favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges: Monk Eastman, Kẻ Buôn Tội Lỗi

01/11/2025 09:20

Những Kẻ thuộc Mỹ Này

Nổi bật trên nền tường xanh hay bầu trời rộng mở, hai gã du côn trong bộ đồ đen trang nhã ôm sát và mang giày đế dày múa một vũ điệu chết chóc - một vũ kịch của những lưỡi dao sóng đôi - cho đến khi một bông cẩm chướng mọc lên từ tai một tên khi con dao tìm được đích nơi hắn, và hắn khép lại vũ điệu đơn độc trên mặt đất bằng cái chết của mình. Thoả mãn, gã còn lại chỉnh lại chiếc mũ chóp cao của mình và dành những năm cuối đời kể lại câu chuyện về trận đấu trong sạch này. Đó, tựu trung, là lịch sử của thế giới ngầm Argentina ta thuở xưa. Lịch sử của thế giới ngầm New York xưa vừa choáng ngợp hơn vừa vụng về hơn.

Những Kẻ thuộc Phía Kia

Lịch sử các băng đảng New York (được tiết lộ vào năm 1828 bởi Herbert Asbury trong một tập đồ sộ bốn trăm trang khổ octavo) chứa đựng toàn bộ sự hỗn loạn và tàn bạo của những vũ trụ luận man rợ, và phần nhiều sự bất xứng khổng lồ của chúng - những hầm bia cũ bị khoét thành khu ổ chuột của người da đen; một New York xiêu vẹo với những tòa nhà ba tầng; các băng đảng tội phạm như Swamp Angels, tụ họp trong một mê cung cống rãnh; các băng như Daybreak Boys, chiêu mộ những sát nhân lớn sớm độ mười, mười một tuổi; những kẻ đơn độc, như những tên Plug Uglies to gan và khổng lồ, khiến người qua đường nhếch mép với những chiếc mũ chóp to lớn, nhồi len và kéo xuống qua tai như mũ bảo hộ, và vạt áo sơ mi dài, thả ngoài quần, bay phần phật trong gió Bowery (nhưng với một cây dùi cui lớn trong tay và một khẩu súng lục ló ra khỏi túi); các băng như Dead Rabbits, tham chiến dưới biểu tượng một con thỏ chết bị xiên trên một cây giáo; những gã như Dandy Johnny Dolan, nổi tiếng với chỏm tóc vuốt dầu hắn uốn xoăn và ép sát trán, với cây gậy có cán được chạm khắc hình con khỉ, và với vật bằng đồng hắn phát minh và dùng trên ngón cái để móc mắt kẻ thù; những gã như Kit Burns, với hai mươi lăm xu sẵn sàng lấy đầu một con chuột sống chỉ bằng một nhát cắn; những gã như Blind Danny Lyons, trẻ và tóc vàng và với đôi mắt chết khổng lồ, làm ma cô cho ba cô gái, tất cả đều tự hào đi trên phố vì hắn; những dãy nhà với đèn lồng đỏ trong cửa sổ, như những nơi do bảy chị em gái từ một ngôi làng nhỏ ở New England điều hành, những kẻ luôn chuyển lợi nhuận từ đêm Giáng sinh của mình cho từ thiện; những hố chuột, nơi lũ chuột bến cảng bị bỏ đói và bị thả đấu với chó sục; những sòng bạc người Hoa; những ả như Red Norah góa bụa nhiều lần, người tình lừng danh của hầu như toàn bộ băng Gopher; những ả như Lizzie the Dove, khoác tang phục goá phụ khi Danny Lyons bị xử tử vì tội giết người, và bị Gentle Maggie đâm vào cổ họng trong một cuộc cãi vã về việc ai tiếc thương cho gã mù quá cố hơn; những cuộc loạn dân như tuần lễ tàn bạo của vụ nổi dậy chống quân dịch năm 1863, khi một trăm tòa nhà bị thiêu rụi và thành phố gần như thất thủ; những cuộc ẩu đả tràn ngập đường phố trong đó một người đàn ông ngã xuống như thể trên biển, bị giẫm đạp đến chết; tên trộm và đầu độc ngựa như Yoske Nigger. Tất cả những điều này dệt nên lịch sử hỗn loạn của thế giới ngầm New York. Và người hùng trứ danh nhất của nó là Edward Delaney, bí danh William Delaney, bí danh Joseph Marvin, bí danh Joseph Morris, bí danh Monk Eastman – ông trùm của một nghìn hai trăm thuộc hạ.

Người hùng

Những lần thay tên đổi dạng ấy (rối rắm như một buổi giả trang, nơi người ta không chắc chắn ai là ai) đã bỏ quên tên thật của hắn - giả như có một thứ được gọi là tên thật. Tư liệu ghi lại rằng hắn sinh ra ở khu Williamsburg của Brooklyn với tên Edward Osterman, sau này được Mỹ hóa thành Eastman. Lạ thay, kẻ bão tố của thế giới ngầm này lại là người Do Thái. Hắn là con trai của chủ một quán ăn kosher, nơi những người đàn ông để râu kiểu giáo sĩ có thể yên tâm thưởng thức phần thịt bê giết mổ theo nghi lễ, sạch máu và được tẩy rửa ba lần. Khi mười chín tuổi, khoảng năm 1892, cha dựng cho hắn một cửa hàng bán chim. Niềm say mê với động vật, niềm hứng thú với những động thái nhỏ nhoi và sự ngây thơ khôn dò của chúng, đã trở thành thú vui trọn đời. Nhiều năm sau, trong thời kỳ phú quý, khi hắn khinh khỉnh từ chối những điếu xì gà Havana của những tên tù trưởng Tammany mặt tàn nhang, hay khi hắn ghé thăm những nhà thổ sang trọng nhất trong phát minh mới mẻ đó, xe hơi (thứ trông như đứa con hoang của chiếc gondola), hắn mở một cơ sở kinh doanh thứ hai, một cái bình phong, nuôi một trăm con mèo và hơn bốn trăm con bồ câu - không con nào trong số đó để bán cho ai cả. Hắn yêu từng con một, và thường đi dạo quanh khu phố mình với một con mèo mãn nguyện dưới cánh tay, trong khi nhiều con khác tung tăng theo sau.

Hắn là một gã đàn ông dạn dày, to lớn. Hắn có cái cổ ngắn, như bò mộng; bộ ngực thùng phuy; cánh tay dài, rắn rỏi; mũi gãy; một gương mặt, tuy đầy sẹo, vẫn kém ấn tượng hơn thân hình; và đôi chân cong như của cao bồi hay thủy thủ. Hắn có thể thường được thấy không mặc áo sơ mi hay áo khoác, nhưng không thể thiếu chiếc mũ derby nhỏ hơn vài cỡ đậu trên cái đầu hình viên đạn của hắn. Nhân loại đã gìn giữ ký ức về hắn. Về ngoại hình, tay súng mẫu mực của điện ảnh là bản sao của hắn, chứ không phải Capone mập mạp, ái nam ái nữ. Người ta nói về Louis Wolheim rằng Hollywood đã thuê anh bởi đường nét gợi nhớ đến Monk Eastman huyền thoại. Eastman từng đi nghênh ngang quanh vương quốc ngầm của mình với một con bồ câu xanh to lớn trên vai, hệt như con bò đực với một con chim sáo đậu trên mông.

Trở lại giữa những năm 90, các sảnh nhảy công cộng xuất hiện hàng tá ở thành phố New York. Eastman được nhận vào một trong số đó với vai trò gác cửa. Chuyện kể rằng một người quản lý sảnh nhảy từng từ chối thuê hắn, và Monk đã chứng minh năng lực của mình bằng cách đánh bại hai gã khổng lồ đứng chắn giữa hắn và công việc. Một tay, được mọi người kinh sợ, hắn giữ vị trí này cho đến năm 1899. Với mỗi kẻ gây rối mà hắn trấn áp, hắn lại khía một rãnh trên cây dùi cui tàn bạo của mình. Một đêm nọ, sự chú ý của hắn dồn về một cái đầu trọc bóng loáng đang lo việc của nó bên cốc bia bock, hắn đã đánh gục người cầm bằng một cú giáng. "Tôi cần thêm một rãnh nữa để đủ năm mươi", hắn sau này giải thích.

Lãnh địa

Từ năm 1899 trở đi, Eastman không chỉ nổi tiếng, mà trong các kỳ bầu cử, hắn còn là đội trưởng của khu bầu cử. Hắn cũng nhận tiền bảo kê từ nhà thổ, sòng bạc, gái mại dâm đường phố, những kẻ móc túi và đạo chích trong lãnh địa nhơ nhuốc của mình. Các chính trị gia Tammany thuê hắn để gây rối; cả các tư nhân cũng vậy. Đây là một số mức giá của hắn:

Tai bị cắn đứt                      15 đô la

Gãy chân hoặc tay              19 đô la

Bắn vào chân                       25 đô la

Đâm                                      25 đô la

Thực hiện việc lớn             100 đô la trở lên

Đôi khi, để giữ tay nghề, Eastman tự mình thực hiện một phi vụ.

Một vấn đề về ranh giới (tinh vi và gai góc chẳng khác gì những vụ án dày đặc trong luật quốc tế) đã đưa Eastman đối đầu với Paul Kelly, thủ lĩnh khét tiếng của một băng đảng đối địch. Đạn dược và ẩu đả dữ dội của hai băng đảng đã đặt ra những giới hạn lãnh địa nhất định. Eastman đơn độc vượt qua những ranh giới này vào một buổi sáng sớm và bị tấn công bởi năm thuộc hạ của Kelly. Với cánh tay quật cường, giống vượn và cây dùi cui của mình, Monk đã hạ gục ba kẻ tấn công, nhưng cuối cùng hắn bị bắn hai phát vào bụng và bị bỏ mặc cho chết. Eastman đã khép những vết thương hở bằng ngón cái và ngón trỏ rồi loạng choạng đến Bệnh viện Gouverneur. Ở đó, trong nhiều tuần, sự sống, cơn sốt cao và cái chết đã tranh giành hắn, nhưng đôi môi hắn từ chối gọi tên kẻ định giết mình. Khi hắn rời bệnh viện, cuộc chiến lại bùng nổ, và cho đến ngày 19 tháng 8 năm 1903, nó nở rộ qua những cuộc đấu súng liên tiếp.

Trận Chiến Phố Rivington

Một trăm người hùng, mỗi người hơi khác so với bức ảnh phai mờ trong hồ sơ cảnh sát; một trăm người hùng nồng nặc mùi khói thuốc và rượu; một trăm người hùng đội mũ rơm với dải băng màu sặc sỡ; một trăm người hùng, kẻ nhiều, kẻ ít, mắc những thứ bệnh nhục nhã, sâu răng, bệnh hô hấp hoặc thận; một trăm người hùng nhỏ bé hay huy hoàng như những người của Troy hay Bull Run – một trăm người này đã xuất quân trong trận đánh đen tối dưới bóng mái vòm của tuyến đường sắt trên cao Second Avenue. Nguyên nhân là cuộc đột kích bất thành của những tay súng phe Kelly nhằm vào ván bài stuss do một người bạn của Eastman tổ chức trên phố Rivington. Một trong những tay súng bị giết, và cơn mưa đạn sau đó đã bùng nổ thành một trận chiến với vô số khẩu súng lục. Núp sau những cột trụ của công trình trên cao, những gã đàn ông cạo râu nhẵn nhụi lặng lẽ nã đạn vào nhau và trở thành tâm điểm của một vòng tròn kinh hãi gồm những chiếc xe thuê chất đầy quân tiếp viện hăm hở, mỗi tên mang theo một nắm pháo.

Những nhân vật chính của trận chiến này cảm thấy gì? Trước hết (tôi tin vậy), niềm tin tàn nhẫn rằng tiếng nổ vô nghĩa của hàng trăm khẩu súng lục sẽ hạ gục họ bất cứ lúc nào; thứ hai (tôi tin vậy), sự chắc chắn không kém phần sai lầm rằng nếu những phát súng đầu tiên không trúng họ, thì họ bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, điều không còn nghi ngờ gì nữa là, dưới bóng những cột sắt và màn đêm, họ đã chiến đấu trong cuồng nộ. Hai lần cảnh sát can thiệp, và cả hai lần họ bị đẩy lui. Khi tia sáng đầu của bình minh ló rạng, trận chiến dần tắt - như thể nó thật quái dị và ma mị. Dưới những mái vòm lớn của tuyến đường sắt trên cao để lại bảy người đàn ông trọng thương, bốn thi thể và một con bồ câu chết.

Những Tiếng Cót Két

Các chính trị gia địa phương, hàng ngũ mà Monk Eastman từng phục vụ, luôn công khai phủ nhận sự tồn tại của những băng đảng như thế, hoặc cho rằng chúng chỉ là những câu lạc bộ thể thao. Trận chiến lộ liễu trên phố Rivington giờ đây kinh động họ. Họ sắp xếp một cuộc gặp giữa Eastman và Kelly nhằm đề xuất nhu cầu đình chiến. Kelly (biết rõ rằng Tammany Hall hữu hiệu hơn bất kỳ khẩu Colt nào trong việc cản trở hành động của cảnh sát) đã đồng ý ngay lập tức; Eastman (với vẻ kiêu hãnh của thân xác đồ sộ, tàn bạo) lại khao khát nổ súng và ẩu đả nhiều hơn. Hắn khước từ, và các chính trị gia buộc phải đe dọa tống tù hắn. Cuối cùng, hai tên giang hồ khét tiếng đối mặt nhau trong một chốn truỵ lạc, mỗi tên ngậm một điếu xì gà lớn giữa hai hàm răng, một tay trên khẩu súng lục, và bọn thuộc hạ cảnh giác vây quanh. Họ đi đến một quyết định điển hình kiểu Mỹ: họ sẽ giải quyết hiềm khích trên võ đài bằng nắm đấm. Kelly là một võ sĩ quyền anh lão luyện. Trận đấu diễn ra trong một nhà kho ở vùng Bronx, và đó là một cuộc tỉ thí phô trương. Một trăm bốn mươi khán giả chứng kiến, trong số đó có những tay giang hồ với chiếc mũ derby ngông nghênh và những ả đào với kiểu tóc uốn phồng đôi khi giấu cả vũ khí bên trong. Hai bên giao tranh suốt hai tiếng và kết thúc với tỷ số hòa. Chưa đầy một tuần sau, tiếng súng lại nổ lên. Monk bị bắt lần thứ n. Với nhẹ nhõm lớn lao, Tammany Hall phủi tay khỏi hắn; vị thẩm phán đã tiên đoán cho hắn, với độ chính xác hoàn toàn, mười năm tù.

Eastman đối đầu Đức

Khi vẫn còn hoang mang, Monk được phóng thích khỏi nhà tù Sing Sing, một nghìn hai trăm thuộc hạ trong băng đảng của hắn đã chia thành các phe phái đối địch. Không thể tái tổ chức chúng, hắn bắt đầu hoạt động độc lập. Vào ngày 8 tháng 9 năm 1917, hắn bị bắt vì gây rối trên một đường công cộng. Ngày hôm sau, quyết định tham gia vào một cuộc náo động quy mô hơn, hắn tòng quân vào Trung đoàn Bộ binh 106 thuộc Vệ binh Quốc gia New York. Trong vòng vài tháng, hắn được điều ra nước ngoài cùng trung đoàn của mình.

Chúng ta biết đôi điều về chiến dịch của hắn. Ta biết rằng hắn kịch liệt phản đối việc bắt giữ tù binh và hắn từng (chỉ bằng báng súng của mình) can thiệp vào tập tục đáng khinh ấy. Ta biết rằng hắn đã trốn khỏi bệnh viện ba ngày sau khi bị thương và tìm đường trở lại tiền tuyến. Ta biết rằng hắn đã lập công trong trận chiến quanh Montfaucon. Ta biết rằng hắn về sau cho hay một số sảnh nhảy nhỏ quanh khu Bowery còn khốc liệt hơn cả cuộc chiến ở châu Âu.

Kết Cục Bí Ẩn, Hợp Lý

Vào ngày Giáng sinh năm 1920, thi thể của Monk Eastman được phát hiện lúc rạng đông trên một con phố ở khu trung tâm New York. Trên đó có năm vết đạn. Vô tư không hay biết về cái chết, một con mèo hoang lảng vảng quanh xác hắn với vẻ bối rối mơ hồ.

 

Tâm Nguyên dịch


 

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công