phúc, thế là hắn hạnh phúc thật. Và hạnh phúc của hắn, được miễn khỏi sự đầy tràn, khỏi rủi ro và bất cứ manh nha bi kịch nào, đã trở thành sự tầm thường bao kín: ở đó, hắn sẽ sung sướng mãi mãi. Có gì lạ đâu nếu hắn trở thành vật cưng của người miền Bắc, một hình mẫu, một lý tưởng đối với các Viking đã bạc nhược. Chừng nào người Anh còn mạnh, hắn còn bị căm ghét và sợ hãi; giờ hắn được hiểu và sớm thôi sẽ được yêu… Hắn chẳng còn là ác mộng với bất kỳ ai. Cực đoan, điên loạn - hắn đã tự bảo vệ mình rất kỹ trước cái đó - mà giờ hắn chỉ thấy là lệch chuẩn, là thiếu lịch sự. Sao mà khác thế, những điên cuồng trước kia và chuẩn chỉ bây giờ! Chỉ bằng cách tự gọt mình đi, một đất nước mới trở thành bình thường được.

*

“Ngay khi mặt trời và mặt trăng nổi nghi ngờ, chúng sẽ lụi” (Blake). Châu Âu đã nghi ngờ lâu lắm rồi… và nếu sự lụi tàn của nó làm chúng ta băn khoăn thì người Mỹ và người Nga lại lấy đó làm thích thú.

Nước Mỹ đứng trước thế giới: một trống rỗng chộn rộn, một định mệnh không chất. Chẳng gì chuẩn bị nàng cho thế bá quyền; vậy nhưng nàng cứ trôi về đó, không phải là không ngần ngại. Không giống những quốc gia từng phải chịu thất bại và tủi nhục, cho đến giờ nàng đã chỉ biết sự khô cằn của một vận may không đứt đoạn. Nếu sau này mọi thứ cứ tuần tự mãi thế, hiện diện của nàng sẽ chỉ là một ngẫu nhĩ không tạo ra điều gì. Những kẻ lèo lái số phận nàng, những kẻ hết lòng với lợi ích của nàng nên chuẩn bị cho những thời kỳ đen tối; để không còn là một thứ quái vật hời hợt, nàng cần một thử thách đủ tầm vóc. Có lẽ chẳng còn xa đâu. Cho đến giờ vẫn bập bềnh bên ngoài địa ngục, nàng đã chuẩn bị nhảy thẳng vào đó. Nếu chủ ý đi tìm một định mệnh, nàng sẽ chỉ tìm thấy nó trong sự sụp đổ tất cả những gì là raison d’etre của nàng.

Còn nước Nga, kẻ nào có thể chiêm ngưỡng quá khứ của nàng mà không rùng mình - một frisson bậc nhất. Một quá khứ nhạt nhòa đầy những trông chờ và âu lo thập thùng dưới lòng đất - quá khứ của những con chuột chũi được linh ứng. Sự bùng nổ của người Nga sẽ làm các quốc gia run rẩy; họ đã đưa cái Tuyệt đối vào chính trị. Đó là thử thách họ quăng vào nhân tính bị gặm nhấm bởi hoài nghi, và họ sẽ không ngại giáng cho nhân tính ấy một coup de grace. Chúng ta không còn nhiều tâm hồn chứ gì, họ có thừa để chia cho. Gần gũi nguồn gốc của mình, gần vũ trụ tình cảm, nơi tinh thần vẫn bám chặt vào đất, vào thịt da và máu, họ cảm thấy những gì họ nghĩ; các sự thật của họ - cũng như các sai lầm của họ - là cảm giác, thể động, xung động. Nói cho đúng, họ không nghĩ, họ phát nổ. Vẫn ở giai đoạn mà trí tuệ còn chưa làm suy yếu hay triệt tiêu những ám ảnh, họ mù tịt về tác động tai hại của suy tư cũng như những cõi tận cùng của ý thức, nơi con người bị bứng rễ và mất máu. Thế nên họ có thể khởi hành với hồn nhiên bình thản. Có gì phải đối mặt ngoài một thế giới hạch bạch huyết? Chẳng có gì cản họ, họ chẳng sợ va phải bất cứ thứ gì còn sống: chẳng phải chính người Nga đã, giữa thế kỷ XIX, gọi phương Tây là “nghĩa địa” - và họ là người đầu tiên gọi ra được điều đó - ư? Sớm thôi, họ sẽ rầm rập đến viếng các tàn tích. Bước chân của họ, những thuận phong nhĩ đã nghe thấy. Cản làm sao những mê tín đang tràn tới ấy - bằng cái bóng mờ của xác tín ư?

Kể từ Khai sáng, châu Âu đã không ngừng bào mòn các thần tượng của mình dưới danh nghĩa khoan dung: chừng nào còn hùng mạnh, nàng còn tin vào cái ý ấy và chiến đấu để bảo vệ nó. Cả những nghi ngờ của nàng cũng vẫn là xác tín cải trang; vì chúng xác nhận sức mạnh của nàng, nàng có quyền nói nhân danh chúng và phương tiện để áp đặt chúng; giờ thì chúng đã chỉ còn là các triệu chứng kiệt quệ, những giãy đạp mơ hồ của một bản năng suy mòn. 

Sự phá hủy các thần tượng đi cùng sự phá hủy các định kiến. Nhưng định kiến - các hư cấu organic của một nền văn minh - là thứ đảm bảo cho sự trường tồn của nó, cái mặt của nó. Nó phải tôn trọng chúng: nếu không phải tất cả thì ít nhất cũng là những định kiến của riêng nó và từng có tầm quan trọng của một mê tín, một nghi lễ. Nếu một văn minh coi các định kiến hoàn toàn chỉ là quy ước, nó sẽ dần cởi mình khỏi đó mà không cố tìm cái gì khác để choàng vào. Còn nếu nó tôn thờ sự tùy hứng, tự do, cá nhân thì sao? Chỉ là một sự quy thuận của tầng lớp cao, không hơn. Một khi nó ngừng quy thuận, cả sự tùy hứng, tự do, cá nhân cũng chỉ còn là những danh từ rỗng.

Nếu người ta muốn ở trong lịch sử, một liều lượng không ý thức tối thiểu là cần thiết. Hành động là một chuyện, biết mình đang hành động là chuyện khác. Khi sự sáng suốt soi vào hành động, thấm vào trong đó, hành động sẽ bị phá rời, cùng với đó là định kiến - chức năng của nó vốn là ép ý thức làm nô lệ cho hành động. Kẻ lột mặt nạ các hư cấu của mình cũng từ bỏ chính năng lực và - theo nghĩa nào đó - chính mình. Hắn sẽ chấp nhận những hư cấu khác, những thứ phủ nhận hắn vì không sinh ra từ các tầng sâu của hắn. Chẳng con người nào, nếu còn quan tâm đến sự cân bằng tỉnh táo của mình, có thể vượt một ngưỡng nhất định của sự sáng suốt và phân tích. Điều này còn đúng hơn đối với một nền văn minh: nó chao đảo ngay khi lột trần những sai lầm đã đưa tới sự lớn mạnh và lấp lánh của nó, ngay khi nó đặt câu hỏi về các sự thật của chính nó!

Người ta không thể lạm dụng năng lực hoài nghi của mình mà không phải trả giá. Khi kẻ hoài nghi không còn rút được bất cứ phẩm chất tích cực nào từ các vấn đề và truy vấn, hắn tiến đến kết cục của mình. Thực tế là hắn chạy bổ vào đó: những người khác cứ việc quyết định thay các băn khoăn cho hắn, cứ để ai đó khác giúp hắn gục ngã! Chẳng còn biết phải làm gì với những hoang mang và tự do của mình, hắn âu sầu hoài nhớ người đao phủ, có khi còn rên rỉ trông chờ. Những người chẳng tìm ra câu trả lời cho bất cứ điều gì giỏi chịu đựng bạo quyền hơn kẻ đã tìm ra câu trả lời cho mọi thứ. Thế nên đến khi phải chết, tài tử bao giờ cũng ít rên hơn cuồng tín. Trong Cách mạng [Pháp], không ít ci-devant [quý tộc cũ] bước lên máy chém với nụ cười trên môi, trong khi cách Jacobin, đến lượt mình, lại mang bộ mặt âu sầu: họ chết nhân danh một sự thật, một định kiến. Ngày nay nhìn đâu cũng chỉ toàn sự thật ersatz, định kiến ersatz; những người còn chẳng có đến cái ersatz này có vẻ thanh thản hơn, nhưng nụ cười của họ máy móc: ánh xạ nghèo nàn của sự tao nhã…

  *

Cả Nga lẫn Mỹ đều không đủ trưởng thành, cũng không đủ suy đồi về trí tuệ để “cứu” châu Âu hay phục hồi nàng khỏi suy tàn. Nước Đức, bị nhiễm độc theo cách khác, đáng lẽ có thể cho nàng một vẻ bền lâu, một ánh ỏi tương lai. Nhưng các nhà đế quốc nhân danh một giấc mơ con và một ý luận thù nghịch với mọi giá trị Phục hưng ấy đã thi hành ngược sứ mệnh của mình và làm hỏng hết. Được đặt vào thế kiểm soát Lục địa, cho nó một tầm vóc dù chỉ trong vài thế hệ (thế kỷ hai mươi đã có thể là Đức theo cách thế kỷ mười tám là Pháp), họ lại dở hơi vụng về để rồi chỉ đẩy thẳng nó đến rơi tự do. Làm cho nó lật nhào chưa đủ, họ còn dâng nó cho Nga và Mỹ, vì chính nhân danh hai nước này mà Đức đã chiến đấu huy hoàng và sụp đổ huy hoàng. Anh hùng vì lợi ích kẻ khác, tác giả của một thứ hỗn độn bi thảm, họ thất bại trong nhiệm vụ của mình, sứ mệnh đích thực của mình. Sau khi đã suy tư và gò ra các chủ đề của thế giới hiện đại, đã đẻ ra một Hegel, một Marx, nghĩa vụ của họ là phải rèn mình theo một ý phổ quát, chứ không phải một viễn tượng bộ lạc. Thế nhưng viễn tượng quái đản ấy cũng là một biện hộ cho họ: chẳng phải nó cho thấy cả phương Tây chỉ còn họ là giữ được vài mảnh của năng lượng và man dã ư? Chẳng phải từng có lúc trông họ như thể vẫn còn khả năng cho một đồ án lớn hay một cơn điên thực sự mãnh liệt ư? Nhưng giờ ta đã biết rằng họ chẳng còn ham muốn hay năng lực để dấn mình vào những phiêu lưu mới, rằng sự kiêu ngạo của họ - đã mất nhuệ khí - đang trở nên bạc nhược như chính họ, và rằng đến lượt mình lại bị quyến rũ bởi sự rời rã, họ sẽ góp phần khiêm tốn của mình vào sự sụp đổ chung.

Như hiện tại, phương Tây sẽ không trụ được mãi: nó đang chuẩn bị cho kết cục của mình, dù trước mặt vẫn còn một chuỗi bất ngờ… Hãy nghĩ xem nó từng ra sao từ thế kỷ thứ năm đến thế kỷ thứ mười! Một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều đang chờ đợi nó; một phong cách khác sẽ xuất hiện, những dân tộc mới sẽ hình thành. Tạm thời, ta hãy hình dung sự hỗn loạn. Đa phần chúng ta đã cam chịu nó. Nhân danh Lịch sử, ta kêu gọi nó chỉ để gục dưới tay nó; ta thoái vị nhân danh tương lai, và trong một nhu cầu hy vọng chống lại chính mình, ta mơ đến việc bị tràn qua, bị giày xéo, được “cứu rỗi”… Một cảm giác tương tự từng dẫn Thế giới Cổ đại đến tự sát - chính là lời hứa Kitô giáo.

Kẻ trí thức mỏi mệt là kết tinh những dị dạng và thói tật của một thế giới trôi dạt. Hắn không hành động mà chịu đựng; kể cả nếu hắn có tán thành ý niệm khoan dung thì cũng chẳng tìm được ở đó liều kích thích mình cần. Chỉ bạo quyền mới đem lại cái đó - cũng như các giáo thuyết sinh ra từ nó. Nếu là nạn nhân đầu tiên của bạo quyền, hắn sẽ không than: chỉ có sức mạnh nghiền hắn thành bụi mới quyến rũ hắn. Muốn được tự do tức là muốn được là chính mình, nhưng hắn đã mệt mỏi vì phải là chính mình, vì phải lần đường trong bất định, phải loạng choạng đi qua các sự thật. “Hãy trói tôi bằng xiềng xích của Ảo tưởng,” hắn thở dài, ngay khi đang từ biệt những viễn hành của Tri thức. Và hắn lao mình, mắt nhắm tịt, vào bất cứ huyền thoại nào có thể hứa hẹn cho hắn sự bảo hộ và bình yên của ách thống trị. Từ chối vinh dự của việc mang lấy bất an, hắn dấn vào những công cuộc mà hắn hy vọng sẽ đem đến những kích thích không thể tự tìm thấy từ mình - để rồi chính những thái quá của cơn mỏi mệt lại xác nhận bạo quyền. Giáo hội, ý luận, cảnh sát - hãy tìm nguồn gốc của chúng không phải trong sự ngu xuẩn của đám đông, mà trong nỗi ghê tởm của kẻ trí thức đối với chính sự sáng suốt. Chính kẻ yếu đuối ấy, nhân danh một thứ phi lai không ánh sáng, biến mình thành kẻ đào mồ cho trí tuệ; tin rằng mình đang làm điều gì hữu ích, hắn đem đánh đĩ mệnh lệnh “abêtissez-vous” [tự làm ngu mình đi] của Pascal xưa kia, công cụ bi kịch của con người đơn độc. 

Một kẻ bài tượng thất trận, hết sạch ảo tưởng với nghịch lý và khiêu khích, giờ đi tìm sự nhạt nhòa và nề nếp, nửa thân đã quỳ rạp, sẵn sàng tiếp nhận khuôn mẫu, trí thức mỏi mệt từ bỏ tính đơn nhất của mình và hòa vào đám đông. Không còn gì để lật đổ nữa ngoài chính hắn: thần tượng cuối cùng cần bị đập vỡ… Và chính những mảnh vụn của mình lại mê hoặc hắn. Nhìn ngắm chúng, hắn bắt đầu nặn hình cho những vị thần mới hoặc phục hồi các thần xưa bằng cách báp têm chúng với những tên mới. Không còn đủ sức gìn giữ phẩm giá kén chọn, ngày càng ít thiết tha sàng lọc, hắn chấp nhận những gì được dọn sẵn. Là sản phẩm phụ của chính cái tôi ngày xưa, hắn tiếp tục bước đi - kẻ phá hủy héo mòn - rạp mình trước các bàn thờ, hay trước bất kỳ thứ gì thay thế chúng. Trong đền thờ hay trên pháp đình, chỗ của hắn là nơi có tiếng hát, hay tiếng gào - nơi không còn cơ hội nào để nghe thấy giọng mình. Một trò nhại lòng tin ư? Thế nào mà chả thế, giờ hắn chỉ cầu sao cho đừng phải làm mình nữa. Toàn bộ triết lý của hắn kết thúc trong một điệp khúc, toàn bộ kiêu ngạo của hắn đắm vào một Hosanna!

Cũng cần phải công bằng: với hoàn cảnh hiện giờ, hắn còn có thể làm gì khác? Sự quyến rũ, độc đáo của châu Âu từng nằm ở sự sắc bén của tinh thần phê phán, ở sự hoài nghi chiến đấu hừng hực, và hoài nghi ấy đã đến hồi tàn. Thế nên kẻ trí thức, lâm vào ngõ cụt trong những hoài nghi của mình, tìm đến sự bù đắp nơi giáo điều. Ngay khi chạm đến giới hạn của phân tích, bị đánh gục bởi sự trống rỗng phát hiện ở đó, hắn quay ngoắt và cố níu lấy bất kỳ sự chắc chắn nào vụt qua, nhưng lại không còn đủ ngây thơ để bám vào đó. Từ nay về sau, một kẻ cuồng tín không lòng tin, hắn chỉ còn là một nhà ý luận - một kẻ suy nghĩ lai tạp, như vẫn thường thấy trong mọi thời kỳ quá độ. Tham dự vào hai phong cách khác nhau, hắn, bằng hình thức của trí tuệ mình, là phụ lưu của cái đang biến mất; còn bằng những ý mà hắn bênh vực, hắn là kẻ thuộc về cái đang hiện ra. Muốn hiểu rõ hắn hơn, hãy hình dung một Augustin chưa hoàn toàn cải đạo, trôi nổi và lảo đảo, chỉ mượn từ Kitô giáo mỗi mối căm ghét thế giới cổ đại. Chẳng phải chúng ta đang sống trong một thời kỳ đối xứng với thời kỳ đã làm sinh ra Thành phố của Chúa đó sao? Thật khó mà hình dung một cuốn sách nào đúng lúc hơn. Giờ, cũng như lúc ấy, tinh thần con người cần một sự thật giản đơn, một câu trả lời có thể giải thoát họ khỏi mọi câu hỏi - một phúc âm, một ngôi mộ.

Những khoảnh khắc tinh luyện luôn che giấu nguyên tắc của cái chết: không gì mong manh hơn sự tinh tế. Sự lạm dụng nó dẫn đến những sách giáo lý cứng nhắc, đặt dấu chấm hết cho những trò chơi biện chứng, kéo theo sự sụp đổ của một trí tuệ không còn được bản năng nâng đỡ. Triết học cổ đại, bị giam trong những đắn đo của mình, đã - dẫu không hề muốn - mở đường cho sự ngây ngô cục mịch ở tầng sâu nhất: các giáo phái mọc lên như nấm, học phái nhường chỗ cho giáo phái. Một thất bại tương tự đang đe dọa chúng ta: các ý luận đã tràn lan, các thần thoại suy đồi đang hoành hành: chúng sẽ làm ta co cụm, sẽ tiêu diệt ta. Ta sẽ không thể duy trì nghi lễ của mâu thuẫn được bao lâu nữa. Nhiều người đã sẵn sàng tôn thờ bất cứ thần tượng nào, phục tùng bất kỳ sự thật nào - miễn là chúng được áp đặt từ bên ngoài, miễn là họ không phải tự mình cố sức chọn nỗi nhục hay con đường hủy hoại của chính mình.

Dù thế giới sắp tới sẽ ra sao, các dân tộc phương Tây trong đó cũng sẽ chỉ đóng vai trò như các Graeculi trong Đế chế La Mã: bị kẻ chinh phục mới lùng sục và khinh miệt, họ sẽ chỉ còn lại màn tung hứng của trí tuệ hoặc hào quang quá khứ để gây ấn tượng. Nghệ thuật sống sót sau chính mình: họ đã sớm tỏ ra xuất sắc trong điều đó. Dấu hiệu của kiệt quệ ở khắp nơi: nước Đức đã thể hiện trọn vẹn tầm vóc của mình trong âm nhạc; vậy điều gì khiến ta tin rằng nàng còn có thể vượt trội trong lĩnh vực ấy thêm lần nữa? Nàng đã dùng kiệt những nguồn mạch sâu thẳm của mình, cũng như nước Pháp đã vắt kiệt sự duyên dáng. Cả hai - và toàn bộ góc thế giới ấy - đều đang ở bờ vực phá sản, cuộc phá sản huy hoàng nhất kể từ thời cổ đại. Rồi sẽ đến hồi thanh lý: một viễn cảnh không thể xem thường, một quãng trì hoãn không thể biết sẽ dài bao lâu, một thời kỳ buông lơi trong đó mỗi người - trước giờ phút giải thoát cuối cùng - sẽ sung sướng để lại sau lưng mọi quằn quại của hy vọng và trông đợi.

*

Giữa những bối rối và trì trệ của mình, châu Âu vẫn giữ một niềm tin - duy nhất một niềm tin - mà nàng sẽ không từ bỏ với bất cứ giá nào: niềm tin rằng mình có một tương lai trong vai trò nạn nhân, một tương lai hiến tế. Lần này kiên định và bất khuất, nàng tin rằng mình tiêu tùng, sẽ tiêu tùng, và thực sự là đã tiêu tùng. Vả lại, chẳng phải từ lâu nàng đã được dạy rằng những chủng tộc mới sẽ khuất phục và khinh miệt nàng sao? Ngay vào thời khắc tưởng như ở đỉnh cao quyền lực, thế kỷ XVIII, tu sĩ Abbé Galiani đã thấy nàng đang suy tàn và nói thẳng điều đó. Rousseau, về phần mình, đã tiên đoán: “Người Tartar sẽ trở thành chủ của chúng ta: cuộc cách mạng này không thể sai.” Ông đã đúng. Sang thế kỷ tiếp theo, ta biết Napoléon đã nói gì về người Cossack, cả những hấp hối tiên tri của Tocqueville, Michelet hay Renan. Những linh cảm ấy đã thành hình, những trực giác ấy giờ là hành trang của mọi kẻ tầm thường. Con người không thoái vị chỉ sau một đêm: hắn cần một bầu không khí thoái lui được gìn giữ kỹ, một huyền thoại về thất bại. Không khí ấy cần được tạo dựng, cũng như huyền thoại ấy. Và cũng giống như những dân tiền-Columbus, đã sẵn sàng và cam chịu để cho kẻ chinh phục phương xa xâm lấn và sụp đổ ngay khi họ tới, phương Tây - quá thông thái, quá ý thức về ách nô lệ tương lai của mình - hẳn sẽ không tiến hành bất cứ hành động nào để ngăn chặn nó. Hơn nữa, phương Tây cũng chẳng có phương tiện, khao khát hay dũng khí để làm vậy. Những thập tự quân, khi đã biến thành những người làm vườn, đã tan biến vào một hậu duệ yêu cảnh điền viên, không còn dấu vết nào của du mục. Nhưng lịch sử là hoài nhớ không gian, nỗi kinh sợ mái nhà, giấc mộng lang bạt và nhu cầu được chết nơi đất khách… mà lịch sử chính là điều ta không còn thấy quanh mình nữa.

Có một thứ no nê khơi động khám phá, khơi gợi sự tạo dựng những huyền thoại, những dối trá kích thích hành động: đó là một nhiệt tình chưa được thỏa mãn, một hứng khởi bệnh hoạn nhưng trở nên lành mạnh ngay khi nó cố định vào một đối tượng; lại có một thứ no nê khác, tách rời tinh thần khỏi các năng lực và sự sống khỏi các nguồn mạch, khiến chúng trở nên nghèo kiệt và khô héo. Như một dạng bản thể cường điệu đến mức biếm họa của nỗi chán chường, nó phá hủy huyền thoại hoặc bóp méo cách dùng chúng. Tóm lại, đó là một thứ bệnh. Muốn biết các triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của nó, không cần tìm đâu xa: chỉ cần quan sát chính mình, xem xét dấu ấn mà phương Tây đã hằn lên mình sâu đến mức nào…

*

Nếu sức mạnh có thể lây lan, thì sự yếu đuối cũng chẳng kém: nó có sức quyến rũ riêng, và không dễ cưỡng lại. Khi kẻ yếu hợp thành một đạo quân đông đảo, đạo quân ấy mê hoặc, đè bẹp ta: phương cách nào đây để chống lại cả một lục địa những kẻ vô ý chí? Căn bệnh của ý chí cũng dễ chịu không kém, người ta sẵn lòng buông mình theo nó. Không gì êm dịu hơn là lê theo những biến cố; và cũng không gì hợp lý hơn. Nhưng nếu không có một liều lớn sự điên thì chẳng có khởi xướng, chẳng có công việc, chẳng có cử chỉ nào hết. Lý trí: lớp gỉ sét của sinh lực. Chính kẻ điên trong ta đẩy ta vào cuộc phiêu lưu; một khi hắn bỏ rơi ta, ta mất hết; mọi thứ đều tùy thuộc vào hắn, ngay cả sự sống thực vật của ta; chính hắn mời gọi ta, bắt buộc ta thở, và cũng chính hắn thúc cho máu ta liều lĩnh rần rật chảy qua các tĩnh mạch. Một khi hắn rút lui, ta chỉ còn lại một mình! Ta không thể vừa bình thường vừa sống. Nếu ta giữ mình thẳng đứng và sẵn sàng đón lấy khoảnh khắc sắp tới - nói cách khác, nếu ta hình dung tương lai - thì ở đó đã có một sự trật khớp may mắn của tinh thần. Ta tồn tại và hành động chừng nào ta còn là một kẻ điên, chừng nào ta còn đẩy những cơn điên của mình đến cùng tận. Một khi ta trở nên lý trí, mọi thứ đều làm ta khiếp sợ: ta trượt dần về phía vắng mặt, về những nguồn mạch chẳng thèm tuôn chảy, về sự kiệt quệ mà hẳn sự sống từng biết tới trước khi nảy sinh chuyển động. Ta bước vào, đội ơn sự hèn nhát, trung tâm của tất cả, víu vào một vực thẳm mà ta không mảy may nghĩ đến buông ra, bởi nó tách ta khỏi dòng chuyển động. Một cá nhân, cũng như một dân tộc, cũng như một lục địa, tàn lụi khi hắn rụt lại trước cả kế hoạch liều lĩnh lẫn hành động liều lĩnh, khi, thay vì chấp nhận mạo hiểm và phóng mình về phía hữu thể, hắn co rúm trong đó, tìm nơi trú ẩn ở đó: một thứ siêu hình học của sự thoái lui, một cuộc quay về với khởi nguyên! Trong sự cân bằng khủng khiếp của mình, châu Âu khước từ chính nó, cùng với ký ức về những thách thức ngang tàng và những liều lĩnh từng có, và cả nỗi cuồng cái tất yếu, vinh dự cuối cùng của thất bại. Chối bỏ mọi hình thức thái quá, mọi hình thức sống, nàng đắn đo, nàng sẽ luôn đắn đo, ngay cả khi nàng đã không còn tồn tại: chẳng phải nàng đã cho thấy dáng dấp của một hội đồng ma quái đó sao?

… Tôi nhớ một kẻ khốn khổ, trưa rồi vẫn nằm duỗi trên giường, cất giọng lệnh cho mình: “Ý chí! Ý chí!” Trò hề ấy lặp lại mỗi ngày: hắn tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ mà hắn không thể hoàn thành. Ít ra thì, cố cự lại cái bóng mà hắn đã trở thành, hắn vẫn khinh miệt nỗi khoái lạc của uể oải. Không thể nói như thế về châu Âu. Khi đã khám phá ra, ở tận cùng những nỗ lực của mình, cõi của vô-ý-chí, nàng hân hoan, bởi giờ nàng biết rằng sự sụp đổ của mình ẩn chứa một nguyên tắc khoái lạc, và nàng sẽ tận dụng nó. Sự buông bỏ mê hoặc và làm nàng mãn nguyện. Thời gian trôi ư? Nàng chẳng chút lo lắng; hãy để kẻ khác bận tâm về thời gian; đó là việc của họ: họ làm sao đoán được niềm nhẹ nhõm khi được đằm mình trong một hiện tại chẳng dẫn tới đâu…

Sống ở đây là chết, còn ở nơi khác là tự sát. Đi đâu được nữa? Phần duy nhất của hành tinh mà sự tồn tại từng dường như có chút lý do chính đáng đã bị hoại thư. Những dân tộc siêu-văn-minh này là kẻ cung cấp tuyệt vọng cho chúng ta. Để tuyệt vọng, chỉ cần nhìn vào họ, quan sát những mưu toan của trí óc họ và sự nghèo nàn của những ham muốn ẩm ướt, gần như đã tắt lịm. Sau khi đã phạm tội quá lâu với nguồn gốc của mình và bỏ quên kẻ man rợ, bỏ quên bầy đàn - điểm khởi hành của họ - họ buộc phải nhận ra rằng mình không còn một giọt máu Hung nào nữa.

Sử gia cổ đại từng nhận xét về La Mã rằng nàng không còn chịu đựng nổi cả những thói xấu của mình lẫn những phương thuốc chữa chúng thực ra không chỉ gọi tên thời đại của ông mà còn tiên đoán cả thời chúng ta. Đế chế khi ấy hẳn đã mỏi mệt lắm, nhưng nó vẫn còn đủ hỗn loạn và sáng tạo để đánh lạc hướng kẻ thù, để nuôi dưỡng hoài nghi, nghi lễ và tàn bạo; còn Đế chế mà chúng ta đang chứng kiến hôm nay, với sự tầm thường nghiêm ngặt của mình, chẳng còn đến cả chút uy thế để tạo ra ảo tưởng. Quá hiển nhiên, quá trắng trợn, nó gợi ra bệnh tật với cơ chế tất yếu đến mức, nghịch lý thay, có thể khiến cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc yên tâm: một cơn hấp hối chuẩn mực, chính xác như một bản hợp đồng, một cơn hấp hối đã được quy định sẵn, không bốc đồng, không quằn quại, được chế tạo vừa khít cho những dân tộc không chỉ chối bỏ những định kiến từng kích thích sự sống, mà còn chối bỏ cả định kiến từng biện minh và xác lập nó: định kiến về sự trở thành.

Một cuộc dấn vào hư vô tập thể! Nhưng chớ nhầm: thứ hư vô này, khác hẳn với thứ mà Phật giáo gọi là “tòa ngự của chân lý”, không phải là sự viên mãn hay giải thoát; không phải là một kinh nghiệm tích cực diễn đạt bằng những thuật ngữ phủ định, không phải là kết quả của thiền định, của ý chí khổ hạnh và trần trụi, của một cuộc chinh phục cứu rỗi; mà là một sự buông vũ khí, một sự suy tàn không chút cao quý và không chút dục vọng. Sản phẩm của một siêu hình học thiếu máu, nó không thể là phần thưởng của kinh nghiệm, càng không thể là phần thưởng của hy sinh. Phương Đông tiến về một Hư vô của riêng mình, mở rộng trong đó và chiến thắng ở đó, còn chúng ta thì sa lầy trong Hư vô của mình và đánh mất những nguồn lực cuối cùng. Mọi thứ trong ý thức chúng ta bị hạ thấp và làm bại hoại: ngay cả Hư vô cũng không còn thuần khiết.

Bao nhiêu cuộc chinh phục, bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu ý tưởng - chúng sẽ tiếp tục ở đâu? Ở Nga? Ở Bắc Mỹ? Mỗi nơi đã sớm rút ra hệ quả của những điều tệ hại nhất từ châu Âu rồi… Ở Mỹ Latinh? Ở Nam Phi? Ở Úc? Có vẻ như chính từ hướng này mà chúng ta phải trông đợi sự cứu nguy, sự thay ca gác.

Tương lai thuộc về những vùng ngoại ô của địa cầu.
 

Một lý thuyết nhỏ về định mệnh

- Cioran

 

Có những dân tộc - chẳng hạn người Nga hoặc người Tây Ban Nha - bị ám bởi chính mình đến mức tự dựng mình thành vấn đề độc nhất: tiến trình phát triển, vốn dị thường ở mọi điểm, buộc họ phải quay về với chuỗi những bất thường của mình, với phép màu hay sự tầm thường của số phận mình.

Buổi bình minh của văn chương Nga vào thế kỷ trước là một đỉnh cao, một thành công chớp giật, và điều đó tất yếu khiến nàng bất an: việc nàng kinh ngạc về chính mình và phóng đại tầm quan trọng của mình là lẽ tự nhiên. Nhân vật của Dostoevsky đặt nước Nga ngang hàng với Chúa, bởi họ áp cho nàng cùng lối tra vấn vốn dành cho Chúa: chúng ta có phải tin vào nước Nga không? Có phải phủ nhận nàng không? Nàng thực sự tồn tại, hay chỉ là một cái cớ? Tự vấn theo cách này là biến một vấn đề khu vực thành một vấn đề thần học. Nhưng quả thật, đối với Dostoevsky, nước Nga là một vấn đề phổ quát, ngang hàng với vấn đề về tồn tại của Chúa. Cách tiếp cận lạm dụng và phi lý ấy chỉ có thể xảy ra ở một đất nước mà tiến trình phát triển bất thường phải khiến người ta bối rối. Khó mà tưởng tượng một người Anh tự hỏi liệu nước Anh có ý nghĩa hay không, hay trịnh trọng gán cho nước mình một sứ mệnh: anh ta biết mình là người Anh, và thế là đủ. Tiến trình phát triển của đất nước anh ta không kéo theo một câu hỏi nền tảng về bản thể.

Ở người Nga, chủ nghĩa cứu thế bắt nguồn từ một sự bất an nội tại, bị kiêu hãnh làm trầm trọng thêm, từ một ý chí khẳng định những khiếm khuyết của mình, áp chúng lên kẻ khác và trút xuống họ một sự dư thừa khả nghi. Khát vọng “cứu rỗi” thế giới là hiện tượng bệnh lý của tuổi trẻ một dân tộc.

*

Tây Ban Nha tự đắm mình vì những lý do ngược với đó. Nàng cũng từng có một khởi đầu rực rỡ, nhưng giờ đã lùi xa. Đến quá sớm, nàng đã làm rung chuyển thế giới, rồi để mặc mình suy tàn và suy sụp: và một ngày, tôi đã có khải ngộ về sự suy sụp ấy. Ấy là ở Valladolid, trong Casa Cervantes. Một bà lão trông bình thường đứng cạnh tôi, nhìn bức chân dung Philip III: “Một người điên,” tôi nói. Bà quay sang tôi: “Chính vì lão mà chúng tôi bắt đầu suy tàn đấy.” Cốt lõi là ở đó. “Sự suy tàn của chúng tôi!” tôi nghĩ, ở Tây Ban Nha, suy tàn là một khái niệm phổ biến, một sáo ngữ quốc gia, một khẩu hiệu chính thức. Dân tộc từng, vào thế kỷ XVI, dâng tặng thế giới một cảnh tráng lệ điên cuồng - nay chỉ còn biết hợp thức hóa sự trì trệ của mình. Nếu có thời gian, hẳn những người La Mã cuối cùng cũng sẽ chẳng làm khác; nhưng họ đã không thể suy ngẫm về sự sụp đổ của mình, vì người man rợ đã bao vây. Được ưu đãi hơn, người Tây Ban Nha có đủ nhàn rỗi (ba thế kỷ!) để trầm tư mặc tưởng về khổ cảnh của mình, để ngấm đẫm nó. Những kẻ ứng tác ảo tưởng, họ sống trong một thứ khắc khổ êm tai, một sự thiếu nghiêm túc đầy bi kịch, điều cứu họ khỏi sự tầm thường, khỏi hạnh phúc, khỏi thành công. Nếu một ngày nào đó họ đổi những ám ảnh cổ xưa ấy lấy những ám ảnh mới, hiện đại hơn, thì họ vẫn sẽ mang dấu ấn của một khoảng vắng kéo dài như thế. Không thể bước cùng nhịp với “văn minh,” dù là tín đồ ngoan đạo hay kẻ vô chính phủ, họ không bao giờ có thể từ bỏ sự không thuộc thời của mình. Làm sao họ có thể bắt kịp các dân tộc khác, làm sao họ có thể hợp thời, khi đã tiêu hao phần tinh túy nhất của mình vào việc nhai đi nhai lại cái chết, tự làm mình nhơ nhớp vì nó, biến nó thành một kinh nghiệm nội tạng? Không ngừng lui về phía cái thiết yếu, họ đã lật úp ra khỏi bề sâu của mình - tức là, vào chính bề sâu ấy. Khái niệm suy tàn sẽ không ám ảnh họ đến vậy nếu nó không diễn dịch, trên bình diện lịch sử, thiên hướng của họ đối với hư vô, sự ám ảnh của họ với bộ xương khô. Thế nên chẳng có gì lạ khi với mỗi người trong họ, Tây Ban Nha là một vấn đề riêng biệt. Đọc Ganivet, Unamuno hay Ortega, ta nhận ra rằng đối với họ, Tây Ban Nha là một nghịch lý tận cùng, không thể giản lược thành một công thức duy lý. Họ không ngừng quay lại với nó, bị mê hoặc bởi sức hút của cái không thể giải bằng phân tích. Họ chiêm ngắm Don Quixote, nơi mà nghịch lý ấy còn bất khả giải hơn - vì đã trở thành biểu tượng… Chúng ta không hình dung một Valéry hay một Proust lại suy tư về nước Pháp để khám phá chính mình: một đất nước nguyên vẹn, không có những khe nứt sâu tạo ra nỗi dày vò, một quốc gia không bi kịch, nước Pháp không phải là một “trường hợp”: đã thành công, đã hoàn tất định mệnh của mình, làm sao nàng có thể “thú vị” nữa?

Công lao của Tây Ban Nha là đã đề xuất một hình thức phát triển khác thường, một định mệnh vừa được thần hứng vừa chưa trọn vẹn. (Có thể nói: một Rimbaud hiện thân trong cả cộng đồng.) Hãy nghĩ đến cuộc truy lùng vàng cuồng dại của Tây Ban Nha, đến sự sụp đổ của nàng vào vô danh, rồi nghĩ đến những conquistador, với những cướp bóc và lòng sùng đạo, cách họ ghép Phúc Âm với giết chóc, Thánh giá với thanh gươm. Ở những khoảnh khắc rực rỡ nhất, Công giáo đẫm máu - như bất kỳ tôn giáo nào thực sự được thần hứng.

Chinh phục và Tòa án Dị giáo - những hiện tượng song song, sản phẩm của những xấu xa hùng vĩ của Tây Ban Nha. Chừng nào còn mạnh, nàng còn xuất sắc trong cuộc tàn sát, nàng mang sự thiên vị không chỉ dành cho nghi lễ, mà cho cả những tầng sâu nhất của cảm năng mình. Chỉ những dân tộc tàn bạo mới có cơ hội chạm tới tận nguồn sống, những rung động, những huyền vi cháy bùng của nó: sự sống chỉ để lộ yếu tính của nó cho những đôi mắt bốc lửa khát máu… Làm sao ta có thể tin vào triết học khi ta biết những gương mặt nhợt nhạt mà nó phản chiếu? Thói quen lý luận, suy tư là dấu hiệu của một sự yếu sinh lực, một sự suy giảm của cảm năng. Để suy nghĩ có phương pháp, con người phải, dựa vào những khiếm khuyết của mình, quên mình đi, không còn là một phần trọn vẹn của các ý mình có: triết học là đặc quyền của những cá nhân và những dân tộc nông cạn về mặt sinh lý.

Gần như không thể nói chuyện với một người Tây Ban Nha về điều gì ngoài đất nước anh ta - một vũ trụ khép kín là đối tượng của thơ và suy tư của anh ta, một tỉnh tuyệt đối, ở ngoài thế giới. Lúc hứng khởi, khi sầu não, anh ta hướng đôi mắt vừa u ám vừa chói lóa về Tây Ban Nha; bị kéo căng tứ phía chính là hình thức nghiêm cẩn của anh ta. Nếu tự đặt cho mình một tương lai, anh ta cũng không thật sự tin vào nó. Khám phá của anh ta: ảo tưởng u tối, niềm kiêu hãnh của tuyệt vọng; thiên tài của anh ta: thiên tài của hoài nhớ.

Dù lập trường chính trị thế nào, người Tây Ban Nha hay người Nga băn khoăn về đất nước mình đều đang xử lý câu hỏi duy nhất là quan trọng trong mắt họ. Ta hiểu vì sao cả Tây Ban Nha lẫn Nga đều không sinh ra triết gia lớn nào. Lý do là vì triết gia phải tiếp cận ý như một kẻ đứng ngoài quan sát; trước khi đồng hóa nó, biến nó thành của mình, ông ta phải xem xét nó từ bên ngoài, tách mình khỏi nó, cân nhắc nó, và nếu cần thì giỡn nghịch với nó rồi, nhờ sự chín muồi, ông ta tạo ra một hệ thống mà bản thân ông ta không bao giờ đồng nhất trọn vẹn. Chính sự vượt lên trên triết học của chính mình này là điều ta khâm phục ở người Hy Lạp. Điều này cũng đúng với tất cả những ai gắn bó với vấn đề tri thức và biến nó thành đối tượng thiết yếu của suy tư.. Vấn đề ấy không làm người Nga hay người Tây Ban Nha bận tâm. Không thích hợp với chiêm nghiệm trí tuệ, họ duy trì những quan hệ khá kỳ lạ với Ý. Nếu có chất vấn nó thì bao giờ họ cũng ở thế yếu; nó nắm lấy, khuất phục, áp chế họ; là những kẻ tử đạo bằng lòng, họ chỉ mong được chịu đựng vì nó. Ở họ, ta cách rất xa miền nơi trí năng giỡn nghịch với chính nó và với vật, rất xa mọi hoang mang có phương pháp.

Sự phát triển bất thường của Nga và Tây Ban Nha, vì thế, đã dẫn họ tới chỗ tự vấn chính định mệnh của mình. Nhưng đó vẫn là hai dân tộc vĩ đại, bất chấp những khiếm khuyết và những tai biến trong cuộc trưởng thành của họ. Với những dân tộc nhỏ, vấn đề quốc gia còn bi kịch hơn nhiều! Ở đây không có bùng nổ đột ngột, cũng chẳng có suy tàn dần dần. Không có điểm tựa nào ở tương lai hay quá khứ, họ chỉ có sức nặng của mình đè lên mình: kết quả là một sự mặc tưởng triền miên và vô sinh. Tiến trình của họ không thể bất thường, bởi họ chẳng hề tiến triển. Còn lại gì cho họ? Chỉ là sự chấp nhận chính mình, bởi ngoài kia là toàn bộ Lịch sử - nơi mà họ bị loại ra.

Chủ nghĩa quốc gia của họ, mà ta tưởng là trò hề, thực ra là chiếc mặt nạ hòng che giấu bi kịch của mình, hòng quên đi, trong một cơn cuồng đòi hỏi, sự bất lực của họ trong việc ghép mình vào dòng biến cố: những dối trá đau đớn, phản ứng bực tức trước sự khinh miệt mà họ sợ là mình đáng phải chịu, một cách xua đuổi ám ảnh thầm kín về chính mình. Nói đơn giản hơn: một dân tộc là nỗi dày vò của chính nó là một dân tộc bệnh hoạn. Nhưng nếu Tây Ban Nha khổ vì đã rời khỏi Lịch sử, và Nga khổ vì, bất chấp mọi trở lực, vẫn tìm cách chen mình vào đó, thì các dân tộc nhỏ lại phải vật lộn để đừng mất kiên nhẫn hoặc tuyệt vọng vì hai lý do đó. Mang một khiếm khuyết nguyên thủy, họ không thể khắc phục nó bằng thất vọng, cũng chẳng bằng mộng tưởng. Vì thế, họ không còn cách nào khác ngoài việc bị ám bởi chính mình. Một ám ảnh không thiếu vẻ đẹp, bởi nó chẳng dẫn đến đâu và cũng chẳng ai quan tâm.

*

Có những quốc gia được hưởng một thứ phúc lành, một ân sủng: mọi sự đều thành với họ, ngay cả những bất hạnh, thậm chí cả thảm họa; và cũng có những quốc gia chẳng bao giờ làm nên chuyện, đến mức cả những chiến thắng của họ cũng chẳng khác gì thất bại. Mỗi khi họ tìm cách khẳng định mình, tìm cách nhảy vọt về phía trước, một định mệnh bên ngoài lại can thiệp để bẻ gãy sức bật và kéo họ trở về điểm xuất phát. Mọi cơ hội đều bị tước mất, ngay cả cơ hội để trở thành lố bịch.

Là người Pháp thì hiển nhiên đủ: người ta chẳng khổ vì điều đó, cũng chẳng lấy làm mừng; người ta có một sự chắc chắn vốn biện minh cho câu hỏi xa xưa “Làm sao có thể là người Ba Tư?”

Nghịch lý của việc là người Ba Tư (hoặc, trong trường hợp này, là người Rumani) là một nỗi giày vò mà người ta phải biết cách khai thác, một khiếm khuyết mà người ta phải biết tận dụng. Tôi thú nhận đã từng coi là một nỗi ô nhục - việc thuộc về một dân tộc tầm thường, một cộng đồng nạn nhân mà về nguồn gốc của họ chẳng thể nuôi ảo tưởng nào. Tôi đã tin, và có lẽ không sai, rằng chúng tôi sinh ra từ cặn bã của người man rợ, từ bọt bẩn của những cuộc Đại xâm lăng, từ những bầy lũ, khi không thể tiếp tục tiến về phương Tây, đã gục xuống dọc dãy Carpathia và sông Danube, ngồi thụp xuống đó trong cơn mê lả, như một khối đào ngũ ở rìa Đế chế, được quệt thêm chút sơn La-tinh. Với quá khứ ấy, hiện tại này. Và tương lai này. Thật là một thử thách cho niềm kiêu ngạo tuổi trẻ của tôi! “Làm sao có thể là người Rumani?” một câu hỏi mà tôi chỉ có thể trả lời bằng một sự tự hành hạ không ngừng. Ghét dân tộc mình, đất nước mình, những nông dân muôn đời chìm mê trong trì trệ và đầy tràn ngu độn, tôi đỏ mặt vì là hậu duệ của họ, chối bỏ họ, khước từ thứ vĩnh cửu thấp kém lờ đờ của họ, những chắc chắn ấu trùng, những mơ mẩn bám vào đất của họ. Chỉ vô ích thôi - chuyện tìm kiếm nơi diện mạo họ những cử động bồn chồn, những nhăn nhó phản kháng: con khỉ, than ôi! đang chết dần trong họ. Chẳng phải họ đã mọc lên từ đá tảng à? Không thể lay họ dậy, cũng chẳng thể làm họ sống, tôi đã đến mức mơ về một cuộc tận diệt. Người ta không tàn sát đá. Cảnh tượng họ mang lại vừa biện minh vừa làm tôi bối rối, vừa nuôi dưỡng vừa khiến tôi ghê tởm cơn cuồng loạn của mình. Và tôi chưa bao giờ thôi nguyền rủa tai nạn đã khiến tôi sinh ra giữa họ.

Một ý lớn đã chiếm lấy họ: ý về định mệnh. Tôi đã khước từ nó với tất cả sức lực của mình, chỉ thấy trong đó trò ngụy biện của kẻ hèn, cái cớ cho mọi sự thoái vị, một biểu hiện của lẽ thường và triết lý tang tóc của nó. Tôi còn có thể bám víu vào đâu? Đất nước tôi, mà sự tồn tại rõ ràng chẳng mang ý nghĩa nào, đối với tôi chỉ như một bản tóm lược của hư vô hay một sự vật chất hóa của cái bất khả tưởng tượng - một thứ Tây Ban Nha không có  Siglo de Oro, không có chinh phục hay điên loạn, cũng không có một Don Quixote cho những sầu khổ bản địa. Thuộc về nó - thật là một bài học về sỉ nhục và mỉa mai, một tai ương, một thứ bệnh hủi!

Còn về ý lớn ngự trị ở đó, tôi đã quá xấc xược, quá tự phụ để nhận ra nguồn gốc, chiều sâu hay kinh nghiệm của nó, cùng hệ thống những tai ương mà nó trỏ đến. Mãi sau này tôi mới hiểu được. Bằng cách nào nó len vào được, tôi không biết. Khi tôi được dẫn tới chỗ kinh nghiệm nó rõ ràng, tôi đã làm hòa với đất nước mình, và từ đó, cuối cùng, nó thôi ám ảnh tôi.

Để miễn trừ mình khỏi hành động, các dân tộc bị áp bức phó mình cho “số phận” - một cứu rỗi tiêu cực, đồng thời là một cách để diễn giải các biến cố: một triết lý lịch sử nhật tụng, một viễn kiến tất định dựa trên thực tiễn, một siêu hình học của hoàn cảnh…

Nếu người Đức cũng nhạy cảm với định mệnh, họ không coi nó như một nguyên tắc can thiệp từ bên ngoài, mà như một lực, phát xuất từ chính ý chí của họ, cuối cùng lại thoát khỏi tay họ và quay lại nghiền nát họ. Gắn liền với tham vọng quyền năng sáng thế, Schicksal của họ giả định một chuỗi những tất yếu diễn ra không chỉ trong thế giới mà ngay trong bản thân. Nói cho cùng, điều đó có nghĩa là, ở một mức độ nhất định, nó vẫn phụ thuộc vào họ.

Để hình dung định mệnh như một cái gì ở bên ngoài, toàn năng và tối thượng, cần phải có một chuỗi dài thất bại. Và đất nước tôi hội điều kiện ấy đến mức hoàn hảo. Sẽ là khiếm nhã nếu Rumani tin vào nỗ lực, vào ích lợi của hành động. Thế nên, vì phép lịch sự, nàng không tin và chấp nhận cái tất yếu. Tôi biết ơn nàng vì đã để lại cho tôi, cùng với bộ luật của tuyệt vọng, cả thứ savoir-vivre này, sự thư thái trước Tất yếu, cũng như vài ngõ cụt và nghệ thuật thích ứng với chúng. Nhanh nhẹn nâng đỡ những nỗi thất vọng của tôi và khai tâm cho sự uể oải của tôi vào bí quyết gìn giữ chúng, đất nước tôi còn ban cho tôi, trong sự nhiệt thành biến tôi thành một kẻ phá phách đời mình nhưng vẫn giữ được bề ngoài, những phương tiện để tự làm nhục mình mà không gây quá nhiều tổn hại cho mình. Tôi nợ nàng không chỉ những thất bại đẹp nhất, chắc chắn nhất của mình, mà còn cả cái tài che giấu hèn nhát và chưng cất dằn vặt. Còn bao nhiêu đặc ân khác mà tôi chưa nhắc tới! Công đức nàng vô lượng - đến mức liệt kê ra đây hẳn sẽ thành chán ngắt.

Dù có gom góp bao nhiêu thiện chí, liệu tôi có thể, nếu không nhờ đất nước mình, phung phí ngày tháng một cách gương mẫu như thế? Nàng đã giúp tôi làm điều đó, dẫn dắt, khuyến khích tôi. Hủy hoại đời mình, người ta thường quên, không phải là chuyện dễ: nó cần một truyền thống, một sự rèn luyện lâu dài, công sức của nhiều thế hệ. Khi công sức ấy đã hoàn tất, mọi thứ sẽ diễn ra trơn tru. Khi ấy, sự chắc chắn về Vô ích trở thành một phần trong gia sản mà tổ tiên đã dành dụm cho ta bằng mồ hôi và vô số nhục nhã. Còn những nỗi nhục của riêng ta, ta sẽ luôn có thể tô điểm hay lẩn tránh chúng, làm ra vẻ của một kẻ vô tích sự thanh lịch, để được, hết sức đáng kính, là kẻ sau chót trong loài người. Lịch sự ấy, nhã nhặn ấy của bất hạnh là đặc quyền của những ai sinh ra đã là kẻ thất bại và đã khởi đầu từ điểm kết thúc của mình. Biết mình thuộc về một giống nòi chưa từng tồn tại là một đắng cay pha với ngọt ngào, thậm chí cả khoái cảm.

Sự bực bội mà tôi từng cảm thấy khi nghe ai đó, nhân một chuyện gì, nói: “đó là số phận,” giờ đối với tôi thật trẻ con. Tôi đã không nhận ra rằng rồi mình sẽ cũng làm y như vậy, rằng, tự tìm chỗ trú ẩn sau từ ấy, tôi sẽ quy mọi may rủi, mọi chi tiết của hạnh phúc và tai ương cho nó; rằng, hơn thế nữa, tôi sẽ bám chặt vào đó với nỗi ngây ngất của kẻ đắm tàu, sẽ hướng ý nghĩ đầu tiên của mình về nó trước khi lao vào nỗi kinh hoàng của mỗi ngày. “Ngươi sẽ tan biến vào hư không, hỡi nước Nga của ta,” từ thế kỷ trước, Tyutchev đã kêu lên như thế. Tôi áp lời kêu ấy - còn thích đáng hơn - cho đất nước mình, đất nước được cấu tạo hoàn hảo để bị nuốt chửng, mang đủ mọi phẩm chất của một nạn nhân lý tưởng và vô danh. Thói quen chịu đựng bất tận và vô ích, sự viên mãn của tai ương - thật là một khóa nhập môn trong trường của những bộ tộc bại trận! Sử gia Rumani cổ nhất mở đầu biên niên sử của mình thế này: “Không phải con người điều khiển thời cuộc, mà là thời cuộc điều khiển con người.” Một công thức thô sơ, đồng thời là cương lĩnh và bia mộ của một góc châu Âu. Muốn cảm được giọng của dân gian Balkan, chỉ cần nhớ đến những than thở hợp xướng trong bi kịch Hy Lạp. Theo một truyền thống vô thức, cả một không gian dân tộc đã mang dấu ấn của nó. Thói quen thở dài và than vãn, những ai oán của các dân tộc nhỏ trước sự hung bạo của các cường quốc! Thế nhưng, hãy cẩn thận đừng than nhiều quá: chẳng phải cũng có chút an ủi sao khi ta có thể đối lập với những hỗn loạn của thế giới bằng sự nhất quán trong những khổ đau và thất bại của mình? Và chẳng phải chúng ta, trước chủ nghĩa tài tử mọc lên như nấm, còn có niềm an ủi là sở hữu, về phương diện đau khổ, một tay nghề chuyên nghiệp đó sao?

Anh Hoa dịch

 

hai người Ba Lan

một người Bỉ

thanh niên Mỹ phiêu lưu châu Âu

một thiếu quê hương Đức

lợi thế của lưu đày

liên tục tự tạo lập rồi tự hủy hoại chính mình

đọc Dostoyevsky ở Argentina

Người định mệnh cùng ông chủ

   

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công