favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges: Một trận tay đôi

13/11/2025 10:44

 Tặng Juan Osvaldo Viviano

Henry James – một tác giả tôi biết được là nhờ một trong hai nhân vật chính, bà Figueroa – có lẽ sẽ không khinh ghét câu chuyện này. Dưới bàn tay ông, nó có lẽ sẽ được dành hẳn một trăm trang đầy những lời lẽ mỉa mai có, dịu dàng có, điểm xuyết bởi những cuộc đối thoại phức tạp và cẩn trọng ngập chìm trong cảm giác mơ hồ. Cũng không loại trừ khả năng ông thêm vào vài nét kịch tính. Cái cốt lõi của nó sẽ chẳng hề thay đổi dù bối cảnh có khác: London hay Boston. Nhưng sự việc thực tế đã xảy ra ở Buenos Aires và tôi sẽ giữ nguyên nó ở đó. Tôi sẽ chỉ giới hạn ở một bản tóm tắt vụ việc, bởi diễn biến chậm rãi và không gian đời thường của nó không phải là đối tượng thông thuộc trong văn chương cuả tôi. Việc kể lại câu chuyện này đối với tôi là một cuộc phiêu lưu be bé và ngoài lề. Tôi phải báo trước cho các độc giả hay rằng các tình tiết thì kém quan trọng hơn so với các tình thế đã gây ra chúng và tính cách của các nhân vật.

Clara Glencairn de Figueroa kiêu hãnh, cao ráo và có mái tóc đỏ rực lửa. Bà thiếu trí tuệ chứ không thiếu thấu hiểu, không tài tình chứ không thiếu khả năng trân trọng sự tài tình của tha nhân, kể cả nữ nhân. Bà hiếu khách từ trong tâm hồn. Bà biết ơn những điều dị biệt; chắc vì thế mà bà đi du lịch rất nhiều. Bà thừa rằng môi trường mà số phận sắp đặt cho bà đôi khi chỉ là một tập hợp tuỳ tiện các nghi lễ và nghi thức, nhưng những nghi lễ ấy làm bà thích thú và bà tiến hành nó một cách trang trọng. Cha mẹ gả bà, khi còn rất trẻ, cho Tiến sỹ Isidro Figueroa, người từng giữ chức đại sứ ở Canada nhưng về sau đã từ chức, viện lẽ rằng trong thời đại của điện tín và điện thoại, các toà đại sứ chỉ tổ là tàn dư lỗi thời và gây nên một gánh nặng vô ích. Quyết định này khiến ông phải nhận lấy sự căm giận từ tất cả đồng nghiệp; Clara thích khí hậu Ottawa – xét cho cùng, dòng dõi bà là người Scotland – và không lấy gì làm khó chịu với bổn phận bà phu nhân ngài đại sứ, nhưng bà chẳng màng phản đối hành động ấy của chồng. Ông Figuero qua đời sau đó không lâu; Clara, sau vài năm do dự và lặng lẽ suy nghĩ, quyết định dấn thân vào hội hoạ, có lẽ được cổ vũ bởi tấm gương của Marta Pizarro bạn bà.

Riết rồi cũng thành quen, cứ hễ nhắc tới cái tên Marta Pizarro thì người ta lại nghĩ đến bà dưới vai trò em gái Nélida Sara thông tuệ, người đã kết hôn rồi ly thân.

Trước khi chọn cọ vẽ, Marta Pizarro đã từng cân nhắc nghiệp văn chương. Bà có thể ứng khẩu thành thơ bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ bà thường đọc; còn tiếng Tây Ban Nha, đối với bà mà nói, không hơn một công cụ sinh hoạt trong nhà, như tiếng Guaraní đối với những quý bà ở tỉnh Corrientes. Các tờ nhật báo đã đưa đến tay bà những trang văn của đồng hương Lugones và Ortega y Gasset người Madrid; văn phong của những bậc thầy ấy càng củng cố nỗi hoài nghi trong bà rằng thứ ngôn ngữ định mệnh quy gán cho bà không mấy thích hợp cho việc diễn đạt tư tưởng hay đam mê, chỉ thích hợp đến phô bày sự hợm hĩnh của từ ngữ mà thôi. Về âm nhạc, bà chỉ biết những gì thính giả một buổi hoà nhạc đúng mực cần biết. Bà là người tỉnh San Luis; bà khởi đầu sự nghiệp với những bức chân dung Juan Crisóstomo Lafinur và Đại tá Pascual Pringles được vẽ hết sức cẩn thận, những bức tranh đã được Bảo tàng Tỉnh mua lại một cách không mấy khó đoán. Từ chân dung các danh nhân địa phương, bà chuyển sang chủ thể sang các ngôi nhà cổ xưa ở Buenos Aires, với những khoảnh sân khiêm tốn được bà phác hoạ bằng những sắc màu khiêm tốn, chứ không phải thứ phông nền sặc sỡ mà các tác giả khác hay ban phát cho chúng. Có người – chắc chắn không phải bà Figueroa – đã nói rằng toàn bộ nghệ thuật của bà được nuôi dưỡng bởi những bậc thầy xây dựng người Genova ở thế kỷ mười chín. Giữa Clara Clencairn và Nélida Sara (người từng bị đồn là có tình ý với Tiến sỹ Figueroa) luôn tồn tại một sự ganh đua nào đó; có lẽ trận tay đôi giữa hai người họ với Marta chỉ là một công cụ.

Mọi sự, như người ta vẫn biết, thoạt đầu đều xảy ra ở những xứ khác rồi cuối cùng mới lan tới xứ sở của ta. Có một phái hoạ sỹ, nay bị người đời lãng quên một cách đầy bất công, tự xưng là phái Cụ thể hay Trừu tượng, dường như để biểu thị sự khinh thường của họ đối với lô-gích và ngôn ngữ, là một trong số những ví dụ như thế.

Họ biện luận, theo tôi nghĩ, rằng cũng như âm nhạc được phép tạo ra một thế giới âm thanh riêng nó, thì người chị em hội hoạ cũng có thể thử nghiệm với những màu sắc và hình khối không sao chép lại những thứ mắt ta nhìn thấy. Lee Kaplan đã viết rằng những bức vẽ của họ, thứ đã động chạm đến các bourgeoisie, đã tuân theo điều cấm kỵ trong Kinh Thánh và được đạo Hồi chia sẻ về việc đã là bàn tay con người thì không được phép tạo ra những hình ảnh về các sinh linh. Những người bài ngẫu tượng, ông ta lập luận, đang khôi phục truyền thống chân chính của nghệ thuật hội hoạ, vốn dĩ đã bị bóp méo với những kẻ lạc giáo như Dürer hay Rembrandt. Những kẻ chỉ trích họ thì bỉ bôi rằng thứ họ đề cao thực chất là thứ bao lâu này vẫn thấy trên thảm sàn, kính vạn hoa và cà vạt. Các cuộc cách mạng thẩm mỹ thường khiến công chúng bị cám dỗ với quy kết rằng chúng là sản phẩm của sự dễ dãi và vô trách nhiệm; Clara Glencairn đã chọn trở thành một hoạ sỹ trừu tượng. Bà vốn luôn tôn thờ Turner, giờ đây bà hạ quyết tâm làm giàu cho thứ nghệ thuật cụ thể kia bằng những huy hoàng mơ hồ của mình. Bà làm việc không hề gấp gáp, sửa đi sửa lại hoặc huỷ bỏ nhiều tác phẩm, và vào mùa đông năm 1954, bà tổ chức triển lãm một loạt tranh tempera tại một gallery trên phố Suipacha, nơi chuyen trưng bày những tác phẩm mà một ẩn dụ giữa giới nhà binh bấy giờ gọi là avant-garde. Một tình thế tréo ngoe đã diễn ra: giới phê bình nói chung là thiện chí, nhưng cơ quan ngon luận chính thức của phong trào thì ra sức lên án những hình thái dị biệt đó, tuy đúng là không tả thực, nhưng gợi lên sự hỗn độn của một buổi hoàng hôn, một khu rừng hay là biển cả, mà không chịu an phận với những vòng tròn và đường nét khắc khổ. Có lẽ người đầu tiên mỉm cười lại là Clara Clencairn tác giả. Bà những muốn trở nên hiện đại, thế mà giới hiện đại lại từ khước bà.

Nhưng dù sao thì trong nghệ thuật, với bà sự thực hành thì quan trọng hơn là thành công, và bà không ngừng lao động. Chẳng hề liên quan gì đến sự kiện trên, hội hoạ vẫn tiếp bước.

Trận tay đôi thầm lặng nổ ra. Marta không chỉ là một nghệ sỹ, bà còn quan tâm sâu sắc đến thứ quả thực không bất công khi gọi là mặt hành chính của nghệ thuật và từng giữ chức phó bí thư một hiệp hội có tên là Giotto Circle. Khoảng giữa năm 55, bà đã vận động để Clara, khi ấy đã được kết nạp làm nội viên, được đưa vào danh sách ban lãnh đạo mới với tư cách uỷ viên. Sự việc thoạt nhìn có vẻ tầm thường này xứng đáng được phân tích. Marta đã ủng hộ bạn mình, dù khó hiểu nhưng cũng khó có thể chối cãi sự thật rằng người bằng khai ơn bằng cách nào đó lại vượt lên trên kẻ hàm ơn.

Vào khoảng những năm sáu mươi, “hai cây cọ tầm cỡ quốc tế” – xin thứ lỗi vì dùng biệt ngữ – đối kháng trực tiếp tranh giành giải nhất một cuộc thi nọ. Một trong hai ứng viên, người lớn tuổi hơn, đã dành trọn những bức sơn dầu trang trọng để khắc hoạ hình tượng những gaucho dữ dằn, vóc dáng Bắc Âu; đối thủ của ông ta dầu còn rất trẻ nhưng đã gặt hái được vô vàn tiếng vỗ tay lẫn gièm pha nhờ sự rối rắm được vận dụng một cách thật là tỉ mẩn. Ban giám khảo, những người đã ngoài năm mươi, sợ công chúng phê phán họ lỗi thời, có xu hướng bỏ phiếu người sau, dù thâm tâm họ chẳng ưa gì tác phẩm của anh ta. Sau những tranh luận dai dẳng, đầu tiên là vì lịch sự mà về sau là do chán ngán, họ vẫn không thể đi đến thống nhất. Trong cuộc thảo luận thứ ba, có người cho rằng: “Tranh B đối với tôi mới thật dở; thực sự mà nói thì tôi thấy nó còn thua cả tranh bà Figueroa.”

“Tức là ngài sẽ bỏ phiếu cho bà ấy?” Một người khác hỏi, giọng có chút mỉa mai.

“Đúng.” Người kia đáp, lúc này đã phát tiết.

Cũng ngay trong buổi chiều hôm đó, giải thưởng về tay Clara Glencairn trong sự đồng thuận của hội đồng chấm giải. Bà được trọng vọng, yêu mến, đạo đức không chê vào đâu được, lại còn thường xuyên mở tiệc tại biệt thự của bà ở Pillar, thứ thu hút các tạp chí thượng lưu đến chụp ảnh ghi bài. Tiệc tối chúc mừng theo thông lệ được Marta tổ chức và chủ trì. Clara cảm ơn bà bằng những lời ngắn gọn và đúng mực; bà nhận xét rằng không hề có sự đối lập nào giữa truyền thống và cách tân, giữa trật tự và phiêu lưu, và rằng truyền thống được dệt nên từ muôn vàn những phiêu lưu qua các thế kỷ. Buổi lễ có sự góp mặt của nhiều người thuộc giới thượng lưu, hầu như tất cả thành viên ban giám khảo cùng vài hoạ sỹ.

Tất thảy chúng ta đều cho rằng số phận đã dành cho mình khoảng không gian chật hẹp quá, rồi thì ta nghĩ những không không gian khác là tốt hơn. Sự sùng bái những anh hùng gaucho và điệp khúc Beatus ille… chỉ là nỗi hoài niệm thị dân; Clara Glencairn và Marta, đã chán ngán nếp sống nhàn rỗi, lại khát khao thế giới của những nghệ sỹ, những con người đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp tạo ra những điều đẹp đẽ. Tôi cho rằng, có đã ở trên thiên đàng đi nữa, những Kẻ Hồng ân cũng vẫn sẽ nghĩ nhưng tươi đẹp nơi ấy đã bị các nhà thần học, những người chưa từng đặt chân tới, thổi phồng. Còn ở địa ngục, có lẽ những kẻ bị nguyền rủa không phải lúc nào cũng hạnh phúc.

Vài năm sau, Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất về Nghệ thuật Tạo hình Mỹ La-tinh được tổ chức tại thành phố Cartagena. Mỗi nước cộng hoà cử một đại diện. Chương trình nghị sự (lại xin thứ lỗi vì dùng biệt ngữ) có sức hấp dẫn mãnh liệt: liệu nghệ sỹ có thể bỏ qua cái bản địa, có thể bỏ qua hoặc giấu đi hệ động thực vật không, có thể thờ ơ với những vấn đề mang tính xã hội không, có thể không chung tiếng nói với những người đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Anglo-Saxon không, vân vân và vân vân. Trước khi làm đại sứ tại Canada, Tiến sỹ Figueroa đã từng đảm nhiệm một chức vụ ngoại giao ở Cartagena; Clara, bấy giờ có chút tự hào vì giải thưởng, muốn trở lại nơi ấy, nhưng lần này là với tư cách một nghệ sỹ.

Hy vọng đó bị dập tắt; Chính phủ đã chỉ định Marta Pizarro. Những tác phẩm của bà ấy có nhiều bức xuất thần (dù không có nghĩa lúc nào cũng thuyết phục), theo lời kể khách quan của các phóng viên Buenos Aires.

Sống trên đời cần có một đam mê. Cả hai người phụ nữ đều tìm thấy nó trong hội hoạ, hay đúng hơn, trong mối quan hệ mà nó áp đặt lên trên họ. Clara Clencairn vẽ để chống lại Marta và theo một cách nào đó, dành cho Marta; mỗi người là thẩm phán của đối thủ và là khán giả duy nhất của chính mình. Trong những bức vẽ ấy, tôi tin giờ cũng chẳng ai ngắm nữa, không thể tránh khỏi sự hiện diện của một ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều quan trọng là không được quên rằng cả hai đều yêu quý nhau và trong suốt cuộc tay đôi thầm kín ấy, họ đã hành xử với nhau bằng sự trung thực hoàn hảo.

Cũng vào khoảng những năm đó, Marta, bấy giờ không còn trẻ nữa, đã từ chối một lời cầu hôn; điều duy nhất bà quan tâm là trận đấu của mình.

Ngày 2 tháng Hai năm 1964, Clara Glencairn qua đời vì phình mạch máu. Các chuyên mục trên báo chí dành cho bà những bài cáo phó dài, thực hành vẫn còn là khuôn mẫu tại nước ta, nơi người phụ nữ được xem như mẫu vật cuả giống loài, chứ không phải một cá nhân. Ngoài vài lời thuật thoáng qua về sở thích hội hoạ và gu thẩm mỹ tinh tế của bà, người ta còn ca ngợi lòng mộ đạo, sự nhân hậu, lòng nhân ái bền bỉ và gần như không màng danh lợi, dòng dõi quý tộc của bà – Tướng Glencairn từng tham chiến trong chiến dịch Brasil – và vị trí nổi bật nhất của bà trong tầng lớp thượng thặng. Marta hiểu cuộc đời bà đã mất đi lý do tồn tại. Bà chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến thế. Bà nhớ lại những thử nghiệm hội hoạ đầu tiên, cách đây xa xôi lắm rồi, và việc đã trưng bày tại Phòng Triển lãm Quốc gia một bức chân dung Clara trang nhã theo phong cách của những bậc thầy người Anh mà cả hai từng ngưỡng mộ. Vài người cho đó là tác phẩm tuyệt nhất của bà. Bà không bao giờ vẽ nữa.

Trong trận tay đôi tế nhị ấy, thứ mà chỉ một vài người thân thiết của chúng tôi mới lờ mờ đoán định được, đã không có thất bại hay chiến thắng, thậm chí cũng chẳng có một sự chạm trán hay tình tiết bộc lộ nào ngoài những điều tôi hết sức kính cẩn ghi lại bằng ngòi bút này. Chỉ có Chúa (và những ưu ái thẩm mỹ ta không biết được của Chúa) mới có thể trao chiếc vòng nguyệt quế sau cùng. Câu chuyện trên đã diễn ra trong bóng tối, rồi kết thúc cũng trong bóng tối.

Bùi Gia Bin dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công