Borges: Guayaquil
Sẽ chẳng bao giờ tôi được thấy đỉnh Higuerota in bóng trên làn nước Vịnh Plácido, sẽ chẳng bao giờ đặt chân tới Estado Occidental, sẽ chẳng bao giờ giải mã được nét chữ của Bolívar trong thư viện kia, thư viện mà từ Buenos Aires tôi đã dùng vô vàn cách thức để hình dung ra, tức là hẳn nhiên phải có một hình hài xác thực cùng những vệt tối trải dài nó đổ xuống.
Tôi đọc lại đoạn trên để viết tiếp đoạn dưới và ngỡ ngàng trước giọng điệu vừa sầu muộn lại vừa khoa trương của nó. Có lẽ, hễ cứ nói về nước cộng hoà vùng Caribe ấy thì không thể không phảng phất, dẫu chỉ là thoáng qua, phong cách đồ sộ của sử gia lừng danh nhất ở đó, Thuyền trưởng Józef Korzeniowski; nhưng trong trường hợp của tôi, còn có một lý do khác nữa. Ý định thầm kín muốn nhuốm màu bi kịch lên một sự việc có chút ê chề và thật cỏn con đã mớm lời cho tôi viết đoạn mở đầu. Tôi sẽ thuật lại thực sự đã xảy ra chuyện gì với tất cả sự chân thật; biết đâu, điều đó lại khiến tôi hiểu nó hơn. Hơn nữa, thú nhận một việc chính là thoát khỏi thân phận tác nhân để trở thành chứng nhân, thành kẻ đứng quan sát và kể lại chứ không còn là kẻ thực hiện nữa.
Sự việc xảy ra với tôi vào thứ Sáu tuần trước, ngay trong căn phòng nơi tôi đang viết lời này, vào đúng giờ khắc buổi chiều như đây, dù hôm nay thì trời dịu mát hơn một chút. Tôi biết chúng ta thường có khuynh hướng quên đi những điều khiến bản thân khó chịu; thành thử tôi muốn ghi lại cuộc đối thoại giữa tôi với Tiến sỹ Eduardo Zimmermann đến từ Đại học miền Nam trước khi ký ức về nó bị sự lãng quên làm cho mờ nhoà. Bởi giờ đây, kức ấy trong tôi giờ đây vẫn vô cùng sống động.
Để câu chuyện của tôi được tường minh, có lẽ tôi cần phải nhắc vắn tắt lại cuộc phiêu lưu đầy ký thú mà những bức thư của Bolívar đã trải qua từ khi được khai quật từ kho lưu trữ của Tiến sỹ Avellanos – tác giả cuốn Lịch sử năm mươi năm hỗn loạn, một cuốn sách từng bị coi là thất lạc trong những hoàn cảnh mà công chúng đã rõ, sau này được phát hiện và xuất bản năm 1939 bởi cháu nội ông, Tiến sỹ Ricardo Avellanos. Xét theo những tư liệu tham khảo tôi thu thập được từ nhiều ấn phẩm khác nhau, những bức thư này không có gì đặc sắc lắm, ngoại trừ một bức đề ngày 13 tháng Tám năm 1822 tại Cartegena, trong đó Nhà Giải phóng kể lại chi tiết cuộc gặp gỡ của ông với Tướng San Martín[1]. Không cần thiết phải nhắc lại về giá trị của tài liệu này, bởi chính trong đó, Bolívar đã tiết lộ, dù chỉ một phần, chuyện xảy ra ở Guayaquil. Tiến sỹ Ricardo Avellanos, một người phản đối chính quyền hiện hành một cách ngoan cố, đã từ chối bàn giao bộ sưu tập thư tín cho Viện Hàn lâm Lịch sử mà đem bán cho nhiều nước cộng hoà trong khối Mỹ Latinh khác. Nhờ vào sự nhiệt thành đáng tán dương của ngài đại sứ nước ta, Tiến sỹ Melazat, chính phủ Argentina là bên đầu tiên chấp nhận lời chào hàng không hề tư lợi ấy. Hai bên thoả thuận sẽ cử một đại diện tới Sulaco, thủ đô nước láng giềng Estado Occidental, để sao chép lại những bức thư nhằm xuất bản tại đây. Viện trưởng trường đại học nơi tôi đang giữ chức Giáo sư Lịch sử châu Mỹ, đã có nhã ý tiến cử tôi với Bộ trưởng để thực hiện sứ mạng này; tôi cũng nhận được sự tán thành khá đồng lòng từ Viện Hàn lâm Lịch sử Quốc gia, nơi tôi giữ một ghế thành viên. Ngày tôi được Bộ trưởng tiếp kiến đã ấn định thì chúng tôi nghe tin Đại học miền Nam, nơi tôi không muốn tin cũng đã nắm được những quyết định nói trên, chẳng biết điều lại tiến cử thêm cái tên Tiến sỹ Zimmermann.
Như độc giả có lẽ đã biết, ông này là một sử gia ngoại quốc, bị Đế chế Thứ ba trục xuất khỏi quê hương và giờ đây đang là một công dân Argentina. Trong sự nghiệp của ông ta, dù cũng đáng trân trọng thật đấy, tôi chỉ mới có dịp xem qua một bài biện minh cho nền cộng hoà Semitic của Carthage, một nền văn minh mà hậu thế chỉ biết đến qua lời kể của các sử gia La Mã, những kẻ thù của họ, cùng một tiểu luận cho rằng chính phủ không nên thực hiện chức năng của mình một cách phô trương và đầy cảm tính. Luận điểm này đã bị Martin Heidegger dứt khoát bác bỏ, khi ông đã chứng minh, thông qua các bản sao tiêu đề báo chí, rằng nhà lãnh đạo hiện đại, vốn xa rời với sự vô danh, ngược lại mới chính là nhân vật chính, là người dẫn dắt vở kịch, là vua David đang múa, kẻ diễn tả lại bi kịch của dân tộc mình với đầy đủ những nghi lễ sân khấu và không ngần ngại sử dụng những thủ pháp cường điệu của nghệ thuật hùng biện. Ông ta cũng chứng minh dòng dõi của Zimmermann là người Hebrew, nếu không muốn nói trắng ra là người Do Thái. Ấn phẩm của nhà hiện sinh khả kính này chính là nguyên nhân trực tiếp khiến vị khách không mời của chúng ta phải theo đuổi cuộc sống di cư và lối du mục rày đây mai đó như hiện tại.
Không nghi ngờ gì nữa, Zimmermann đã đến Buenos Aires gặp Bộ trưởng; vị này đã đề nghị với tôi, thông qua thư ký của ngài, rằng tôi nên nói chuyện với Zimmermann và trình bày cho ông ta tình thế đang gặp phải, tránh cảnh tượng khó coi có thể nảy sinh giữa hai trường đại học vốn dĩ không đội trời chung. Tôi đương nhiên là đồng ý. Khi trở về nhà, tôi nhận được thông tin Tiến sỹ Zimmermann đã gọi điện tới thông báo trước rằng sẽ tới thăm vào sáu giờ chiều sắp tới. Như mọi người đều biết, tôi sống trên phố Chile[2]. Đồng hồ điểm đúng sáu giờ thì chuông cửa reo lên.
Với sự thuần hậu của một người cộng hoà, tôi đích thân ra mở cửa mời ông ta vào thư phòng. Ông dừng lại ngắm sân hiên, những viên gạch lát màu đen và trắng, hai cây mộc lan và chiếc bể nước khiến ông phải buông lời khen ngợi. Tôi đoán ông ta có phần hơi căng thẳng. Ngoại hình ông ta chẳng có gì đặc biệt; tuổi chừng bốn mười, đầu hơi lớn. Một cặp kính đen che giấu đôi mắt; có lần ông ta cởi bỏ nó đặt xuống bàn rồi ngẫm nghĩ sao lại đeo lên lại. Khi chào nhau, tôi thấy thoả mãn lắm vì mình cao hơn, nhưng ngay lập tức thấy xấu hổ thay cho sự thoả mãn ấy, bởi chúng tôi đâu có gặp nhau để đấu tay đôi về thể xác hay ngay cả tinh thần, đây chỉ là một cuộc mise au point mà thôi, dẫu khó lòng mong đợi nó sẽ dễ chịu cho cả hai. Dù vốn dĩ là người ít săm soi, tôi vẫn nhớ rõ bộ trang phục của ông ta, thứ mà một nhà thơ, trong lời miêu tả trúng phóc về cái sự xấu xí trỏ tới, sẽ gọi là “sự chưng diện hết sức vụng về” của ông ta. Tôi vẫn còn nhớ cái thứ vải vóc gì mà xanh thẫm ấy, đính trên đó nhiều quá trớn nào cúc nào túi. Thứ ông ta đeo trên cổ, theo như tôi để ý, là loại nơ của ảo thuật gia, được cố định bằng hai cái kẹp nhựa. Ông ta mang theo một cặp da chắc hẳn chứa đầy ắp tài liệu. Bộ ria ông được tỉa kiểu nhà binh một cách chừng mực; trong lúc nói chuyện, ông châm một điếu xì gà và tôi có thể thấy gương mặt kia lúc đó hiện ra quá nhiều thứ. Trop meublé, tôi thầm phê bình.
Ngôn từ trong tiến trình phát triển có xu hướng càng ngày càng phóng đại một cách không đáng những sự việc hữu quan, bởi mỗi từ ngữ điều chiếm một chỗ trên trang giấy, và một khoảnh khắc trong tâm trí độc giả; vượt lên những chi tiết tầm thường về hình ảnh mà tôi đã liệt kê, con người đối diện gây ấn tượng về một quá khứ đảo huyền.
Trong thư phòng có một bức chân dung hình bầu dục của ông cụ nhà tôi, người đã tham gia cuộc chiến tranh Giải phóng, và một hai tủ kính để đựng kiếm, huân chương và lá cờ. Tôi cho ông ta xem những thứ cổ kính và quang huy ấy, kèm theo vài lời thuyết minh; ông ta chỉ nhìn lướt nhanh qua chúng như thể đang thực hiện nhiệm vụ nào đó và bổ nhào vào giữa câu nói của tôi, không phải không xấc xược, thứ tôi cho là đầy vô ý và máy móc. Ông ta sẽ chen vào, kiểu như:
“Chính xác. Trận Junín. Ngày 6 tháng Tám năm 1824. Đợt tấn công bằng kỵ binh của Júarez.”
“Của Suárez,” tôi chỉnh lưng.
Tôi nghi ngờ lỗi sai trên là cố ý. Ông ta giang rộng cánh tay với một cử chỉ đậm đà Đông phương và thốt lên:
“Sai lầm đầu tiên của tôi, và chắc chắn sẽ không phải cuối cùng! Tôi sống bằng văn bản nên hay nhầm lẫn; còn ngài, ngài nhìn quá khứ thật thi vị như nó đang hiện hữu vậy.”
Những chỗ có âm v, ông ta phát âm gần như thành âm f.
Lời xun xoe ấy chẳng làm cho tôi vui. Ông ta hứng thú hơn với chỗ sách. Ông đưa mắt lướt qua cấc tên sách một cách gần như là trìu mến, và tôi nhớ ông đã phán.
“Chà, Schopenhauer, người luôn hoài nghi lịch sử… Đúng phiên bản này, do Grisebach biên tập, tôi cũng có một cuốn ở Praha, và tôi đã những tưởng mình sẽ già đi trong vòng tay bạn bầy là những tập sách khổ cầm tay ấy, nhưng té ra lịch sử, hiện thân trong một kẻ điên rồ, đã ném tôi ra khỏi ngôi nhà và thành phố ấy. Giờ thì tôi ở đây với ngài, ở châu Mỹ, trong ngôi nhà thật là dễ chịu của ngài…”
Ông ta nói không chuẩn nhưng khá trôi chảy; âm điệu Đức rõ rệt hoà lẫn với tật xuýt gió âm s đặc trưng của Tây Ban Nha bán đảo.
Chúng tôi ngồi xuống và tôi thừa lời đối phương vừa nói để đi thẳng vào vấn đề. Tôi bảo:
“Ở xứ này, lịch sử khoan hậu hơn. Tôi hy vọng sẽ được chết trong chính ngôi nhà này, nơi tôi đã được sinh ra. Tại đây, ông cụ nhà tôi đã mang về thanh kiếm ấy, thứ đã cùng ông đã chu du khắp Châu Mỹ; ở đây, tôi đã suy ngẫm về quá khứ rồi viết nên những cuốn sách của mình. Tôi gần như có thể nói mình chưa bao giờ rời khỏi thư phòng này, nhưng dẫu sao tôi cũng sắp sửa bước ra rồi, để bước đi trên mảnh đất mà xưa giờ tôi chỉ được thưởng ngoạn trên bản đồ.”
Chẳng biết lời lẽ có màu mè quá hay không, tôi cứ làm dịu đi bằng một nụ cười xoà cái đã.
“Lẽ nào ngài đang nói tới một nước cộng hoà nọ ở Caribe?” Zimmermann hỏi.
“Đúng thế. Cũng chính chuyến công tác ấy mà hôm nay tôi mới có vinh hạnh được ngài đây tới thăm đấy thôi,” tôi đáp.
Trinidad đem cà phê lên. Tôi tiếp tục, chậm mà chắc.
“Hẳn ngài biết Bộ trưởng đã giao phó cho tôi nhiệm vụ thảo chép và viết lời tựa cho những bức thư của Bolívar đã tình cờ khai quật được từ kho lưu trữ của Tiến sỹ Avallanos. Nhiệm vụ này ập đến tôi như một định mệnh ngọt ngào, là đỉnh cao trong sự nghiệp cả đời của tôi, thứ công việc có thể nói tôi mang nơi huyết quản mình.”
Tôi thấy nhẹ nhõm vì điều gì cần nói cũng đã nói xong. Zimmermann làm như không nghe thấy; đôi mắt ông ta không nhìn vào mặt tôi mà nhìn những cuốn sách đằng sau lưng tôi. Ông ta gật đầu một cách mơ màng, rồi nhấn mạnh.
“Trong huyết quản. Ngài là một nhà sử học đích thực. Dòng họ ngài đã băng qua những cánh đồng châu Mỹ và tham gia những chiến trận vinh quang, trong khi dòng họ tôi đâu đâu cũng thấy mịt mùng, chỉ mới vừa chật vật ló ra khỏi ghetto. Ngài mang lịch sử trong huyết quản, đúng như lời lẽ hùng hồn của ngài; ngài chỉ cần lắng nghe giọng nói thầm kín ấy. Còn tôi thì ngược lại hoàn toàn, tôi phải tự mình lặn lội đến Sulaco và giải mã hết đống tài liệu này đến tài liệu khác mà chẳng biết chúng là thật hay nguỵ dựng. Tôi thành thực đấy, thưa Tiến sỹ, tôi thấy ghen tị với ngài lắm lắm.”
Những lời ấy tôi không thấy có sự thách thức hay mỉa mai nào cả; đó đơn thuần là một ý chí phát lộ, thứ đã biến tương lai thành một thứ không thể đảo ngược, y như quá khứ vậy. Những lý lẽ của ông ta chẳng còn quan trọng nữa; sức mạnh nằm ở con người, chứ đâu phải cách họ biện luận. Zimmerman tiếp tục với sự ôn tồn đầy tính giáo huấn.
“Trong vấn đề Bolívar (xin lỗi, chính xác phải là San Martín) thì lập trường của ngài, thưa bậc cao nhân đáng kính, đã quá rõ ràng rồi. Votre siège est fait. Tôi chưa kịp đọc kỹ bức thư hữu quan của Bolívar, nhưng có thể suy đoán một cách có lý lẽ rằng Bolívar đã viết nó để biện minh cho chính mình. Dù thế nào đi chăng nữa, cái lá thư làm nức lòng giới nghiên cứu kia cũng chỉ hé lộ cho ta cái thứ ta có thể gọi là ‘góc nhìn của Bolívar’, chứ không phải là ‘góc nhìn của San Martín’ được. Một khi được công bố, nó sẽ chịu sự cân nhắc, xem xét, sàng lọc của giới phê bình, và nếu cần, phải bị bác bỏ. Không ai đủ thẩm quyền để đưa ra phán quyết cuối cùng nên đối xử sao với nó hơn là ngài, với cái kính lúp của mình. Và cả cái dao mổ của mình nữa, nếu đó là thứ khoa học đòi hỏi! Cũng xin phép cho tôi nói thêm rằng, tên tuổi của người công bố bức thư sẽ bị gắn chặt với nó. Mà việc đó, nhìn đường nào đối với ngài cũng lợi bất cập hại. Công chúng đâu có giỏi trong việc phân biệt những sắc thái.”
Giờ đây, tôi hiểu những gì chúng tôi tranh luận về sau là vô ích. Có lẽ lúc đó tôi đã cảm nhận ra điều đó; để không phải đối mặt với nó, tôi vin vào một chi tiết ông ta đã đề cập, hỏi ông ta có thực sự tin những lá thư ấy là nguỵ dựng không.
“Dù chúng có đúng là bút tích của Bolívar,” ông ta đáp, “cũng không có nghĩa chúng chứa đựng toàn bộ sự thật. Đâu thể ngoại trừ khả năng Bolívar muốn đánh lừa người nhận thư, hoặc đơn giản, chính ông ta đã tự dối mình. Ngài, một sử gia, một trí thức, hiểu rõ hơn tôi rằng bí ẩn nằm ở chúng ta, chứ không ở những ngôn từ.”
Những lời nói chung chung và khua khoắng ấy làm tôi bực cả mình, và tôi lạnh lùng nhận xét rằng giữa những bí ẩn bao quanh chúng ta, thì cuộc gặp ở Guayaquil, nơi Tướng San Martín đã từ bỏ mọi tham vọng riêng tư và trao vận mệnh châu Mỹ vào tay Bolívar, cũng xứng đáng là một bí ẩn để ta bỏ công nghiên cứu.
Zimmermann đáp:
“Chuyện ấy thì có muôn vàn lời giải thích rồi… Một số học giả cho rằng San Martín đã dính bẫy; số khấc, như Sarmiento, lại nói ông là một quân nhân châu Âu đang lạc lối trên một lục địa mà ông không bao giờ hiểu được; một số khác, thường là các học giả Argentina, lại cho rằng đó là hành động quên mình; số khác nữa thì cho rằng đó là vì đương sự đã kiệt quệ. Cũng có người đưa ra giả thuyết về một mệnh lệnh bí ẩn từ một hội kín kiểu Tam Điểm nào đó[3].”
Tôi nhận xét, dù có thế nào đi chăng nữa, khôi phục lại chính xác những lời lẽ của Đấng bảo hộ Peru và Nhà Giải phóng đã trao đổi với nhau cũng sẽ rất thú vị.
Zimmermann tuyên bố:
“Có lẽ những lời họ đã trao đổi với nhau chỉ là chuyện vặt vãnh. Hai người đàn ông mặt đối mặt ở Guayaquil; nếu một người áp đảo thì đó là do anh ta có ý chí mạnh mẽ hơn, chứ không nhờ những màn biện luận. Như ngài thấy đấy, tôi vẫn chưa Schopenhauer của tôi đâu.”
Ông ta điểm thêm với một nụ cười:
“Words, words, words. Shakespeare, bậc thầy vô song về ngôn từ, lại khinh thường chúng. Ở Guayaquil, Buenos Aires hay Praha, chúng đều không quan trọng bằng con người.”
Vào lúc đó, tôi cảm nhận được điều gì đó đang xảy ra với chúng tôi, hay nói đúng hơn, nó đã xảy ra với chúng tôi rồi. Bằng cách nào đó, chúng tôi trở thành những con người khác. Bóng hoàng hôn tràn vào căn phòng, và tôi đã không bật đèn. Hơi ngẫu hứng, tôi đặt câu hỏi:
“Ngài đến từ Praha sao, Tiến sỹ?”
“Tôi đã từng ở Praha,” ông ta đáp.
Để đánh trống lảng khỏi chủ đề chính, tôi nhận xét.
“Hẳn đó là một thành phố kỳ lạ. Tôi thì chưa từng đặt chân tới đó, nhưng cuốn sách đầu tiên tôi đọc bằng tiếng Đức là Golem của Meyrink.”
Zimmermann đáp:
“Đó là cuốn sách duy nhất khiến Gustav Meyrink xứng đáng được lưu danh. Tốt nhất là đừng có mê mẩn những cuốn khác, chúng thuộc về thứ văn chương tồi tệ, bàn về thuyết thần trí thì còn tệ hơn nữa. Dù thế, có một chút gì đó từ sự kỳ lạ của Praha vẫn ẩn hiện trong cuốn sách về những giấc mơ bị lạc vào những giấc mơ khác âys. Mọi thứ ở Praha đều thật kỳ lạ, nhưng nếu ngài muốn thấy khác đi thì thành thực cũng chẳng có gì là kỳ lạ lắm. Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Ở London, trong một buổi chiều tà nào đó, tôi cũng đã cảm thấy điều tương tự.
“Ngài,” tôi đáp, “vừa nói về ý chí. Trong Mabinogion, hai vị vua chơi cờ trên đỉnh đồi, trong khi dưới kia, các chiến binh của họ đang giao chiến. Rồi một ông vua giành chiến thắng; một kỵ sĩ phi đến báo tin quân đối của ông vua thua cờ cũng đã bị đánh bại. Trận chiến của những con người thực ra chỉ là sự phản chiếu trận chiến của những con cờ.”
“À, một phép thuật,” Zimmermann đáp.
Tôi tiếp lời:
“Hoặc sự phát lộ của cùng một ý chí trên hai chiến trường khác nhau. Một truyền thuyết khác của người Celt kể về cuộc đấu tay đôi giữa hai thi nhân nức tiếng. Một người vừa gảy đàng hạc vừa hát từ lúc hoàng hôn cho đến khi đêm buông. Dưới ánh trăng sao, ông trao cây đàn cho người kia. Người này đặt cây đàn sang một bên và đứng dậy, đối thủ của ông thấy vậy liền chào thua.”
“Thật là uyên áo! Đó là sức mạnh của của một nhà tổng hợp!” Zimmermann thốt lên.
Rồi ông ta nói thêm, giọng đã bình tâm lại:
“Tôi phải thú nhận sự dốt nát, dốt nát đến tắc trách của mình, về vấn đề xứ Brittany. Ngài, như ánh sáng ban ngày, bao trùm cả đông tây kim cổ, còn tôi bị câu thúc trong góc thành Carthage bé nhỏ của mình, giờ đây mới được mở mắt nhìn một chút về lịch sử châu Mỹ. Tôi chỉ là một kẻ máy móc mà thôi.”
Sự khúm núm của người Do Thái và sự khúm núm của người Đức hiện rõ trong giọng nói ông ta, dẫu tôi cảm thấy ông ta đâu có mất gì mà không chiều ý tôi, thậm chí nịnh nọt tôi, bởi phần thắng đã mười mươi thuộc về ông ta mất rồi.
Ông cầu xin tôi đừng bận tâm gì đến những thủ tục cho chuyến đi của ông ta. (Ông ta đã dùng một từ thật là kinh khủng: những dàn xếp). Ngay lập tức, ông ta lấy từ cặp da ra một bức thư gửi Bộ trưởng, tôi trình bày cho ông ghi vào đó những lý do rút lui của mình, cũng như những phẩm chất đã được chứng thực của Tiến sỹ Zimmermann, rồi ông ta đặt cây bút máy vào tay để tôi ký. Khi ông ta cất bức thư, tôi không thể không thoáng thấy tấm vé máy bay đã được đóng dấu cho chuyến Ezeiza-Sulaco của ông ta.
Lúc ra về, ông ta dừng lại trước những tập sách của Schopenhauer và nói:
“Bậc thầy của chúng ta, bậc thầy chung của chúng ta, từng suy đoán rằng hành động nào cũng là hữu ý. Nếu ngài ở lại căn nhà này, căn nhà thượng lưu thoáng đãng này, thì đó là bởi trong thâm tâm ngài muốn ở lại. Tôi tuân theo và biết ơn ý chí của ngài lắm.”
Tôi im lặng nhận lấy sự bố thí cuối cùng này.
Tôi tiễn ông ra đến cửa. Khi ra về, ông tuyên bố:
“Cà phê tuyệt lắm.”
Tôi đọc lại những trang giấy lộn xộn này trước khi giao chúng cho ngọn lửa, không lâu nữa đâu. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi thật là ngắn ngủi.
Tôi có linh cảm mình sẽ không viết thêm gì nữa. Mon siège est fait.
Bùi Gia Bin dịch
Chú giải (sau đây là các chú giải rất giàu thông tin của Andrew Huxley, người dịch El informe de Brodie ra tiếng Anh, xin dịch lại cho bạn đọc tham khảo để có hình dung thêm):
[0] Đối với độc giả Mỹ La-tinh, tên thành phố này được lấy làm tựa đề ở Ecuador này gợi nhớ một trong những bước ngoặt trọng đại nhất trong các cuộc chiến tranh giành độc lập, bởi chính nơi đây, Tướng Simón Bolívar và José San Martín đã gặp nhau để quyết định chiến lược cho cuộc tổng tấn công cuối cùng nhằm đánh bật người Tây Ban Nha khỏi Peru. Sau cuộc gặp này, San Martín đã trao quyền chỉ huy đội quân của mình cho Bolívar, người sau đó đã đánh bại người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, không có tài liệu nào ghi chép lại những gì đã xảy ra trong cuộc gặp hay lý do khiến San Martín rút lui khỏi vị trí chỉ huy chính đội quân của mình và nhường lại vinh quang giải phóng cho Bolívar. Một cuộc tranh cãi lịch sử kéo dài đã diễn ra xung quanh những nguyên nhân khả dĩ, mà câu chuyện ngắn này kể lại một cách vắn tắt. Rõ ràng, “cuộc đối đầu về ý chí” giữa hai vị tướng kia phản chiếu trong cuộc đấu ý chí giữa hai nhà sử học hiện đại trung tâm câu chuyện [đã lược tài liệu tham khảo].
[1]: Như ghi chú trên đã chỉ ra, José de San Martín (1778-1850), người Argentina, là một trong hai vị tướng quan trọng nhất của trường kỳ chiến tranh giành độc lập, người kia là Simón Bolívar, người Venezuela. Câu chuyện này được viết một cách tinh tế từ góc nhìn của người Argentina, bởi nó đề cập đến những lý do – có lẽ là tâm lý, hoặc có lẽ là quân sự, hoặc là những lý do khác – khiến San Martín, sau khi giành được những chiến thắng phi thường trên chính đất nước mình và ở Peru (nơi ông được tụng ca là Đấng Bảo hộ Peru), lại trao toàn bộ quân đội của mình cho Bolívar để Bolívar có thể tiếp tục giành lấy nền độc lập cho lục địa khỏi Tây Ban Nha. Bí ẩn về San Martín là điều đã thu hút sự quan tâm của giới sử học Argentina trong nhiều thập kỷ, và có lẽ đến nay vẫn còn, vì vậy bất kỳ bức thư nào có thể mang đến dù chỉ một lời giải thích nhỏ nhoi nhất, hoặc vụ lợi nhất (nếu người Argentina có thể tha thứ cho tôi cách nói có phần gièm pha đó về tâm lý của vị tướng quân ấy), cho hành động của ông đều sẽ có tầm quan trọng tối thượng đối với lịch sử Argentina. Do đó, câu chuyện này chứa đầy những sự giằng co giữa loại lịch sử này (hoặc quốc tịch của lịch sử) và loại lịch sử khác, giữa loại "lý lẽ" này và loại "lý lẽ" khác.
[2] Fishburn và Hughes cho rằng vị trí thực tế của con phố này không thực sự không quan trọng ở đây, mặc dù họ cho biết vị trí đó là "ở phía nam Buenos Aires, [...]cách Plaza Constitución khoảng mười dãy nhà"; quan điểm thú vị của hai học giả trên về việc tại sao Borges chọn con phố này là bởi vì nó một cái tên mang tính biểu tượng, kết nối Borges (cái thư viện mà ông ấy đã từng sống, ngôi nhà và có lẽ một số những kỷ vật quang huy mà Borges được thừa kế từ ông nội cùng các thành viên khác trong gia đình) với người kể chuyện trong Guayaquil: Người kể chuyện sống trên một con phố tên là Chile, Borges sống trên một con phố tên là Maipú, mà cả hai cái tên đều có sự liên tưởng trong tâm trí người Argentina, bởi chiến thắng vĩ đại của San Martín ở Chile là trận Maipú.
[3] Fishburn và Hughes lưu ý rằng hội kín Tam Điểm được nhắc đến trong câu chuyện là Logia Lautaro mà San Martín quả thực là một thành viên. Các hội kín Tam Điểm nổi tiếng là những trung tâm tư tưởng tiến bộ, nếu không muốn nói là mang tính cách mạng, vào các thế kỷ XVII và XVIII. Phong trào Tam Điểm hiện đại được thành lập vào thế kỷ XVII.
