favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Hạ 2024
Next

De Grey: Một chuyện tình

25/05/2024 07:36

Tiếp tục chương trình Henry James dài đã khởi sự ở kia. Đây cũng là bài thứ ba mươi của kỳ Hạ, đúng bốn tuần kể từ khi bắt đầu. 

"De Grey: A Romance" được đăng trên tờ Atlantic Monthly vào tháng Bảy năm 1868; cả đời, Henry James sẽ không sửa chữa nó (như ai cũng biết, James sửa chữa rất nhiều text từng viết trước đó, chủ yếu những khi cần cho vào các tập sách in) - đây là một điều may mắn, vì ta có được một sample về truyện của James chỉ tồn tại dưới một version duy nhất; trước "De Grey", James đã dùng từ "Romance", và từ ấy đối với James mang nhiều hàm ý khác nhau. Đây là một trong số các truyện của James có thể gọi là mang hơi hướm "gô-tic".

"De Grey" xuất hiện ngay sau (chỉ cách một tháng) "Một vấn đề" - được đăng trên tờ Galaxy, tháng Sáu năm 1868.

 

De Grey: Một chuyện tình

- Henry James

Đó là năm 1820, và Mrs De Grey, do vậy, như cách người ta nói tại Ai len (và, trong riêng chuyện này, cả ở những chỗ khác), đã chạm đến mùa xuân thứ sáu mươi bảy của bà. Dẫu sao, bà vẫn là một phụ nữ đẹp và, điều còn tuyệt vời hơn, vẫn là một người đàn bà đáng yêu. Quãng đời không ưu phiền, không xáo trộn của bà để lại số nếp nhăn trong tính khí cũng ít ngang số nếp nhăn trên mặt bà. Bà cao lớn, người đẫy đà, với đôi mắt sẫm và mái tóc bạc dày, mà bà buộc ra sau lưng, cuộn quanh một miếng vải kếp hoặc một cái gì đó tương tự. Sự tươi tắn của tuổi trẻ và sức khỏe không hề phai đi trên hai gò má, nụ cười lịch thiệp cũng chưa nhòa đi trên đôi môi của bà. Bà ăn vận, phù hợp với một người đàn bà tuổi ấy và lại là góa phụ, toàn đồ đen, nhưng điểm trang thêm nhiều chi tiết trắng, và đeo một cơ số những chiếc nhẫn xinh xắn trên đôi bàn tay thon thả. Thường thường, vào mùa xuân, bà gài một bông hoa nhỏ hay một nhành lá xanh trên ngực của bộ đầm. Bà bị gán cho cái tội hay nhận những thứ đồ trang trí nhỏ bằng hoa này từ tay Ngài Herbert (người mà tôi còn nhiều điều để kể); nhưng sự kết tội này không có căn cứ, bởi chúng được chọn lựa kỹ càng từ một bó đầy cắt từ khu vườn bởi tay người hầu gái.

Việc Bà De Grey chỉ là một quý bà thanh thản và kiêu sa đúng như bà vốn dĩ, vẫn cứ, trong con mắt của thế giới nói chung, mặc cho có thừa một kiểu bằng chứng ủng hộ cho kết quả ấy, ít nhiều giống như một câu đố hay một vấn đề. Quả đúng là ai có biết bất cứ điều gì về bà đều biết rằng bà được hưởng một khối tài sản vật chất kếch sù, và chưa từng trải qua sự bất hạnh nào. Bà là chủ nhân toàn quyền của một mảnh đất đẹp và một ngôi nhà đẹp; bà đã mất chồng mình, quả thật, trong vòng một năm sau khi thành thân; nhưng, vì George De Grey quá cố là người có tính cách ủ dột và trầm tư - tận đến mức, quả thật, khiến ta phải nghi vấn về sự tâm thần - cái mất của bà, đã để lại đủ cho bà được chu cấp dư dả, thì nghiêm túc ra cũng có thể được tính là một cái được. Con trai bà, hơn thế, chưa bao giờ khiến bà một thời khắc nào phải phiền toái; lớn lên, anh ta đã trở thành một chàng trai trẻ quyến rũ, xinh đẹp, hài hước, và khôn ngoan; anh ta là một hình mẫu của lòng hiếu thảo. Sức khỏe của bà tốt; bà có nửa chục gia nô không có gì phải chê trách; bà có sự bầu bạn bền bỉ của Ngài Herbert; bà là một mẫu gương tốt đẹp của một người phụ nữ lớn tuổi như ở mọi thị trấn; bà có thể, vì thế, rất hạnh phúc và cũng biểu lộ ra như vậy. Mặt khác, người ta từng nghe thấy khoảng một chục phụ nữ khôn ngoan tuyên bố đầy cả quyết, rằng không phải vì tất cả của cải và sự sung sướng của bà mà họ sẽ chấp nhận làm Bà De Grey. Những quý bà này, đương nhiên, không thể đưa ra một lý do hợp lẽ cho ác cảm mạnh mẽ đến vậy. Nhưng chắc rằng trong quá khứ và hoàn cảnh của Bà De Grey còn có một tấm màn che phủ, giống như là một cái bóng của bí ẩn, khiến người ta ớn lạnh khi tưởng tượng ra những thứ vốn dễ nhen nhóm các đố kỵ về sự may mắn của bà. “Bà ta sống trong bóng tối,” có kẻ đã nói như vậy về bà. Những ai quan sát kỹ lưỡng thì vinh danh bà bằng cách tin rằng có một bí mật nào đó trong cuộc đời bà, nhưng bản tính của nó không thể định nghĩa hoàn toàn. Bà có phải là nạn nhân của một sự thống khổ bị che giấu, hay là nữ chủ nhân của một niềm hoan lạc bất chính? Những cáo buộc này, ta có thể dễ dàng tin tưởng, được giải thích phần nào bởi tình cảnh rằng bà là một người Công giáo, và giữ một vị linh mục trong nhà mình. Còn phần không giải thích được thì rất có thể, hơn hết, bị gạt đi bởi thái độ hoàn toàn vô tư và tự mãn của Bà De Grey. Rất khó để biết được, khi nói chuyện với bà, rằng phần nào trên con người bà mà người ta có thể gán vào một bí mật - liệu là đôi mắt trong trẻo, tròn xoe của bà hay là đôi môi đẹp, từ ái. Vậy, ta hãy nói, bất chấp tiếng nói của xã hội, rằng bà không phải một nữ hoàng bi kịch gì cả. Bà là một người đàn bà đẹp, một người đàn bà ảm đạm, một quý bà hoàn hảo. Bà đã đón nhận cuộc đời, như một tách trà bà yêu thích - nhạt nhòa, với một hương thơm tinh tế cùng rất nhiều kem và đường. Bà chưa từng mất bình tĩnh vì một lý do xuất sắc rằng bà không có nó để mà mất. Bà không bị nhiễu nhương bởi nỗi sợ, niềm hoài nghi, những đắn đo, và được ban ơn cho không có một niềm xác tín thiêng liêng nào. Bà yêu quý con trai mình, nhà thờ, khu vườn, và sự phục sức của bà. Bà có gu tuyệt vời nhất; nhưng, về đạo đức, có thể nói rằng bà không có chút tiền sử nào.

Bà De Grey luôn luôn sống ẩn dật; trong vòng dăm năm trước quãng thời gian tôi đang kể đây, bà sống đơn độc. Con trai bà, đến tuổi hăm hai, đã đi châu Âu một thời gian dài, theo một kế hoạch đã được bàn bạc nhiều lần giữa mẹ của anh và Ngài Herbert trong suốt thời gian thơ bé của anh. Họ chẳng mảy may cố gắng để dự đoán sự nghiệp tương lai của anh, hay để chuẩn bị cho anh một nghề nghiệp gì. Quả thật, chính xác là, anh được tự do, như người cha quá cố của anh, để không cần nghề nghiệp. Không phải họ mong rằng anh sẽ lấy cuộc đời của cha mình làm gương. Cả thế giới đều hiểu và, dĩ nhiên, Bà De Grey và người bạn của bà nói riêng cũng vậy, rằng sự tồn tại của quý ông này đã bị hủy hoại, từ thuở ban đầu, bởi một mối tình không hạnh phúc; và cũng hiển nhiên rằng, hậu quả để lại, là ông đã trải qua vài năm trưởng thành trong sự nhàn rỗi và phóng đãng u sầu. Bà De Grey, có cha là người Anh, đã rơi vào cảnh túng thiếu, nhưng vì có cách suy nghĩ của giới quý tộc, tự mình cho rằng không thể hiểu vì sao Paul lại không thể sống đàng hoàng bằng những gì anh có. Ngài Herbert nói rằng ở nước Mỹ, dù ở tầng lớp nào, sự lười biếng cũng là không tử tế; và rằng ngài mong chàng trai trẻ sẽ - ít nhất là trên danh nghĩa - chọn lấy một sự nghiệp. Nhưng, cả hai bên đều đồng thuận, rằng không cần phải vội; và rằng một điều đúng đắn là, khi bắt đầu, anh nên nhìn thấy thế giới trước. Thế giới, đối với Bà De Grey, chẳng là gì nhiều nhặn hơn so với một từ; nhưng với Ngài Herbert, vốn là một linh mục, nó là một hiện thực sống động. Nhưng ngài cảm thấy rằng chàng tuổi trẻ phóng đãng và thông minh mà ông đã trút hết cả kho báu của sự dịu dàng và khôn ngoan của mình vào sự giáo dục anh ta, không phù hợp, cả về bản tính và văn hóa, để thử sức mình trước các thử thách và cám dỗ, và rằng ông sẽ yêu cậu ta hơn nếu cậu ta trở về nhà ở tuổi hai mươi lăm như một quý ông thành đạt và một người Công giáo tốt, tỉnh táo và dạn dĩ nhờ kinh nghiệm, hoài nghi trong những vấn đề nhỏ, tự tin trong những chuyện lớn, và đầy ắp những câu chuyện hay. Khi đã lớn, Paul nhận được tấm vé đi đàng của mình, như người ta nói, trong hình dáng của một bức thư tín dụng với một khoản lớn từ vài chủ nhà băng ở London. Nhưng chàng trai trẻ đút túi bức thư, và ở lì ở nhà, ngấu nghiến đống sách vở, nằm dài trong vườn, và nguệch ngoạc vài dòng anh hùng ca. Đến cuối một năm kia, anh nảy ra một chút tham vọng, và đi một vòng quanh đất nước, rong ruổi qua phần nhiều chặng đường trên lưng ngựa. Anh trở về như một người Mỹ nhiệt thành, và cảm thấy mình có thể đi ra nước ngoài mà không gặp nguy khó. Trong thời gian vắng mặt, từ châu Âu anh đã viết về cho nhà vô số những bức thư dài - những sáng tác rất công phu (theo thẩm mỹ của thời ấy, cũng gần với thời nay, và rất thú vị) đến nỗi, giữa niềm tự hào về tài năng soạn thư của anh và sự mong ngóng được trông thấy khuôn mặt anh, mẹ và gia sư cũ của anh sẽ không biết phải lựa chọn xem anh sẽ cho họ nhiều sự hài lòng khi ở nhà hay ở nước ngoài hơn.

Cùng với cuộc đi của anh là cả căn nhà rơi vào trạng thái nghỉ ngơi không hề gián đoạn. Bà De Grey không ra ngoài và cũng không thết đãi bạn bè. Thảng hoặc một chuyến viếng thăm vào ban ngày là lời khẳng định duy nhất về lòng hiếu khách của bà. Ngài Herbert, một học giả lớn, dành mọi thời giờ vào việc nghiên cứu; và nữ nhân bảo hộ của ông phần lớn thời gian chỉ có một mình, ăn vận chỉnh tề mà không có ai chiêm ngưỡng (trừ có người hầu gái của bà, mà trong lòng kẻ ấy vẫn còn nguyên sự kính sợ), đọc một cuốn sách đạo hay đan vài món đồ mặc trong cho những người chính thống cần giúp đỡ. Đôi lúc, quả thật, bà đã viết những lá thư dài cho con trai - Ngài Herbert cho rằng nội dung của chúng thật khó lường. Cách đây bốn mươi năm, lối sống ấy được coi là tẻ nhạt; vào thời của chúng ta, khỏi phải nghi ngờ, hẳn nó sẽ bị nghĩ là chán chết. Nên, cũng chẳng có gì phải băn khoăn, rằng cuối cùng, một sớm tháng Tư, năm thứ sáu mươi bảy của bà, như tôi đã kể, Bà De Grey bỗng dưng bắt đầu ngờ rằng mình đang cô đơn. Một năm dài nữa, ít nhất, sẽ đến và đi trước khi Paul trở về. Sau khi chiêm niệm một lúc trong im lặng, Bà De Grey quyết định xin ý kiến của Cha Herbert.

Quý ông này, sinh ra là một người Anh quốc, là một người bạn thân thiết của George De Grey, người đã làm quen với ông trong chuyến thăm châu Âu, trước khi kết hôn. Ngài Herbert là một người con trai thứ của một gia đình Công giáo tuyệt hảo, và khi ấy bắt đầu, với một chút ít kinh tế, học ngành luật. De Grey gặp ông ở London, và cả hai đều thấy một sự đồng cảm mạnh mẽ. Herbert không có ham muốn với nghề nghiệp hay bất kỳ một tham vọng nào rõ ràng. Hơn nữa, sức khỏe của ông lại yếu ớt; và người bạn của ông không gặp khó khăn gì khi thuyết phục ông nhận lấy vị trí đồng hành đi qua Pháp và Ý. De Grey mang theo một chiếc ví rất dày, và là người bạn lẫn người bảo hộ phóng khoáng nhất; và hai người đàn ông trẻ tuổi đã đi đến được xa nhất là Venice với tinh thần phấn chấn nhất và mối quan hệ tốt đẹp nhất. Nhưng ở Venice, vì những lý do mà chỉ họ mới biết, họ cãi lộn cay nghiệt và không thể cứu vãn. Vài người đồn rằng chuyện xảy ra trên bàn cờ bạc, và một số lại nó rằng chuyện là về một người phụ nữ. Trong mọi trường hợp, kết quả là, De Grey quay trở về Mỹ, còn Herbert thì đi đến Rome. Ông được nhận vào một tu viện, học thần học, và cuối cùng chuyên tâm vào con đường linh mục. Tại Mỹ, năm ba mươi ba tuổi, De Grey kết hôn với quý cô mà tôi đã miêu tả. Vài tuần sau hôn lễ ông viết thư cho Herbert, bày tỏ mong ước mãnh liệt được làm lành. Herbert cảm thấy bức thư được viết bởi một người đàn ông bất hạnh nhất; ông vốn đã tha thứ cho người ấy; ông thương xót, và sau một sự trì hoãn ngắn đã nhận được một sứ vụ bên Hợp Chúng Quốc. Ông đến New York và trình diện trước ngôi nhà của người bạn mình, nơi từ khoảnh khắc ấy đã trở thành nhà ông. Bà De Grey mới đó đã sinh hạ một đứa con trai; chồng bà phải ở luôn trong phòng vì bệnh tật, đã trở thành cái bóng của bản thân mình trước đây bằng những thừa thãi của nhục dục cứ lặp đi lặp lại. Ông chỉ sống được vài tháng từ khi Herbert tới; và sau cái chết của ông tin đồn lan ra rằng ý nguyện cuối cùng của ông là dành một khoản thu nhập lớn cho vị linh mục, với điều kiện ngài tiếp tục ở lại với người vợ góa của ông, và nhận hoàn toàn việc giáo dục con trai ông.

Đoạn sau đã xác nhận tin đồn đó. Trong vòng hai mươi lăm năm, tận đến thời điểm mà tôi đang viết đây, Herbert đã ở dưới mái nhà của Bà De Grey như người bạn và người đồng hành và người quân sư của bà, và như gia sư của con trai bà. Sau khi làm hòa với bạn mình, ông đã từ từ bỏ đi hình tượng linh mục của ông. Tính khí của ông về bản chất là sùng đạo, nhưng ông không ao ước về một giáo xứ hay một giảng đài. Mặt khác, ông đã trở thành một người học không mệt mỏi. Người bạn quá cố của ông đã để lại cho ông một thư viện giá trị, mà ông đã từ từ mở rộng thêm. Niềm đam mê của ông với sự học, dẫu vậy, dường như không màng đến điều gì, bởi, trong nhiều năm, người bạn nhỏ Paul của ông là chứng tá và là người tiếp nhận duy nhất của sự học ấy. Quả thật là ông đã soạn là một phần đồ sộ về Lịch sử Giáo hội Công giáo ở Mỹ, thứ, mặc dù bản thảo có tồn tại, chưa từng được nhìn thấy và, tôi đoán, chưa từng được viết để sau đó đem ra ánh sáng. Đó là một tác phẩm cao vời, bởi nó bao hàm vô số những sự thật. Công trình được viết, không phải từ một góc nhìn đồng cảm, mà từ một góc nhìn thuần tuý là tôn trọng, nhưng nó có một khuyết điểm chí mạng - nó thiếu lòng nhiệt thành.

Lời phàn nàn tương tự cũng có thể dùng để nói về tính cách con người của Cha Herbert. Ông là một linh hồn lịch thiệp, nhưng nó là một sự lịch thiệp lạnh nhạt và phép tắc. Khi ông cười, thì đấy là chỉ bằng, như người Pháp nói, khóe môi của ông, và khi ông đón lấy tay ai, thì chỉ bằng đầu ngón tay. Ông từng có một gương mặt quyến rũ ngày còn trẻ, và vào cái thời các quý ông rắc phấn lên tóc, mắt của ông hẳn đã tỏa ra được sắc thái đẹp nhất. Nhưng ông đã mất hết tóc, và trên vầng trán trần trụi ông mang một chiếc mũ lụa màu đen. Quanh cổ ông thắt một chiếc cà vạt đen có nhiều nếp gấp, không có cổ. Ông thấp và gầy, với đôi vai khom lại, và một đôi bàn tay đẹp.

“Nếu không có dấu hiệu đáng buồn cho điều ngược lại,” Bà De Grey nói, sau quyết định tìm lời khuyên nơi người bạn của mình, “thì con sẽ tin là con đang trẻ ra.”

“Dấu hiệu của điều ngược lại là gì?” Herbert hỏi.

“Con đang mất dần thị lực. Con không thể nhìn thấy khi đọc. Có khi con sẽ hóa mù.”

“Và điều gì làm chị nghi ngờ là chị đang trẻ lại?”

“Con thấy cô đơn. Con thiếu một người bầu bạn. Con nhớ Paul.”

“Một năm nữa là Paul sẽ về đây mà.”

“Vâng; nhưng từ giờ đến lúc ấy con sẽ rất khổ sở. Con ước gì con biết được một người tốt bụng nào đó mà con có thể mời đến ở với con.”

“Sao chị không kiếm một người bầu bạn - một quý bà nghèo nào đó đang cần tìm một căn nhà? Cô ấy có thể đọc cho chị nghe, và nói chuyện với chị.”

“Không; thế thì thật là kinh khủng. Bà ta chắc chắn sẽ già nua và xấu xí. Con thích ai đó có thể thay thế cho Paul - ai đó trẻ trung và tươi tắn như thằng bé. Chúng ta đều già tệ, trong căn nhà này. Cha ít nhất cũng đã bảy mươi, con thì sáu mươi lăm” (Bà De Grey hài lòng khi nói vậy); “Deborah thì sáu mươi, đầu bếp và ông đánh xe mỗi người cũng chừng năm mươi lăm rồi.”

“Vậy thì chị muốn một cô gái trẻ chăng?”

“Vâng, một cô gái nào trẻ trung, tốt bụng, tươi tắn, thỉnh thoảng bật cười, và thỉnh thoảng tạo ra âm nhạc - một chút tiếng động trong căn nhà.”

“Thế thì,” Herbert nói, sau khi suy ngẫm một hồi, “chị cứ làm theo ý chị trước khi Paul trở về nhà. Chị chỉ còn phải đợi có một năm thôi.”

“Ôi trời,” Bà De Grey nói; “con không nên cảm thấy bị buộc phải từ bỏ cô bé đó vì Paul chứ.”

Cha Herbert nhìn người bạn của ông với một ánh nhìn sắc lẹm. “Dẫu sao, quý cô của tôi,” ông nói, “chị hiểu ý tôi mà.”

“À vâng, con hiểu ý Cha... và Cha, Cha Herbert, cũng biết con nghĩ gì.”

“Vâng, thưa bà, và, cho phép tôi được nói thêm, là tôi không quan tâm lắm đâu. Tại sao tôi phải quan tâm chứ? Tôi toàn tâm toàn ý mong mỏi rằng bà sẽ không bao giờ cảm thấy bản thân mình bị buộc phải suy nghĩ khác đi.:

“Chắc chắn,” Bà De Grey nói, “là Paul có thời giờ để diễn đi diễn lại bi kịch cỏn con của mình hàng chục lần.”

“Cha của nó,” Herbert đáp lại, một cách nghiêm túc, “hồi đó mới chỉ hai mươi sáu tuổi.”

Khi nghe những lời này Bà De Grey nhìn vị linh mục hơi mếu máo và gò má ửng lên. Nhưng ông không ngần ngại nhìn thẳng vào mắt bà, và sau chốc lát thì bà hồi tâm, trong thinh lặng, về trạng thái bình thản như mọi khi.

Trong vòng một tuần sau cuộc nói chuyện Bà De Grey quan sát ở nhà thờ thấy hai người có vẻ lạ trong giáo xứ: một người phụ nữ lớn tuổi, ăn vận tằn tiện, và rõ ràng là sức khỏe yếu, nhưng lại có sự tinh tế vô cùng về con người và về cư xử; và một cô gái trẻ mà Bà De Grey đoán là con gái của bà. Chủ nhật sau đó bà gặp họ trong những giờ kinh cầu, và buộc phải ghi ấn tượng bởi một vẻ u sầu và phiền não trên gương mặt và thái độ của họ. Ngày Chủ nhật thứ ba họ vắng mặt; nhưng tình cờ trên đường, khi đang đi xưng tội, bà gặp cô bé, xanh xao, một mình, và mặc đồ như đang để tang, rõ ràng là vừa đi ra từ tòa giải tội. Có điều gì đó trong cách đi đứng và dáng vẻ của cô bé khiến Bà De Grey tin chắc rằng cô bé đang đơn độc trong thế giới này, không có bạn bè và không nơi nương tựa; và người đàn bà tốt bụng, người đôi khi cũng cảm nhận được rõ ràng sự cô lập của chính mình khỏi xã hội, cảm thấy một sự thôi thúc mạnh mẽ và thương cảm để nói chuyện với người lạ, và gặng hỏi bí mật về nỗi buồn của cô. Bà chặn cô bé lại trước khi cô rời khỏi nhà thờ và, nói với cô bằng lòng tử tế hết sức, rất nhanh đã chiếm lấy được lòng tin cậy của cô bé đến mức trong nửa tiếng đồng hồ bà đã nắm được tất thảy câu chuyện về cô bé. Cô vừa mất mẹ mình, và cô ở trong một thành phố lớn mà không một xu dính túi, và gần như vô gia cư. Họ từ miền Nam tới; cha cô từng là sĩ quan trong hải quân, và đã hy sinh trên biển, hai năm về trước. Sức khỏe của mẹ cô suy sụp, và họ đã đến New York, một cách thiếu sáng suốt, để khám ở chỗ một bác sĩ nổi tiếng. Ông ta rất tốt bụng, ông không tính phí, nhưng những kỹ năng của ông ta chỉ được dùng một cách vô ích. Tiền bạc của họ đã trôi đi theo các hướng khác - cho thức ăn và nhà ở và quần áo. Số còn lại vẫn còn đủ để lo cho người phụ nữ đáng thương được chôn cất đàng hoàng; nhưng không còn sự giúp đỡ nào cho cô bé ngoài nỗ lực của chính cô. Cô không có người bà con nào để hỏi han, nhưng cô khẳng định mình có thừa quyết tâm để làm việc. “Con trông ốm yếu,” cô nói, “và xanh xao, nhưng thật ra con rất khỏe. Chỉ là con bị mệt thôi - và buồn. Con sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Nhưng con không biết phải tìm ở đâu.” Cô bé đã đánh mất màu sắc và sự tròn trịa và dẻo dai của tuổi trẻ; cô gầy và ăn mặc rách rưới; nhưng Bà De Grey thấy rằng nếu được chăm lo tốt nhất thì cô bé hẳn là một sinh vật rất sinh đẹp, và rằng cô rõ ràng, tự nhiên, là một cô gái quyến rũ. Cô bé nhìn người phụ nữ lớn tuổi với đôi mắt xanh rực rỡ, quyến rũ dưới chiếc mũ lưỡi trai đen xấu tệ cô dùng để gom hết mớ tóc mềm mại. Cô khẳng định với bà là cô đã được giáo dục rất tốt, và cô từng chơi trên chiếc đàn piano-forte. Bà De Grey tưởng tượng ra cảnh cô rũ bỏ lớp cỏ dại úa, và mặc một chiếc áo dài trắng và một chiếc ruy băng xanh, đọc thành tiếng bên một ô cửa sổ mở, hay chạm vào những phím đàn cũ kỹ nhưng không thiếu nhạc điệu của bà; bởi nếu bà nhận cô bé (bà thầm nghĩ như vậy) thì Bà De Grey quyết định rằng bà sẽ không để bị hành hạ bởi cảnh tượng của những bộ đồ đen mà cô mặc. Rõ ràng là, dù cô bé sợ hãi và yếu ớt và lo lắng, đứa trẻ đáng thương sẽ chấp nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào một cách vô điều kiện. Sau đó bà hôn cô bé nhẹ nhàng trong một khung cảnh linh thiêng, và đưa cô bé về phía xe ngựa của mình, gần như quên hẳn việc với cha giải tội. Ngày hôm sau Margaret Aldis (ấy là tên của cô bé) được chính chiếc xe đó đưa tới tư gia của Bà De Grey.

Căn biệt thự này đã bị phá hủy vài năm trước đây, và nơi mà nó từng đứng bây giờ trở thành tâm điểm của mọi lối đi tán loạn. Nhưng ở thời điểm tôi kể thì nó nằm ở vùng ngoại ô của thị trấn, với viễn cảnh lớn như một miền quê mở ra ở một hướng và hướng còn lại là các con phố san sát. Hơn thế, đó là một căn biệt thự cổ tuyệt đẹp, mang thẩm mỹ đẹp nhất của thời ấy, với những căn phòng vuông lớn và hành lang rộng và những ô cửa sổ sâu, và trên hết, một khu vườn lớn tuyệt đẹp, ngăn cách khỏi con đường bằng những bức tường xanh rậm rạp. Ở đây, đắm chìm trong sự an nhàn và thoải mái về thể chất, được cứu rỗi khỏi dòng chảy cuồn cuộn của đời sống bình thường, và được đặt riêng trong vầng sáng của ánh nắng chan hòa, được trân trọng, được tôn vinh, được nâng niu, nhưng vẫn cảm thấy mình không phải chỉ là một đối tượng thụ động của tấm lòng từ thiện, mà mình đơn giản chỉ đang làm hết sức để trả ơn người bảo hộ mình, Cô Aldis tội nghiệp đã trổ hoa lần nữa. Với sự nghỉ ngơi và sang trọng và nhàn rỗi, sự rạng rỡ và vẻ đẹp tự nhiên đã trở lại với cô. Vẻ đẹp của cô không lấp lánh, thực vậy, hay sự vui tươi cũng không khó chịu; nhưng tựu trung lại, chúng là đóa hoa của sự duyên dáng thiếu nữ. Cô vẫn giữ một vẻ ngoài có phần mong manh và yếu đuối, sự nhẹ nhàng trong bước đi, sự dịu dàng trong giọng nói, sự nhạt nhòa trong thần sắc, điều gợi nên một sự mật thiết thân quen với đau khổ. Nhưng dường như trong đôi mắt xanh sâu thẳm của cô vẫn cháy lên một ánh sáng của sức sống gần như nồng nhiệt; và trên đôi môi cứng ngắc, nhợt nhạt của cô một lời tuyên ngôn về ý chí quyết tâm, tận tụy. Thỉnh thoảng dường như cô đã đánh đổi bản thân cho ý niệm đơn thuần về sự an toàn theo một cách tự do nhục cảm, liều lĩnh, và có phần vô ơn. Rõ ràng là cô đã yêu thích sự xa hoa từ bẩm sinh. Có khi cô sẽ ngồi, bất động, trong nhiều giờ, ngả đầu về sau, và đôi mắt của cô chầm chậm lang thang, trong sự im lặng ngây ngất của lòng mãn nguyện. Những lúc như vậy Cha Herbert, người đã quan sát cô chăm chú kể từ khoảnh khắc cô đến (vì mặc dù là một học giả và sống ẩn dật, ông cũng chưa mất đi khả năng ngưỡng mộ sự duyên dáng nữ tính) - những lúc ấy vị linh mục già sẽ nhìn cô lén lút và trầm trồ trước một sinh vật tuyệt vời, vô hồn mà Bà De Grey đã mang đến bên mình. Một buổi chiều, sau một lúc sững sờ như vậy, khi cô gái trẻ không chuyển động cũng không nói năng, chỉ ngồi như một người mà hồn đã lìa khỏi xác và đang lang thang trong không gian, cô đứng dậy, khi Bà De Grey cuối cùng sai cô một việc, và đi về phía trước như thể đang phục tùng bà; và rồi, đột nhiên chạy về phía người phụ nữ già, cô ngã khuỵu gối, và vùi đầu vào lòng bà rồi òa lên những tiếng đỉnh điểm của nức nở. Herbert, vẫn đứng cạnh bên, đi đến và đặt một bàn tay lên đầu cô và bàn tay kia làm dấu thánh giá, theo cách chúc lành - một sự dâng hiến lòng biết ơn nồng nàn cuối cùng đã bộc phát thành lời. Từ khoảnh khắc ấy ông đã yêu thương cô.

Margaret đọc sách cho Bà De Grey nghe, và vào các buổi chiều Chủ nhật cô hát bằng một giọng trong sáng, ngọt ngào những bài bình ca của Giáo hội của họ, và liên tục bận bịu với công việc may vá tinh xảo, việc mà cô đã học được kỹ năng điêu luyện. Họ dành những buổi sáng mùa hè dài bên nhau, khi đọc sách và làm việc và nói chuyện. Margaret nói với người bầu bạn của mình những chi tiết đơn giản, buồn bã của quá khứ mà cô đã kể cho bà nghe qua; và Bà De Grey, vốn coi chúng là một kiểu lãng mạn thực tế được sắp đặt để giải trí cho bà một cách tự nhiên, bắt cô phải kể đi kể lại cả chục lần. Bà De Grey cũng tôn vinh cô bé với một bài tường thuật lại tiểu sử của chính bà, mà, trong khoảng trống rộng lớn của chính nó, đã hình thành trong tâm trí của Margaret một ấn tượng mơ hồ về sự vĩ đại. Sự trống trải, quả thật, đã được xoa dịu bởi hình ảnh của Paul, mà Bà De Grey không bao giờ thấy chán miêu tả, và người mà, cuối cùng, Margaret trở nên rất yêu thích khi nghĩ đến. Cô chăm chú lắng nghe những lời ngợi ca của Bà De Grey về con trai, và nghĩ rằng thật tiếc khi anh không có nhà. Và rồi cô cũng bắt đầu trông mong sự trở lại của anh, và rồi, đột nhiên, cô bắt đầu sợ điều ấy. Có lẽ anh sẽ ghét việc cô đang ở trong nhà, và đuổi cô ra khỏi cửa. Hiển nhiên là mẹ của anh chưa sẵn sàng để làm trái lời anh. Có lẽ - càng tệ hơn - anh sẽ cưới một người phụ nữ ngoại quốc, và mang cô ta về nhà, và cô ta sẽ đem lòng xấu xa mà ghen ghét Margaret (theo cách của đàn bà ngoại quốc). De Grey, trong khi lang thang qua châu Âu, đã coi như nghiễm nhiên, theo cách ngoan đạo, rằng anh chưa từng ngơi khỏi tâm trí của người mẹ tốt của anh; nhưng anh vẫn hoàn toàn không nhận thức được về thứ phẩm giá mà anh đã tước đi trong những chiêm ngẫm về người bầu bạn khiêm tốn của bà. Quả thật, ta biết nơi nào mà cuộc sống của ta bắt đầu, nhưng ai có thể nói được nơi nào chúng sẽ kết thúc? Này là một quý ông trẻ tuổi vô tư mà sự tồn tại luôn luôn vang vọng trong tâm hồn của một cô bé tội nghiệp hoàn toàn xa lạ với anh. Bà De Grey có hai bức chân dung của con trai, mà, dĩ nhiên, bà không phí khoảnh khắc nào trưng ngay ra với Margaret - một cái cho thấy anh thời còn là bé trai, với mái tóc và hai gò má đỏ, thân người cậu trai được bao bọc trong một chiếc áo khoác màu xanh, và cổ của anh được choàng diềm đăng ten, mở cúc rất thấp; bức còn lại, được vẽ ngay trước khi anh lên đường, một chàng trai đẹp với một chiếc áo gi-lê bằng da bò, râu cạo sạch sẽ, với một nét mặt hoạt bát, mái tóc xoăn sẫm màu nâu vàng cột chặt, và đôi mắt rất đẹp. Bức trước Margaret thấy là một đứa trẻ rất xinh xắn; nhưng với bức còn lại cô bé khốn khổ ngay lập tức đánh mất trái tim - càng dễ để Bà De Grey khẳng định cô, rằng, mặc dù bức tranh đã đủ đẹp, nó chỉ truyền tải một ý niệm mờ nhạt nhất về thứ máu thịt đáng yêu của con trai bà. Vài tháng sau một bức thư được mong đợi từ lâu của Paul được gửi đến, và kèm theo là một bức chân dung nữa - một bức tranh nhỏ được vẽ ở Paris bởi một họa sĩ nổi tiếng. Trong ấy Paul ra dáng một nhân vật thanh lịch hơn nhiều so với tác phẩm của ông họa sĩ người Mỹ. Khó nói được sự thay đổi nằm ở đâu; nhưng mẹ anh cho rằng thật dễ thấy rằng anh đã có hai năm với những người bạn tuyệt vời nhất ở châu Âu.

“Ồ, người bạn tuyệt vời nhất!” Cha Herbert nói, người hiểu rõ sức mạnh của từ này. Và, mỉm cười một thoáng với một vẻ khinh khỉnh không mấy công kích, ông rơi vào trạng thái yên tĩnh vốn có.

“Con nghĩ anh ấy trông rất buồn,” Margaret nói, rụt rè.

“Vớ vẩn!” Herbert kêu lên, sốt ruột. “Trông nó như một thằng ngốc. Đương nhiên, đấy là lỗi của người Pháp,” ông thêm vào, một cách từ tốn hơn. “Lý do gì trên đời mà nó lại phải gửi hình của nó về? Đấy là quá xấc xược. Nó nghĩ là chúng ta đã quên nó à? Khi tôi muốn nhớ đến cậu bé của tôi, tôi có thứ tốt đẹp hơn để nhìn chứ không phải một miếng giấy trắng phô trương.”

Nghe những lời này hai người phụ nữ đi khỏi, mang theo bức chân dung, để đọc thư của Paul trong riêng tư. Bức thư dài tám trang, và Margaret đọc thành tiếng. Và rồi, sau khi cô đọc xong, cô lại đọc lần nữa; và buổi tối cô lại đọc thêm một lần. Ngày tiếp theo, Bà De Grey, tin tưởng vào cô bé, đã mang một bọc lớn chứa những bức thư trước đây của anh, và Margaret dành cả buổi sáng để đọc chúng thành tiếng. Chiều đó cô đi dạo trong vườn một mình - khu vườn nơi anh đã chơi khi còn là một đứa trẻ, đã nằm dài và mơ mộng thời trai trẻ. Cô tìm thấy tên anh - cái tên đẹp - được khắc vụng về trên một băng ghế gỗ. Được dẫn dắt, như cô tưởng cô được dẫn dắt bởi những bức thư của anh, vào những góc kín đáo trong tính cách của anh, bí mật về sự hiện diện của anh, vòng tròn kỳ diệu của những cảm xúc và ý kiến và mơ mộng của anh; lang thang bên cạnh anh, vô hình, qua khắp châu Âu, và rảo bước, vô thanh, qua những vỉa hè vang tiếng của những ngôi thánh đường và cung điện nổi tiếng, cô thấy như mình lần đầu tiên nếm được chất liệu và vị ngọt của cuộc đời. Margaret tản bộ khoảng một tiếng dưới ánh sao, giữ những con hẻm tối nhèm, thơm ngát. Bà De Grey, vì thấy không khỏe, nên đã về tư phòng. Cô gái trẻ nghe thấy văng vẳng tiếng thì thầm của thành phố lùi xa dần và biến mất, và rồi, khi sự tịch mịch của màn đêm trở nên không thể phá vỡ nổi, cô trở lại phòng khách qua dãy cửa sổ dài, và thắp một trong số những ngọn nến bạc nằm trang trí hai bên lò sưởi. Cô mang nó đến bức tường nơi Bà De Grey đã treo tấm hình nhỏ của con trai bà, trước đó đã đặt nó vào một chiếc khung bằng vàng rất lớn, mà bà đã vứt một bức tranh ít giá trị hơn ở bên trong đi. Margaret thấy rằng mình phải nhìn thấy bức chân dung trước khi đi ngủ. Có điều gì đó quyến rũ và mê hoặc khi ngắm nhìn qua ánh nến. Gió đã nổi lên - một ngọn gió ấm áp từ phía Tây - và những tấm rèm cửa dài màu trắng nơi những ô cửa sổ mở đong đưa và phập phồng trong nhập nhoạng theo cách đầy ma quái. Margaret dùng bàn tay che chắn ngọn lửa của cây nến, và chăm chú vào bề mặt của bức chân dung đã được phủ bóng, ấm áp trong ánh sáng, dưới một tấm kính lấp lánh. Sự sống và cuồng nhiệt bao la nào đã được thu nhỏ lại trong vài inch vuông của thứ màu nhân tạo! Đôi mắt của chàng trai dường như chăm chú nhìn cô với sự thân quen sâu sắc. Chúng khiến cô đắm đuối; cô nán lại ở điểm ấy, không thể rời mắt đi. Đột nhiên chiếc đồng hồ trên ống khói điểm một tiếng chắc đanh. Margaret giật mình và quay người lại, khi nghĩ rằng đã mười giờ rưỡi. Cô nâng ngọn nến lên để soi mặt đồng hồ; và nhận thấy ba điều: rằng đã một giờ sáng, ngọn nến của cô đã cháy một nửa, và ai đó đang quan sát cô từ phía bên kia của căn phòng. Đặt ngọn nến xuống, cô nhận ra Cha Herbert.

“Thế nào, Cô Aldis,” ông nói, tiến về phía có ánh sáng, “cô nghĩ sao về nó?”

Margaret giật mình và băn khoăn, nhưng không bối rối. “Con đã ở đây bao lâu rồi?” cô hỏi, thẳng thắn.

“Tôi không biết. Còn tôi thì đã ở đây nửa giờ rồi.”

“Cha thật tử tế vì không ngắt quãng con,” Margaret nói, ít thẳng thắn hơn.

“Đó là một bức tranh rất đẹp,” Herbert nói.

“Ôi, nó tuyệt đẹp!” cô bé thốt lên, liếc nhìn bức chân dung một lần nữa qua vai mình.

Người đàn ông già mỉm cười buồn bã, và quay người đi, và rồi, quay trở lại, “Cô có thích chàng trai của chúng tôi không, Cô Aldis?” ông hỏi, rõ ràng bằng nỗ lực đau đớn.

“Con nghĩ anh ấy rất điển trai,” Margaret nói, thẳng thắn.

“Nó không đẹp như thế đâu,” Herbert nói.

“Mẹ anh ấy nói anh ấy còn đẹp hơn nữa.”

“Lời chứng thực của một người mẹ trong những trường hợp như thế có ít giá trị lắm. Paul cũng đủ tốt, nhưng nó không phải là một phép mầu đâu.”

“Con nghĩ anh ấy trong buồn,” Margaret nói. “Mẹ anh ấy nói anh ấy rất vui tươi.”

“Có thể nó đã thay đổi rất nhiều trong hai năm. Cô có nghĩ,” người đàn ông nói thêm, sau khi dừng một lúc, “là nó trông giống một người đang yêu không?”

“Con không biết,” Margaret nói, giọng trùng xuống. “Con chưa được gặp người đang yêu.”

“Chưa bao giờ à?” vị linh mục nói, với một vẻ nghiêm túc khiến cô bé ngạc nhiên.

Cô hơi đỏ mặt. “Chưa từng ạ, thưa Cha Herbert.”

Đôi mắt thẫm của vị linh mục gắn chặt lên cô với một biểu cảm mãnh liệt lạ lùng. “Ta hy vọng, con của ta, con sẽ không bao giờ gặp,” ông nói, trang nghiêm.

Giọng điệu của ông không có chút nào thiếu tử tế, mà Margaret thấy như thể có điều gì tàn nhẫn và ớn lạnh trong mong ước ấy. “Tại sao con lại không thể như người khác?” cô hỏi.

Người đàn ông cao niên nhún vai. “À, đó là một câu chuyện dài,” ông nói.

Mùa hạ qua đi và vội vã bước vào mùa thu, và mùa thu từ từ trôi qua, và cuối cùng hoàn tất bằng sự ôm ấp lạnh lẽo của tháng Mười hai. Bà De Grey đã viết thư cho con trai về việc nhận Margaret vào làm. Lúc này có một bức thư gửi đến nói rằng chàng trai vui vẻ bày tỏ sự hài lòng của mình với việc này. “Hãy gửi lời khen ngợi của con đến Cô Aldis,” anh viết, “và đảm bảo với nàng về lòng biết ơn của con vì sự an ủi mà nàng đã mang đến cho người mẹ yêu quý của con - điều mà, quả thật, con mong sớm được bày tỏ trực tiếp với nàng.” Khi viết ra những câu chữ tử tế này Paul De Grey ít ngờ được sức lay động vô tận chúng tạo ra trong trái tim của Margaret tội nghiệp. Bức thư tới vào một tháng sau, nó được đưa đến tay của Bà De Grey vào bữa sáng “Mẹ đã nhận được thư con viết ngày 3 tháng Mười hai,” bức thư bắt đầu (bức thư ấy đã bị thất lạc và không tới nơi), “và đã có ý kiến về nội dung trong ấy.” Khi Bà De Grey đọc những chữ này, Cha Herbert nhìn Margaret; cô bé tái xanh đi. “Dù ưng thuận hay không,” bức thư tiếp tục, “con xin lỗi khi phải bắt mẹ hủy bỏ chúng lần nữa. Hôn ước của con và Cô L. đã đổ bể. Bây giờ nó không thể thực hiện được nữa. Vì con không muốn kể lại cho mẹ câu chuyện đó, hay để trình bày những nguyên cớ của con, nên bây giờ con sẽ không đi sâu vào việc lý giải sự tan vỡ này. Nhưng nó đã hoàn toàn chấm dứt, con đảm bảo với mẹ. Amen.” Và bức thư viết tiếp về những câu chuyện khác, để lại những người bạn của ta bối rối trong buồn bã. Họ chờ đợi bức thư bị thất lạc gửi đến; nhưng trong vô vọng; nó không bao giờ tới nơi. Bà De Grey lập tức viết thư cho con trai mình, gấp gáp yêu cầu một lời giải thích về những sự kiện mà anh đã nhắc đến. Thế nhưng, bức thư tiếp theo không có thông tin gì mà họ mong đợi. Bà De Grey lặp lại yêu cầu một lần nữa. Lúc này Paul viết rằng anh sẽ kể cho bà nghe câu chuyện khi anh trở về nhà. Anh ghét phải nói về nó. “Đừng lo lắng mẹ yêu quý,” anh viết thêm; “Thiên đàng đã ngăn cách con khỏi sự tái hợp. Cô L. đã qua đời ba tuần trước ở Naples.” Khi Bà De Grey đọc những dòng này, bà đặt lá thư xuống và nhìn Cha Herbert, người được gọi tới để nghe nó. Gương mặt nhợt nhạt của ông trở nên trắng toát, và ông đáp lại ánh nhìn của người phụ nữ với đôi môi bặm chặt và sự bất động như sỏi đá trong đôi mắt ông. Rồi, đột nhiên, một tiếng hét, dữ dội, không rõ ràng, bật ra từ cổ họng ông, và, giơ hai nắm đấm lên, ông đập mạnh xuống bàn một cách khủng khiếp. Margaret ngồi đó nhìn ông, choáng váng. Ông đứng dậy, lấy hai tay kéo cô vào, và ép cô vào cổ mình.

“Con ta! con ta!” ông khóc, bằng một thứ khản đặc, “Ta đã luôn luôn yêu thương con! Ta đã hà khắc và lạnh lùng và cáu kỉnh. Ta đã sợ hãi. Sấm sét đã giáng xuống rồi! Tha lỗi cho ta, con ơi. Ta đã trở lại làm chính mình.” Margaret, sợ hãi, tự tách ra, nhưng ông giữ lấy tay cô. “Con trai đáng thương!” ông kêu lên, với một tiếng thở dài run rẩy.

Bà De Grey ngồi hít lọ muối ngửi[1] của mình, nhưng không có vẻ khó chịu. “Đứa bé tội nghiệp!” bà lặp lại, nhưng không có tiếng thở dài nào - điều ấy khiến cho những câu từ mang một âm thanh châm biếm. - “Nó đã không còn quan tâm đến cô ấy nữa,” bà nói.

“Ôi, thưa bà!” vị linh mục kêu lên, “đừng nói lời báng bổ. Hãy quỳ gối, và tạ ơn Chúa vì ta đã khỏi phải nhìn thấy cảnh tượng xấu xí ấy!”

Bối rối và kinh hoàng, Margaret rút tay khỏi bàn tay ông đang nắm, và nhìn Bà De Grey bằng cặp mắt băn khoăn. Bà mỉm cười yếu ớt, chạm ngón tay trỏ lên trán cô bé, gõ nhẹ, nhướng mày lên, và lắc đầu.

Từ việc đếm tháng trôi qua trước khi Paul trở về, những người bạn của ta chỉ còn đếm tuần, và rồi đếm ngày. Tháng Năm đã tới; Paul đã lên thuyền từ nước Anh. Lúc này Bà De Grey mở cửa phòng của con trai, và cho dọn dẹp chuẩn bị để dùng nó. Những thứ trong phòng vẫn hệt như khi anh đi; bà cho Margaret vào xem. Margaret nhìn vào khuôn mặt mình trong chiếc gương của anh, và ngồi xuống một lúc trên chiếc trường kỷ của anh, và xem những cuốn sách trên kệ của anh. Chúng giống như một quân số phi thường; chúng được viết bằng nhiều thứ tiếng, và cho người ta một ấn tượng sâu sắc về thành tựu của chủ nhân chúng. Trên ống khói treo một bức phác họa nhỏ bằng chì, mà Margaret vội vàng đến xem - giống như vẽ một cô gái trẻ, được vẽ khá điêu luyện. Người thật hẳn phải rất đẹp, theo một kiểu u tối; và ở góc của bức vẽ có viết tên của họa sĩ - De Grey. Margaret im lặng nhìn bức chân dung, và nhịp tim đập ngày càng nhanh.

“Đây là của Ngài Paul ạ?” cuối cùng cô hỏi người đi cùng mình.

“Nó là của Paul,” Bà De Grey nói. “Nó từng rất yêu thích thứ đó, và nhất định phải treo nó ở kia. Cha nó đã vẽ trước ngày kết hôn của ta.”

Margaret thở dài nhẹ nhõm một tiếng. “Và quý cô này là ai ạ?” cô hỏi.

“Ta không rõ. Một người ngoại quốc nào đó, ta nghĩ thế, mà Ngài De Grey đã có ấn tượng. Có thứ khác về cô ta ở góc kia.”

Nghe thế, Margaret soi góc đối diện của bức vẽ, được viết bằng ký tự nhỏ, dòng chữ “obiit, 1786.”

“Con không biết tiếng Latin, ta hiểu, con yêu,” Bà De Grey nói, khi Margaret đọc dòng chữ viết. “Nó có nghĩa là bà cô ta đã mất ba mươi tư năm dài trước đây.”

“Cô gái tội nghiệpt!” Margaret nói, nhẹ nhàng. Khi họ rời căn phòng, cô nán lại ngưỡng cửa và nhìn xung quanh mình, ước gì cô có thể để lại một chút dấu ấn về chuyến thăm của mình. “Nếu ta biết chính xác khi nào anh ấy sẽ về tới,” cô nói, “con sẽ đặt vài bông hoa lên bàn anh ấy. Nhưng chúng sẽ tàn mất.”

Khi Bà De Grey chắc chắn với cô rằng thời điểm anh về đến khá thiếu chắc chắn, cô đành để bó hoa tưởng tượng của mình dở dang, và dành thời gian còn lại của ngày trong sự run rẩy thú vị của sự chờ đợi, sẵn sàng để thấy hình ảnh rực rỡ của một chàng trai trẻ, điểm thêm sự lộng lẫy kỳ lạ của chất ngoại quốc, hiện ra trước mặt cô và nhìn cô với một sự ngạc nhiên lạnh lùng, và vội vàng đi qua mặt cô để tìm mẹ mình. Cứ nghe thấy tiếng bước chân hay mở cửa cô lại dừng việc đang làm, và nghe ngóng tò mò. Buổi chiều, như thể bằng một bản năng bình thường của sự trông đợi, Cha Herbert gặp Bà De Grey trong căn phòng khách phía trước - một căn hộ dành riêng cho những dịp tiệc tùng chưa từng diễn ra trong biên niên sử của ngôi nhà yên tĩnh này.

“Ngày này một năm về trước, thưa bà,” Margaret nói, khi họ cùng ngồi yên lặng giữa những cái bóng đang chụm lại, “con đã đến ở trong nhà bà. Ngày hôm nay đã kết thúc một năm vô cùng hạnh phúc.”

“Ta hãy cùng cầu xin,” Cha Herbert nói, trịnh trọng, “rằng ngày mai sẽ bắt đầu một năm nữa.”

“Ôi, bà yêu quý của con!” Margaret kêu lên, xúc động; “cha tốt lành của con - những người bạn duy nhất của con - con làm sao có thể bị gì khi ở cùng hai người? Chính hai người đã cứu con khỏi hư hại.” Trái tim cô rưng rưng lòng biết ơn, và đôi mắt cô ngân ngấn lệ. Cô rùng mình một lúc lâu khi nghĩ đến cuộc sống đã có thể là số phận của cô. Nhưng, tự nhiên cảm thấy không muốn gượng ép những cảm xúc riêng lên sự chú ý của những con người đang hoàn toàn chìm đắm trong suy nghĩ về một niềm vui đang tới, cô rời chỗ của mình, đi lang thang trong vườn. Ít phút sau, cách cổng nhỏ ở phía hàng rào mở ra, không quá sáu thước nơi cô đứng. Một người đàn ông bước vào, người mà, trong ánh sáng nhàn nhạt, cô biết đó là Paul De Grey. Nhanh nhẹn tiến về phía cô, anh khoát tay như thể để chào cô, nhưng đột nhiên dừng lại, và bỏ mũ của mình.

“À, cô là Cô... quý cô trẻ,” anh nói.

Anh đã quên mất tên cô. Điều này là một thứ gì đó khác, một điều ít vui vẻ hơn, so với sự ngạc nhiên lạnh lùng của hình tượng trong trí tưởng tượng của Margaret. Dẫu vậy, cô đáp lời anh, đủ nghe thấy: “Họ đang ở trong phòng khách; họ đang đợi anh.”

Anh đi dọc theo con đường, rồi bước vào nhà. Cô chầm chậm đi theo anh về phía cửa số, và đứng mà không lắng nghe. Sự chào đón im lặng của chàng trai trẻ nói lên sự ấm áp nơi ấy.

Paul De Grey đã tận dụng chuyến lãng du của anh bên châu Âu; anh đã không để mất thành tựu cũ của mình, và đã thâu nạp thêm được vài thứ mới. Về bản chất và văn hóa anh là một anh chàng thông minh, dễ mến, và thành đạt. Anh may mắn có được một sức cuốn hút riêng, khó diễn tả trong tính cách và tác phong. Anh cao ráo và thân hình thanh mảnh, nhưng chắc chắn, rắn rỏi, và năng động, với nước da sáng, trắng trở, vầng trán rộng, cao, mái tóc xoăn màu nâu, và đôi mắt - một ánh nhìn, một nụ cười - sáng láng tuổi trẻ và trí tuệ. Lời nói của anh bộc trực, nam tính, và thẳng thắn; nhưng với Margaret dường như phong cách của anh được đánh dấu bằng một sự đứng đắn và thanh tao nhất định - đôi lúc thậm chí tiệm cận tới sự câu nệ - điều khiến anh nổi bật giữa những người đàn ông khác. Nhưng, không phải rằng cô đã phát hiện ra trong cá tính của anh bất kỳ dấu hiện nào của một nguyên tắc kỳ lạ về sự u sầu đã ảnh hưởng quá mạnh mẽ đến những thành viên khác của ngôi nhà (và những gì cô có thể lượm lặt được, đến cha anh). Trái lại, cô tưởng tượng, rằng cô chưa từng biết một sự nhẹ nhõm nào hơn ở nơi một sự vui vẻ kiểu công tử. Nếu Margaret có đầu óc phân tích hơn, cô đã tự dặn mình rằng bản chất của Paul De Grey rõ ràng là một quý tộc. Nhưng cô gái trẻ tự thỏa mãn với việc hiểu ít hơn, và âm thầm yêu điều ấy nhiều hơn; và khi cô cần một cách để hình dung nó, cô chọn một từ đơn thuần hơn. Paul tựa như một tia nắng rực rỡ trong cuộc sống ảm đạm, nhạt nhẽo của hai người phụ nữ; anh khỏa lấp căn nhà với ánh sáng và sự ấm áp và niềm vui. Anh vận động, như Margaret tưởng tượng, trong một vòng tròn của ánh hào quang gần như siêu nhiên. Những câu từ của anh, khi phát ra từ môi anh, như những viên kim cương và ngọc trai; và, quả thật, cách anh nói chuyện, trong một tháng sau khi trở về, thú vị nhất có thể. Ngôi nhà của Bà De Grey về cơ bản là chốn thanh nhàn - một tòa lâu đài của sự lười biếng; và Paul khi nói chuyện, và những người ở cùng anh khi lắng nghe, không ý thức được về bất kỳ một sự căng thẳng đố kỵ nào của những công việc hèn mọn. Những ngày hè dài, và quỹ nói chuyện hàng ngày của Paul không cạn kiệt. Một tuần sau khi anh trở về, sau bữa sáng, Cha Herbert bắt đầu thói quen đưa anh tới thư phòng của mình, và Margaret, khi đi ngang cánh cửa mở hé, sẽ nghe thấy thứ âm nhạc biến hóa trong giọng nói của anh. Cô ghen tị với người đàn ông cao niên, những lúc ấy, vì sự hưởng thụ riêng tư của tài hùng biện dồi dào. Cô cảm thấy rằng với gia sư của anh, câu chuyện của Paul thông minh và phong phú hơn nhiều so với nó có thể khi ở với hai người đàn bà đầu óc đơn thuần; và cô gái trẻ có một khao khát tôn sùng được nghe anh, và được ngắm nhìn anh, khi anh tuyệt vời nhất. Nó cũng là thứ tuyệt vời xuất sắc nhất trong tâm khảm của Cha Herbert; bởi Paul đã vượt qua những ước vọng chân thành nhất của ông. Anh đã tích lũy được một kho kiến thức rất lớn; anh đã học được mọi điều tốt mà người đàn ông cao niên đã hướng dẫn cho anh; và, mặc dầu anh đã không hoàn toàn phớt lờ thứ cám dỗ mà vị linh mục đã cảnh báo anh, anh đã phán xét chúng rất mực khôn ngoan và sắc sảo! Đàn bà và linh mục, nói chung, không vì chuyện một người đàn ông không còn hoàn toàn trong trắng mà bớt yêu quý anh ta đi. Cha Herbert hài lòng khôn tả về sự phát triển đáng mừng trong tính cách của Paul. Anh hơn cả một đứa con từ lòng[2] ông: anh là đứa con của trí tuệ, của sự kiên nhẫn, và sự tận hiến nơi ông.

Những buổi trưa và chiều Paul được rảnh rang dành cho mẹ mình, người mà, khi ở ngoài tư phòng, không bao giờ dành giờ nào không có Margaret. Điều này, nhờ sự tế nhị và thông cảm tinh ý của cô gái trẻ, đã trở thành một điều hết mực cần thiết. Margaret ngồi ở bên làm việc, trong khi Paul nói chuyện, và ngạc nhiên trước kho tàng bất tận những câu chuyện tầm phào và giai thoại và những mô tả thuyết phục, sống động của anh. Anh khiến các thành phố và thánh đường và bảo tàng và rạp hát diễu hành và tỏa sáng trước những giác quan bị mê hoặc của cô, và tái hiện những người anh gặp và những phong cảnh anh đã đi qua, cho đến khi trong đầu của cô gái trẻ quay vòng liên tiếp những hình ảnh và minh họa. Và rồi, đôi khi, anh có vẻ như thấm mệt, và sẽ chìm vào thinh lặng; và Margaret, rời công việc mà ngước nhìn lên, sẽ thấy đôi mắt anh đăm chiêu lơ đãng, và một nụ cười nở trên gương mặt anh, hoặc giả một sự nghiêm nghị lạnh lùng, và cô sẽ tự hỏi ký ức xa vời nào đã gợi lại trong suy nghĩ của anh về thế giới Âu châu xa lạ ấy. Có khi, ít thường xuyên hơn, khi cô ngước mắt lên, cô sẽ bắt gặp anh đang nhìn bóng hình của cô, đầu cô cúi xuống, và chuyển động bận rộn nơi đôi bàn tay cô. Nhưng (ít nhất, là chưa) anh chưa từng bối rối đánh mắt đi; anh để cho ánh mắt nghỉ nơi đó, và biện minh cho sự chăm chú của mình bằng một câu nhận xét đơn giản và tự nhiên.

Nhưng vài tuần trôi qua, và mùa hè đạt đến đỉnh điểm của nó, Bà De Grey bắt đầu có thói quen về tư phòng sau bữa tối, nơi, ta có thể phỏng đoán trong tôn trọng, bà để buổi chiều trôi qua trong sự uể oải và cơn buồn ngủ. Nhưng De Grey và Cô Aldis đã ngầm đồng thuận rằng, trong thời khắc hoàng kim và thanh xuân của cuộc đời, thật là ngu ngốc nếu lãng phí những giờ dài nhất và sáng nhất trong năm theo cách đó; và vì thế về phía họ, họ bắt đầu quen ngồi trong căn phòng khách tối, và tâm sự cho qua thời gian đến một giờ trước khi uống trà chiều. Đôi khi, để thay đổi, họ đi qua khu vườn về một dạng nhà nghỉ mát, nằm ở tâm điểm của khung cảnh xung quanh, và hướng mặt khỏi phía dinh thự, nhìn về hướng Bắc, và hai bên hông được bao phủ bởi những cây dây leo rậm rạp, phủ kín. Bên trong, dựa vào tường, là một bằng ghế dài để ngồi ngoài vườn, và ở giữa là một chiếc bàn, nơi Margaret để chiếc giỏ làm việc của cô, và chàng trai trẻ để cuốn sách, mà, giả bộ như mang theo để đọc, anh thường cầm trong tay. Bên trong nhà là sự mát mẻ và bóng tối sâu thẳm và sự thinh lặng, và thoát khỏi ánh sáng chói lòa của bầu trời mùa hạ bao la. Khi tôi nói có sự thinh lặng, nghĩa là không có điều gì xen vào cuộc nói chuyện của hai kẻ biếng nhác hạnh phúc này. Cuộc nói chuyện của họ nhanh chóng trở nên rời rạc, dễ thay đổi, tức là dấu hiệu của sự thân thiết vô cùng. Margaret có cơ hội để hỏi Paul rất nhiều câu hỏi mà cô không thấy thoải mái khi hỏi trước mặt mẹ anh, và để yêu cầu làm sáng tỏ thêm những điểm nhỏ nhặt mà Bà De Grey đã bằng lòng bỏ ngỏ. Paul hoàn toàn sẵn sàng để chia sẻ. Nếu Cô Aldis muốn nghe, anh chắc chắn sẽ vui lòng nói chuyện. Nhưng đột nhiên anh nhận ra rằng thái độ của cô là một sự khơi gợi tính ích kỷ, và rằng trong sáu tuần, quả thật, anh không làm gì ngoài nói về bản thân mình - những chuyến phiêu lưu, những cảm xúc, và những ý kiến của riêng anh.

“Tôi cho rằng, Cô Aldis,” anh thốt lên, “cô đang khiến tôi trở thành con quái vật tự cao tự đại. Phụ nữ các cô chỉ giỏi làm như vậy. Tôi sẽ không nói nên lời nào về Ngài Paul De Grey nữa. Bây giờ đến lượt cô.”

“Để nói về Ngài Paul De Grey à?” Margaret hỏi, cùng với một nụ cười.

“Không, về Cô Margaret Aldis... mà, nhân tiện, là một cái tên rất đẹp.”

“Nhân tiện, đúng thế!” Margaret nói. “Có thể là nhân tiện với anh. Nhưng với tôi, cái tên đẹp của tôi là tất cả những gì tôi có.”

“Có phải ý cô là, Cô Aldis,” Paul kêu lên, “là vẻ đẹp của cô nằm hết ở tên cô...”

“Tôi bị hiểu nhầm mất rồi. Nếu là vậy, thì tôi không có ý đó. Còn lại chắc là nằm ở trong tưởng tượng của tôi rồi.”

“Rất có thể. Chắc hẳn là không với tôi.”

Margaret, quả thật, lúc này, vô cùng xinh đẹp; một chút xanh xao vì nóng bức, nhưng tròn trịa và phổng phao nhờ được nghỉ ngơi và phát triển, và được làm cho sống động - phần nào được truyền cảm hứng, tôi có thể gọi như vậy - bằng lòng biết ơn dịu dàng. Nhìn vào cô khi anh nói những lời này, De Grey bị ấn tượng bởi nét thú vị trên gương mặt cô. Quả thật, rất chắc chắn, vẻ đẹp của cô là một hiện thực mạnh mẽ. Sự cuốn hút của gương mặt cô mãi mãi được làm tươi mới và khơi gợi bởi sự đáng yêu sâu thẳm trong tâm hồn cô.

“Thực sự ý của tôi, Cô Aldis,” chàng trai nói, “là tôi mong cô kể về bản thân mình. Tôi muốn nghe về những chuyến phiêu lưu của cô. Tôi yêu cầu điều ấy - tôi cần nó.”

“Chuyến phiêu lưu của tôi à?” Margaret nói “tôi chưa từng có.”

“Tốt!” Paul kêu lên, “bản thân điều ấy cũng là một chuyến phiêu lưu đó.”

Bằng cách đó Margaret kể lại cho người kế bên câu chuyện ngắn ngủi về cuộc đời lúc trẻ của cô. Tuy nhiên, câu chuyện không được kể hết, mặc dù ngắn ngủi, trong một buổi chiều; tức là, cả một tuần sau khi cô bắt đầu kể, cô gái trẻ nhận ra mình đã khiến Paul phải đối điện với một vấn đề khiến anh có ấn tượng lầm.

“Không, anh ta đã kết hôn,” Margaret nói, “tôi đã kể với anh mà.”

“À, anh ta đã kết hôn sao?” Paul nói.

“Vâng; vợ anh ta là một người phụ nữ béo mập.”

“À, vợ anh là là một người phụ nữ béo mập sao?”

“Vâng; và anh ta nghĩ cô ta là cả thế giới.”

“À, anh ta nghĩ cô ta là cả thế giới!”

Tự nhiên, theo cách này, với những lời bình luận liên tục được Paul đưa ra, câu chuyện sẽ diễn ra chậm rãi. Nhưng, ngoài những quan sát được thuật lại ở đây, chàng trai trẻ đưa ra những bình luận khác, khó nghe thấy hơn và sâu sắc hơn. Khi anh lắng nghe cô nàng bộc trực và có mái tóc vàng này, và suy nghĩ rằng trên thế giới rộng lớn này cô có thể tìm đến sự tin tưởng và cảm thông của những bộ óc khác ngoài anh - khi anh thấy cô đặt những suy tư và ký ức thẳng thắn của mình trong sự phán xét của anh, và khi cô đặt bàn tay trắng nõn lên cánh tay anh - anh thấy rằng những ý định trong sáng mà cô tin rằng chứa đầy trong tâm hồn anh trở nên nghiêm túc và cao cả hơn qua cách cô nhìn nhận. Tất tật các màu sắc lộng lẫy nhòa đi khỏi những mơ mộng và tiếc nuối mới đây về châu Âu của anh, và anh chỉ còn cảm nhận được sự hiện diện của Margaret, và ánh sáng hồng dịu dàng nơi cô ngồi và cử động, giống như một ánh hào quang trần thế. Có thể nào, anh tự hỏi bản thân, trong khi anh lang thang khắp châu Âu, trong một cuộc tìm kiếm mơ hồ, không nghỉ cho tương lai, thì đoạn kết của anh, mục đích của anh, những thứ ấy đã âm thầm chờ đợi anh nơi lò sưởi bị bỏ không của chính anh, hội tụ trong hiện thân trọn vẹn trong một con người ngọt ngào nhất và xinh đẹp nhất trong mọi phụ nữ? Cuối cùng một ngày, sự nhìn nhận về vấn đề này đã tác động đến anh mạnh mẽ, đến mức anh phải kêu lên trong cơn ngây ngất của sự tin tưởng và niềm hân hoan.

“Margaret,” anh nói, “mẹ của tôi đã gặp em trong thánh đường, và ở đó, trước bàn thờ, mẹ đã hôn em và kéo em vào lòng. Tôi vẫn thường nghĩ về cảnh tượng đó. Nó khiến cho việc nhận em không còn là điều tầm thường.”

“Em chắc là em cũng đã thường xuyên nghĩ về nó,” Margaret nói.

“Nó khiến điều ấy trở nên thiêng liêng và vĩnh cửu,” Paul nói. “Vào ngày hồng phúc đó em đã đến với chúng tôi luôn mãi.”

Margaret nhìn anh bằng gương mặt run rẩy giữa những nụ cười và giọt nước mắt. “Cho đến khi anh còn giữ em lại,” cô nói. “Ôi, Paul!” Chỉ trong một thoáng chàng trai đã thể hiện mọi sự khao khát và dục vọng của mình.

Với tình cảm và sự tôn trọng lớn nhất dành cho mẹ mình, Paul luôn luôn cảm thấy bình thường khi dành sự ưu tiên cho Cha Herbert trong những vấn đề gấp gáp và kín đáo. Người đàn ông sở hữu một sự nhạy cảm khôn ngoan tinh tế khiến cho sự cảm thông lẫn lời khuyên của ông đều ý vị. Vài ngày sau cuộc trò chuyện về vài điểm nổi bật mà tôi đã đề cập sơ qua, Paul và Margaret tái lập lời hẹn ước chung của họ trong ngôi nhà nghỉ mát. Giờ đây họ nó niềm tin tưởng sâu sắc về sự chân thành trong những cảm xúc của riêng họ, và sự thích thú không nghi ngờ trong những lần phản kháng nhau liên hồi, khiến họ không còn biết làm gì ngoài việc tin tưởng những người cao niên. Họ đi qua khu vườn cùng nhau, và khi đến ngưỡng cửa Margaret nhận ra rằng cô đã để quên chiếc kéo ở túp lều trong vườn, nơi Paul trở lại để tìm chúng. Cô gái bước vào trong nhà, đến chân cầu thang, và chờ đợi người tình của cô. Lúc này Cha Herbert xuất hiện ở cánh cửa mở nơi thư phòng của ông, và nhìn Margaret với một nụ cười thâm trầm. Ông đứng, chầm chậm đưa bàn tay nọ qua bàn tay kia, và nhìn cô với ánh nhìn dịu dàng, u tối.

“Tôi thấy dường như, Bà Margaret,” ông nói, “là bà giấu tất cả bí mật tuyệt vời này khỏi Giáo sư Herbert già tội nghiệp của bà nhỉ.”

Trước sự xuất hiện của ngài học giả dịu dàng và đáng kính này, Margaret cảm thấy cô không cần phải đỏ mặt và giễu cợt và phủ nhận một cách thông tục. “Cha Herbert thân mến,” cô nói, với sự đơn thuần như thiên đàng, “con vừa xin Paul nói với cha.”

“À, con gái của ta,” - người đàn ông già gần như cất tiếng thở dài - “tất cả là một bí ẩn kỳ lạ và kinh hoàng.”

Paul bước vào và băng qua hành lang với bước đi nhẹ nhõm của một kẻ đang yêu.

“Paul,” Margaret nói, “Cha Herbert biết rồi.”

“Cha Herbert biết rồi!” vị linh mục nhại lại - “Cha Herbert biết mọi chuyện. Chúng con là những kẻ si tình rất ngây thơ.”

“Cha là một vị linh mục rất khôn ngoan, thưa cha,” Paul nói, đỏ mặt.

“Ta đã biết một tuần trước rồi,” người đàn ông già nói, buồn bã.

“Vậy thì, thưa cha,” Paul nói, “chúng con không yêu cha ít hơn khi yêu nhau nhiều hơn rất nhiều. Con mong cha sẽ không yêu chúng con ít đi.”

“Cha Herbert nghĩ nó kinh hoàng,” Margaret nói, mỉm cười.

“Lạy Chúa!” Herbert kêu lên, giơ tay lên đầu như thể đang trong cơn đau. Ông quay người, và đi vào phòng của mình.

Paul vòng tay của Margaret qua cánh tay anh và đi theo sau vị linh mục. “Cha dằn vặt, thưa cha,” anh nói, “vì nghĩ rằng sẽ mất chúng con - rằng chúng con sẽ bỏ cha. Điều đó chắc chắn không cần phải khiến cha phiền muộn. Chúng con đi đâu được? Chừng nào cha còn sống, chừng nào mẹ con còn sống, tất cả chúng ta sẽ chỉ ở trong một căn nhà.”

Người đàn ông già dường như đã lấy lại bình tĩnh. “À!” ông nói; “hãy hạnh phúc, dù ở đâu, và ta sẽ hạnh phúc. Con còn rất trẻ.”

“Không trẻ lắm đâu ạ,” Paul nói, cười lớn, nhưng với sự chán ghét tự nhiên khi bị đặt vào góc nhìn quá trẻ nít. “Con đã hai mươi sáu. J'ai vécu - con đã trải đời rồi.”

“Anh ấy đã trải mọi sự,” Margaret nói, dựa vào cánh tay anh.

“Không hẳn mọi sự đâu.” Và Paul, nheo mắt lại, với một nụ cười điềm tĩnh, bắt gặp ánh mắt cô đang ngước nhìn lên.

“Ồ, anh ta khiêm tốn quá,” Cha Herbert lầm bầm.

“Paul suýt thì đã kết hôn rồi mà,” Margaret nói.

Chàng trai có một cử chỉ thiếu kiên nhẫn. Herbert đứng và hai mắt dán chặt vào gương mặt anh.

“Sao em lại nhắc đến cô gái tội nghiệp đó?” Paul nói. Dù anh đã cho Margaret thỏa mãn về chủ đề cuộc hôn nhân dự kiến của anh ở châu Âu thế nào, thì kể từ khi trở về anh cũng từ chối, với lý do rằng nó vô cùng đau dớn, phải bàn bạc vấn đề ấy với mẹ anh hay người thầy lớn tuổi của anh.

“Cô Aldis có lẽ đang ghen,” Herbert nói, nghe xảo quyệt.

“Ôi Cha Herbert!” Margaret kêu lên.

“Chẳng có gì phải ghen cả,” Paul nói.

“Có một chàng trai trẻ tốt đẹp!” Herbert kêu lên. “Mà người ta lại nghĩ anh ta chưa từng quan tâm đến cô ấy.”

“Hoàn toàn đúng.”

“Ồ!” Herbert nói, với giọng điệu trách móc thâm trầm, đặt tay ông lên cánh tay của chàng trai. “Đừng nói thế.”

“Không, thưa cha, con có thể nói vậy. Con chưa bao giờ nói điều gì ít hơn như vậy về cô ta. Cô ta mê hoặc con, cô ta quấn lấy con, nhưng, Thiên đàng làm chứng, con chưa từng yêu cô ta!”

“Ôi, xin Chúa giúp con!” vị linh mục kêu lên. Ông ngồi xuống, và vùi mặt vào hai lòng bàn tay. Margaret trắng bệch như người chết, và nhớ lại cảnh tượng đã xảy ra khi nhận được lá thư của Paul, tuyên bố sự chấm dứt của hôn ước của anh. “Cha Herbert,” cô kêu lên, “bí ẩn kinh hoàng, xấu xa nào cha đang chôn giấu trong lòng vậy? Nếu nó liên quan đến con - nếu nó liên quan đến Paul - con xin cha hãy kể cho chúng con.”

Dường như bị tác động trước giọng nói đau đớn của cô gái trẻ khiến ông có cảm giác cần sự tự chủ, Herbert bỏ tay khỏ mặt mình, và nhanh chóng hướng về Margaret một ánh nhìn khẩn cầu. Cô nhận ra rằng điều ấy có nghĩa là, bằng mọi giá, cô nên giữ yên lặng. Sau đó, bằng một nỗ lực che giấu tuyệt vời, ông đưa đôi bàn tay ra, và đặt một tay lên vai của mỗi người bạn. “Xin lỗi con, Paul,” ông nói, “ta là một ông già ngu ngốc. Những học giả già nua là một chủng tộc đa cảm, mê tín. Chúng ta tin rằng mọi phụ nữ đều là thiên thần, và mọi đàn ông...”

“Và mọi đàn ông đều là những kẻ ngốc,” Paul nói, mỉm cười.

“Chính xác. Trong khi, con thấy đấy,” Cha Herbert thì thầm, “chẳng có tên ngốc nào ngoài chính chúng ta.”

Margaret lắng nghe đoạn đối thoại kỳ quái này với trái tim đập mạnh, quyết tâm không tự mình thỏa mãn với bất kỳ lời giải đáp qua loa nào về những ám chỉ bi thảm của người đàn ông cao niên. Herbert khẩn khoản xin Paul hoãn việc thông báo với mẹ anh về hôn ước trong vài ngày. Hôm sau là một ngày Chủ nhật, ngày Chủ nhật cuối cùng của tháng Tám. Sự nóng bức suốt một tuần đã ngột ngạt, không khí bây giờ ủ rũ và bức bối, như thể một cơn bão đang đến. Khi đang rời bàn ăn sáng, Margaret thấy Cha Herbert chạm vào cánh tay.

“Đừng đi lễ,” ông nói, bằng một giọng thấp. “Hãy kiếm cớ, và ở nhà đi.”

“Một cái cớ ạ?...”

“Nói là con có thư cần viết.”

“Thư ạ?” và Margaret cười có phần cay đắng. “Con nên viết thư cho ai đây?”

“Trời ơi, thì nói con bị ốm. Ta sẽ giải tội cho con. Khi nào họ đi hết, thì đến gặp cha.”

Đến giờ lễ, theo đó, Margaret giả vờ thấy hơi khó chịu; và Bà De Grey, nắm lấy cánh tay của con trai, leo lên cỗ xe ngựa cổ với ghế ngồi sâu, và lên khỏi phía cánh cửa. Margaret lập tức đến căn hộ của Cha Herbert. Cô thấy trên gương mặt của người đàn ông lớn tuổi điềm báo về một sự tiết lộ khủng khiếp. Cả thân hình ông như mang gánh nặng của một nhu cầu không thể lay chuyển.

“Con gái của ta,” vị linh mục nói, “con là một cô bé dũng cảm, đạo đức...”

“Ôi!” Margaret kêu lên, “phải là điều kinh khủng, nếu không cha sẽ không nói vậy. Xin cha nói cho con ngay đi!”

“Con cần tất cả lòng can đảm của con.”

“Anh ấy không yêu con sao? - Ôi, vì danh Chúa, cha hãy nói đi!”

“Nếu nó không yêu con bằng tình yêu cuồng nhiệt sai trái, thì ta không có gì để nói.”

“Ôi, nếu vậy, cha hãy nói những gì cha muốn đi!” Margaret nói.

“Vậy thì... con phải rời khỏi ngôi nhà này.”

“Tại sao?... khi nào?... con phải đi đâu?”

“Ngay bây giờ, nếu có thể. Con phải đi bất cứ nơi đâu - càng xa càng tốt - càng xa khỏi nó. Hãy nghe ta, con của ta,” ngường đàn ông già nói, lồng ngực của ông thắt lại bởi vẻ mặt choáng váng, hoang mang trên gương mặt Margaret; “phản đối, khóc lóc, kháng cự không có ích gì đâu. Đó là tiếng nói của số phận!”

“Nhưng thưa cha,” Margaret nói, “cha buộc con vì tội gì?”

“Ta không buộc tội ai. Ta thậm chí còn không buộc tội Thiên đàng.”

“Nhưng có một lý do... có một động cơ...”

Herbert đặt tay lên môi ông, chỉ một chiếc ghế, và đi về phía chiếc rương cổ trên bàn, mở khóa, và lấy từ trong đó ra một cuốn sổ nhỏ, bọc bằng bìa da, giống như một cuốn sách kinh cũ được viền vàng. “Không có ích gì,” ông nói, “ngoài việc kể cho con nghe toàn bộ câu chuyện.”

Ông ngồi xuống trước mặt cô gái trẻ, đang giữ mình cứng cỏi và đợi chờ. Căn phòng tối đi vì những đám mây của cơn bão đang kéo về, và tiếng sấm đì đùng ở đằng xa.

“Ta sẽ đọc cho con nghe mười chữ,” vị linh mục nói, lật qua trang lót của cuốn sổ, trên đó một dạng nhật ký hay biên kê đã được viết bởi nhiều bàn tay, tất cả đều nhỏ và có một số gần như không thể đọc được. “Chúa ở cùng con!” và người đàn ông lớn tuổi làm dấu thánh giá trên mình. Bất giác, Margaret cũng làm như vậy. “‘George De Grey’,” ông đọc, “‘gặp và yêu, tháng Chín, 1786, Antonietta Gambina, xứ Milan. Cô đã mất ngày 9 tháng Mười, cùng năm. John De Grey kết hôn, ngày 4 tháng Tư, 1749, với Henrietta Spencer. Cô mất ngày 7 tháng Năm. George De Grey đính hôn tháng Mười, 1710, với Mary Fortescue. Cô mất ngày 31 tháng Mười. Paul De Grey, tuổi mười chín, hứa hôn tháng Sáu, 1672, ở Bristol, nước Anh, với Lucretia Lefevre, tuổi ba mươi mốt, người xứ ấy. Cô mất ngày 27 tháng Bảy. John De Grey, đính hôn ngày 10 tháng Một, 1649, với Blance Ferrars, của Lâu đài Ferrars, Cumberland. Cô mất, dưới bàn tay của người tình, ngày 12 tháng Một. Stephen De Grey, cầu hôn Isabel Stirling, tháng Mười, 1619. Cô mất trong tháng đó. Paul De Grey lập hôn ước với Magdalen Scrope, tháng Tám, 1586. Cô mất khi đang sinh con, tháng Chín, 1587.” Cha Herbert dừng lại. “Như vậy đã đủ chưa?” ông hỏi, ngước nhìn lên với đôi mắt sáng quắc. “Vẫn còn hai trang nữa. De Grey là một dòng dõi lâu đời; họ giữ những ghi chép của họ.”

Margaret đã lắng nghe với vẻ kinh hoàng sâu sắc, dữ dội, và sôi sục - một vẻ mặt giống với sự thịnh nộ và niềm kêu hãnh bị tổn thương hơn là sợ hãi. Cô lao về phía vị linh mục với sự nhẹ nhàng như một con mèo con, và hất văng cuốn sổ gớm ghiếc khỏi tay ông.

“Thật là điều vô lý ghê tởm!” cô hét lên. “Nó có nghĩa là gì? Con hầu như không nghe nó; con căm ghét nó; con cười nhạo nó.”

Người đàn ông lớn tuổi nắm lấy cánh tay cô thật chặt. “Paul De Grey,” ông nói, bằng một giọng khủng khiếp, “hứa hôn với Margaret Aldis, tháng Tám, 1821. Cô mất... cùng với những chiếc lá rụng.”

Margaret tội nghiệp nhìn quanh tìm sự cứu giúp, cảm hứng, hay một niềm an ủi nào đó. Căn phòng chẳng có gì ngoài những dãy dài của những cuốn sách cũ bọc giấy da, mỗi cuốn đều giống như sự lặp lại nghiệt ngã của cuốn sổ dưới chân cô. Một tiếng sấm lớn vang lên giữa sự tĩnh lặng của buổi trưa. Đột nhiên sức lực rời khỏi cô; cô cảm nhận được sự yếu đuối và đơn độc của mình, và bàn tay của số phận đang nắm lấy cô. Cha Herbert dang tay ra, cô lao vào ôm lấy cổ ông, và trào nước mắt.

“Con vẫn từ chối rời bỏ nó sao?” vị linh mục hỏi “Nếu con rời khỏi nó, con sẽ được cứu.”

“Được cứu sao?” Margaret kêu lên, ngẩng đầu; “còn Paul?”

“À, đây rồi. - Nó sẽ quên con đi.”

Cô gái trẻ tư lự một lúc. “Để khiến anh ấy làm thế,” cô nói, “thì con hẳn phải chết đi.” Rồi vặn đôi bàn tay với một cơn đau đớn mới, “Có chắc chắn,” cô hỏi, “là không có ngoại lệ nào không ạ?”

“Không có, con của ta"; ông nhặt cuốn sổ lên. “Con thấy không, đó là mối tình đầu tiên, sự đam mê đầu tiên. Sau đó, họ lại vô tội. Hãy nhìn Bà De Grey đi. Đó là một dòng giống bị nguyền rủa. Đó là một bí ẩn khủng khiếp, khó hiểu. Ta đã tưởng rằng con được an toàn, con gái của ta, và rằng Cô L. tội nghiệp đó đã phải gánh chịu điều tồi tệ. Nhưng Paul đã cố gắng để không lừa dối ta. Ta đã tìm hiểu cuộc đời nó, ta đã tra xét lương tâm nó: đó là một trái tim trinh nguyên. Ôi, con của ta, ta đã kinh sợ điều đó ngay từ ban đầu. Ta đã run sợ khi con đến căn nhà này. Ta đã muốn Bà De Grey đuổi con đi. Nhưng bà ấy cười nhạo điều ấy - bà ấy coi nó là truyện dân gian. Bà ấy đã đủ an toàn; chồng của bà không mảy may quan tâm đến bà. Nhưng có một cô gái mắt đen được chôn cất trên đất Ý có thể kể cho bà ấy một câu chuyện khác. Cô ta đã héo mòn, con của ta. Cô ta mang trên mình sự sống - một hiện thân như tia sáng của mặt trời phương Nam. Cô ta đã chết vì những nụ hôn của De Grey. Đừng hỏi ta mọi chuyện bắt đầu thế nào, nó đã luôn luôn như vậy. Nó đã từ thuở xa xưa. Một kẻ trong tộc, họ kể, trở về từ phương Tây, từ những cuộc thập tự chinh, bị nhiễm một loại trùng ôn dịch. Anh ta đã thề hứa tình yêu chung thủy với một cô gái trước khi ra đi, và đã sắp xếp để đám cưới có thể diễn ra ngay khi anh ta trở về. Vì cảm thấy không khỏe, anh ta hỏi ý một người anh trai của cô dâu, một người thông thạo về thứ y học cổ xưa tuyệt vời, và nghe nói là được thiên phú một kỹ thuật thần kỳ. Qua người đó, anh ta chắc rằng mình đã nhiễm ôn dịch, và anh ta phải hủy bỏ hôn sự. Chàng hiệp sĩ trẻ từ chối làm theo, và tên y sĩ, trong tức tối, đã ếm một lời nguyền lên gia tộc của anh. Hôn sự diễn ra; trong vòng một tuần thì cô dâu qua đời, trong cơn đau đớn kinh khủng; chàng trai trẻ, sau một trận ốm nhẹ, thì bình phục; lời nguyện đã ứng nghiệm.”

Margaret cầm cuốn sách kinh cũ kỹ trên tay, và giở sang phần ghi chép rùng rợn về cái chết. Trái tim cô trở nên lạnh băng khi cô nghĩ về tình chị em đáng buồn của mình với những người phụ nữ khốn khổ trong quá khứ. Những người đàn bà khốn khổ, nhưng than ôi! những người đàn ông còn khốn khổ gấp mười lần - những nạn nhân bất lực của chính những trái tim thích chiếm hữu nơi họ. Cô giữ im lặng, với đôi mắt gắn chặt vào cuốn sổ, một cách lơ đãng; như cái máy, cô giở đến một trang khác, và đọc một câu kinh quen thuộc cầu Đức Trinh Nữ. Rồi ngẩng đầu lên, với đôi mắt xanh sâu thẳm lóe lên ánh sáng lạnh lẽo của một quyết tâm lớn - một hành động phi thường của ý chí - “Cha Herbert,” cô nói, bằng giọng điệu trầm, trang trọng, “con hủy bỏ lời nguyền, con phá bỏ nó. Con nguyền rủa nó!”

Kể từ lúc này, không gì có thể khiến cô có một khoảnh khắc nào suy nghĩ đến việc cứu rỗi bằng cách bỏ đi. Đã quá muộn, cô tuyên bố. Nếu cô đã định sẵn phải chết, thì bây giờ cô đã bị nhiễm thứ độc chết người. Nhưng họ sẽ thấy. Cô không phủ nhận sự tồn tại hay sức mạnh của thứ bùa chú khủng khiếp; cô chỉ đơn giản là cho rằng, với một sự tin tin sâu sắc khiến vị linh mục già tràn ngập sự ngạc nhiên và đau khổ đan xen nhau, rằng nó sẽ hao phí sức mạnh kỳ bí của nó một lần và mãi mãi trên cuộc đời tận tụy, nhiệt huyết của cô. Cha Herbert khoanh đôi bàn tay run rẩy cam chịu. Ông đã làm nhiện vụ của mình; phần còn lại trông chờ nơi Chúa. Đôi lúc, sống như cách ông đã sống lo sợ khoảnh khắc đã đến này trong nhiều năm, với cả cuộc đời ông bị che lấp bởi bóng đen của nó, dường như ông thấy giữa những khả năng kỳ lạ của tự nhiên rằng cô gái yếu ớt và thuần khiết này có thể đã khơi dậy, bởi mệnh lệnh của thứ tình yêu thịnh nộ, để cứu rỗi dòng dõi bất hạnh mà ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho họ. Và rồi có lúc lại giống như cô đang vui vẻ lao mình vào vực tối. Dù sao đi nữa, cảm giác nguy kịch đã đổ đầy tràn trong lòng Margaret thứ năng lượng và sức cuốn hút tươi mới. Paul, nếu anh ta không quá say mê sự vui tươi và duyên dáng vô cùng của cô để phải đi tìm động cơ và nguồn gốc của nó, hẳn sẽ không lý giải được sự mãnh mẽ đột ngột đến bất thường của chúng. Ngay sau đó, theo yêu cầu của cô, anh thông báo với mẹ mình về hôn ước, bà thể hiện một vẻ mặt rất duyên dáng, và vinh danh Margaret bằng một nụ hôn như để công nhận chính thức.

“Ôi trời!” Cha Herbert lầm bầm, “và bây giờ thì bà ấy nghĩ mình đã kết chặt chúng với nhau.” Và sau đó, ngày tiếp theo, khi Bà De Grey, đang nói về chuyện này, thừa nhận rằng bà có chút khó chấp nhận một cô gái mình đã trả lương cho làm con gái mình - “Tiền lương sao, thưa bà!” vị linh mục thốt lên với giọng cười cay đắng, “theo lời tôi, tôi nghĩ đó là việc tốt thiểu bà có thể làm.”

Nous verrons[3],” Bà De Grey nói, điềm tĩnh.

Một tuần trôi qua, không có điềm gở nào. Paul đang trong cơn ngất ngây hạnh phúc của đàn ông. Đôi lúc anh gần như bối rối bởi sự trọn vẹn mà tình yêu và niềm tin của anh đã được đền đáp. Margaret cũng biến đổi, trở nên lộng lẫy, bởi sự nồng nhiệt đang cháy trong tim cô. “Cho một cô gái giản dị, một cô gái bình thường, một tình nhân,” Paul nghĩ, “và cô ấy sẽ trở nên xinh đẹp, quyến rũ. Cho cô gái quyến rũ một tình nhân...” và nếu Margaret ở đó, đôi mắt biết nói của anh sẽ nói thay câu kết; nếu cô không có ở đó, những bước chân không nghỉ của anh sẽ đi lang thang tìm kiếm cô. Vẻ đẹp của cô trong mười ngày qua dường như đã nhận được một sự ấm áp và phong phú chưa từng có. Paul đã mê mẩn đến nỗi tưởng rằng giọng nói của cô đã trở nên trầm hơn và ngọt ngào hơn. Cô trông già hơn; dường như cô ngay tức khắc đã bỏ qua một năm trưởng thành của mình, và đã đạt đến sự chín chắn hoàn hảo của tuổi trẻ. Người ta có thể tưởng tượng rằng, thay vì đi xa, cô đã đứng ở ngay ngưỡng cửa của hôn nhân. Trong khi đó Paul nhận ra rằng anh hầu như không biết đến sự thay đổi nhỏ nào trong những cảm xúc của riêng mình. Cảm giác thương xót sâu sắc, cảm nhận về sự yếu đuối hấp dẫn của cô, sự phụ thuộc tuyệt vời của cô, thứ đã tạo ra một sức mạnh dịu dàng làm cho sự hài hòa trong cảm xúc của anh tăng lên, đã chết đi, để nhường chỗ cho một bản năng tôn trọng mơ hồ, sâu sắc. Margaret, suy cho cùng, cũng không phải là một con người đơn giản; bản tính của cô, cũng có những bí mật riêng. Quả thật, Paul nghĩ, sự êm ái, sự dịu dàng, là phần thưởng của chính nó. Anh đã cúi xuống để hái bông hoa nhợt nhạt thiếu nắng mọc trong nhà này, anh đã nhúng chiếc thân mảnh mai của nó vào thứ nước hằng sống của tình yêu anh, và ôi chao! nó đã ngẩng đầu dậy, và xòe cánh, và tỏa sáng với sắc tím và xanh lục lộng lẫy. Sức mạnh rực rỡ của vẻ đáng yêu này đã khiến anh tràn ngập sự run sợ bởi nó gần giống như một điềm báo. Anh khao khát được chiếm hữu cô; anh nhìn cô với ánh mắt thèm thuồng; anh ao ước được gọi cô chỉ là của riêng anh.

“Margaret,” anh nói với cô, “em khiến anh tràn ngập hân hoan đến đáng sợ. Em trở nên đẹp hơn mỗi ngày. Chúng ta phải cưới nhau ngay thôi, nếu không, cứ đà này, đến ngày cưới, anh sẽ trở nên sợ em đến chết mất. Thề có linh hồn của cha anh, anh đã không mặc cả xin điều này! Hãy nhìn em trong gương kìa.” Anh xoay người cô lại trước chiếc gương dài; nó ở trong phòng thay đồ của mẹ anh; Bà De Grey đã đi sang căn phòng kế bên.

Margaret nhìn hình ảnh của mình từ đầu tới chân qua chiều sâu của tấm kính, và quan sát sự thay đổi trong ngoại hình của cô. Đầu cô ngẩng cao với một sự thanh thản kiêu hãnh từ đường cong tròn trịa của hai bờ vai; đôi bắt cô sáng ngời, bờ môi cô run run, ngực cô phập phồng với sự bất kính của lòng ái mộ sâu sắc nơi cô. “Blanche Ferrars, của Lâu đài Ferrars,” cô thầm nhẩm lại, “Isabel Stirling, Magdalen Scrope - những người phụ nữ ngốc nghếch tội nghiệp! Các cô không phải phụ nữ, các cô là trẻ con. Đó là lỗi của anh, Paul,” cô kêu lớn, “nếu em trông khác với diện mạo nên có của em! Tại sao lại có tình yêu như thế giữa hai ta?” Và rồi, nhìn thấy khuôn mặt của chàng trai bên cạnh mặt mình, cô nghĩ mặt anh trông xanh xao. “Paul của em,” cô nói, nắm lấy tay anh, “trông anh thật nhợt nhạt. Gương mặt của người đang yêu trong hạnh phúc đây sao! Anh thiếu kiên nhẫn quá. Một ngày tốt lành, thưa ngài! Nó sẽ đến khi anh muốn.”

Hôn lễ đã được định vào cuối tháng Chín; và hai người phụ nữ ngay lập tức bắt đầu bận bịu với việc mua sắm quần áo cho cô dâu. Margaret, bằng tiền lương, đã để dành được một khoản đủ để mua một chiếc đầm cưới đẹp; nhưng, với những món đồ khác trong tủ quần áo của mình, cô buộc phải mang ơn lòng quảng đại của Bà De Grey. Cô không ngần ngại, quả thật, khi chi những khoản tiền lớn, và, khi đã tiêu hết, thì lại yêu cầu thêm. Cô thích thú một cách chủ động và bạo lực việc mua sắm một số lượng lớn những món đồ đắt tiền nhất. Cô thấy rằng, lúc này, cô đã chia tay với sự đứng đắn mong manh và sự dè chừng lẫn kín kẽ thường ngày, như thể cô đã vung tay vứt bỏ lương tâm của mình để cho những người phụ nữ thô tục, vui vẻ, vô lo nhặt lên. Cô gom góp mọi thứ tốt đẹp cho hôn lễ của mình như một sự thách thức quyết liệt trước tai họa sắp xảy ra. Cô cảm thấy phấn khích muốn bỏ xa nó, phá hỏng nó, đối diện với nó.

Một ngày khi cô đang đi qua hành lang, với một món đồ mới được tiệm gửi tới. Đó là một mảnh vải xa tanh màu hồng rực rỡ, và, khi cô đang cầm nó, một phần rơi qua cánh tay cô xuống dưới chân. Cánh cửa phòng của Cha Herbert mở hờ: cô dừng lại, và bước vào trong.

“Thứ lỗi cho con, thưa cha,” Margaret nói; “nhưng con nghĩ thật tiếc nếu con không cho cha xem mảnh vải xa tanh đẹp đẽ này. Chẳng phải là một màu hồng rất đẹp sao? - nó gần như màu đó - nó là màu cẩm chướng. Đây là màu sắc của tình yêu chúng con - của cái chết của con, Cha Herbert,” cô kêu lên, với một tiếng cười chói tai, “nó là tấm vải liệm của con.” “Cha không nghĩ nó sẽ là một tấm vải liệm đẹp sao? - miếng vải xa tanh màu hồng, và đăng ten màu vàng, và ngọc trai?”

Người đàn ông lớn tuổi nhìn cô với gương mặt tiều tụy. “Con gái của ta,” ông nói, “Paul sẽ có một người vợ không ai sánh bằng.”

“Chắc chắn rồi, nếu cha so sánh con với những cô gái đó ở trong cuốn sách kinh của cha. Ôi! Ít nhất, Paul sẽ có một người vợ. Đó là điều rất chắc chắn.”

“Thì,” người đàn ông nói. “con dũng cảm ơn cha. Con khiến cha thấy sợ.”

“Cha Herbert thân mến, không phải cha từng khiến con sợ sao?”

Người đàn ông lớn tuổi nhìn Margaret bằng vẻ dịu dàng và kinh hãi lẫn lộn. “Nói ta nghe, con,” ông nói, “giữa những chuyện này, con có bao giờ cầu nguyện không?”

“Lạy Chúa!” sinh vật tội nghiệp thốt lên. “Con chẳng có lòng nào mà cầu nguyện.”

Cô đã nói chuyện lâu với Paul về những niềm vui của họ trong tương lai, và cuộc sống hạnh phúc mà họ sẽ có. Anh tuyên bố rằng anh sẽ bắt đầu những thói quen mới, và gia đình sẽ không còn bị chôn vùi trong thinh lặng và u ám nữa. Đó là một hiện thực vô lý, và anh ngạc nhiên là nó phải xảy ra. Họ nên bắt đầu sống như những người khác, và giữ vị trí phù hợp trong xã hội. Họ nên có bạn bè, và đi du ngoạn, và đến xem những vở kịch hay. Margaret chưa bao giờ xem kịch; sau khi kết hôn, nếu cô muốn, cô sẽ đi xem mỗi tuần một lần trong vòng một năm. “Đừng sợ hãi, em thân yêu,” Paul thốt lên, “anh không muốn chôn vùi em khi còn sống, không phải anh đang đào mồ cho em. Nếu anh đã muốn em bằng lòng sống như cách người mẹ đáng thương của anh sống, thì chẳng thà chúng ta cưới nhau bằng nghi thức tang lễ.”

Khi Paul nói bằng thứ năng lượng sôi nổi này, nhìn vào tương lai dài và hạnh phúc bằng một ánh nhìn chắc chắn, không nghi ngại, Margaret rút ra từ lời nói của anh lòng dũng cảm và niềm hân hoan, và sự khinh khi mọi nguy hiểm. Bí mật của Cha Herbert dường như chỉ là một viễn cảnh, một sự tưởng tượng, một giấc mơ, cho đến khi, sau một lúc, cô lại thấy mình mặt đối mặt với người đàn ông lớn tuổi, và đọc được trong những nét mặt tiều tụy của ông rằng, đối với ông, ít nhất, nó là thực tế sâu kín. Dẫu vậy, giữa những sự thay đổi chóng mặt từ hy vọng đến sợ hãi, từ hưng phấn đến sang tuyệt vọng, cô chưa từng, trong một khoảnh khắc, ngừng lén lút theo dõi những cảm nhận của cơ thể mình, và nằm chờ đợi những triệu chứng của cơn bệnh. Cô tự hỏi rằng, với gánh nặng khủng khiếp đè lên ý thức của mình, liệu có phải cô đã bị khiến cho phát điên, hay đè nén đến mức ngu ngốc từ lâu. Cô tưởng tượng rằng, dẫu việc hoàn toàn không biết về bí ẩn liên quan đến cuộc đời mình là chuyện buồn, thì việc biết nó vẫn khủng khiếp hơn. Trong tuần sau cuộc trò chuyện của cô với Cha Herbert, cô không ngủ được nửa tiếng trong vòng hai mươi bốn giờ mỗi ngày, và hơn nữa, hơn cả việc mất ngủ, cô cảm thấy, như tôi đã cố gắng để thể hiện, như bị say sưa, kích thích, bởi sự cảnh giác và căng thẳng không thể phá vỡ trong ý chí của cô. Nhưng cô biết rằng điều này sẽ không kéo dài mãi mãi. Một buổi trưa, vài ngày sau khi Paul đã thốt ra những lời hứa hẹn tuyệt vời, anh leo lên lưng ngựa để đi rong ruổi. Margaret đứng ở cổng, nhìn anh nuối tiếc, khi phóng đi, anh hôn tay và vẫy chào cô. Một giờ trước giờ uống trà cô ra khỏi vòng, đi vào phòng khách, nơi Bà De Grey đã ngồi đó đợi buổi chiều. Một lúc sau, Cha Herbert, đang thắp ngọn đèn bàn, nghe thấy một tiếng thét chói tai vang vọng khắp căn nhà.

Tim ông sững lại. “Thời khắc đã đến,” ông nói. “Thật đáng tiếc nếu bỏ lỡ nó.” Ông nhanh nhẹn đi đến phòng khách cùng với những người hầu, cũng đang bàng hoàng trước tiếng thét. Margaret nằm dài trên ghế trường kỷ, xanh xao, bất động, thở hổn hển, với đôi mắt nhắm và bàn tay ép vào bên người. Herbert đảo mắt nhìn Bà De Grey, bà đang cúi xuống cô gái, nắm lấy bàn tay kia của cô.

“Ít nhất chúng ta đừng làm ra chuyện bê bối,” cô nói, với sự trang nghiêm, và ngay lập tức giải tán đám người hầu. Margaret từ từ tỉnh lại, tuyên bố rằng không có chuyện gì - chỉ là một cơn đau đột ngột - rằng cô đã cảm thấy khỏe hơn và van nài những người kề cận mình đừng làm náo loạn. Bà De Grey đi về phòng mình, để tìm một lọ muối ngửi, để cho Herbert một mình với Margaret. Ông quỳ gối trên sàn, nắm lấy bàn tay kia của cô. Cô nhấc mình ngồi dậy.

“Con biết cha sắp sửa nói gì,” cô thốt lên, “nhưng nó không đúng. Paul đâu rồi ạ?”

“Con có định nói với nó không?” Herbert hỏi.

“Nói với anh ấy?” và Margaret bắt đầu đứng dậy. “Nếu con phải chết, con sẽ bóp nghẹt trái tim của anh ấy; nếu con nói với anh ấy thì con sẽ làm nó tan vỡ mất.”

Cô đứng dậy, như tôi kể; cô đã nghe thấy và nhận ra bước chân nhanh nhẹn của người yêu mình trên hành lang. Paul mở cửa và vội vã bước vào, hết hồn và tái nhợt như sắp chết. Margaret bước về phía anh với một bàn tay vẫn đè chặt vào bên người, trong khi Cha Herbert tự động đứng dậy từ tư thế đang quỳ. “Có chuyện gì xảy ra vậy” chàng trai hỏi. “Em bệnh rồi!”

“Ai nói với anh là có chuyện gì xảy ra?” Margaret nói.

“Herbert đang quỳ gối để làm gì vậy?”

“Tôi đang cầu nguyện, thưa anh,” Herbert nói.

“Margaret,” Paul nhắc lại, “cậy vì danh Chúa, có chuyện gì vậy?”

“Có chuyện gì với anh vậy, Paul? Có vẻ như em mới nên hỏi câu ấy.”

De Grey gắn chặt ánh nhìn u ám, xét nét lên cô gái trẻ, và rồi nhắn mắt lại, tay lắm lấy lưng ghế, như thể đầu anh đang quay vòng vòng. “Mười phút trước,” anh nói, chậm rãi, “anh đang cưỡi ngựa bên bờ sông; đột nhiên anh nghe trong không trung có tiếng hét từ xa, mà anh biết là của em. Anh quay lại và phóng ngựa. Anh đã đi ba dặm trong tám phút đấy.”

“Tiếng hét sao hả, Paul thân yêu? Em có thể hét lên về cái gì đươc? và nghe được từ ba dặm cơ! Cũng là lời khen có lá phổi của em đó.”

“À,” chàng trai nói, “thế thì, anh nghĩ là, do anh tưởng tượng ra. Nhưng con ngựa của anh cũng nghe thấy; nó vểnh tai lên, và nhảy lên giật mình.”

“Chắc hẳn là do trí tưởng tượng của nó thôi. Chứng tỏ anh là một người cưỡi ngựa giỏi - anh và con ngựa của anh có chung cảm giác như cùng là một người.”

“Ôi, Margaret, đừng đùa nữa!”

“Thế thì, cùng là một ngựa vậy!”

“Thôi, dù đó có thể là chuyện gì, anh cũng không ngại thú nhận rằng anh đang vô cùng run rẩy. Anh không biết thần kinh của anh bị sao nữa.

“Vì Chúa, thế thì, đừng đứng đó mà run rẩy và loạng choạng như một người lên cơn nữa. Đến đây, ngồi xuống trường kỷ đi anh.” Cô nắm lấy tay anh, và đưa anh tới chiếc ghế. Ngược lại, anh lấy bàn tay nắm lấy tay cô, và kéo cô xuống bên cạnh mình. Cha Herbert lặng lẽ rời đi, không ai chú ý. Bên ngoài cánh cửa ông gặp Bà De Grey, với lọ muối ngửi.

“Tôi không nghĩ bây giờ con bé cần nó đâu,” ông nói. “Nó đã có Paul rồi.” Và cả hai cùng cùng đến ngồi vào bàn trà. Khi bữa ăn đã xong một nửa, Margaret đi vào cùng với Paul.

“Con thấy sao rồi, con yêu?” Bà De Grey nói.

“Anh ấy khỏe hơn nhiều rồi,” Margaret nói, vội vã.

Bà De Grey mỉm cười tự mãn. “Hẳn rồi,” bà nghĩ, “con dâu tương lai của ta có cách nói về mọi chuyện rất hay ho.”

Ngày hôm sau, khi đi vào phòng của Bà De Grey, Margaret thấy Paul và mẹ anh đang ở với nhau. Đôi mắt của bà đỏ hoe, như thể bà vừa mới khóc; và gương mặt của Paul có vẻ lo lắng, như thể anh vừa thú nhận điều gì đau đớn. Khi Margaret đi vào, anh bước về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài, mà không nói gì với cô. Cô giả vờ như đến để tìm đồ may vá, lấy nó, và đi khỏi. Dẫu vậy cô cảm thấy tổn thương sâu sắc. Paul đã làm gì, nói gì? Tại sao anh không nói gì với cô? Tại sao anh lại quay lưng về phía cô? Mới chiều hôm qua, khi họ ở trong phòng khách một mình, anh còn dịu dàng khôn tả. Đó là một bí mật tàn nhẫn; cô sẽ không thể nghỉ ngơi cho đến khi cô biết được - mặc dù, quả thật, cô cũng ít có nghỉ ngơi. Vào buổi trưa, Paul lại lấy ngựa, và mặc đồ để đi ra ngoài. Cô chặn đường anh khi anh xuống cầu thang, đá và thúc con ngựa; và khi con ngựa của anh chưa đến cửa, cô kéo anh đi theo cô vào trong vườn.

“Paul,” cô nói, đột ngột, “anh đã nói gì với mẹ anh sáng nay? Đúng,” cô nói tiếp, cố mỉm cười, nhưng không được, “em thú nhận - em đang ghen.”

“Trời ơi!” chàng trai trẻ kêu lên, mệt mỏi, đưa hai bàn tay lên mặt.

“Paul thân yêu,” Margaret nói, nắm lấy cánh tay anh, “câu đó rất đẹp, nhưng nó không phải một câu trả lời.”

Paul dừng lại trên lối đi, cầm lấy đôi bàn tay của cô gái và nhìn chăm chăm vào mặt cô, với một biểu cảm quả thật giống với vẻ mệt mỏi - tệ hơn cả mệt mỏi của sự tuyệt vọng. “Em nói là ghen à?”

“Ôi, không phải bây giờ!” cô kêu lên, nắm chặt tay anh.

“Đấy là điều ngốc nghếch đầu tiên anh từng nghe em nói.”

“Thì, đúng là ngu ngốc khi ghen với mẹ anh; nhưng em vẫn ghen tị với sự đơn độc của anh - với những thú vui mà em không được tham gia... với con ngựa của anh... với những chuyến đi dài của anh.”

“Em muốn anh từ bỏ chuyến đi à?”

“Paul thân yêu, trí khôn của anh đâu hết rồi? Muốn rằng... muốn điều đó. Nói rằng em muốn điều đó chính là tự bêu rếu em.

“Trí khôn của anh đang ở... ở với thứ gì đó đã biến mất mãi mãi rồi!” Và anh nhắm mắt và nhăn trán lại như thể đang đau đớn. “Tuổi trẻ của anh, ước vọng của anh, - anh nên gọi nói là gì? - hạnh phúc của anh.”

“À!” Margaret nói, trách móc, “anh phải nhắm mắt lại để nói điều đấy à.”

“Không, hạnh phúc là gì nếu không có tuổi trẻ?”

“Cứ lời em, người sẽ nghĩ em bốn mươi tuổi,” Margaret kêu lên.

“Thì, miễn là anh sáu mươi!”

Cô gái trẻ nhận ra rằng đằng sau những lời lẽ nhẹ nhõm này có điều gì rất nghiêm trọng. “Paul,” cô nói, “vấn đề đơn giản là anh đang không khỏe.”

Anh gật đầu đồng ý, và với sự đồng ý của anh cô thấy dường như có một bàn tay vô hình nào đã đập tan sự sống nơi trái tim cô.

“Đó là điều anh đã nói với mẹ anh?”

Anh gật đầu lần nữa.

“Và là điều anh không sẵn lòng nói cho em?”

Anh đỏ ứng mặt. “Dĩ nhiên,” anh nói.

Cô thả tay anh ra và ngồi xuống, cảm thấy choáng váng, trên băng ghế ngoài vườn. Rồi đột nhiên đứng dậy, “Anh đi đi, đi cưỡi ngựa đi,” cô đáp lại. “Nhưng, trước khi anh đi, hãy hôn em một lần.”

Rồi Paul hôn cô, và leo lên lưng ngựa. Khi cô đi vào nhà, cô gặp Cha Herbert, ông đã nhìn chàng trai cưỡi ngựa đi, từ dưới hiên nhà, và đang quay trở về thư phòng.

“Con thân yêu của ta,” vị linh mục nói, “Paul ốm yếu quá. Xin Chúa ban cho, nếu con có thể không chết, xin đừng trả giá bằng nó!”

Margaret chỉ quay sang nhìn ông, trên hành lang, gương mặt rất lạnh lùng, ghê rợn, và đau khổ, giống như một lời hồi đáp sống động cho những nỗi sợ hãi chấn động của ông. Khi về đến phòng, cô ngồi xuống chiếc giường nhỏ, và cố gắng suy nghĩ thật mạch lạc và thận trọng. Những lời nói của người đàn ông lớn tuổi đã dấy lên một tiếng vang vọng sâu thẳm trong sự đơn độc về tinh thần mênh mông của con người cô. Cô nhận sau, sau đó, sau cơn mê man dài, rằng lời nguyền là tuyệt đối, không thể tránh khỏi, và vĩnh cửu. Nó có thể dịch chuyển, nhưng không thể trốn tránh được; bất luận những cố gắng tột cùng của sự đau khổ của con người, nó liên tục đi tìm nạn nhân. Sức lực của cô đã cạn kiệt; cô có thể làm gì? Mọi vẻ huy hoàng sáng láng và oai phong vay mượn bỗng chốc rời khỏi cô, và cô ngồi một mình, run rẩy trong cơn yếu đuối. Thật là kẻ sai lầm ngu ngốc, trong một ngày, trong một giờ, vì đã che giấu nỗi buồn của cô với người yêu cô! Gánh nặng của cô càng lớn, thì sự tự tin của cô đáng ra phải càng lớn. Thứ gì không thể chịu được một mình, thì họ cũng không cần phải chịu đựng cùng nhau. Nhưng cô đã mù quáng, vô lý, và không thương tiếc rút cạn sự sống khỏi anh. Trong khi cô đơm hoa và nảy nở, anh suy sụp và héo mòn. Trong khi cô đang sống vì anh, anh đang chết vì cô. Một tấn hài kịch đáng ghét, gớm ghiếc! Cái gì có thể giúp cô bây giờ? Cô nghĩ đến tự vẫn, và cô nghĩ đến việc trốn chạy - chúng đều gần như nhau. Nếu chắc chắn rằng bằng sự kết liễu bất thình lình sự sống của cô mà cô có thể giải thoát, tha cho Paul, không cần đến một giây chần chừ cô sẽ đâm con dao vào tim cô. Nhưng ai có thể nói rằng, đã yếu đuối, suy sụp như thế, cơn sang chấn vì cái chết của cô không mang đến cho anh sự kết liễu của anh? Tồi tệ hơn mọi điều là sự nghi ngờ rằng anh đã bắt đầu chán ghét cô và một nhận thức mơ hồ về tác động tai hại của cô đã chiếm lĩnh lý trí của anh. Anh đã lạnh lùng và xa cách. Còn vì sao nữa, khi anh bắt đầu thực sự cảm thấy ốm bệnh, mà anh lại không nói với cô trước? Cô thật đáng ghét, đáng hận. Dẫu vậy, Margaret vẫn giữ ý nghĩ, với mọi sự khao khát tuyệt vọng, rằng vẫn chưa quá muộn để xin anh khuyên bảo cô, và để tiết lộ cho anh mọi điều kinh khủng trong bí mật của cô. Rồi ít nhất, điều gì đến, cái chết hay sự tự do, họ cũng sẽ cùng nhau đối diện.

Bây giờ sự mê muội của một thứ chiến thắng tưởng tượng đã bị tước đi khỏi cô, cô cảm thấy hoàn toàn kiệt sức và choáng váng. Khắp mình mẩy cô nhức nhối muốn được ngủ và được lãng quên. Cô nhắm mắt, và chìm vào trạng thái mê man. Khi cô tỉnh táo trở lại, căn phòng đã tối. Cô trở dậy, và đi đến cửa sổ, và nhìn thấy những vì sao. Khi thắp ngọn nến, cô thấy chiếc đồng hồ nhỏ của mình chỉ chín giờ. Cô đã ngủ năm tiếng. Cô nhanh chóng mặc đồ, và đi xuống lầu. Trong phòng khách, bên cạnh một ô cửa sổ mở, đang choàng khăn, với một ngọn nến đã thắp, Bà De Grey đang ngồi đó.

“Con thật sung sướng, con yêu,” bà thốt lên, “ khi có thể ngủ ngon như vậy, trong khi chúng ta đều đang trong tình trạng thế này.”

“Tình trạng gì vậy, thưa bà?”

“Paul vẫn chưa về.”

Margaret không trả lời; cô đang chăm chú lắng nghe tiếng bước chân ngựa từ đằng xa. Cô chạy ra khỏi phòng, đến cửa trước, và qua sân về phía cánh cổng. Ở đó, trong ánh sáng lờ mờ của sao đêm, cô nhìn thấy một bóng dáng đang lao tới, và tiếng vó ngựa dồn dập. Cô gái tội nghiệp hồi hộp một lúc. Con ngựa của Paul lao trên con đường - không có người cưỡi. Margaret, cùng một tiếng hét, lao về phía trước, túm lấy dây cương của nó; nhưng nó chuyển hướng, cùng với một tiếng hí lớn, và, gần như không giảm mất tốc độ, lao vào hàng rào ở lối vào phía dưới, nơi Margaret nghe thấy nó va vào những tảng đá trên đường về chuồng, và được đón bằng những tiếng la hét của người trông ngựa.

Điên cuồng, vội vã, Margaret lao vào trong bóng tối, dọc con đường, gọi tên của Paul. Cô chưa đi được phần tư dặm, thì nghe thấy tiếng trả lời. Lặp lại tiếng hét, cô nhận ra giọng nói của người yêu mình.

Anh ngồi thẳng, dựa vào một gốc cây, và có vẻ như không bị thương, nhưng gương mặt anh sáng lên trong bóng tối như một chiếc mặt nạ đang phản đối, trắng bệch một hạt lấm tấm phát sáng của cái chết. Anh đột nhiên thấy yếu đi và chóng mặt, và trong khi cố giữ mình ngồi trên yên ngựa anh đã khiến con ngựa hoảng sợ, nhảy cẫng lên và hất anh ra. Anh dựa vào vai của Margaret tìm điểm tựa, và nói với một giọng ngập ngừng.

“Anh đã cưỡi ngựa,” anh nói, “như một kẻ điên. Anh thấy mệt khi ra ngoài, nhưng không biết nguyên nhân. Anh đã cố gắng để nó qua đi bằng chuyển động và khí trời.” Anh dừng lại, hổn hển.

“Và anh đã thấy khỏe hơn chưa, anh yêu dấu?” Margaret thì thầm.

“Không, anh thấy tệ hơn. Anh như người chết.”

Margaret ôm lấy người tình của cô trong tay với một tiếng rên rỉ dài, xuyên thấu, vang vọng trong màn đêm.

“Anh không còn là của em nữa, linh hồn bất hạnh yêu dấu ơi - anh thuộc về, anh không biết bằng những mối ràng buộc chết người, không thể lý giải nào, bóng tối và cái chết và sự thinh không. Chúng bóp nghẹt anh. Em có nghe thấy tiếng anh không?”

“Ôi, kẻ ngu ngốc là em, em đã giết anh rồi!”

“Anh tin nó là sự thật. Nhưng nó kỳ lạ quá. Chuyện gì vậy, Margaret? - em bị trù ẻo, hiểm độc, chí mạng!” Anh nói gần như thì thầm, như thế tiếng nói đang rời anh đi; hơi thở của anh lạnh lẽo trên má cô, và cánh tay của anh nặng nề trên cổ cô.

“Không,” cô kêu lên, “vì danh Chúa, hãy nói tiếp đi! nói điều gì giết em được đi.”

“Vĩnh biệt em, vĩnh biệt em!” Paul nói, gục xuống.

Tiếng khóc của Margaret, với gia đình đang bàng hoàng mà cô bỏ lại đằng sau, đã trở thành dấu chỉ cho nơi cô dừng lại. Cha Herbert vội vã đến gần, cùng với người hầu và nến. Họ tìm thấy Margaret đang ngồi bên vệ đường, chân cô thả xuống mương, tay ôm lấy đầu không còn của động của người yêu cô, và hôn lên nó, rên rỉ điên loạn. Ý thức đã rời khỏi đầu cô hoàn toàn như khỏi cơ thể anh, và khó có thể trở lại với người này ít như với người kia.

Hết sức tự nhiên, rất nhiều tháng trôi qua trước khi Bà De Grey cảm thấy có thể ám chỉ trực tiếp tới tai họa vô cùng đã khiến cả căn nhà bà choáng váng; và khi bà làm vậy, Cha Herbert ngạc nhiên phát hiện ra bà vẫn từ chối chấp nhận ý nghĩ về một sức mạnh siêu nhiên can thiệp lên sự sống của con trai bà, và bà lặng lẽ ôm ấp niềm tin rằng anh đã chết vì ngã từ lưng ngựa.

“Và giả sử Margaret đã chết? Ước gì con bé đã chết!” vị linh mục nói.

“Ồ, giả sử!” Bà De Grey nói. “Cha ước như vậy chỉ vì cái thuyết của cha sao?”

“Giả sử Margaret đã có một người tình - một người tình cuồng nhiệt - anh ta đã trao cho con bé con tim trước cả khi Paul từng nhìn thấy con bé; rồi sau đó Paul đến, hứng chịu tình yêu và cái chết.”

“Vâng, thì sao?”

“Ai trong ba người ấy, bà nghĩ, sẽ có lý do để đau buồn nhất?”

“Người sống sót sau thảm kịch luôn luôn là người đáng thương,” Bà De Grey nói.

“Vâng, thưa bà, luôn là người sống sót... kể cả sau năm mươi năm.”


[1] Loại hợp chất thường dùng trong thể thao, giúp người ngất tỉnh lại hoặc tăng sự tỉnh táo.

[2] James dùng cách diễn đạt trong bản văn Thánh kinh Cựu Ước, khi Thiên Chúa lệnh cho Jacob rời bỏ quê hương mà ra đi, và ban cho ông lời hứa rằng: “Một dân tộc và một cộng đồng nhiều dân tộc sẽ từ ngươi mà ra, và vua chúa sẽ xuất phát từ lòng ngươi.” (Sáng thế 35:11)

[3] (Tiếng Pháp) “Để xem.”

Hoàng Trang dịch

 

 James viết 

 Những người châu Âu

Vẽ một phụ nữ

Con quái vật trong rừng & Ban thờ người chết

Daisy Miller & Di sản Aspern

Bi kịch từ lỗi

Một vấn đề

Bốn cuộc gặp

Hình tượng trên tấm thảm

Richard khốn khổ

De Grey: Một chuyện tình

 James đọc

đọc Flaubert

đọc George Eliot

đọc Turgenev

đọc Balzac

đọc phê bình

đọc James

William Dean Howells

Mona Ozouf

E.M.Forster

Gertrude Stein

Pietro Citati

James và

Melville

Stevenson

Turgenev

Poe

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công