favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
về tình yêu tổ quốc
Next

“Chưa có cặp nhà văn nào thể hiện lòng ái quốc nồng nàn hơn Kipling và Chesterton; thực tế này cho thấy lòng ái quốc có những ý nghĩa trái nhau là dường nào. Nếu ái quốc chỉ là một nguyên tố thuần nhất thì hai người này không thể cùng ca ngợi nó. Trên thực tế, nó mang nhiều thành phần, từ đó có thể sinh ra nhiều kết hợp.

Trước tiên, có tình yêu dành cho nhà mình, cho nơi mà chúng ta lớn lên, hoặc những nơi (có thể nhiều) đã từng là nhà; cho tất cả những nơi chốn gần nó và giống nó; tình yêu dành cho những người quen biết lâu, dành cho những cảnh, những âm thanh và mùi quen thuộc. […]

Rõ ràng, lòng ái quốc loại này không hung hăng chút nào. Nó chỉ cầu được để yên thôi. Nó chỉ chiến đấu để bảo vệ cái nó yêu. Ở một bộ óc có tí tẹo tưởng tượng, nó còn sản sinh ra thái độ tốt với người ngoại quốc. Làm sao tôi yêu nhà tôi mà không hiểu ra rằng những người khác, có lý không kém, cũng yêu nhà của họ? […] Làm cho mọi nơi khác giống hệt nhà mình là điều chúng ta không muốn nhất. Nhà mà không khác những nơi khác thì đâu còn là nhà.

Thành phần thứ nhì là một thái độ nhất định đối với quá khứ của đất nước chúng ta. Tôi muốn nói đến cái quá khứ sống trong trí tưởng tượng của đại chúng, những công việc lớn lao của tổ tiên chúng ta. Hãy nhớ trận Marathon. Hãy nhớ lấy Waterloo. “Chúng ta, những kẻ nói tiếng mà Shakespeare nói, hoặc phải tự do, hoặc phải chết.” Quá khứ này vừa áp đặt một nghĩa vụ vừa giữ một chuẩn; chúng ta không được tụt xuống thấp hơn tiêu chuẩn mà cha ông đã đặt ra, và vì là con cháu của họ, chúng ta có hy vọng sẽ không tụt xuống.

Cảm xúc này không có nhiều uy tín như tình yêu đơn thuần dành cho nhà mình. Lịch sử của đất nước nào cũng đầy những hành vi ám muội và thậm chí đáng xấu hổ. Những câu chuyện hào hùng, nếu được coi là điển hình, cho ta một ấn tượng sai lầm về lịch sử và thường phải phó mình cho phê phán lịch sử nặng nề. Thế nên lòng ái quốc dựa trên quá khứ hào hùng của chúng ta lại mở cờ cho sự đả phá. Khi hiểu biết tăng lên, lòng ái quốc này có thể đứt dây rồi biến thành sự yếm thế vì hết ảo tưởng hoặc được duy trì bằng cách cố tình nhắm mắt. Nhưng làm sao có thể lên án cái khiến cho nhiều người, ở nhiều thời điểm quan trọng, cư xử tốt hơn nhiều so với cách họ đã có thể cư xử nếu không có nó giúp sức?

[…] Cái mà theo tôi là độc dữ, cái đẻ ra thứ ái quốc phá hoại nếu nó tồn tại, mặc dù ít có khả năng tồn tại lâu dài ở một người trưởng thành có học chính là sự giáo điều tuyệt đối nghiêm túc đối với lớp trẻ bằng thứ lịch sử mà người ta dễ phát hiện ra là sai hay phiến diện – giai thoại anh hùng được ngụy trang vụng về thành sự kiện sách giáo khoa. Len lỏi theo vào với nó là giả định ngầm cho rằng các dân tộc khác không có anh hùng của họ, thậm chí cả tín điều (rõ ràng là lý thuyết sinh học rất tồi) cho rằng chúng ta, nói nghĩa đen, có thể “thừa kế” một truyền thống. Tất cả những thứ này không thể không dẫn đến thành phần thứ ba, đôi khi cũng được gọi là chủ nghĩa ái quốc.

Thành phần thứ ba này không phải là một tình cảm mà là một tín điều: một tín điều chắc chắn, thậm chí đơn giản, cho rằng dân tộc ta, thực tế mà nói, đã và vẫn thượng đẳng hơn nhiều so với các dân tộc khác. Có lần, tôi đã liều lĩnh nói với một người tăng lữ, bấy giờ đang phát biểu thứ chủ nghĩa ái quốc này, như sau: “Nhưng thưa thầy, chẳng phải chúng ta đã được nhắc nhở rằng dân tộc nào cũng nghĩ đàn ông mình là can đảm nhất, đàn bà mình là đẹp nhất hay sao?” Thầy nọ trả lời tuyệt đối nghiêm túc – giả như lúc ấy thầy đang tụng lại Lời Tuyên tín cạnh bàn thờ thì cũng không nghiêm túc hơn được – “Vâng, nhưng ở nước Anh thì điều đó lại đúng.” Đương nhiên, bạn tôi (cầu Chúa vỗ hồn ông ấy yên nghỉ) không vì xác tín này mà nên một tay tội đồ mà chỉ là một con lừa rất đáng yêu. Tuy nhiên, xác tín ấy có thể sản sinh ra những con lừa biết đá, biết cắn. Khi đi về phía điên loạn, nó có thể ngả sang màu của thứ chủ nghĩa Phân biệt chủng tộc mà cả Ki tô lẫn khoa học đều nghiêm cấm.

Điều này đưa chúng ta đến thành phần thứ tư. Nếu dân tộc ta thực sự tốt đẹp hơn nhiều các dân tộc khác thì lại có thể cho rằng đối với họ, dân tộc ta hoặc có nghĩa vụ, hoặc có quyền của một sinh vật thượng đẳng. Vào thế kỷ mười chín, người Anh ý thức rất rõ về những nghĩa vụ ấy, gọi đó là “cái ách của người da trắng.” Những kẻ chúng ta gọi là người bản xứ là những người được bảo trợ, còn chúng ta là những người giám hộ tự phong của họ. Đây không rặt là đạo đức giả đâu. Chúng ta có làm điều tốt cho họ. Nhưng thói quen nói năng như thể động cơ chiếm lấy một nước của đế quốc Anh (hay động cơ của bất kỳ thanh niên nào khi tìm việc trong Ngạch Công chức Ấn Độ) là động cơ vị tha đã khiến cho cả thế giới mắc mửa. Tuy thế, đó cũng đã là biểu hiện tốt đẹp nhất của cảm giác thượng đẳng rồi đấy. Nhiều quốc gia khác, cũng cùng cảm giác này, đã nhấn mạnh vào quyền thay vì nghĩa vụ. Đối với họ, nhiều người dân ngoại xấu xí đến nỗi người ta có quyền xóa sổ họ. […] Hỡi loài chó, hãy nhận biết kẻ ở trên mình! Tôi không hề muốn đưa đẩy rằng đây là hai thái độ ngang tầm nhau. Nhưng cả hai đều nguy hại chết người. Cả hai đều đòi hỏi phạm vi vận hành “cứ ngày một rộng ra”. Và cả hai đều mang dấu chắc chắn của cái ác: tức là chỉ khi gây kinh hoàng thì chúng mới khỏi nực cười. Nếu không bội ước với người Da đỏ, nếu không có việc xóa sổ người Tasmania, nếu không có phòng hơi ngạt, không có Belsen, Amritsar, Black and Tans hay Apartheid thì tất cả những phô phang của cả hai thái độ này sẽ trở thành hí kịch.

Cuối cùng, chúng ta đến với giai đoạn mà lòng ái quốc, ở trạng thái ác quỷ của nó, tự chối bỏ chính mình. Chesterton đã nhặt ra hai câu thơ của Kipling làm ví dụ hoàn hảo cho điều này. Cũng có chỗ không công bằng với Kipling, người mà dẫu không nhà dường ấy, vẫn – thật thần kỳ – biết tình yêu dành cho nhà có thể có nghĩa gì. Tuy nhiên, hai câu thơ, khi tự đứng riêng, có thể cho ta hiểu tóm gọn thứ tình yêu ấy. Hai câu ấy như vầy:

‘Nếu nước Anh là cái nước Anh có vẻ là

thì chúng ta sẽ từ bỏ người chóng biết bao.

Nhưng người không thế.’

Tình yêu không bao giờ nói như vậy. Thế cũng như chỉ yêu con cái mình “nếu chúng nó ngoan”, yêu vợ chừng nào nàng còn ưa nhìn, yêu chồng chừng nào chàng còn nổi tiếng và thành công. “Không ai”, theo lời một người Hy Lạp, “yêu thành quốc mình vì nó vĩ đại, nhưng yêu nó vì nó là thành quốc của mình.” Một người thực sự yêu nước sẽ yêu nước trong cả sự suy tàn và tan rã của đất nước ấy – “Nước Anh ơi, dẫu người đầy lỗi, ta vẫn yêu người.” Với anh ta, nước Anh là “một thứ thảm hại, nhưng là của tôi.” Bởi yêu người, anh ta có thể vẫn thấy người tốt đẹp và vĩ đại khi người không thế; huyễn tưởng này đến một độ nào đó vẫn bỏ qua được.

Thế nhưng người lính của Kipling không bao giờ lật ngược tình yêu ấy; anh ta yêu nước khi nước còn tốt đẹp, còn vĩ đại – yêu vì những điểm tốt của nó. Nó là một công xưởng ăn nên làm ra và lòng kiêu hãnh của anh ta được vuốt ve khi ở trong cái xưởng ấy. Nếu nó không như thế nữa thì sao? Câu trả lời rõ ràng: “Chúng ta sẽ chóng từ bỏ người biết bao.” Khi tàu bắt đầu chìm, anh ta sẽ bỏ nó lại. Thế nên thứ ái quốc bắt đầu với cờ trống kênh kiệu thực chất lại bắt đầu ngay trên lối dẫn đến Vichy. […]

Chủ nghĩa ái quốc, như thế, có nhiều bộ mặt. Những ai hoàn toàn chối bỏ nó hình như chưa xét xem cái gì chắc chắn sẽ bước vào – và đã bắt đầu bước vào – thay thế nó. Các quốc gia còn sống trong nguy hiểm dài dài – có lẽ là mãi mãi. Người cai trị phải dùng cách nào đó lên dây cót tinh thần cho dân mình để bảo vệ họ, hay chí ít là để chuẩn bị cho việc bảo vệ họ. Nơi nào cảm xúc ái quốc bị phá hủy hoàn toàn thì điều này chỉ có thể được thực thi bằng cách trình bày mọi tranh chấp quốc tế dưới ánh sáng thuần túy luân lý. Người ta, nếu không đổ máu hay mồ hôi vì “tổ quốc”, sẽ phải đổ máu lẫn mồ hôi cho công lý, hay văn minh, hay nhân loại. Đó là đi lùi, không phải tiến lên. Đương nhiên tình cảm yêu nước không cần phải làm ngơ với luân lý. Đã là người tốt thì cần phải được thuyết phục rằng cái lẽ của tổ quốc mình là lẽ công bằng; thế nhưng đó vẫn là lẽ của nước những người ấy, không phải lẽ của công lý thuần. Với tôi, sự khác biệt này rất quan trọng. Không tự đại, không giả hình, tôi có thể cho rằng việc tôi bảo vệ nhà tôi

khỏi kẻ cắp là công bình; thế nhưng khi bắt đầu vờ vĩnh nói rằng tôi đã đánh thâm mắt nó thuần túy trên cơ sở đạo đức – mà không màng đến thực tế là cái nhà ở đây là nhà tôi – thì chẳng ai ngửi được. Chính vì lý do đó, vờ vịt rằng chỉ khi nào lẽ của nước Anh là lẽ công bằng thì chúng ta – như một chàng Don Quixote trung lập – mới đứng về phía nước Anh cũng là một sự vờ vịt trống rỗng ngang thế. Và cái ác sẽ theo chân cái nhảm nhí. Nếu lẽ của đất nước chúng ta là lẽ Trời thì những cuộc chiến phải là những cuộc chiến tận diệt. Một sự siêu nghiệm giả dối đã được ban xuống cho những thứ rất đời này.

Hào quang của tình cảm cũ nằm ở chỗ, dù nó có thể đưa người ta vào những nỗ lực lớn lao nhất, nó vẫn tự biết mình chỉ là tình cảm thôi. Những cuộc chiến vẫn có thể hào hùng mà không phải giả đò là những Cuộc chiến Thần thánh. Cái chết của người anh hùng không bị lẫn lộn với cái chết của thánh tử vì đạo. Và vui thay, một tình cảm mà trong một cuộc hậu là hết sức nghiêm túc lại, trong thời bình, có thể được coi nhẹ bỗng, đúng được mình như mọi tình yêu vui tươi. Nó có thể tự cười mình. Những bài hát yêu nước ngày xưa không thể được hát lên mà mắt không thoáng cười; những bài yêu nước về sau nghe giống thánh ca hơn. Hãy cho tôi nghe “The British Grenadiers” (có câu with a tow-row-row-row), chứ đừng “Land of Hope and Glory”.

(CS Lewis, Bốn tình yêu, 1960)

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công