favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges: Kẻ Sát Nhân Vô Tư Bill Harrigan

15/11/2025 16:08

Một hình ảnh về miền hoang mạc Arizona, thoạt tiên và trên hết, là hình ảnh những hoang mạc vùng Arizona và New Mexico - một miền đất nổi tiếng với mỏ bạc và vàng, một miền đất của những khoảng không ngoạn mục, một miền đất của những cao nguyên hùng vĩ và sắc màu dịu nhẹ, một miền đất của những bộ xương trắng bệch bị kền kền rỉa sạch. Trên khắp miền đất này, một hình ảnh khác - hình ảnh Billy the Kid, kỵ sĩ rắn rỏi trụ vững trên lưng ngựa, chàng trai trẻ với khẩu súng lục ổ quay tàn nhẫn, bắn ra những viên đạn vô hình mà (như ma thuật) giết người từ xa.

Sa mạc đan xen những kim loại quý, cằn cõi và chói loà. Thiếu niên ấy, khi chết ở tuổi hai mươi mốt, đã mắc nợ công lý với người lớn hai mươi mốt mạng người - 'chưa kể người Mexico'.

Giai đoạn ấu trùng

Vào khoảng năm 1859, kẻ sau này được biết đến trong cả nỗi kinh hoàng lẫn vinh quang với cái tên Billy the Kid sinh ra trong một căn hầm của khu nhà ổ chuột thành phố New York. Người ta nói rằng hắn được đẻ ra từ một tử cung Ireland kiệt quệ nhưng lớn lên giữa những người da đen. Trong cái huyên náo của mùi hôi hạ tiện và những mái đầu xoăn xù, hắn tự đắc với ưu trội nhờ có những đốm tàn nhang và một mái tóc đỏ. Hắn tự hào vì là người da trắng; hắn cũng gầy gò, hoang dại và bất nhã. Năm mười hai tuổi, hắn chiến đấu trong băng Swamp Angels, một nhánh thần thánh hoạt động giữa các cống rãnh của khu phố. Vào những đêm sực mùi sương khói cháy, chúng sẽ trèo ra khỏi mê lộ hôi thối ấy, theo chân một thủy thủ Đức nọ, đánh gục anh bằng một cú đập vào đầu, lột trần đến tận đồ lót, rồi sau đó lẩn trở lại chốn dơ bẩn ban đầu. Thủ lĩnh của bọn chúng là một gã da đen tóc bạc, Gas House Jonas, cũng lừng danh là kẻ đầu độc ngựa.

Đôi khi, từ cửa sổ tầng trên của một hang ổ sát bến nước, một ả sẽ đổ một xô tro lên đầu một nạn nhân tiềm năng. Khi anh ta hổn hển và sặc sụa, Swamp Angels sẽ bao vây, lôi anh ta xuống hầm, và cướp bóc.

Đó là những năm tháng học việc của Billy Harrigan, Billy the Kid tương lai. Hắn cũng không khinh thường những vật phẩm của các rạp Bowery, đặc biệt thích thú (có lẽ chẳng mảy may hay biết rằng chúng là dấu hiệu và biểu tượng cho số mệnh mình) với những vở kịch cao bồi.

Tiến về miền Tây!

Nếu những rạp Bowery đông nghịt (nơi lô trên đám hạ lưu la ó 'Kéo màn lên!' khi màn không kịp kéo đúng giờ) đầy rẫy những vở kịch đẫm máu và rền vang này, lời giải thích đơn giản là nước Mỹ thuở ấy đang nếm mùi mị lực của miền Viễn Tây. Bên kia hoàng hôn là những mỏ vàng của Nevada và California. Bên kia hoàng hôn là những rặng gỗ đỏ, sụp đổ trước lưỡi rìu; khuôn mặt Babylon khổng lồ của con bò rừng; mũ lông hải ly và giường đa thê của Brigham Young; nghi lễ và cơn cuồng loạn của người da đỏ; bầu không khí tinh khôi của sa mạc; đồng hoang trải dài bất tận; và chính mặt đất, nơi sự gần kề khiến trái tim rộn ràng như thể gần biển cả. Miền Tây vẫy gọi. Một lời đồn chậm rãi, bền bỉ đã lan truyền trong những năm đó - rằng hàng ngàn người Mỹ sẽ chiếm lấy miền Tây. Trong cuộc hành quân đó, khoảng năm 1872, có Bill Harrigan, phản phúc như một con rắn chuông, trốn khỏi nhà ngục.

Huỷ Diệt Một Người Mexico

Lịch sử (thứ, cũng như vài đạo diễn điện ảnh, diễn tiến qua một chuỗi hình ảnh chớp nhoáng) giờ đây khắc họa hình ảnh một quán rượu đầy hiểm nguy, nằm - như thể trên biển khơi - giữa lòng sa mạc toàn năng. Thời điểm, một đêm lộng gió năm 1873; địa điểm, vùng Staked Plains của New Mexico. Xung quanh, đất đai gần như bằng phẳng và trơ trụi đến siêu thực, nhưng bầu trời, với những áng mây vần vũ và mặt trăng, lại đầy những hốc nứt và núi non. Có một hộp sọ bò, tiếng hú và ánh mắt của lũ sói rừng trong bóng tối, những con ngựa khỏe khoắn, và từ quán rượu hắt ra một vệt sáng dài. Bên trong, nghiêng người qua quầy rượu, một nhóm đàn ông vạm vỡ nhưng mỏi mệt đang uống thứ rượu để giữ ấm người cho một trận ẩu đả; cùng lúc đó, họ khoe những đồng bạc lớn khắc hình rắn và đại bàng. Một gã say ngâm nga, trơ mặt. Giữa đám đàn ông đó có vài kẻ nói thứ ngôn ngữ nhiều âm s, hẳn là tiếng Tây Ban Nha, bởi những người nói nó đều bị khinh miệt.

Bill Harrigan, con chuột nhà đầu đỏ, đứng giữa đám uống rượu. Hắn đã nốc cạn vài ly aguardientes và tính gọi thêm một ly nữa, có lẽ vì hắn chẳng còn xu nào. Hắn hơi choáng ngợp trước những gã đàn ông sa mạc này. Hắn thấy họ oai vệ, ồn ào, hớn hở và khôn ngoan một cách đáng ghét trong cách điều khiển bò rừng và những con ngựa to lớn. Đột nhiên sự im lặng chết chóc bao trùm, chỉ còn tiếng hát lạc điệu của gã say. Có ai đó bước vào - một gã Mexico to lớn, lực lưỡng, với gương mặt của một mụ già da đỏ. Hắn mang một chiếc mũ rộng vành lớn và một cặp súng lục bên hông. Bằng thứ tiếng Anh vụng về, hắn chúc buổi tối tốt lành đến tất cả những gã gringo khốn nạn đang uống rượu. Không ai đáp lại lời thách thức. Bill hỏi hắn là ai, và người ta thì thầm với hắn, trong sợ hãi, rằng tên Dago - tức Diego ấy - là Belisario Villagrán, đến từ Chihuahua. Ngay lập tức, một tiếng nổ vang rền. Núp sau bức tường những gã đàn ông cao lớn, Bill đã nổ súng vào kẻ xâm nhập. Chiếc ly rơi khỏi tay Villagrán; rồi chính gã cũng ngã xuống. Hắn không cần thêm phát đạn nào nữa. Không buồn liếc nhìn cái thây lộ liễu kia, Bill tiếp tục câu chuyện của mình. "Thế thôi à?" hắn buông giọng. "Chà, tao là Billy the Kid, đến từ New York." Tên say rượu tiếp tục ngân nga, không ai đoái hoài.

Người ta dễ dàng đoán được sự tôn vinh sau đó. Bill bắt tay khắp phía và nhận những lời tán thưởng, tiếng hò reo và những ly whisky. Ai đó nhận ra trên báng súng của hắn không có rãnh khắc nào và đề nghị khắc một cái tượng trưng cho cái chết của Villagrán. Billy the Kid cầm lưỡi dao của người ấy, dẫu hắn nói rằng "Chẳng đáng ghi chép vụ người Mexico." Điều này, có lẽ, vẫn chưa đủ. Đêm đó, Bill trải chăn bên cạnh thi thể và - một cách phô trương - ngủ cho tới bình minh.

Cái chết vì Cái chết

Từ phát súng may mắn ấy (ở tuổi mười bốn), người hùng Billy the Kid đã ra đời, và Bill Harrigan gian manh đã chết. Cậu bé từ cống rãnh và cú đánh vào đầu đã vươn lên trở thành một người đàn ông của vùng biên giới. Hắn tự rèn mình thành kỵ sĩ, học cưỡi ngựa thẳng lưng trên yên - kiểu Wyoming hay Texas - chứ không ngả người ra sau như cách người ta cưỡi ngựa ở Oregon và California. Hắn chưa từng sánh kịp huyền thoại về mình, nhưng ngày càng tiến gần đến nó. Một vẻ gì đó của gã du côn New York vẫn sống trong chàng cao bồi; hắn chuyển sang người Mexico sự căm hận mà ngày xưa từng được những người da đen khơi dậy, nhưng những gì cuối cùng hắn thốt ra lại là những lời (chửi thề) bằng tiếng Tây Ban Nha. Hắn học nghệ thuật sống đời cao bồi khoáng đạt. Hắn học thêm một nghệ thuật khác, khó hơn - cách lãnh đạo thuộc hạ. Cả hai đã giúp hắn trở thành một kẻ trộm gia súc cừ khôi. Thỉnh thoảng, những cây đàn guitar và các nhà thổ ở Old Mexico mê hoặc hắn.

Với sự minh mẫn ám ảnh của chứng mất ngủ, hắn tổ chức những cuộc truy hoan đông đúc thường kéo dài bốn ngày bốn đêm. Cuối cùng, no nê, hắn quyết toán bằng súng đạn. Khi ngón tay bóp cò không bao giờ sai, hắn là kẻ đáng sợ nhất (và có lẽ cũng là kẻ ẩn danh và cô độc nhất) trên toàn vùng biên giới. Pat Garrett, bạn hắn, viên cảnh sát trưởng sau này đã giết hắn, từng nói với hắn: "Tao từng luyện bắn súng trường vào bò rừng nhiều lắm rồi.”

"Tao từng luyện bằng súng lục," Billy khiêm tốn đáp. "Bắn lon thiếc và bắn người."

Chi tiết thì không thể nào phục dựng, nhưng người ta ghi nhận rằng hắn đã giết tới hai mươi mốt người - "chưa kể người Mexico". Trong bảy năm tuyệt vọng, hắn rèn mình trong thú xa xỉ của sự liều lĩnh tột cùng.

Đêm ngày 25 tháng 7 năm 1880, Billy the Kid phi nước đại trên con ngựa đốm của mình xuống con phố chính, hay là con phố duy nhất, của Fort Sumner. Trời nóng bức và đèn chưa được thắp; Cảnh sát trưởng Garrett, ngồi trước hiên nhà trên ghế bập bênh, rút ​​súng lục và bắn một viên vào bụng Kid. Ngựa vẫn phi; còn kẻ cưỡi ngựa nhào xuống bụi đường. Garrett bắn phát thứ hai. Người dân thị trấn (biết người bị thương là Billy the Kid) khóa chặt cửa sổ. Nỗi đau ròng rã và báng bổ. Đến sáng, mặt trời lúc ấy đã trên đỉnh đầu, họ bắt đầu tiến gần và giải giáp hắn. Gã đàn ông đã ra đi. Người ta có thể thấy trên khuôn mặt hắn vẻ kiệt quệ của một người chết.

Hắn được cạo râu, khoác áo quần may sẵn, và được trưng bày trong sự kinh sợ lẫn cười chê tại cửa kính của cửa hàng lớn nhất Fort Sumner. Những người trên lưng ngựa và trên xe ngựa kéo kết tập hàng dặm chung quanh. Đến ngày thứ ba, họ phải hoá trang cho hắn. Ngày thứ tư, hắn được chôn cất trong niềm hân hoan.

Tâm Nguyên dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công