C. S. Lewis: Nan đề Nỗi đau
Sau Bốn tình yêu, C. S. Lewis sẽ trở lại với Nan đề Nỗi đau, cuốn sách viết trước đó hai thập kỷ. Lời dẫn dưới đây do người dịch viết.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, châu Âu chìm vào một cơn khủng hoảng tinh thần chưa từng thấy. Những gì Nietzsche từng tiên tri đã thành thực : “Chúa đã chết, chúng ta đã giết Ngài.” Lời ấy ẩn chứa một cơn địa chấn sẽ còn rền qua hai cuộc đại chiến. Khi nền tảng tôn giáo lung lay, khi các giá trị luân lý bị hoài nghi, và khi con người không còn thấy một ý nghĩa tối hậu cho sự sống và sự chết - hư vô trở thành bóng tối bao trùm phần lớn tư tưởng châu Âu.
Trên nền ấy, C. S. Lewis - con người từng vô thần, từng ngụp lặn trong chính nỗi hoài nghi của thời đại (rất chớm ở tuổi mười lăm) - đã quay lại với Đức tin Ki-tô và bắt đầu lên tiếng không chỉ để bảo vệ lẽ thật, mà còn để giành lại cứu cánh cho con người giữa một thế giới không chỗ bám víu. Nan đề Nỗi đau (1940) là một trong những tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự hồi quy ấy. Thuộc bộ sách Christian Challenge - các ấn phẩm nhắm đến việc giới thiệu đức tin Ki-tô với những độc giả bên ngoài Giáo hội, cuốn sách ra đời khi nhân loại vừa trải qua chấn thương sâu sắc của Thế chiến thứ Nhất và đang đối diện với những điềm báo không thể nhầm lẫn của một cuộc chiến còn khủng khiếp hơn. Ngay trên mé vực ấy, câu hỏi cổ thiên lại vang lên đau đớn hơn bao giờ: Nếu Thiên Chúa là toàn năng và tốt lành, tại sao loài người vẫn phải chịu đau khổ? Trong chương dưới đây - có thể xem là trung tâm của toàn bộ cuốn sách, Lewis trực diện đối mặt câu hỏi đó.
Ông bác bỏ lối nhìn nhận giản đơn rằng đau chỉ là sự ngẫu nhĩ trong một thế giới đổ vỡ, hệ quả cơ học của các quy luật vật lý. Đau, theo Lewis, là phương thức Thiên Chúa dùng để lay tỉnh con người khỏi ngủ mê trong tội lỗi. “Thiên Chúa thì thầm với ta trong lạc thú, lên tiếng trong lương tâm, nhưng thét lên giữa nỗi đau của ta: ấy là loa phóng thanh của Người đặng gióng gọi một thế gian điếc đặc.” Ở những người được xem là tốt, đứng đắn, khiêm nhu mà vẫn phải chịu khổ, Lewis cũng cho ta biết thế nào là mối nguy của việc tự xem mình đã vẹn toàn.
Lewis không lý tưởng hóa nỗi đau, cũng không xem đó là điều tự thân tốt lành. Ông lập luận rằng bởi loài người vốn sa ngã, điều thực sự đáng sợ không phải là đau khổ mà là một linh hồn đã sa ngã mà vẫn không cảm nhận được hậu quả của sự sa ngã ấy - không biết mình đang đi sai đường. Nỗi đau, trong viễn kiến ấy, chính là ngọn lửa lẽ thật cháy nóng nhất, soi rọi vào linh hồn phản nghịch để cảnh tỉnh và đưa nó trở về trước khi nó đi đến chỗ hư mất.
Lewis cho ta thấy rằng con người thực ra đứng ở một vị thế rất khác cái nhìn thế tục: không phải là nạn nhân bị động của một trật tự vũ trụ vô hữu ý mà là một hữu thể có phẩm giá luân lý, được gọi hướng về Thiên Chúa - nhưng gần như chỉ có thể được dẫn về qua con đường của đau khổ.
Đau khổ, xét cho cùng, không phải là bằng chứng Thiên Chúa không tồn tại, mà là bằng chứng cho thấy Ngài vẫn đang tìm chúng ta, còn ta vẫn chưa thấy Ngài.
VI. NỖI ĐAU CON NGƯỜI
Bởi trăm bề của cuộc đời Đấng Christ bề nào cũng ngắt đắng với bản tính và cái Ngã cùng cái Tôi (vì trong cuộc đời thực của Đấng Christ, cái Ngã với cái Tôi cùng bản tính đều đã bị lìa-bỏ, hư-mất và chết thảy cùng nhau), thành ra trong mỗi người chúng ta, bản tính ai cũng có mang một nỗi hãi hùng trước cuộc đời ấy.
Theologia Germanica, XX.
Tôi đã cố chỉ ra trong chương nọ rằng khả thể nỗi đau vốn nội tại trong chính sự hiện hữu của một cõi giới nơi các tâm hồn có thể gặp nhau. Khi các tâm hồn trở nên gian ác, chắc chắn chúng sẽ dùng khả thể ấy để làm đau nhau; và điều này chiếm có lẽ đến bốn phần năm những sự khổ con người. Chính loài người, chứ chẳng phải Thiên Chúa, đã tạo ra những giàn kéo, những roi, ngục tù, ách nô lệ, súng ống, lưỡi lê và bom; chính bởi lòng tham con người hoặc sự ngu con người, chứ chẳng bởi bỉ tính của tự nhiên, mà ta mới có cám cảnh nghèo đói và lao lực. Ấy thế nhưng, hãy còn đó biết bao sự khổ khi truy nguyên như thế lại chẳng thấy con người chúng ta ở cội nguồn. Thậm chí nếu mọi sự khổ đều là nhân-tạo, ta vẫn cần biết xem do lý nào mà Thiên Chúa lại ban cho những kẻ tồi nhất giữa loài người ta cái phép được tra tấn đồng loại hắn.[1] Việc nói, như trong chương vừa rồi, rằng sự tốt, đối với hiện trạng của một loài thụ tạo như ta, trước hết phải mang tính sửa hoặc chữa, là một câu trả lời chưa rốt ráo. Thuốc men nào đâu chỉ có một vị đắng độc: mà nếu đúng là chỉ có một vị đắng thật, thì ta vẫn muốn biết là do đâu.
Trước khi tiếp tục, tôi phải trở lại một điểm đã nêu trong Chương II. Tôi từng nói rằng nỗi đau, nếu cường độ thấp hơn một mức nhất định, sẽ không khiến ta bực lòng và có khi còn được ưa. Hẳn khi ấy bạn muốn đáp lại rằng “Trường hợp đó không gọi là đau”, và hẳn bạn đúng. Nhưng sự thật là từ “đau” có hai nghĩa, và giờ ta phải phân biệt cho rõ. A. Một loại cảm tri đặc thù, thường được cảm thụ qua những sợi thần kinh chuyên biệt, và được thụ thể nhận diện đúng như vậy, dù họ có ưa nó hay không (e.g., cơn nhức nhẹ ở cẳng tay cẳng chân vẫn được tôi nhận biết như một cơn nhức dù tôi không phiền gì nó). B. Bất cứ kinh nghiệm nào, dù là thể lý hay tâm lý, mà thụ thể không ưa. Ta có thể thấy rằng mọi Nỗi Đau theo nghĩa A đều sẽ trở thành Nỗi Đau theo nghĩa B nếu cường độ của chúng vượt quá một ngưỡng thấp, nhưng Nỗi Đau theo nghĩa B thì không thiết phải là Nỗi Đau theo nghĩa A. Đau theo nghĩa B, thực ra, đồng nghĩa với “khổ đau”, “thống khổ”, “khốn khổ”, “nghịch cảnh”, hay “khổ não”, và từ chính loại đau này mà nan đề nỗi đau trỗi lên. Từ đây cho đến hết cuốn sách, Nỗi Đau sẽ được dùng theo nghĩa B và sẽ bao gồm mọi hình thức của sự khổ: còn nghĩa A, chúng ta sẽ thôi bàn đến.
Giờ, sự tốt lành đúng của một thụ tạo là tự đầu phục bản thân cho Đấng Tạo Hóa mình - tức đóng, bằng trí năng, ý muốn và cảm xúc, vai trò tương quan đã ban cho nó trong chính cái sự thật rằng nó là một thụ tạo. Khi làm như vậy, nó được nên tốt lành và hạnh phúc. Nếu chẳng may chúng ta cho rằng đó là một mối khó nhọc thì hãy biết rằng sự tốt này khởi phát từ một tầng mức cao vượt khỏi các thụ tạo, vì chính Thiên Chúa, như là Con, từ đời đời vẫn hằng dâng lại cho Thiên Chúa như là Cha bằng sự vâng phục hiếu thảo chính hữu thể mà Cha đã bằng tình phụ tử hằng-sinh trong Con. Đây chính là khuôn mẫu mà loài người đã được dựng nên để dong theo - khuôn mà người Địa Đàng từng dong theo - và nơi đâu cái ý chí do Đấng Sáng Tạo ban ra được thụ tạo dâng lại mỹ mãn trong sự vâng phục hoan vui và làm vui lòng Đấng, nơi ấy, chẳng còn chi nữa mà ngờ, chính là Thiên Đường, và cũng ở nơi đó Chúa Thánh Thần phát xuất. Trong thế giới như ta đang biết đây, vấn đề là làm sao để phục hồi lại sự tự-phó ấy. Ta không chỉ là những thụ tạo bất toàn cần được cải hóa: ta còn là, như Newman từng nói, bọn phản loạn cần buông khí giới. Vậy câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi tại sao phương chữa chúng ta cần phải đau, đó là, nội tại hành động trao lại cái ý chí ta đã luôn cho là của ta tự muôn đời là, dù ở đâu và như thế nào, một nỗi đau sầu khổ. Ngay cả nơi Địa Đàng tôi cũng đồ rằng có một chút vướng-ngã cần được vượt thắng, tuy sự thắng vượt cùng phó phục ở đó lại là một niềm ngất ngây. Nhưng phó một tự-ý vốn đã sưng và viêm bởi bao năm tiếm quyền, thì đó chính là một hình thức chết. Ai cũng nhớ cái tự-ý này khi còn nhỏ, cơn cuồng nộ nhẫn đắng, dùng dằng mỗi lần bị cản trở, những lệ bật đầy dục vọng, ước muốn đen tối tựa Sa-tan hòng giết người hoặc thà chết hơn là chịu thua. Thành thử kiểu bảo mẫu hay cha mẹ xưa kia đã đúng khi cho rằng bước giáo dục đầu tiên phải là “bẻ gãy ý chí của đứa trẻ”. Phương pháp của họ quả thường sai: nhưng không chịu nhìn lấy tất tính ấy, là, tôi nghĩ, tự cắt rời mình khỏi mọi hiểu biết về các luật thuộc linh. Và nếu, nay ta trưởng thành, ta không còn tru rú hay nện chân như xưa thì một phần là vì người lớn nhà ta đã bắt đầu tiến trình bẻ gãy hay giết tự-ý của chúng ta ngay từ khi ta còn trong nhà trẻ, và một phần khác là vì những dục vọng ấy nay đã hóa những hình thức tinh vi hơn và đã trở nên rất khéo trong ngón né sự chết bằng nhiều loại “bù đắp” khác nhau. Vậy nên ta tất phải chết mỗi ngày: dù cho ta tưởng ta đã diệt cái ngã nghịch kia thường xuyên bao nhiêu, ta vẫn sẽ thấy nó còn sống. Sự không thể không đau trong tiến trình này đã nằm trọn tron chính lịch sử của từ “Mortification”.[2]
Nhưng nỗi đau, hay sự chết, nội tại trong hành động diệt cái ngã tiếm quyền ấy, chưa phải toàn bộ câu chuyện. Nghịch lý thay, sự hãm mình, tuy tự thân nó là một nỗi đau, lại được làm cho dễ chịu hơn nhờ sự hiện diện của một nỗi đau [khác] trên nền nó. Điều này xảy ra, tôi nghĩ, chủ yếu theo ba cách.
Tinh thần con người sẽ không khởi sự đầu phục tự-ý chừng nào nó vẫn còn tưởng rằng mọi sự đều đang ổn thỏa với mình. Mà sai lầm và tội thì có chung một đặc tính, ấy là càng đâm sâu bao nhiêu, nạn nhân của chúng càng ít nhận ra sự hiện hữu của chúng bấy nhiêu; chúng là cái ác che mình. Còn nỗi đau là cái ác không che, không thể nhầm lẫn; ai cũng biết rằng có điều gì đó không đúng khi thấy mình bị đau. Người Khổ dâm không phải là ngoại lệ. Bạo dâm và Khổ dâm là những hình thức tách biệt, rồi sau cường điệu hóa, một “khoảnh khắc” hay một “khía cạnh” trong nhục-dục thường. Bạo dâm[3] cường điệu khía cạnh chiếm giữ và thống trị đến độ chỉ sự ngược đãi người mình yêu mới thỏa nổi kẻ đồi trụy ấy - thể như hắn nói, “ta làm chủ đến ngươi đến độ hành hạ ngươi.” Khổ dâm thì cường điệu khía cạnh đối nghịch và bổ khuyết, bèn nói “ta si mê ngươi đến độ mở lòng đón nỗi đau từ tay ngươi giáng ra”. Nếu đau không được cảm nhận như một cái ác - như một sự sỉ nhục làm bật thế thống trị tuyệt đối của đằng kia - nó sẽ thôi không còn là một kích thích dục tình cho người Khổ dâm nữa. Và đau không chỉ là cái ác dễ nhận ra ngay mà còn là cái ác không thể phớt lờ. Ta có thể yên phận thủ thường trong tội lỗi và ngu muội của mình; và bất cứ ai từng chứng kiến những kẻ phàm ăn, hốc những thức cao lương như thể chúng chẳng biết mình đang ăn gì, cũng đều phải thừa nhận rằng ta còn có thể làm ngơ đến cả lạc thú. Nhưng đau thì khăng khăng đòi ta chú ý tới. Thiên Chúa thì thầm với ta trong lạc thú, lên tiếng trong lương tâm, nhưng lại thét lên giữa nỗi đau của ta: ấy là chiếc loa phóng thanh của Người đặng gióng gọi một thế gian điếc đặc. Một kẻ xấu, mà an phận, là một kẻ chẳng có lấy chút hồ-ý nào rằng hành động của hắn không hề “thỏa”, rằng chúng không thuận tuân với các luật vũ trụ.
Một nhận thức về lẽ thật này nằm sau một cảm tri phổ quát của con người, rằng kẻ xấu nên chịu khổ đau. Thật vô dụng khi ta hất mặt trước cảm tri ấy, cứ như nó hèn hạ lắm vậy. Ở mức ôn hòa nhất, cảm tri ấy đánh động lương tri về sự công bình ở mọi người. Hồi bé, có lần anh tôi và tôi cùng ngồi vẽ trên một chiếc bàn, tôi hích khuỷu tay anh khiến anh sượt một nét lạc ngang giữa bức tranh đương vẽ; vấn đề được giải quyết ổn thỏa bằng cách tôi cho anh kéo một nét dài tương tự ngang bức của tôi. Tức là, tôi đã “đặt mình vào vị trí của anh”, buộc phải nhìn thấy sự cẩu thả của mình từ góc độ của người kia. Ở một mức nghiêm khắc hơn, ý tưởng ấy lại biểu hiện thành “báo phạt”, hay “trao cho kẻ nọ điều hắn xứng chịu”. Một số người cấp tiến muốn cấm bỏ mọi quan niệm về báo ứng hoặc xứng chịu khỏi lý thuyết hình phạt của họ và đặt toàn bộ giá trị của hình phạt vào việc răn đe người khác hoặc cải tạo tội nhân. Nhưng họ không nhận ra rằng khi làm như vậy, họ khiến mọi hình phạt trở nên bất công. Còn gì vô luân hơn việc gây sự khổ cho tôi chỉ để răn đe kẻ khác khi tôi không đáng chịu nó? Rồi giả như tôi đáng chịu đi, thì chính các vị lại đang thừa nhận “báo ứng”. Và còn gì vô đạo hơn việc bắt bớ tôi và áp lên tôi một cuộc cải-thiện tôi không đồng thuận, trừ phi (lại một lần nữa) tôi đáng chịu nó? Đến mức thứ ba, ta gặp phải oán dục - cơn khát trả đũa. Điều này, lẽ dĩ nhiên, là dữ và bị cấm minh nhiên trong Ki-tô giáo. Nhưng như ta đã thấy trong đoạn bàn về Khổ dâm và Bạo dâm rằng những gì xấu nhất trong bản tính người chính là những sự tốt và vô tội song đã bại hoại. Sự tốt đã biến thái thành oán dục hiện ra rõ ràng đến kinh ngạc trong định nghĩa của Hobbes về Oán thù [Revengefulness]: “khao khát gây đau cho kẻ khác hòng khiến kẻ ấy kết án một hành vi của mình”.[4] Báo thù đánh mất cùng đích nơi phương tiện, nhưng cùng đích của nó không hoàn toàn xấu - nó muốn cái ác của kẻ xấu hiện đến y theo cái cách từng hiện đến nơi người khác. Điều này được chứng minh bởi sự thật rằng bên báo thù không chỉ muốn bên có tội phải chịu đau khổ mà còn muốn y phải chịu đau khổ do tay y gầy ra, phải biết lấy điều đó, và phải biết do đâu. Do đó mới có xung lực muốn chế nhạo kẻ có tội về tội ác của hắn vào lúc báo thù: cũng do vậy mà có những lối nói rất tự nhiên như “Chẳng biết hắn có chịu nổi không nếu người ta cũng làm vậy với hắn” hay “Tôi sẽ dạy cho hắn một bài học”. Cũng vì lẽ ấy mà khi đang đà chửi rủa ai đó, ta thường nói “để ta cho mi biết ta thực sự nghĩ gì về mi”.
Những lúc tổ tiên ta gọi nỗi đau và buồn khổ là “sự báo thù” do Thiên Chúa giáng xuống vì tội lỗi, đó không nhất thiết có nghĩa là họ gán ác-dục cho Thiên Chúa; có khi họ đang nhận ra yếu tố tốt lành ẩn trong ý niệm báo ứng. Chừng nào kẻ dữ còn chưa thấy cái ác hiện diện không sai lệch trong cuộc hiện hữu của hắn, dưới hình thức nỗi đau, chừng ấy hắn vẫn còn bị giam trong ảo tưởng. Nhưng một khi nỗi đau đã đánh thức hắn, hắn biết rằng mình bằng cách này hoặc cách khác đang “chạm trán” với thực tại vũ trụ: hoặc hắn phản nghịch (với khả thể về một hồi kết minh tường hơn cùng một sự thống hối sâu nặng hơn trong tương lai) hoặc hắn sẽ khởi sự tìm cách chỉnh đốn, thứ, nếu gắng đeo đuổi, sẽ đưa đường hắn đến với tôn giáo. Đúng là cả hai hiệu ứng ấy nay không còn rõ như những thời sự hiện hữu của Thiên Chúa (hay chí ít là của các vị Chúa) được biết đến phổ quát hơn, nhưng ngay ở thời chúng ta đây, ta vẫn thấy nó đang hoạt động. Đến cả những người vô thần cũng phản nghịch và bộc lộ, như Hardy và Housman, cơn nộ của họ đối với Thiên Chúa dù (hoặc chính vì) Người không, từ quan điểm của họ, tồn tại: và những người vô thần khác, như ông Huxley chẳng hạn, lại bị sự khổ câu thúc mà nêu lên cả một nan đề về hiện hữu và tìm một ngõ lối nào đó đặng hòa giải với nó, một điều, dù chẳng phải Ki-tô giáo, hầu cũng đã là vô tận cao vời so với sự mãn nguyện xuẩn ngốc của một cuộc đời phàm tục. Rõ là Nỗi Đau, như chiếc loa phóng thanh của Thiên Chúa, là một khí cụ kinh khiếp; nó dễ dẫn đến cuộc phản nghịch rốt cùng và không hối cải. Nhưng đó là cơ hội duy nhất để kẻ dữ có thể lấy làm phương cải-thiện. Nó gỡ tấm mạng ra; nó cắm lá cờ của lẽ thật vào chính tâm pháo đài của một tâm hồn phản nghịch.
Nếu tác động thứ nhất của nỗi đau là dập tan ảo tưởng cho rằng mọi sự đều ổn, thì tác động thứ hai là dập tan ảo tưởng cho rằng những gì ta có, mặc cho tự thân chúng tốt hay xấu, là của riêng ta và đã đủ cho ta. Ai cũng từng thấy việc hướng lòng về Chúa khó ra sao khi mọi sự đang yên ổn. Ta “có đủ mọi thứ ta muốn” quả là một câu nói đáng sợ khi “mọi thứ” ấy không bao gồm Thiên Chúa. Ta thấy Thiên Chúa như một sự ngắt. Như Augustine từng nói ở đâu đó “Chúa muốn ban cho ta một điều gì đó, nhưng không thể, vì tay ta đang đầy - chẳng còn chỗ đâu cho Ngài đặt điều ấy vào.” Hay nói như một người bạn tôi, “ta xem Thiên Chúa như cách phi công xem chiếc dù; nó ở đấy phòng những lúc nguy cấp, nhưng anh ta mong cho mình chẳng phải dùng đến bao giờ.” Mà Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, biết rõ ta là gì và biết rằng hạnh phúc của ta nằm trong tay Người. Song ta sẽ chẳng tìm hạnh phúc ấy trong Người chừng nào Người còn chừa cho ta một chỗ nương tựa khác - nơi ta tưởng như đang cất giữ nó. Chừng nào cái mà ta gọi “đời tư ta” vẫn còn dễ chấp nhận, chừng ấy ta còn chưa phó phục nó cho Người. Vậy Thiên Chúa còn có thể làm gì, vì lợi ích của chúng ta, ngoài việc khiến “đời tư ta” trở nên khó chấp nhận, và mang đi những nguồn hạnh phúc giả-tưởng? Chính ở điểm này, nơi sự quan phòng của Thiên Chúa thoạt trông như tàn nhẫn nhất, sự khiêm hạ của Thiên Chúa, cái cúi đỡ của Đấng Tối Cao lại đáng được tụng ca hơn cả. Ta bàng hoàng khi thấy bất hạnh ập xuống những con người đứng đắn, vô hại, đáng trọng - những bà mẹ siêng năng, đảm đang, những tiểu thương cần cù, mẫn cán, những kẻ đã nhọc công lao khổ, và thật thà, đặng tạo dựng chút hạnh phúc khiêm nhường và đang toan hưởng thụ thành quả đáng công đáng cáng ấy. Điều tôi cần nói ra đây, nói sao cho đủ dịu dàng? Tôi biết, trong mắt của từng độc giả địch thù, tôi phải gánh chịu mọi sự khổ tôi đang cố giảng giải như một bổn phận của mình - như đó giờ người ta vẫn khăng khăng rằng Augustine muốn trẻ sơ sinh chưa chịu báp-têm phải sa Địa ngục; nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là tôi không được khiến cho ai xa lạ lẽ thật. Cho tôi xin được khẩn nài các độc giả, hãy thử tin, dẫu chỉ trong chốc lát, rằng có lẽ Thiên Chúa, Đấng đã dựng những con người đáng quý ấy, đã rất phải khi thấy rằng sự thịnh vượng khiêm nhường và hạnh phúc của con cái họ không đủ để khiến họ và chúng nên kẻ được phúc: rằng thảy bao điều ấy rốt cuộc sẽ phải tuột khỏi tay họ, và nếu họ chưa học biết lấy Người, họ sẽ phải sa khốn-nạn. Và do vậy Người phiền nhiễu họ, cảnh tỉnh họ trước cảnh thiếu-mất mà một ngày nào đó họ buộc phải nhận ra. Chính cuộc đời mà họ sống cho bản thân cùng gia đình chặn họ trước sự nhận biết nhu cầu quan yếu của họ; thế là Người làm cuộc đời ấy bớt dịu êm. Tôi gọi đó là sự khiêm hạ của Thiên Chúa bởi thật thê thảm biết bao nếu chỉ chịu giương cờ hàng Thiên Chúa khi nước đã dâng dưới chân ta; thê thảm biết bao khi đến với Người như phương sách cuối, khi chỉ chịu dâng lên cái “riêng-tư” vào lúc nó chẳng còn giá trị gì để o bế nữa. Chúa mà kiêu thì Người sẽ chẳng thu nhận ta với những điều kiện như thế: nhưng Người không kiêu, Người khiêm để chinh phục, Người sẽ thu nhận ta dù ta đã tỏ ra rành rành rằng ta ưa thích mọi thứ khác hơn là Người, đến với Người chỉ khi “không còn gì” để ham nữa. Cũng chính sự khiêm hạ được biểu lộ qua biết bao lời kêu gọi của Thiên Chúa đánh động vào mọi loại sợ hãi của ta, sự thường khiến các độc giả kiêu ngạo bất an mỗi khi đọc Kinh Thánh. Chẳng có gì để Chúa tán dương khi ta chọn Người như một phương thay cho Địa Ngục: ấy vậy mà Người vẫn chấp nhận. Ảo tưởng về sự tự túc của thụ tạo phải bị dập tan, vì chính nó; và chính qua bất an hoặc nỗi sợ bất an trên đất, qua nỗi sợ thô sơ là ngục lửa đời đời, Thiên Chúa phá vỡ ảo tưởng ấy, “chẳng màng xem có làm vinh quang Ngài hao hụt”. Người nào muốn Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh phải thuần đạo đức hơn nữa, người ấy không biết mình đang đòi hỏi gì. Nếu Thiên Chúa là một nhà luân lý kiểu Kant, một người chẳng thâu nhận ta chừng nào ta chưa đến với ông bằng những động cơ tinh tuyền và tốt đẹp nhất, thì ai sẽ là người được cứu độ? Và ảo tưởng về sự tự túc ấy dễ thường mạnh nhất nơi những con người trung thực, nhân từ, và tiết độ hết mực, và chính vào những người ấy, do vậy, bất hạnh phải giáng.
Nhưng sự tự túc không lý giải được tại sao Chúa Chúng ta nhìn tật của những kẻ buông thả và phóng dật bằng một con mắt khoan dung hơn rất nhiều so với khi nhìn vào tật dẫn đến các dạng thành công thế tục. Phường đĩ điếm thì chẳng sa vào cái thế nguy cho rằng cuộc sống của mình đã đủ đầy viên mãn đến độ thấy mình không thiết phải xoay về Thiên Chúa: còn kẻ kiêu ngạo, kẻ tham lam, kẻ tự cho mình là công chính thì lại dễ sa vào thế ấy.
Tác động thứ ba của sự khổ khó nắm bắt hơn một chút. Ai cũng thừa nhận rằng lựa chọn là một hành động có ý thức; muốn chọn thì ta phải biết ta đang chọn. Ta biết rằng con người Địa đàng luôn chọn tuân theo ý Chúa. Tuân theo ý Người, họ cũng đồng thời được thỏa nguyện mọi khao khát của mình, ấy là bởi mọi hành động Thiên Chúa đòi hỏi y, kỳ thực, phải tương hợp với thiên hướng toàn-vẹn trong y, và cũng bởi việc phụng sự Thiên Chúa tự thân nó đã là lạc thú lớn nhất của họ, một cái thú nếu thiếu thì mọi thú khác đều có nguy cơ nhạt đi như thức ăn mất vị. Câu hỏi “Tôi đang làm điều này vì Chúa hay vì tôi ưng làm thế?” lúc bấy giờ không nảy sinh, vì chính việc làm những sự đẹp lòng Thiên Chúa là việc họ “ưng làm”. Ý-hướng-Chúa của họ sẽ cỡi lên hạnh phúc như thả mình trên lưng một con ngựa thuần-thục, trong khi ý hướng của chúng ta, khi vui, lại bị tuột đi trong niềm hạnh phúc như trong một con tàu êm xuôi theo dòng nước. Lạc thú lúc bấy giờ là một của lễ đẹp lòng Thiên Chúa bởi hiến dâng chính là một lạc thú. Còn chúng ta thì thừa hưởng cả một hệ thống khao khát vốn chẳng mâu thuẫn với ý Thiên Chúa nhưng lại, sau hàng bao thế kỷ sống trong thế tự chủ tiếm được, kiên quyết làm ngơ ý Người. Giả sự ta ưng làm lại chính là sự Thiên Chúa muốn ta làm, song cớ ta làm sự ấy chẳng phải để đẹp lòng Thiên Chúa, thì đó vẫn chỉ là một duyên lành mà thôi. Vậy nên ta không thể biết rằng mình có đang hành vì Thiên Chúa, dù thứ yếu hay chính yếu, hay không, trừ khi chất thể của hành động ấy đối nghịch với thiên hướng của ta, hoặc (nói cách khác) gây đau cho ta, mà phàm chi ta không thể biết rằng ta đang chọn, ta không thực sự chọn được. Biểu hiện từ việc tự-phó cho Thiên Chúa thành thử đòi hỏi nỗi đau: hành động này, để nên tròn vẹn, phải phát xuất từ ý muốn vâng phục thuần túy, trong sự vắng của thiên hướng, hoặc trái hẳn với nó. Tôi biết rất rõ rằng ta không thể thực hiện sự đầu phục ngã thể bằng cách chỉ làm những gì mình ưng, tôi đang cảm nghiệm điều ấy ngay lúc này đây. Khi tôi nhận viết cuốn sách này, tôi đã mong rằng ý chí sẽ vâng phục một sự “soi dẫn” phần nào hiện diện trong những động cơ của tôi. Nhưng giờ thì tôi đã hoàn toàn chìm vào việc viết, và viết đã trở thành một cám dỗ hơn là một bổn phận. Có lẽ tôi vẫn mong rằng việc viết cuốn sách này suy cho cùng là hòa hợp với ý Chúa: nhưng để cho rằng tôi đang học cách đầu phục bản ngã bằng cách làm một sự gì lôi cuốn tôi thì quả là lố bịch.
Đây chúng ta đang giẫm trên một nền đất vô cùng khó bước. Kant cho rằng không hành động nào mang giá trị đạo đức trừ phi hành động ấy phát xuất từ lòng tôn kính thuần túy luật đạo đức, nghĩa là, không có thiên hướng can dự, và do quan điểm ấy mà ông bị buộc là mang một “tâm trí bệnh hoạn” đo giá trị của hành động bằng độ khó chịu của nó. Dư luận, quả thực, thảy đều đứng về phía Kant. Người ta chẳng bao giờ mộ ai vì người ấy làm điều mình ưng cả: mấy tiếng “Nhưng anh ta thích vậy” hàm ý “Vậy thì điều đó chẳng có công trạng gì sất”. Đối lập với Kant là một chân lý hiển nhiên, được Aristotle ghi nhận, rằng ai càng đức hạnh thì người ấy càng hân hưởng các hành động có tính đức hạnh. Tôi chẳng biết người vô thần nên giải quyết mâu thuẫn giữa đạo đức bổn phận và đạo đức đức hạnh này ra sao: nhưng là một Ki-tô hữu, tôi đề xuất lối giải sau.
Có lúc người ta vẫn hỏi rằng Thiên Chúa truyền dạy một điều nào đó vì điều ấy là phải, hay một điều nào đó trở nên phải vì Thiên Chúa đã truyền dạy nó. Cùng với Hooker và nghịch với Dr. Johnson, tôi dứt khoát chọn lấy vế thứ nhất. Vế thứ hai dễ thường dẫn đến một kết luận ghê gớm (mà tôi cho là Paley đã chạm đến), rằng tình bác ái được xem là tốt lành chỉ vì Thiên Chúa đã tùy tiện truyền dạy nó - rằng nếu cũng cứ như vậy mà Người truyền dạy ta thù ghét Người cùng lẫn nhau thì sự thù ghét khi ấy hẳn sẽ trở thành điều phải lẽ. Ngược lại, tôi tin “kẻ nào cho rằng Thiên Chúa làm điều này điều kia chẳng bởi nguyên do nào đằng sau ngoài chính ý muốn Ngài, ấy là kẻ lầm lạc”. Ý Chúa được định đoạt bởi sự khôn ngoan Người luôn nhận biết và bởi sự tốt lành Người luôn hoan nghênh, sự tốt lành nội tại. Nhưng khi ta nói rằng Thiên Chúa truyền dạy điều gì chỉ vì chúng là điều tốt lành, ta còn phải nói thêm rằng một trong những điều tốt lành từ nội tại ấy chính là loài thụ tạo hữu lý cần phải tự nguyện phó mình trong sự vâng phục Đấng Sáng Tạo chúng. Nội-dung sự vâng phục của ta - tức là điều ta được truyền làm - sẽ luôn là một điều gì đó vốn tốt lành, là một điều mà ta nên làm, kể cả nếu (chuyện bất khả) Thiên Chúa không truyền dạy cho ta làm. Nhưng ngoài phần nội-dung, chỉ mỗi hành động vâng phục đơn thuần thôi cũng đã là một điều tốt từ nội tại, bởi, trong hành động ấy, một thụ tạo hữu lý ý thức phải đóng đúng rôles thụ tạo của nó, đảo ngược thể động đã khiến ta sa ngã, lùi bước trong điệu vũ của A-đam, và quy hồi.
Vậy nên ta đồng ý với Aristotle rằng điều chi vốn tốt từ nội tại cũng là điều có thể đồng thuận được, và người nào càng tốt lành thì người ấy càng ưa điều lành; nhưng ta cũng đồng ý với Kant, rằng có một hành động phải lẽ - ấy là đầu phục ngã thể - mà loài thụ tạo sa ngã chẳng thể vươn lên cùng đỉnh nếu không có nỗi khó chịu. Và ta còn phải kể đến rằng hành động phải lẽ độc nhất này bao hàm mọi sự công chính khác, và rằng cú ngắt tối hậu sự sa ngã của A-đam, chuyển động “lùi toàn tốc” để lần lại chuyến hải trình ta đã khởi sa từ Địa đàng, cái tháo nút thắt cổ thiên, chặt cứng ấy, phải là khi thụ tạo, không được một mảy may khát khao nào đắp vá cho, bị lột trần truồng chẳng sót một manh nào ngoài ý muốn vâng phục trụi trơ, ôm lấy điều ngược lại với bản tính nó, và thực hiện sự vâng phục ấy bởi đó là động lực duy nhất nó có thể tạo ra. Một hành động như thế có thể miêu tả như một “phép thử” cho sự quy hồi về Chúa của thụ tạo: vì lẽ ấy mà cha ông ta mới nói “lửa thử vàng”. Một gương điển hình là “thử thách” Áp-ra-ham được truyền lệnh tế sát Y-sác. Ở đây tôi không bàn đến sử tính hay luân lý tính của câu chuyện, mà chỉ ngó đến câu hỏi hiển nhiên kia, rằng “Nếu Thiên Chúa toàn tri thì người đã phải biết trước chuyện Áp-ra-ham rắp lòng làm, mà chẳng cần kinh nghiệm; vậy, cớ sao có cơn khổ nạn chẳng thiết có ấy?” Song như Augustine đã chỉ ra, mặc cho Thiên Chúa biết gì, Áp-ra-ham chẳng hề biết rằng lòng vâng phục của ông có thể chịu nổi một lệnh truyền như thế, cho đến khi sự biến dạy cho ông biết: vì ông không biết mình sắp sửa chọn sự vâng phục nên không thể nói là ông đã chọn được. Thực tại của sự vâng phục nơi Áp-ra-ham chính là thể động; và điều Thiên Chúa biết trong sự biết rằng Áp-ra-ham “sẽ vâng phục” chính là sự vâng phục được hiện thực hóa trên đỉnh núi ấy vào chính khắc ấy. Còn nói rằng Thiên Chúa “không nhất thiết phải thử” thì khác nào nói vì Thiên Chúa biết, nên điều chi được Thiên Chúa biết không cần tồn tại.
Nếu nỗi đau đôi lúc phá vỡ ảo tưởng tự túc của thụ tạo, thì trong những “Thử thách” hoặc “Hy tế” tối thượng, nó lại dạy cho thụ tạo biết sự tự túc mà nó đáng ra nên có - cái “sức mạnh, mà, mặc may Thiên Thượng ban cho, mới gọi là của hắn được”: bởi chưng khi ấy, trong sự vắng mọi động lực và nâng đỡ tự nhiên, nó sẽ hành động bằng chính sức mạnh ấy, và chỉ độc mỗi sức mạnh ấy thôi, sức Thiên Chúa đã thông ban cho qua ý chí quy phục của nó. Ý chí con người chỉ thực trở nên sáng tạo và thực là của riêng ta khi nó hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, ấy là một trong muôn vàn nghĩa của lời phán ai [vì cớ Ta mà] mất sự sống [của mình] thì sẽ được lại. Trong bao hành động khác, ý chí chúng ta phải nhờ đến tự nhiên cấp nguồn cho, tức là, nhờ một thể thụ tạo nào khác với ngã thể - nhờ vào những khát khao mà cơ-thể ta và mạch di truyền ta cấp cho. Còn khi chỉ từ chính mình mà hành động - tức là, từ Thiên Chúa trong ta, ta nên những cộng tác viên trong, hay nên những khí cụ sống của, sự tạo dựng, và một hành động như thế sẽ hoàn tác bằng “tiếng lầm bầm ngược của lực phân ly” cái phép phi-tạo mà A-đam đã ếm lên dòng giống ông. Thành thử, như tự tử là biểu hiện điển hình của tinh thần khắc kỷ, chiến đấu là của tinh thần chiến binh, tuẫn đạo vẫn cứ là sự hoàn bị tối thượng của tinh thần Ki-tô. Hành động lớn này đã khởi phát vì chúng ta, hoàn tất thay cho chúng ta, dùng làm gương hầu cho ta noi theo, và được thông tri cách khôn dò đến mọi tín hữu, bởi Đấng Christ trên đồi Can-vê. Ở đó, mức độ chấp nhận Sự Chết đạt đến cùng cực những gì có thể hình dung, có khi còn vượt khỏi giới hạn ấy; không chỉ mọi nâng đỡ tự nhiên mất đi, mà cả hiện diện của chính Chúa Cha, Đấng mà hy lễ hướng đến, cũng xa lìa con, vậy mà sự đầu phục Thiên Chúa vẫn không hề nao núng, dầu Thiên Chúa có “lìa-bỏ” nó[5].
Giáo lý về sự chết tôi vừa trình bày không phải là điều riêng biệt gì của Ki-tô giáo. Chính Tự Nhiên đã hằn khắc điều ấy khắp thế gian qua hồi kịch diễn đi diễn lại về hạt giống bị vùi xuống đất và sau lúa mì mọc lên. Từ tự nhiên, có lẽ, những cộng đồng canh nông sớm nhất đã học biết lẽ ấy và cùng với các lễ tế động vật, hoặc con người, họ đã cho thấy suốt hàng thế kỷ lẽ thật “không đổ huyết thì không có sự tha thứ”[6]; và dầu thoạt đầu các quan niệm như thế chỉ nhằm đến mùa màng và nòi giống của các bộ tộc, về sau chúng lại, trong các Màu Nhiệm, nhằm đến sự chết thuộc linh và sự sống lại của cá thể. Nhà khổ hạnh Ấn Độ, ép xác mình trên giường chông, cũng giảng cùng bài ấy; triết gia Hy Lạp thì bảo rằng sống đời khôn ngoan là phải “tập chết”.[7] Kẻ dị giáo cao thượng và nhạy cảm của thời hiện đại dựng nên những vị thần tưởng tượng rồi khiến họ “chết vào sự sống”.[8] Huxley thì giảng giải về “không vướng mắc”. Ta không sao trốn khỏi giáo lý ấy bằng cách thôi làm Ki-tô hữu được. Đó là một “phúc âm muôn đời” được mặc khải cho loài người tại nơi nào mà con người tìm, hoặc chịu lấy, lẽ thật ấy: đó là kinh mạch của ơn cứu chuộc, thứ mà sự khôn ngoan mọi thời mọi nơi đều phải giải phẫu để bày phơi; là sự biết không thể thoái thác mà Sự Sáng soi sáng mọi người[9] vẫn không ngừng ấn xuống tinh thần hết thảy những ai thành tâm truy vấn xem vũ trụ rốt cuộc là “thể nào”. Điều riêng biệt của đức tin Ki-tô không nằm ở chỗ dạy giáo lý ấy mà ở chỗ khiến nó, theo nhiều nẻo lối, nên điều khả-dung. Ki-tô giáo dạy ta rằng nhiệm vụ khủng khiếp ấy đã, theo một nghĩa nào đó, hoàn tất thay ta - rằng tay của một người thầy đang cầm lấy tay ta khi ta cố dò theo những ký tự khó hiểu và rằng nét chữ ta chỉ cần là một bản “cóp” thôi, không thiết phải là nguyên bản. Lại nữa, như các hệ thống khác phơi toàn thể bản tính ta ra trước sự chết (như xuất ly của Phật giáo), Ki-tô giáo chỉ cầu ta chỉnh sao cho chính lại một sự lạc hướng nơi bản tính ta, và không chống đối thân xác như một thực thể - như Plato đã làm - cũng không bác bỏ các yếu tố tâm lý trong cấu trúc con người. Và hy tế, ở hình thức hiện thực hóa chí cao của nó, không ép mọi người phải thực hiện. Người xưng tội cũng được cứu như người tuẫn đạo, và dường như vài vị cao lão có ân sủng ta chẳng thể lấy làm nghi đã đi hết chặng bảy mươi theo cách rất đỗi nhẹ nhàng. Hy tế của Đấng Christ được lặp lại, hay vọng lại, nơi các tín hữu đi theo người ở nhiều mức độ xa biệt nhau, từ những cái chết tuẫn đạo tột ghê rợn xuống đến một sự nộp-mình trong thâm-ý có dấu hiệu ngoại hướng chẳng khác gì trái quả thường mùa của tiết độ và “sự phải lẽ ngọt ngào”. Nguyên cớ của sự phân bổ ấy thì tôi không biết; nhưng từ điểm nhìn hiện tại, hẳn đã rõ rằng nan đề thực không phải là vì sao một số người khiêm tốn, đạo hạnh, thành tín lại khổ đau, mà là vì sao một số người lại không. Chúa Chúng ta, như ai nấy đều nhớ, đã giải thích về sự cứu rỗi của những kẻ hạnh vận ở đời này chỉ bằng cách nhắc đến sự toàn năng không thể thấu của Đức Chúa Trời.[10]
Mọi lý lẽ nhằm cào bằng sự khổ đều khơi dậy một sự phẫn uất nhẫn đắng cho ông tác giả. Bạn hẳn muốn biết tôi hành xử ra sao khi kinh qua nỗi đau, chứ chẳng phải khi đang viết sách về nó. Bạn chẳng phải đoán đâu, bởi tôi sẽ nói thẳng; tôi là một tên đại hèn. Nhưng chuyện đó thì can hệ gì ở đây? Khi tôi nghĩ đến nỗi đau - cơn bồn chồn nhay nhấm như lửa và nỗi cô đơn trải khắp tứ bề như sa mạc, nhịp tim vỡ của những ngày khổ sở lặp đi lặp lại, hay những nhức nhói âm ỉ nhuốm đen toàn bộ phong cảnh, những nỗi đau nhợn ớn đánh thốc tim người ta ra trong một cú, những nỗi đau thoắt tưởng chịu được rồi chốc lại thình lình dấy lên, những nỗi đau như bọ cạp hung hiểm châm chích, làm kẻ dường đã nửa phần chết với cơn khổ hình chặp trước lại giật dậy loạn cuồng - quả thật, “tinh thần tôi chao đảo cả”[11]. Nếu tôi biết có lối thoát nào, tôi sẽ bò qua rãnh cống để tìm. Nhưng kể cho bạn nghe cảm xúc của tôi thì có ích gì? Bạn vốn biết chúng sẵn rồi: chúng cũng chính là cảm xúc của bạn. Tôi không cãi rằng nỗi đau thì không đau. Đau thì phải đau. Nghĩa của từ ấy là như thế. Tôi chỉ cố cho thấy rằng giáo lý Ki-tô xưa kia, rằng con người “nhờ sự đau đớn mà nên trọn lành”[12] không phải là điều gì khó tin. Còn làm sao cho dễ nuốt, việc ấy nằm ngoài trù định của tôi.
Xét đến tính khả tín của giáo lý ấy, có hai nguyên lý cần phải nhìn nhận. Trước hết, ta phải nhớ rằng khoảnh khắc nỗi đau hiện tại chỉ là tâm điểm của cả một hệ thống khổ nạn luôn nới đường biên nó ra bằng sợ và thương. Mọi hiệu ứng tốt lành từ những kinh nghiệm này hiện ra đều tùy thuộc vào tâm điểm ấy; nên dù cho tự thân nỗi đau không có giá trị thuộc linh nào, nếu sợ và thương có thì nỗi đau vẫn phải hiện hữu nhằm làm nên đối tượng để sợ hãi và xót thương. Và việc nỗi sợ và lòng thương xót ấy trợ lực ta trên cuộc quy hồi về với đức vâng phục và tình bác ái là điều không thể phủ nhận. Ai cũng từng kinh nghiệm hiệu ứng của lòng thương xót khi nó khiến ta yêu thương hơn những kẻ không đáng yêu - tức là, yêu thương con người không phải vì họ tự nhiên dễ mến mà vì họ là anh em ta. Ân ích của nỗi sợ thì hầu hết chúng ta đã học trong những đoạn “khủng hoảng” trước khi đến với cuộc chiến hiện tại. Riêng kinh nghiệm của tôi thì như sau. Tôi tiến bước dọc đường đời trong cảnh sa ngã và vô thần êm dạ thường quen của mình, theo đà mê mải - mai đến với cuộc vui bạn bè, nay lui tới một mẩu việc nào đó khuấy dậy sự hư không của tôi, một kỳ nghỉ hoặc một cuốn sách mới, rồi bỗng chốc một cơn đau bụng đe dọa bệnh tật kịch liệt hay một dòng tít báo dọa ta về sự hủy diệt bốc đi một lá khỏi tòa lâu đài dựng bằng bài và khiến nó đổ sụp. Thoạt đầu tôi ngợp lắm, và thảy mọi hạnh phúc nhỏ bé của tôi thoắt trông như mớ đồ chơi nát. Thế rồi, ì ạch và khiên cưỡng, từng chút một, tôi cố đưa mình vào tâm cảnh đáng ra phải ở trong mọi lúc mọi thời. Tôi tự nhủ rằng thảy những món đồ chơi kia vốn chẳng được định để chiếm lấy tâm tôi, rằng thiện chân của tôi đang ở một thế giới khác và của báu thật của tôi là Đấng Christ. Và có lẽ, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi thành công, và trong một đôi ngày đã nên một thụ tạo ý thức rõ nó đang tùy thuộc vào Chúa và bắt lấy sức mạnh cho mình từ những nguồn đúng. Nhưng ngay khắc mối đe dọa kia biến đi, toàn thể bản tính tôi liền nhảy phốc lại với những món đồ chơi ấy: tôi thậm chí còn nóng ruột, mong Chúa tha tội cho con, muốn xua đi rầm cột đã nâng đỡ tôi đương khi nằm dưới ách dọa - bởi giờ rầm và cột ấy đã gắn với nỗi khổ của đôi ngày ấy. Thành thử tất sự khủng khiếp của hoạn nạn chỉ càng rõ rành hơn. Chúa đã có được tôi trong vẻn vẹn bốn tám tiếng đồng hồ, vả chỉ có được bằng cách tước khỏi tôi mọi thứ khác. Người cứ thâu gươm lại chốc lát là tôi liền xử sự như chú cún sau hồi tắm táp khó chịu xong xuôi - tôi giũ mình thật ráo rồi ba chân bốn cẳng chạy ngay lại với đống dơ dáy dễ chịu, nếu chẳng phải là đống phân gần nhất thì ít nhất cũng là luống hoa gần nhất. Ấy thế nên hoạn nạn chẳng cách nào dứt được, cho đến khi Chúa đã thấy ta được tái tạo hoặc thấy rằng sự tái tạo là điều đã trở nên vô vọng nơi ta.
Thứ đến, khi ta xét riêng nỗi đau tự thân - tâm điểm của toàn hệ thống hoạn nạn - ta phải cẩn trọng chú ý đến những gì ta biết chứ không phải những gì ta tưởng. Đó là một trong nhiều lý do tại sao toàn bộ phần trung tâm của quyển sách này dành trọn cho nỗi đau con người, còn nỗi đau thú vật thì được dành cho một chương đặc thù hơn. Về nỗi đau con người thì ta biết, còn về nỗi đau thú vật thì ta chỉ có phỏng đoán. Nhưng ngay cả ở loài người thì ta vẫn chỉ rút chứng cứ ra từ những trường hợp nào từng xảy đến trong tầm quan sát của ta. Một số nhà văn nọ hay nhà thơ kia dễ thường có khuynh hướng tái hiện sự khổ như một thứ chỉ tuyền những hiệu ứng xấu, như là nguồn tạo ra và biện minh cho mọi ác tâm và thú tính nơi người chịu khổ. Và, cố nhiên, nỗi đau, cũng như lạc thú, có thể được đón nhận theo lối ấy: bất cứ điều gì được ban cho một thụ tạo có ý chí tự do đều là con dao hai lưỡi, không phải vì bản tính của Đấng ban hay của món quà, mà do bản tính của đàng nhận.[13] Một lần nữa, những hệ quả tiêu cực của nỗi đau có thể bị khuếch đại nếu người đau khổ liên tục bị người đứng ngoài dạy cho rằng những hệ quả đó là điều "phải có", là biểu hiện "xứng đáng" và "nam tính" mà họ cần thể hiện. Phẫn nộ trước sự khổ của người khác, dầu là một loại dục vọng cao đẹp, cần phải được điều phối cho khéo kẻo nó cắp đi sự nhẫn nại và khiêm hạ từ những người chịu khổ rồi sau lại vun bừa vào đó phẫn giận và sự hoài nghi cay độc. Nhưng tôi không cho rằng sự khổ, nếu được miễn khỏi thứ phẫn giận lạc tông ấy, có một khuynh hướng nào đặng tạo ra những sự dữ như vậy. Tôi không thấy các chiến hào tuyến đầu hay các trạm cứu thương mặt trận đầy rẫy hận thù, vị kỷ, nổi loạn và dối trá hơn những nơi nào khác. Tôi từng thấy cái đẹp lớn ở tinh thần những người chịu khổ lớn. Tôi từng thấy loài người, phần đa, chẳng trở nên xấu xa hơn theo năm tháng, và tôi từng thấy bệnh cuối đời tạo ra của báu chất kiên chịu và nhu mì trong những cái kho tưởng chừng sắp đổ. Tôi thấy nơi các nhân vật được yêu mến và kính phục trong lịch sử, chẳng hạn như Johnson và Cowper[14], những phẩm chất hẳn sẽ khó chấp nhận nổi nếu sinh tiền những vị ấy đã từng hạnh phúc hơn. Nếu thế gian này kỳ thực là “thung luyện hồn”, xem ra nó đang làm tốt việc của nó. Về nghèo - một hoạn nạn mà dù phát hay tiềm thì cũng bao gồm mọi hoạn nạn khác - tôi chẳng dám nói chi từ những gì mình biết; còn ai từ chối Ki-tô giáo sẽ phải dao động bởi lời Đấng Christ, rằng phước cho những kẻ khó khăn. Nhưng đây lại có một sự thật khá lạ lùng đến trợ lực cho tôi. Chính những người bỉ mặt chối bỏ Ki-tô giáo như một thứ “thuốc phiện của nhân dân” lại tỏ lòng bỉ trước lớp giàu, tức là, gần như toàn thể nhân loại chỉ trừ người nghèo. Họ xem người nghèo là nhóm duy nhất đáng được cứu khỏi “thanh trừng”, và đặt nơi họ niềm hy vọng duy nhất cho tương lai nhân loại. Nhưng điều này không thể đi đôi với niềm tin rằng tác động của nghèo đói lên người gánh chịu là hoàn toàn tiêu cực; ngược lại, nó thậm chí ngầm khẳng định rằng nghèo đói mang lại điều gì đó tốt lành. Người Mác-xít do vậy lại thấy mình phải đồng tình với Ki-tô hữu ở hai tín điều mà Ki-tô giáo đòi hỏi theo cách nghịch lý - rằng nghèo khó là phúc lành, và rằng nó cần được xoá bỏ.
Gia Hải dịch
[1] Hay sẽ an toàn hơn nếu nói là “giữa muôn loài thụ tạo”. Tôi hoàn toàn không có ý bác quan điểm cho rằng “tác căn” [efficient cause] bệnh tật, hoặc một số loại bệnh, dường là một loại thụ tạo khác với con người (xem chương IX). Trong Kinh Thánh, Sa-tan đặc biệt được nối với bệnh tật như trong sách Gióp, Lu-ca 13:16, I Cô-rinh-tô 5:5 và (có lẽ) ở I Ti-mô-thê 1:20. Tại bước lập luận này, việc các thụ tạo mà Thiên Chúa cho phép có quyền tra tấn các thụ tạo khác có phải là con người hay không không quan trọng
[2] Từ Mortification (sự hãm mình) xuất hiện từ cuối thế kỷ 14, mang nghĩa “việc làm chết phần xác, hành động chế ngự các vọng dục và thị dục, sự trấn áp các ham muốn thân xác,” bắt nguồn từ tiếng La-tinh hậu kỳ mortificatio (danh từ của mortificare - mort- = chết + -ficare = làm cho; cũng tức diệt). Sang đầu thế kỷ 15, từ này còn chỉ hiện tượng một bộ phận cơ thể chết đi trong khi phần còn lại vẫn sống (tức hoại tử theo nghĩa y học). Đến giữa thế kỷ 17, mortification mang thêm nghĩa chuyển là “cảm giác nhục nhã, ê chề.” (ND)
[3] Xu hướng hiện đại hiểu “tàn bạo” [sadistic cruelty] đơn thuần là “rất tàn ác”, hoặc là thứ tàn ác bị tác giả lên án kịch liệt, chẳng có ích lợi gì [trong việc đánh giá hành vi].
[4] Leviathan, Phần I, chương 6.
[5] Ma-thi-ơ 27:46. (ND)
[6] Hê-bê-rơ 9:22.
[7] Platon, Phædo, đoạn 81a (cf. 64a)
[8] Keats, Hyperion, quyển III, dòng 130.
[9] Giăng 1:9. (ND)
[10] Mác 10:27.
[11] Lời của Hamlet trong màn cuối vở bi kịch cùng tên. (ND)
[12] Hê-bê-rơ 2:10.
[13] Về bản tính hai lưỡi của nỗi đau, xem Phụ lục.
[14] Tức Samuel Johnson và William Cowper, hai nhà thơ Anh. (ND)