favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
vắng năm
Next

“Rô

để được thở

mà không cần

đếm nhịp

tôi sẽ đổi mọi điều trên đời”

Có người từng kể: vào một dịp thuở xưa, các thi nhân đã thách nhau làm thơ vịnh tuyết nhưng không dùng từ “tuyết”, chỉ dùng những từ khơi gợi tồn tại của tuyết - rằng là thứ hàn tinh. Ở tập thơ Về khái niệm, có lẽ năm là yếu tố bị thiếu vắng, và nhà thơ thử vịnh năm thông qua nỗi hoài nhớ một típ thời gian có lịch sử. 

Ngày và tháng và năm và mùa và thứ và giờ - năm loại đơn vị mà người thường dùng để phân định thời gian, trong đó, chỉ có năm là không lặp lại, chỉ có năm mới giúp thời gian mang sử tính, còn tháng lặp theo chu kỳ mười hai và ngày lặp theo chu kỳ rằm, giờ thì lặp theo chu kỳ vòng quay của kim đồng hồ, còn thứ lặp lại chu kỳ tuần sáng thế, mùa lặp theo chu kỳ tự nhiên. Nhà thơ đặt cái nhìn của mình vào các loại đơn vị thời gian:

“Khi em ngồi trong phòng ngủ

những đơn vị thời gian khô héo và dần dần xin được đặt tay lên cửa sổ.”

Các loại đơn vị thời gian lặp theo chu kỳ đều được gọi tên: 

“chỉ từ tháng sáu đến tháng mười

thời gian dường như không trôi

nhưng tháng sáu phải rời đi và tháng mười phải đến

giữa thứ tự lộn xộn của các ngày trong tuần.”

“Hai mươi tư khung hình mỗi giây /hẻm/ thế kỷ trống”

“Xuân/ hạ/ thu/ đông.

Cái mãi mãi quay vòng mang theo thời gian/ mang theo bốn mùa/ mang theo bất tận.”

“ngày nối tiếp ngày hiển nhiên nối tiếp ngày”

Nhưng năm không được gọi tên, mà lượng thời gian được quy đổi gần nhất là “ba mươi bốn ngàn dặm giờ vô nghĩa”. Ở thời nhà thơ, sau một thế kỷ tàn nhẫn - lịch sử thế giới thần tốc bứt tốc, sau thời kỳ dài lịch sử dùng cặp nanh chiến tranh và cách mạng ngoạm chặt vào dòng thời gian khiến thời gian khi căng khi chùng, giờ đây một hoàn cảnh mới mở ra khi lịch sử đã nhả thời gian:

“cuộc chiến lớn xong xuôi cả rồi

thế giới từ bây giờ trôi qua bằng tốc độ

hai mươi tư khung hình mỗi giây

sẽ là một nơi mới toanh.”

Thời gian trở lại nhịp đều đặn bình bình, ngày qua ngày.

“Thứ sáu

thứ bảy

chủ nhật

thứ sáu

chủ nhật

thứ bảy

thứ bảy

thứ sáu

chủ nhật

thứ bảy

chủ nhật

thứ sáu

chủ nhật

chủ nhật

chủ nhật”

Nhưng các ngày đã lẫn lộn vào nhau, vì bởi thời gian trôi êm ru quá đều đều theo nhịp “một hai ba”, mỗi giọt thời gian đều giống nhau như đúc, nên nhà thơ không còn thể phân biệt thời gian nữa, hay nói đúng hơn là không còn thể cắt khúc thời gian nữa. Cuốn lịch - hình thức của năm, với nhà thơ thì đã trở thành thứ đồ vô dụng, tháng ngày trong lịch không còn nói được điều chi, chúng lẫn hết vào nhau.

“Chẳng có gì cho ngày gió

chúng tan vào tóc em

khiến tháng ngày nín bặt

và nước mắt chảy khỏi mái tôn”

“anh là tờ lịch không đề ngày và em là năm cũ”

“những cai ngục phì phèo chê thuốc đắng

những tờ lịch để bàn đếm nữa làm chi”

“làm sao mà anh thấy được tương lai

lịch để bàn có hạn sử dụng riêng cho nó

bằng lăng trước sân

bút bi ngòi mềm hết mực

Chúa vẫn lang thang

giữa lộn xộn các ngày trong tuần”

Trong những ngày đều đều - “những ngày có thước kẻ” và “những ngày có phần thập phân của các số thập phân”, qua những giờ “héo úa” - những giờ “ngập lụt”, bởi không gian cũng là thời gian, nên không gian cũng biến đổi thành không gian trùng lặp thường nhật - “những ngõ nhọc nhằn dãy số”.

Thời tiết - vốn là hình thức nhập một của không gian và thời gian, của cõi thơ, gồm có bầu trời hoặc là xanh ngắt như vĩnh cửu hoặc là xám đục như hư vô, đó là những típ thời tiết khiến người không còn thể phân biệt sớm trưa chiều, các buổi cũng lẫn lộn vào nhau.

“bầu trời vô vị

bầu trời tháng tư

anh là một cái vỏ rỗng

trôi qua”

“Trên vỉa hè xám

làn mưa xám

dưới bầu trời xám”

“chiều nay tôi mặc áo xuân xanh

ngã tư xanh đèn xanh đại lộ

tháng ba nông nỗi làn xanh biếc

trong tiếng Thánh ca xanh hư vô”

Và khi trời xám thì “mưa không ngừng rơi” đuột như song sắt nhà tù, khi trời xanh thì “nắng trôi” lan mênh mông. Nhà của người cũng một hình thức mang tính lặp đi lặp lại, tức là những căn chung cư, thế giới của nhà thơ chỉ có những căn chung cư từa từa nhau và chỉ khác mỗi số nhà - lại là dãy số phân biệt như không phân biệt nổi, quán ăn chỉ là chuỗi cửa hàng tiện lợi trăm cái như một, địa điểm cá biệt nhất lại là công viên. Động vật trong khung cảnh là những con chim sẻ nâu dung dị, đều đặn như những viên sỏi ven sông.

“từ tháng sáu đến tháng mười

thành thật mà nói trời lúc nào cũng đẹp

người ta vẫn vẽ lên tường và tập breakdance trong công viên

thỉnh thoảng đám thợ xây chửi thề vài câu gì đó”

“ngày hôm qua là ăn một chút trong cửa hàng tiện lợi và cho phép mình bật nắp một chai”

“(những ngày nhai sạch ánh sáng trong cái hành lang nhìn ra toà chung cư sơn màu cam nhợt nhạt)”

“tôi uống bia dưới cột đèn số mười ba” - “Căn nhà có biển số màu trắng và xanh”

“mặt trời lên

sau dãy chung cư hồng nhợt nhạt”.

“đôi lúc em nhìn về phía họ

như một con chim sẻ mồ côi trước sân nhà anh”

Cả thời gian và không gian đều đều đều, khiến bầu khí hậu ngưng đọng như trong một vĩnh cửu có thật, một vĩnh cửu của nhịp đều đặn, đến độ “chẳng có những đứa trẻ lớn lên thêm”. Đó là thời của nhà thơ, và cũng là khí hậu thời chúng ta, khi lịch sử bão tố rút khỏi đời sống người, trả lại cho đời cái trùng lặp vụn vặt của đời sống thường nhật. Nhưng khác với đời sống thuở xưa, khi thời gian còn neo vào chuyển động của các chu kỳ hành tinh, người xưa tổ chức đời sống mình theo chu kỳ mùa màng với các lễ hội tâm linh, nhờ đó mà mỗi năm đều tái diễn vở kịch sinh-diệt của vũ trụ. Thời gian của người hiện đại, khi đã cắt đứt các mối liên hệ với tự nhiên, không còn mang tính chu kỳ nữa, không còn thăng và trầm như nhịp sóng triều, mà chỉ còn mặt biển tĩnh lặng của đời sống công sở. Thế giới không tái tạo - không luân hồi nữa, mà chỉ “lan tràn qua những vũng cát”, bất biến đến mức độ hư vô, miên man và vô định, lan ra, lan ra mãi mãi như bầu trời xanh ngắt. Ấy là thời “lễ hội chỉ còn xác pháo”.

“mở mắt

thấy trời xanh

không có gì diễn ra

không có gì ngừng đọng

không có gì thêm

không có gì bớt

không có rơi ra

không có trở về”

“ngày mai là một ngày khác

một ngày thích hợp để lạc vào những cảnh quan quen thuộc

vì sai lầm mà con người ta hạnh phúc

họ nhảy múa và ăn mừng dưới ánh trăng”

Tư thế con người trong cõi thơ là kẻ đào giếng với tiếng động những nhát cuốc đều đều rơi xuống đất như đào mộ, còn lề luật thế giới cũng là hiện tượng tương đương nhau của “hằng đẳng thức” và “điệp ngữ” và “chủ nghĩa tiêu dùng”, bao trùm toàn vũ là sinh khí đều đặn.

“Ngày mai là một ngày khác

không nỗi đau nào sâu đậm

Kiệt đào và tiếp tục đào

từ khô cằn đất hoá thành một cái giếng”

Trong tập thơ, người kia xuất hiện xuyên suốt với tên gọi “em”, và “em là năm cũ” (và cả “em đến cùng bó hoa từ năm cũ”), đồng thời em còn gắn liền với hình ảnh tang lễ - “trên đường để đến kịp đám tang em”.

“đỉnh đầu em nở thành những vòng hoa

trong tang lễ chúng tôi đốt đi sách Thánh

tôi đã nói sẽ loại bỏ hoàn toàn phần kỹ thuật”

“bằng ký ức mà tên em nằm trên bia đá”

Tên trên bia đá cũng chính là năm. Vậy em là ai, phải chăng là năm - lịch sử bị khuyết thiếu, thứ phá tan nhịp đều đặn đời người - cũng là thứ khiến thời gian hăng hơn hoặc chùng hơn. Người thơ không thể chịu nổi sự bình bình của đời sống, và hoài vọng em dưới nấm mồ sâu, tưởng niệm em như yếu tố duy nhất phá đi không khí tĩnh lặng của đời sống tầm thường. Nấm mồ em dưới công viên đồng thời là nơi cất giữ “đồ chơi búa gỗ có vài ba phím đàn có gấu misa / những vỏ chai bia những tờ lịch cũ những di chúc đã rồi”, chứa toàn bộ kỷ niệm - sự kiện đời người thơ đã rút đi hết cùng em. Vắng em chính là vắng sự kiện đời người, vắng lịch sử, vắng những cột mốc kỷ niệm bứt người thơ khỏi nỗi hoang vu của bầu trời xanh vô vọng. Mỗi khi em đến là một kỷ niệm thành hình, và chỉ kỷ niệm mới cứu người khỏi cảnh thấy bản thân bị hư vô hoá khi mà quay lưng chỉ thấy những ngày y chang nhau trùng trùng điệp điệp - không sự kiện và không khác biệt, em chính là thứ chữa người khỏi cơn rùng mình khi ngoảnh mặt lại và chỉ thấy quá khứ teo lại còn duy nhất một ngày bình thường bị nhân ra vô hạn.

“Khi em ngồi trong phòng ngủ

những ngôi sao chạy vụt qua những cội rễ cây thường xuân

Khi em ngồi trong phòng ngủ

những đơn vị thời gian khô héo và dần dần xin được đặt tay lên cửa sổ

Và em ôm tay rồi nhảy vào vũ trụ, biến thành một con mèo ngáp dài vào tháng sáu.”

“Thế giới lấp lánh một chút. Điều gì hiện lên giữa hai môi em? Một cuộc thám hiểm tưởng tượng. Một chuyến hành hương không kết cục.

Cạnh bên em làm K không thể chắc được bất kể điều gì. Hắn chỉ hy vọng. Lạ kỳ làm sao.”

“Giữa khoảng cách của thực tại và em

mọi buổi chiều mất đi ý niệm

trống rỗng - những vỏ chai lăn từ từ xuống con đường trước mặt

giữa khoảng cách của thực tại và em

tôi là cái bóng

tôi là đèn đường

tôi là thực thể không ngừng chạy

tôi là tính mạng của những người vừa bỏ mạng

tôi là cơn mê.”

Có hai típ vĩnh cửu, vĩnh cửu của khoảnh khắc và vĩnh cửu của phổ quát. Một kỷ niệm quá đẹp thuộc về típ vĩnh cửu của khoảnh khắc, ký ức ấy luôn lung linh trong tâm trí người, một sự kiện lịch sử nổ ra và để lại hố thẳm đứt đoạn trên dòng thời gian, nói chung là một khoảnh khắc rất nặng đè lên dòng thời gian khiến mọi thứ luôn xoay quanh nó, thời gian như đông cứng lại trong một khắc duy nhất. Và ở sự vĩnh cửu của khoảnh khắc, ta có thể nói về hạnh phúc, rằng hạnh phúc như là muốn lặp lại mãi mãi khoảnh khắc kỳ diệu ấy, để tụng ca tình yêu - Alain Badiou từng ví tình yêu như là việc muốn lặp lại mãi mãi khoảnh khắc lời tỏ tình được thốt ra và thuận lòng - rằng người yêu nhau luôn muốn tỏ tình lại với nhau. Còn với típ vĩnh cửu của phổ quát, đó là những hiện tượng hình thành từ các luật hằng đời, như luật tự nhiên và luật đạo đức và định luật kinh tế, những luật luôn ở trạng thái phát động vĩnh cửu chi phối sự hình thành các hiện tượng, mọi trái táo đều rơi xuống do lực hấp dẫn. Ở típ vĩnh cửu của phổ quát thì không có sự lặp lại, vì lặp lại chỉ được tạo thành bởi ý chí tự do, ta cố tình tái diễn lại một hiện tượng từ lần đầu tiên, như hoạ sĩ nhìn người thật để vẽ chân dung, ta có thể cần phải chống trả các luật phổ quát để lặp hiện tượng một cách phi tự nhiên, mỗi một nỗ lực lặp lại đều độc nhất do hoàn cảnh khác biệt khiến cách thức lặp khác biệt. Ở sự lặp, ta là diễn viên đang đóng vai. Nhưng ở típ vĩnh cửu phổ quát, các hiện tượng xảy ra độc lập với nhau chứ không phụ thuộc vào lần đầu tiên, cái phổ quát không muốn diễn lại lần đầu tiên mà chỉ để trình diễn chính bản thân cái phổ quát, lần đầu tiên không phải hình mẫu - không chứa nỗi ngợp của hạnh phúc để ta thật sự muốn lặp lại hiện tượng. Ta chỉ mờ mịt tuân theo luật tự nhiên hay thói quen vô thức mà tham gia tái tạo lại hiện tượng. Ở típ vĩnh cửu phổ quát, ta chỉ biết luật phổ quát chứ không có kỷ niệm về lần đầu tiên, ta không có ký ức. Do đó, khi người ngẫm lại cuộc đời mình, người chỉ thấy những kỷ niệm độc nhất đơn lẻ nối với nhau tạo thành nỗi mơ hồ cảm xúc, như những ngôi sao nối lại tạo thành chòm sao nhân mã, như bánh madeleine của Proust, người không nhớ ngày đi làm thứ 20 mà chỉ nhớ ngày đi làm đầu tiên, chỉ những khoảng khắc mới được nhớ lại và tạo thành đời người. Ta chỉ nhớ những lần ta kháng cự lại luật, còn những lần ta buông mình theo lề luật lẽ thường, ta quên bẵng mất, những ngày đều đều sống và làm việc bình lặng dễ dàng bốc hơi khỏi ký ức mà hoá hư vô, cái phổ quát không có khả thể cho ham muốn lặp lại. Như vậy, vĩnh cửu của khoảnh khắc bồi đắp cuộc đời, còn vĩnh cửu của phổ quát hư vô hoá cuộc đời. Những kỷ niệm với em của người thơ cũng chính là khoảnh khắc vĩnh cửu, giúp người thơ chống lại cuộc đời không ngừng bị hư vô hoá bởi dãy số của ngày giờ phổ quát. Em đã mất, và người thơ sống bằng tang lễ của em, em là khoảnh khắc lần đầu tiên, và người thơ sống bằng cách tưởng nghiệm về em, tang lễ là nghi lễ, em chứa khao khát lặp lại của người thơ, em là kỷ niệm, em là hạnh phúc.

“Nhưng mọi điều, nếu đã bắt đầu, cần phải có kết cục. Hắn biết. Hắn biết em cũng biết. Mọi thứ tàn nhẫn. Mọi thứ hiển nhiên. Ánh sáng. Vừa hiển nhiên vừa tàn nhẫn.

Thế rồi bó hoa tan ra trong khoảnh khắc. Như thể biết chắc mình không thuộc về nơi này. K thấp thỏm. Cái ngắn ngủi có phải là cái vĩnh cửu?” - trích Hạnh phúc của K.

Khi lịch sử đã rút khỏi đời sống người, người chỉ còn sống đều đều hết tháng ngày qua, thì còn có yếu tố nào giữa đời sống đồng phục và chủ nghĩa tiêu dùng còn có thể vút lên thi tính không? Còn chủ đề lớn nào còn thể biểu cảm trong thơ vào thời điểm hiện tại không? Như các thi nhân xưa vịnh tuyết mà không đề cập tuyết, có lẽ nhà thơ đã thấy nơi hiện tượng năm không còn thể phân biệt và cơn khó ở từ nó mà ra là thời bệnh hiện tại, và đã nắm bắt thi tính của đời sống lãng đãng giữa những cửa hàng tiện lợi và căn hộ chung cư. Một tập thơ vịnh năm khi đã không còn năm, dùng thi năng khuôn hình thức cho yếu tính một thời.

Viên Trường

 

và cả

Đọc thơ Bà huyện Thanh Quan, tôi bước vào tàn tích thành quách cổ, đương buổi chư hầu hưu chiến lánh mùa gặt, nghe tiếng cọc cạch của bầu rượu hồ lô nhịp vào thành xe được kéo bởi ngựa già. Trong buổi chiều tà những con thú già tìm nơi để mất, người gác đồ lên vai thong thả ra về, tường thành cổ sẫm màu từ dưới lên, thế gian chìm dần vào bể tối, nắng cam ngọt lóe lên tia cuối cùng. U u tiếng chuông Thiên Mụ vọng làm gợn sóng Hương giang cách trăm dặm, thời gian nhấm nháp tôi riu riu mệt. Đến cả hoàng triều cũng rũ mình trong hơi thở hắt, riêng người thơ vẫn cô ngạo vô chừng. Hãy cho tôi ngạo khí của người, để nhòm vào kim cổ không thấy hư vô cuộc đời, sao người tạo ra chiếc giường thật êm ái cho nỗi nhọc mệt của tôi, rót vào tai tôi tiếng chuông trầm giọng lão thành khuyến dụ tôi lơi tay khỏi những lý tưởng mà tôi có thời siết chặt, rằng không gì bất biến trước thời gian, hai vai tôi đã xuôi thả theo cảnh, nhưng rồi, người lại nói cảnh đấy người đây, tình riêng một khối cô hoài. Gương cũ nghìn năm soi kim cổ, tôi đã muốn rã mình theo cát thời gian đổ, cảnh sao vẫn chẳng thể với tới người, mà người lại chứng tri cho cảnh. Nỗi hoài Lê càng thêm ẩn mật, Thăng Long thành cổ tường rêu ngói vỡ, sĩ phu Bắc Hà mất thế dung thân, từng có thời câu đối Trạng bảo an việc nước, đến bây giờ đoàn ngựa xe thiên đô để quên cây quạt đề thơ tại nóc tủ cung điện cũ. Hoài Lê là nhớ điều chi, tôi tự hỏi, chắc hẳn những kỷ niệm mơ hồ chẳng dính vua quan, có khi nhớ đến phong khí tôn Nho một thời. Hệ đạo đức vững vàng tam cương ngũ thường - tam tòng tứ đức, này đà suy thoái lung lay, trung hiếu đạo đồng, nhưng Lê triều dài như vĩnh viễn cũng đã thay ngôi, tình phụ tử và nghĩa phu thê có lẽ cũng không bền. Hoàng triều ra vào thay nhau nườm nượp như tại nơi cánh gà của vở kịch hề, hết Lê tới Trịnh sau đến Tây Sơn rồi lại Nguyễn triều Phú Xuân, nhưng ô kìa, đời thường dân vẫn lặng lẽ lương thiện, mục đồng về lại cô thôn, tiều phu ngư phủ đều đặn lom khom làm lụng, tôi tới và thấy đời dân chúng họ vẫn êm ả như thiên nhiên bất biến, tôi đứng giữa tuồng bắt hươu chộn rộn họ chen họ và đám đông khán giả lương dân ngồi yên không đổi ghế, ôi vô nghĩa làm sao vở kịch thiên tử mệnh Đông phương, thịnh suy theo mùa hạn, cách mạng theo nước lũ bốn phương trời. Sống sót qua lịch sử rồi, thấy chẳng gì thay đổi, thời gian có thật chữa lành mọi vết thương, tia tịch dương xoá nhoà mọi công tua, chỉ còn để cho thấy đá trơ gan cùng tuế nguyệt, nước chau mặt với tang thương, tiếng chuông đồng cổ kim rung lên làm vô nghĩa những điểm khôn lay của ý chí tôi, trầm là giọng của lão niên, tôi đứng giữa tiếng chuông vọng khắp trời tím hoàng hôn như lọt thỏm vào sự lâu vô tận, tôi bị choáng ngợp vì thời gian ngắn ngủi của đời tôi bị đứng trong đối sánh cổ kim của tiếng chuông đồng, tiếng chuông đồng trác tuyệt của chùa Thiên Mụ, hạc vàng nhờ hứng nắng chiều bay, chùa nghiêm nhờ bởi cổ kim dãi dầu. Nhưng hồn cốt Nho gia không run sợ trước nghìn năm của chuông đồng, người thơ co mình lại cũng để vươn mình tới đỉnh thời gian nơi tiếng chuông không thể với tới, ở nơi đó chỉ mình mình biết - chỉ mình mình hay, tôi chưa từng trong đời với tới được độ loãng của cảnh và độ đặc của tâm sự như thế, nơi chỉ có ta với ta, và cả đoạn trường. Người thơ đã lên nơi cao ấy, và không gì có thể ảnh hưởng tâm tình, còn tôi, cảnh trạng lớn lên ngay sát hồ nọc rắn đã trì níu độ cao của sự cô độc suy tư của tôi, dòng lũ của những phát hiện mới và lý tưởng mới cuốn chân tôi vào cõi xám xi măng của lẽ thường và hư vô, tôi rơi trước khi kịp lên tới giao cảm với người thơ, rơi vào sự mờ mịt trống rỗng của cảm xúc, và gần như không thể thấy nội tâm người thơ khi chiêm ngưỡng quá xa từ bên dưới, ánh mắt tôi không thể vượt quá bức màn hoàng hôn vàng nhạt mà người bày ra để chắn giữa bản thân và tôi, tôi chỉ thấy mặt nạ cô độc người đeo, còn đằng sau đó, cái cảm xúc thật mà mỗi kẻ cô độc ôm lấy khiến hắn cảm thấy mình cô độc, tôi chẳng thể biết.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công