favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges: Thuyết chu kỳ (phần cuối)

09/11/2025 14:21

trước tiên,

II.

Khoảng mùa thu năm 1883, Nietzsche viết: “Con nhện bò chậm chạp dưới ánh trăng, và chính dưới ánh trăng ấy, mi cùng ta thì thầm bên cổng, thì thầm về những điều vĩnh cửu, phải chăng ta đã từng gặp nhau trong quá khứ? Và phải chăng ta sẽ còn gặp lại nhau lần nữa trên con đường dài, trên con đường dài và run rẩy ấy, phải chăng ta sẽ bước đi trên đó đến vĩnh cửu? Ta đã nói thế, giọng ngày càng lịm đi, bởi những suy nghĩ của ta và những gì ẩn chứa sau chúng làm ta khiếp đảm.” Khoảng thế kỷ III TCN, Eudemus, người chú giải Aristotle, đã viết: “Nếu ta tin theo trường phái Pythagoras, đúng một lúc nào đó những điều tương tự sẽ quay trở lại và ngươi sẽ lại bên ta một lần nữa và ta sẽ lặp lại giáo lý này và tay ta sẽ lại vân vê cây gậy này, cứ thế tiếp diễn mãi.” Trong thuyết vũ trụ của phái khắc kỷ, “Zeus nuốt chửng thế giới”: vũ trụ bị ngọn lửa đã từng sinh ra nó thiêu rụi theo chu kỳ, và rồi trỗi dậy từ sự huỷ diệt để lặp lại một lịch sử y hệt. Một lần nữa các hạt giống nguyên sinh kết hợp với nhau, một lần nữa chúng tạo nên hình hài thạch đá, cây cối và con người – và cả những đức hạnh và những ngày tháng, bởi đối với người Hy Lạp, không một danh từ nào không đi kèm theo một hiện thân vật chất. Một lần nữa mỗi thanh gươm và mỗi anh hùng, một lần nữa mỗi đêm mất ngủ đầy những nghĩ suy.

Cũng như mọi giả thuyết khác của trường phái khắc kỷ, thuyết quy hồi hoàn hảo này đã kéo dài theo thời gian, và thuật ngữ chuyên môn của nó, apokatastasis, đã đi vào các sách Phúc Âm (Công vụ Tông đồ, 3:21), dù không với một chủ ý rõ ràng nào. Quyển XII cuốn Thành phố của Chúa của Saint Augustine dành nhiều chương bác bỏ học thuyết quá đỗi gớm ghiếc này. Những chương này (tôi đang bày ra trước mặt) quá rắc rối để tóm tắt, nhưng cơn thịnh nộ đậm đà tính chất giám mục của tác giả dường như xuất phát từ hai nguyên do: thứ nhất, sự vô ích phô trương của cái bánh xe ấy; thứ hai, sự lố bịch của việc Ngôi Lời phải chết như một kẻ làm trò trên thập giá trong những biểu diễn bất tận. Những biệt ly và sự vong thân đánh mất phẩm giá khi bị lặp lại quá nhiều lần; hẳn Saint Augustine cũng nghĩ như thế về Sự Đóng Đinh. Điều này giải thích cho sự bác bỏ đầy phẫn nộ của ngài đối với quan điểm của các nhà khắc kỷ và Pythagoras, những người lập luận rằng tri thức của Chúa không thể thấu tận những điều vô hạn và sự luân hồi vĩnh cửu trong tiến trình nhân loại đã giúp Chúa lĩnh hội và nắm bắt nó; Saint Augustine chế giễu những vòng quay vô ích của họ và khẳng định Chúa Kitô chính là con đường đơn tuyến cho ta cơ hội thoát khỏi mê cung tròn xoay của những lầm lạc ấy.

Trong chương bàn luận về luật nhân quả trong Hệ thống Lô-gích học, John Stuart Mill tuyên bố một sự lặp lại có chu kỳ của lịch sử là hình dung được, nhưng không là sự thật, và ông dẫn “một đoạn trích mang tính cứu thế” của Virgil:

Jam redit et virgo, redeunt Saturnia regna…

(Nay Nữ Thần Đồng Trinh đã trở lại, Vương quốc Thời Đại Hoàng Kim đã trở lại…)

Liệu có chăng Nietzsche, một nhà Hy Lạp học, lại không biết đến những “tiền nhân” ấy? Liệu có chăng Nietzsche, tác giả những mẩu chép về các triết gia tiền Socrates, lại không biết một học thuyết đã được môn đồ của Pythagoras tiếp nhận?[1] Thật khó và cũng thật vô ích để tin vào điều đó. Đúng là Nietzsche đã chỉ ra trong một trang văn đáng nhớ nọ địa điểm chính xác nơi ý tưởng về sự quy hồi vĩnh cửu đến thăm ông: một lối mòn trong khu rừng ở Silvaplana, gần một tảng đá khổng lồ hình chóp, vào một buổi trưa tháng Tám năm 1881 – “ở nơi cao hơn con người và thời gian sáu trăm bộ.” Khoảnh khắc ấy cũng trở thành một trong những vinh quang của Nietzsche. “Bất tử thay khoảnh khắc,” ông sẽ viết, “khi ta nghĩ ra sự quy hồi vĩnh cửu. Vì khoảnh khắc ấy, ta chấp nhận Sự Trở Lại” (Unschuld des Werdens, II, 1308). Tuy nhiên, để giải thích điều này, ta không nên giả định một sự ngu dốt đáng kinh ngạc, hay một sự nhầm lẫn quá đỗi con người giữa cảm hứng và hồi ức, hay một sự tội lỗi sinh ra từ lòng kiêu ngạo. Chìa khoá của tôi mang tính ngữ pháp [gramatical], gần như tôi muốn nói đến cú pháp [syntático]. Nietzsche biết sự quy hồi vĩnh cửu là một trong những huyền thoại hoặc nỗi sợ hoặc thú tiêu khiển mà muôn đời vẫn cứ quay lại, nhưng ông cũng biết nhân xưng hữu hiệu nhất trong ngữ pháp chính là ngôi thứ nhất. Đối với một nhà tiên tri, không thể dẫn giải sự mặc khải của mình từ toát yếu, hay từ cuốn Historia philosophiae graeco-romanae [Lịch sử Triết học Hy-La] của hai ông giáo dạy thay Ritter và Preller được vì lý do giọng điệu và lỗi thời – chưa kể chuyện in ấn. Phong cách tiên tri không cho phép sử dụng dấu ngoặc kép hay trích dẫn kinh viện từ sách vở hay tác giả…

Nietzsche muốn tạo ra những con người có khả năng chịu đựng sự bất tử. Phát biểu này tôi xây dựng từ những dòng ghi chép trong sổ tay cá nhân của ông, ngoài ra còn có nhiều dòng như thế trong Nachlass [Di cảo]: “Nếu ngươi tưởng tượng có sự bình yên lâu dài nào trước khi tái sinh, ta chắc chắn rằng mi sai rồi. Giữa khoảnh khắc cuối cùng của ý thức và tia sáng đầu tiên của một đời sống mới là tempo nenhum [vô-thời-gian] – một khoảng ngắt dài bằng thời gian tia chớp, nhưng để đo lường nó thì hàng tỷ năm cũng không đủ. Nếu không có một cái tôi độc nhất, thì tính vô tận có thể tương đương với sự kế tiếp.”

Trước Nietzsche, sự bất tử cá nhân chỉ là một ngộ nhận của những hy vọng, một kế hoạch rối rắm. Nietzsche đề xuất nó như một bổn phận của mình và trao cho nó sự sáng suốt tàn bạo của một cơn mất ngủ. “Thực tế là, không ngủ được là hình đóng đinh của kẻ u sầu,” (tôi đọc trong chuyên luận xưa của Robert Burton) và chúng ta được biết Nietzsche đã chịu đựng sự trừng phạt ấy và buộc phải tìm kiếm cứu rỗi trong chloral hydrate đắng ngắt. Nietszche muốn trở thành Walt Whitman, muốn đắm say cho kiệt cùng cặn kẽ cái số phận mình. Ông đã chọn một phương pháp đầy anh hùng: đào bới lại giả thuyết bất kham của người Hy Lạp về sự lặp lại vĩnh cửu và tìm cách rút ra từ cơn ác mộng tinh thần ấy một dịp cho niềm hân hoan. Ông đã đuổi theo ý tưởng khủng khiếp nhất vũ trụ và mang nó trao cho con người để họ tận hưởng. Kẻ lạc quan nửa vời thường tưởng tượng mình là môn đồ của Nietzsche; Nietzsche đối mặt với hắn ta bằng những vòng tròn của sự quy hồi vĩnh cửu và khạc bỏ hắn ra khỏi miệng mình.

Nietzsche đã viết: “Đừng khao khát những niềm vui, ân huệ và phước lành xa xôi, ta hãy sống sao để ta muốn được sống lại mãi mãi, và cứ thế đến vĩnh cửu.” Mauthner lập luận rằng việc gán cho luận đề vĩnh hồi một ảnh hưởng đạo đức, nghĩa là một ảnh hưởng thực tiễn, chính là phủ nhận luận đề ấy – bởi điều đó tương đương với việc tưởng tượng về một khả năng khác đi có thể xảy ra. Nietzsche hẳn sẽ đáp lại rằng chính sự hình thành của thuyết quy hồi vĩnh cửu và ảnh hưởng đạo đức (tức thực tiễn) rộng khắp của nó, cũng như những suy tưởng của Mauthner và sự bác bỏ của tôi đối với những suy tưởng của Mauthner, tất cả đều chỉ là những khoảnh khắc tất yếu khác trong lịch sử nhân loại, là sản phẩm của sự xáo trộn nguyên tử. Ông hoàn toàn có quyền lặp lại điều mình đã viết: “Chỉ cần học thuyết về sự lặp tuần hoàn là có thể xảy ra, hoặc khả dĩ. Hình ảnh của một khả năng đơn thuần thôi cũng có thể giũ sạch và đổi mới ta. Đã có biết bao hậu quả từ khả năng tồn tại những sự trừng phạt vĩnh cửu rồi đấy thôi!” Và ở một văn bản khác: “Vào khoảnh khắc ý tưởng này xuất hiện, mọi sắc thái đã thay đổi – và ta có một lịch sử khác.”

 

III.

Chúng ta thi thoảng vẫn trầm tư với cảm giác “đã từng trải qua khoảnh khắc này rồi.” Những tín đồ của thuyết quy hồi vĩnh cửu thề với chúng ta rằng đó là sự thật và viện dẫn những bối rối ấy để làm xác tín cho đức tin của họ. Họ quyên mất rằng ký ức [tiền kiếp] bản thân nó sẽ cấu thành một sự mới, thành một sự phủ định luận điểm, và rằng thời gian sẽ hoàn thiện phủ định đó – cho đến chu kỳ xa xôi nào đó khi cá nhân đã có thể dự đoán được số phận của mình và chọn hành động khác đi… Hơn nữa, bản thân Nietzsche chưa từng đề cập đến một sự xác nhận bằng ký ức nào cho Sự Thối Lùi[2].

Ngay cả điều này – và điều này cũng xứng đáng được nhấn mạnh – ông cũng không nói đến tính hữu hạn của các nguyên tử. Nietzsche phủ nhận sự tồn tại của nguyên tử; đối với ông, thuyết nguyên tử chỉ là một mô hình về thế giới, được tạo ra riêng cho đôi mắt và sự hiểu biết mang tính số học… Để đặt nền tảng cho luận điểm của mình, ông đã nói về một lực lưỡng hữu hạn phát triển trong thời gian vô hạn nhưng không thể tạo ra số biến thể vô hạn. Cách lập luận của ông không thiếu tinh quái: đầu tiên, ông cảnh báo chúng ta chống lại ý tưởng về một lực lượng vô hạn – “ta phải cảnh giác với kiểu tư duy chè chén say sưa này!” – và sau đó, rộng lượng thừa nhận thời gian là vô hạn. Hơn nữa, ông thích viện tới Vĩnh cửu Tiền hướng [hay Vĩnh cửu Bất khởi; Eternidade Anterior/past eternity]. Thí dụ: một sự cân bằng của các lực vũ trụ là bất khả, bởi nếu không, nó đã xảy ra trong Vĩnh cửu Tiền hướng rồi. Hoặc: lịch sử vũ trụ đã diễn ra vô hạn lần – trong Vĩnh cửu Tiền hướng. Viện dẫn này nghe có vẻ hợp lệ, nhưng cũng cần nhắc lại rằng ý niệm Vĩnh cửu Tiền hướng này, hay aeternitas a parte ante (một thuật ngữ do các nhà thần học khởi xướng), đơn giản chỉ là sự bất lực cố hữu của chúng ta trong việc hình dung một khởi nguyên của thời gian. Chúng ta cũng mắc chứng bất lực tương tự đối với không gian, tới nỗi việc viện dẫn Vĩnh cửu Tiền hướng cũng mang tính quyết định chẳng khác gì viện dẫn một Vô Tận Về Phải. Nói cách khác: nếu thời gian là vô hạn đối với trực giác thì không gian cũng vậy. Vĩnh cửu Tiền hướng kia chẳng liên quan gì đến thời gian thực sự đã tổi qua; hãy lùi về giây đầu tiên và chúng ta sẽ nhận thấy rằng giây đầu tiên ấy đòi hỏi một giây tiền thân, và giây tiền thân ấy lại đòi hỏi một giây khác nữa, cứ thế đến vô hạn. Để chặn đứng sự thối lui vô tận regressus in infinitum [sự thối lui vô hạn] này, Saint Augustine đã quyết định đồng hoá giây đầu tiên của thời gian với giây đầu tiên Sáng Thế – non in tempore sed cum tempore incepit creatio [sự sáng tạo không bắt đầu trong thời gian, mà khởi sinh cùng với thời gian].

Nietzsche cũng viện dẫn tới năng lượng; định luật II của nhiệt động lực học tuyên bố rằng có một số quá trình năng lượng là bất thuận nghịch. Nhiệt và ánh sáng không khác gì hơn các dạng thức của năng lượng. Chỉ cần chiếu một luồng sáng lên bề mặt đen, nó sẽ biến đổi thành nhiệt. Tuy nhiên, nhiệt sẽ không trở lại dạng ánh sáng. Sự xác nhận này, thoạt nhìn có vẻ vô hại và vô vị, đã huỷ bỏ “mê cung tròn xoay” của Quy hồi Vĩnh cửu.

Định luật I của nhiệt động lực học nói với ta rằng năng lượng của vũ trụ là hằng định; định luật II nói rằng tổng năng lượng của hệ này có xu hướng tiến tới sự bào mòn khả năng thuận nghịch, dù tổng lượng không giảm. Sự phân rã dần dần của các lực lượng cấu thành vũ trụ này chính là entropy. Một khi các chênh lệch về nhiệt được san bằng, một khi mọi tác động lên một vật thể lên vật thể khác bị loại trừ (hoặc bị bù trừ lẫn nhau), thế giới rã ra thành một tập hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử. Trong tâm sâu của các vì sao, trạng thái cân bằng hy hữu và chết chóc này đã đạt được. Do sức mạnh của các trao đổi, toàn bộ vũ trụ rồi sẽ đạt tới nó, và sẽ trở nên nguội lạnh và chết chóc.

Ánh sáng tan tác thành nhiệt; vũ trụ, từng phút một, trở nên thành nhiệt. Nó cũng trở nên nhẹ hơn. Ngày nào đó, nó sẽ không là gì khác ngoài nhiệt: thứ nhiệt cân bằng, bất động, đại đồng. Vào lúc đó, nó chết.

 

Có một điều chắc chắn sau cuối thuộc về phạm trù siêu hình. Nếu tôi chấp nhận luận điểm của Zarathustra, tôi không thể hiểu được làm thế nào mà hai quá trình giống hệt nhau lại không hợp nhất lại thành một. Phải chăng chỉ cần có sự kế tiếp đơn thuần, kể cả khi không ai kiểm chứng? Nếu không có một thiên thần đặc biệt nào chuyên đảm trách việc ghi chép cẩn thận, thì việc chúng ta đang sống ở chu kỳ thứ mười ba nghìn năm trăm mười bốn chứ không phải chu kỳ đầu tiên của chuỗi, hay chu kỳ thứ ba trăm hai mươi hãi mũ hai nghìn, cũng có ý nghĩa gì không? Không, chẳng có ý nghĩa gì đối với những mục đích thực tiễn: chẳng phương hại gì đến những kẻ hành động. Không, chẳng có ý nghĩa gì đối với trí tuệ: đây mới là điều nghiêm trọng.

Salto Oriental, 1934

Bùi Gia Bin dịch

 

***Đã lược bỏ nguồn tham khảo Borges dẫn***

 

[2, chú thích của Borges bổ sung năm 1953]: Sự bối rối này vô hiệu. Năm 1874, Nietzsche đã chế nhạo luận điểm của trường phái Pythagoras cho rằng lịch sử lặp lại theo chu kỳ trong Vom Nutzen und Nachteil der Historie [Về Lợi và Bất lợi của Lịch sử].
[3, chú thích của Borges]: Néstor Ibarra đã viết về sự xác nhận có tính bề nổi này như sau: “Cũng có khi một tri giác mới nào đó ập vào ta như một ký ức, khiến ta tin rằng mình nhận ra đối tượng hay sự việc mà ta chắc chắn lần đầu giáp mặt. Tôi cho rằng ở đây liên quan đến một hành vi kỳ lạ của trí nhớ con người. Một tri giác noà đó ban đầu đã diễn ra, nhưng ở dưới ngưỡng ý thức. Một khoảnh khắc sau, các kích thích mới tác động, nhưng lần này ta tiếp nhận chúng trong trạng thái hữu thức. Trí nhớ ta được kích hoạt và mang đến cho ta cảm giác “đã kinh qua”; thế nhưng nó lại định vị sự hồi tưởng này một cách sai lệch. Để biện minh cho sự mơ hồ và rối rắm của nó, ta gán cho nó một khoảng cách thời gian đáng kể trong quá khứ; thậm chí có lẽ ra còn đẩy nó ra xa hơn nữa, vào sự nhân đôi của một kiếp sống nào đó trước đây. Trên thực tế, nó là một quá-khứ-tức-thì; và vực thẳm ngăn cách ta với nó chính là sự lơ đãng của chính chúng ta.”

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công