favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Nghĩ chiến tranh (tiếp): Làm đàn ông

24/10/2025 23:34

“Phát xít là yếu tố đầu tiên trong quan hệ giữa một đàn ông và một phụ nữ.” (Ingeborg Bachmann)

tiếp tục nghĩ chiến tranh, kỳ gần nhất ở kia

Làm đàn ông (To be a man, 2020) là tập truyện ngắn của Nicole Krauss, nữ tác giả Mỹ sinh năm 1974 có mẹ là người Do Thái Anh, bố là người Do Thái Mỹ, ông bà sinh ra ở Hungary, gặp nhau ở Israel rồi di cư sang New York. “Làm đàn ông” có nhiều yếu tố tương đồng với tiểu sử Krauss: người phụ nữ ly dị sau cuộc hôn nhân mười năm, sống cùng hai con trai, cuộc tình với một nhà báo trẻ. Trong đời thực, một người tình của Nicole Krauss là một nhà báo người Israel viết về cuộc hủy diệt đang diễn ra ở Gaza.   

 

Làm đàn ông

- Nicole Krauss

Cha tôi

Hai đứa con trai tôi đang đứng ở mép cầu tàu, hoặc chúng sẽ nhảy, hoặc chúng sẽ không. Giờ là đầu mùa hạ, tháng Sáu, dưới chiếc chuông lớn của bầu trời, trên hòn đảo nơi tôi lớn lên. Những con sóng dâng từ một nơi xa lắm, đến mức chẳng ai có thể nói chính xác khi nào hay ở đâu cơn xáo động của chúng bắt đầu - chỉ biết rằng chúng là sự truyền dẫn của một năng lượng cuối cùng vỡ ra ở đây, rồi tan vào bờ. Tôi nhìn chúng - hai con trai tôi - từ bãi cát. Cha tôi, hôm nay lặng lẽ khác thường, đội mũ tránh nắng, cũng đang nhìn. Ông chưa thật sự già, nhưng tôi không thể nhớ chính xác ông bao nhiêu tuổi. Nếu đời ông có vẻ dài đối với tôi thì có lẽ là vì ông đã thay đổi hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Một ngày - suốt nhiều năm - không thể nói khác được, ông mang tất cả giận dữ lớn lao của mình ra biển, tháo gió khỏi cánh buồm của nó, rồi về nhà, không còn nó nữa. Trở về với một sự tĩnh lặng, một lòng nhẫn nại, nơi trước kia từng là cuồng nộ chao đảo.

Đôi khi tôi cũng quên cả tuổi mình. Khi có người hỏi tuổi hai đứa con, tôi thường làm tròn lên - để cho mình thêm chút thời gian mà quen dần với hướng đến của chúng. Cha tôi chẳng còn nhiều thời gian và tôi còn đôi chút, còn các con tôi vẫn còn tất cả thời gian trên đời. Đứa bé nhún nhảy một điệu nhỏ trên mép cầu tàu. Đứa lớn ngật đầu ra sau, giang tay và hét điều gì đó lên trời.

Tôi nhìn các con mình và nói, cha tôi lắng nghe. Cuộc sống, tôi nói, hay đúng hơn, đang cố nói - thứ luôn diễn ra trên biết bao tầng bậc, cùng một lúc.

Xương sườn gãy

1.

Mùa hè ấy, khi hai đứa con trai đi nghỉ với cha của chúng, cô đến Berlin thăm người tình.

“Em biết không,” anh nói, khẽ cúi xuống gần cô, hạ giọng để người qua lại không nghe thấy, “một điều em chưa biết về anh là anh thích phục vụ.”

Nghe thật lạ khi phát ra từ một người đàn ông cao hai mét, vạm vỡ như boxer hạng nặng. Mà quả thật anh là võ sĩ nghiệp dư - hay đúng hơn, từng là, trong nhiều năm - cho đến tháng trước, khi một cơn Schwindel - chóng mặt - khiến anh phải nhập viện, để rồi người ta phát hiện ra một vết sẹo trong não, và sự nghiệp đấm bốc của anh chấm dứt. Dù anh nói sẽ không bao giờ bước vào võ đài nữa và hiện làm biên tập viên cho một tờ báo danh tiếng, cô vẫn thường - trong lòng cũng như khi kể với bạn bè - gọi anh là Boxer người Đức. Gọi như vậy dễ hơn là dùng tên thật của anh, vốn có nghĩa là “món quà nhỏ của các vị thần.” Vì thế, và cũng vì biệt danh ấy giúp cô giữ được chút khoảng cách châm biếm, sự khác giữa hai người, ghìm cô đứng vững trên vùng đất mà cô vừa khám phá, như một Christopher Columbus của tâm hồn: vùng đất của tự do không ràng buộc.

Họ đang đi dạo quanh hồ Schlachtensee - một hồ nước dài và hẹp ở rìa rừng Grunewald - vừa đi vừa bàn xem nếu là tám mươi năm trước thì liệu anh có trở thành Quốc xã hay không. Boxer người Đức cho rằng sẽ là đạo đức giả nếu cả quyết, giống như hầu hết mọi người trong thế hệ mình, rằng mình sẽ không như vậy, nhưng anh cũng đi xa hơn lập luận thông thường rằng con người bị lịch sử định hình và khó lòng cưỡng lại hoàn cảnh, để nói đến những yếu đuối đặc thù của tính cách:

“Anh chính xác là kiểu người mà họ sẽ tuyển vào Napola,” anh nói, nhắc đến những trường dự bị ưu tú, nơi đào tạo những thanh niên Đức khỏe mạnh, vâng lời và tương đối sáng dạ thành lãnh đạo của SS. “Từ trước đến nay, anh luôn quá tôn sùng các ông thầy, cố đáp ứng từng đòi hỏi cuối cùng của họ, vì anh luôn sợ hãi ý nghĩ sẽ khiến họ thất vọng. Điều đó, cộng với dáng vóc và thể lực này, sẽ khiến anh là đúng mẫu người họ muốn. Và một khi được muốn, anh sẽ thấy vinh dự. Nỗi yếu lòng với vinh dự và lời khen, em thấy đấy, sẽ đẩy anh thẳng vào hàng ngũ SS.”

“Chưa kể anh còn sẽ thích bộ đồng phục,” cô thêm, nghĩ đến hàng áo sơ mi trắng may đo ở London, treo ngay ngắn trên thanh sắt dưới nắng trong phòng ngủ anh, nghĩ đến những bộ suit đặt may ở Naples không chỉ theo số đo mà còn theo đúng gu khe khắt (không lụa, không lót, chỉ những chất liệu thô ráp khi chạm tay vào), nghĩ đến chiếc áo khoác len mùa đông được may tỉ mỉ đến mức anh chẳng dám cho tay vào túi vì sợ hỏng. Nghĩ đến đôi găng đấm bốc bằng da trắng, hàng thủ công của hãng Winning ở Nhật, vừa khít các ngón tay thon và cổ tay mảnh của anh. Cô không vui vẻ gì khi liệt kê những bằng chứng này. Cô vẫn muốn tin rằng người đàn ông cô đang ngủ cùng - dù trong bất cứ hoàn cảnh nào - cũng không thể là một kẻ Quốc xã. Nhưng đến lúc này, cô đã hiểu anh quá rõ để có thể thực sự nghĩ khác.

Dọc bờ hồ, những đôi tình nhân ôm nhau dưới nắng hoặc dưới tán cây trăn, hôn nhau hay lười biếng vuốt ve những cơ thể nửa trần. Mỗi lần họ đi ngang một cặp đôi hấp dẫn, Boxer người Đức lại khẽ ra dấu tán thưởng, thậm chí có phần ganh tị. Anh từng có một cuộc hôn nhân hạnh phúc gần một thập kỷ - “hạnh phúc huy hoàng,” như anh nói - cho đến khi người vợ, một nữ diễn viên, bỏ anh theo người đóng vai Lancelot bên nàng trong vở Guinevere ở nhà hát Volksbühne. Từ đó, anh đánh mất cảm giác phúc phần và bất khả tổn thương mà suốt đời anh từng tin là thuộc về mình. Những người thân cận cho rằng đó là một bước tiến, anh thừa nhận, vì trước khi vụ ly dị quật ngã anh, anh quả thật là một kẻ khó chịu vô cùng. Nhưng anh đã bị nó bẻ gãy, và anh vẫn thà tiếp tục sống hạnh phúc và khó chịu còn hơn là trở thành như bây giờ.

Khi tới quán bia ở đầu phía đông của hồ, họ dừng lại uống nước. Hôm ấy Chủ nhật, các bàn phủ khăn ca rô đỏ trắng ken kín những người Đức đang tận hưởng thiên nhiên. Tiếng reo của trẻ con vọng lên từ mép nước. Boxer người Đức đang nói với cô rằng cậu con trai lớn của cô, gầy ngoẵng, tay dài - anh thấy qua một tấm ảnh - sẽ là một võ sĩ tuyệt vời. Cô thấy chẳng có lý do gì để nhắc lại rằng con trai mình sẽ không bao giờ đấm bốc, rằng nó xa đấm bốc cũng như xa việc là người Đức vậy. Không tìm được điểm bám, câu chuyện chuyển sang Oktoberfest, và anh bắt đầu giải thích cho cô biết dirndl là gì.

“Nhưng anh sẽ giết ư?” cô hỏi, có lẽ không phải với sự ngỡ ngàng dành cho một kẻ xa lạ mà là câu hỏi cho một người từng thỉnh thoảng hạ gục ai đó chỉ bằng một cú đấm, hay suýt bẻ gãy thanh gỗ đầu giường cô vì giữa cơn cực khoái, anh bỗng tràn ngập một ham muốn hủy diệt không thể kiềm chế.

“Tất nhiên là anh sẽ giết chứ,” anh nói. “Giết với nhiều tin tưởng - lòng tin được hun đúc từ nhỏ - rằng mình đang làm điều đúng.”

“Em thì không bao giờ có thể giết ai,” cô khẳng định.

Qua miệng ly bia, Boxer người Đức soi cô bằng ánh mắt hoài nghi lịch sự. Và quả thật, vừa dứt lời, trong đầu cô đã bắt đầu xuất hiện những ngoại lệ.

Khi, vài ngày sau, cô nhắn tin bảo nếu anh xuất hiện trước cửa nhà em năm 1941 trong đôi ủng da thì sao, anh đã trả lời rằng việc duy nhất anh không làm là giết người vô tội. Điều này dường như mâu thuẫn với những gì anh từng khẳng định ráo hoảnh khi họ đi dạo quanh hồ trong ánh nắng êm đềm, nhưng khi cô nhắn lại để hỏi rõ xem những người mà anh từng nói chắc chắn có thể giết là ai, tin nhắn của cô không được trả lời, treo lơ lửng trên WhatsApp, chỉ hiện một dấu tick xám - vì Boxer người Đức có thói quen tắt điện thoại mỗi khi cảm thấy việc đã xong. Sau đó, khi họ gặp ăn tối ở một nhà hàng chay khu Mitte, anh nói rằng dĩ nhiên anh không thể gõ cửa từng nhà để trục xuất hay hành quyết người ta. Cô nghĩ anh là loại người gì? Khi bảo có thể giết, ý anh là trên chiến trường, vì anh chắc chắn mình sẽ được điều vào Waffen SS và gửi ra tiền tuyến. Cô không đủ sức, ngay lúc ấy, để hỏi rằng điều gì khiến anh tin chắc sẽ không bị điều vào Gestapo, hay vào lực lượng SS chuyên thực thi chính sách chủng tộc, hoặc thậm chí vào các đơn vị Đầu lâu phụ trách trại tập trung và hủy diệt.

Họ ngồi lặng im chờ món há cảo được mang ra. Một lát sau, Boxer người Đức chậm rãi nói rằng có lẽ anh đã sai. Dù sao, anh nói, ông nội anh cũng từng phải rắc rối liên miên với bọn Quốc xã vì cho người Di-gan trú nhờ trên đất nhà; cụ cố anh bị sát hại trong chiến dịch Aktion T4; còn cha anh là kiểu người không bao giờ chịu phục tùng ai. Không, có lẽ anh sẽ không thành Quốc xã đâu - hy vọng là vậy, anh nói. Cô gật đầu. Quả thật, cô đồng ý, cuộc chuyện này vốn là bất khả: con người anh bây giờ không thể là con người anh hồi ấy - sẽ bị nhào nặn bởi những lực rất khác, mà con người hồi ấy thì chưa từng tồn tại.

Dẫu vậy, dĩ nhiên cô vẫn tiếp tục nghĩ về điều đó.

2.

Một người bạn chung đã ghép cặp họ ở New York, và qua email họ hẹn sẽ đi ăn tối vào hôm sau. Anh xin gặp hơi muộn một chút, vì buổi chiều anh sẽ đi đấm bốc. Anh đấm bốc ở đâu? cô hỏi; cô tò mò muốn xem. Thực tế là chưa bao giờ cô nhìn ai đấm bốc, kể cả trên TV, vì bạo lực và máu khiến cô chóng mặt. Anh trả lời rằng cô sẽ không muốn gặp anh ngay sau khi anh đấu đôi, đó là kiểu phòng tập mà chẳng ai tắm rửa, nhưng nếu sau ngày mai mà anh vẫn thích cô, anh sẽ đưa cô đến đó và họ sẽ làm một trận; cho đến lúc ấy, đó sẽ là phòng tập bí mật. “Không ai biết tôi ở đó, hay tôi làm gì, hay tôi nghĩ gì, hay tôi muốn gì,” anh viết. Cô đọc email của anh ba lần, rồi trả lời rằng anh nên cẩn thận, vì cô chết người đấy. Cô không biết chính xác tại sao mình lại viết vậy. Có thể vì sự kiêu ngạo trong cách anh nói, cái thách thức gián tiếp: Nếu tôi vẫn thích cô. Vì cảm giác kiêu hãnh trồi lên trong cô, dù cô biết anh viết bằng một ngôn ngữ không phải của anh, thiếu những sắc thái như khi anh nói bằng tiếng Đức, và bởi vì cô muốn anh biết rằng cô đã - và luôn luôn - có một quyền lực nhất định với đàn ông. Hoặc vì cô muốn ám chỉ rằng những gì phát nổ ở anh cũng phát nổ ở cô, rằng có thể có một sự ngang hàng ở đó, và có lẽ còn hơn cả ngang hàng, rằng cán cân sự nổ, một dạng sức mạnh, có thể nghiêng về cô. Cái đó có thể là khoa trương, có thể không.

“Xương sườn tôi dễ gãy,” anh nhắn lại. “Xin cẩn thận khi phá hủy tôi.” Anh biết chính xác phải làm gì với cô. Tóm lấy cô, xoay cô và kéo cô lại; biết cách dẫn dắt cô, biết rõ hỗn hợp sức mạnh và yếu đuối ở một người đàn ông có thể làm gì với một số phụ nữ, trong đó rõ ràng cô là một. Sau trao đổi ngắn ngủi ấy, cô biết mình sẽ đưa anh về nhà, lên giường với anh.

Khi cô đến nhà hàng, anh đã ở đó, như những đoàn tàu Đức luôn chờ sẵn trên ga. Lại còn khổ người anh nữa. Không thể không chú ý đến anh, cao vống hơn người khác một đầu, thậm chí hai đầu. Nếu lúc ấy có ai hỏi cô - chẳng hạn tay bồi bàn đang bế cái khay đi ngang -  rằng cô có thích cảm giác trở nên nhỏ bé về thể xác khi đứng cạnh một người đàn ông không, cô sẽ phải trả lời là có. Có, nhưng phải thêm điều này! Nhỏ bé về thể xác, mạnh về tinh thần. Nói cách khác, cô thích anh là một con sói đội lốt cừu cho đến khi cô bảo anh được quyền là sói, và khi đó anh phải hoàn toàn là sói, không còn dấu vết cừu nào suốt thời gian họ fuck trên giường cô, sau đó anh lại trở về làm người sẽ không đời nào nghĩ đến việc bóp cổ cô khi muốn điều gì. Đây có phải vấn đề không? Và cả điều này nữa: thỉnh thoảng anh nên rất chậm và dịu dàng khi sửa soạn làm nổ sập nhà cô.

Anh đưa cho cô một cành hoa nhỏ, những bông tím nhạt li ti. Cô tưởng anh hái dọc đường, nhưng sau này mới biết anh đã mua cả một bó, rồi tặng phần còn lại cho một phụ nữ mang thai trên tàu điện ngầm - người đã khen hoa đẹp và hỏi chúng dành cho ai. Bởi ngay lúc đó, anh chợt nhận ra rằng mình vừa mua cả một bó hoa cho một người lạ, và có lẽ thế là hơi quá. Họ được dẫn đến bàn. Nhà hàng mờ ấm, những bức tường lót bằng các tủ kính cũ của hiệu thuốc trước đây - nơi này từng bị bịt kín suốt nhiều thập niên trước khi mở cửa trở lại thành một nhà hàng Ý. Mỗi lần người phục vụ lại bàn, Boxer người Đức đều ngừng nói, mỉm cười và cảm ơn vì món ăn hay ly nước vừa được đặt xuống.

Cuộc chuyện của họ trôi nhẹ và nhanh. Anh kể rằng mũi anh không dễ gãy, chỉ xương sườn - và môi - là hay sưng, chảy máu khi đấm bốc, vì môi anh dày. Anh hỏi cánh tay cô có dài không, và trước khi cô kịp trả lời, anh đã vươn tay qua bàn, nắm lấy tay cô và dẫn nó đến chỗ xương sườn dưới bên trái của anh nhô ra - nó từng bị gãy rời hẳn, giờ lơ lửng, không còn dính vào khung xương nữa.

Người phục vụ đến rót rượu cho họ. Khi anh ta đi, cô cầm tay Boxer người Đức dẫn về cùng chiếc xương trên cơ thể mình - cũng nhô ra ở góc ấy, và đã như thế từ khi cô còn nhớ được. “Làm sao có thể?” anh kinh ngạc hỏi. “Chắc em cũng từng bị gãy xương sườn.” Nhưng cô biết là chưa từng có chuyện đó. Những xương sườn ấy, trong cảm nhận của cô, như kéo mãi về điểm khởi nguyên, và dường đang cố nói điều gì đó giữa sự hỗn độn của bao thế hệ - về chuyện làm đàn ông là gì, làm phụ nữ là gì, và liệu hai cái đó có thể được xem là ngang hàng, hay khác biệt nhưng vẫn ngang hàng, hay không.

3.

Giường của cô - cỡ queen - quá nhỏ đối với Boxer người Đức, thế nên anh phải cuộn người lại như một đứa trẻ. Ánh đèn muối hồng Himalaya phủ lên thân thể anh một quầng hồng hào ấm áp. Họ nói chuyện về: thời niên thiếu của anh trên một trang trại gần Biển Bắc, và việc gia đình anh mỗi khi đến nhà người khác ăn tối luôn mang theo những bông hoa hái ngoài đồng - điều đó khiến anh tin rằng mọi bó hoa đều nên trông như thể vừa được đánh cắp; về những cuốn sách họ thích; về việc liệu có lạ lùng không khi một người đàn ông Đức lên giường với một phụ nữ Do Thái có ông bà sống sót sau diệt chủng; về em gái cô; về anh trai anh; về việc cô không bao giờ muốn kết hôn lần nữa; về chuyện thời nay thường là phụ nữ lớn tuổi qua lại với đàn ông trẻ hơn nhiều - những người đàn ông muốn có con, trong khi những phụ nữ như cô đã sinh con rồi; về vấn đề của sự một vợ một chồng; và những vấn đề ngoài sự một vợ một chồng; về niềm tin của anh rằng đấm bốc không phải là bạo lực mà là kỷ luật - kỷ luật thể xác và kỷ luật của việc đối mặt với nỗi sợ của chính mình.

Thế mà đã bốn giờ sáng, anh nói anh phải về. Cô bảo anh có thể ngủ lại. Nhưng anh không thể, anh nói, ngồi dậy và mặc quần jeans. Anh không thể ngủ khi có người khác trên giường. Khi cô tỏ vẻ ngạc nhiên, gương mặt anh tối lại. “Không ai thích cả,” anh nói, như thể đã có một cuộc trưng cầu dân ý và kết quả là hiển nhiên. Khi vợ anh bỏ đi với người đàn ông khác, cô nói rằng đó là vì người kia ôm cô khi họ chìm vào giấc ngủ. Dĩ nhiên còn nhiều lý do khiến cô không hài lòng. Khi cuối cùng vợ anh thú nhận đã yêu người khác và sẽ bỏ Boxer người Đức, cô nói qua điện thoại, và suốt cuộc gọi đó, anh đã ghi chép để khỏi quên điều gì. Anh ghi vào trang bìa cuối cuốn Ghosts by Daylight, hồi ký một nữ phóng viên từng đưa tin hai mươi năm ở vùng chiến sự. Ở đầu danh sách, được gạch chân hai lần, là dòng: việc anh không thể ôm vợ suốt đêm.

Không phải anh không muốn có thể ngủ cạnh ai đó, anh nói với cô. Chỉ là anh không thể tìm được bình yên theo cách ấy. Anh luôn trong trạng thái cảnh giác, căng thẳng, và vì thế có khi phải mất hàng giờ mới ngủ được - điều này càng tệ bởi anh biết rằng nếu không ngủ đủ, anh sẽ bị đau nửa đầu. Anh đã bị đau nửa đầu từ năm mười ba tuổi. Mỗi lần nó đến là một hào quang đen mờ che khuất tầm nhìn, và khi cơn đau xuất hiện, việc duy nhất anh có thể làm là cuộn chặt người trong tư thế bào thai cho đến khi nó qua đi. Dù không thể nói chính xác nguyên nhân, anh tin thiếu ngủ là một yếu tố, và vì vậy giấc ngủ trở thành tối quan trọng. Chỉ khi ở một mình anh mới thấy bình yên, đầu vừa chạm gối là anh ngủ ngay. Lúc nào cũng thế, anh nói với cô. Lần cuối cùng anh nhớ ngủ ngon khi có ai bên cạnh là lúc năm tuổi, anh năn nỉ mẹ ngồi cạnh giường và nắm tay mình. Anh vẫn nhớ cảm giác thanh thản ấy, sự tốt lành ấy. Thế nhưng mỗi lần Boxer người Đức nói đến sự khốn khổ mà sự bất khả ấy gây ra cho vợ mình và những người đàn bà khác sau này, giọng anh lại bực bội cay đắng: Tại sao họ không thể hiểu rằng việc chung giường với người khác với anh là rất tệ? Rằng nó khiến anh khổ sở?

Đêm duy nhất họ từng ngủ chung giường là ở giữa rừng, anh không có lựa chọn - anh hỏi cô có phiền không nếu anh đọc Kinh Lạy Cha. Anh vừa lật người cô lại, ép chặt cánh tay cô ra sau lưng, dồn toàn bộ sức nặng hai trăm pound lên người cô. Giờ họ nằm yên, lưng cô tựa vào bụng anh, cánh tay dài của anh bọc trọn lấy cô. “Vater unser im Himmel, geheiligt werde dein Name,” anh thì thầm. “Dein Reich komme; dein Wille geschehe, wie im Himmel so auf Erden.[1]

Tự do

1.

Mùa hè ấy - mùa hè mà hai đứa con trai cô mười ba và mười tuổi, và cô vừa ngủ vừa không ngủ với Boxer người Đức - cô lái xe cùng bạn cô Rafi trên đường trở về từ moshav nơi anh lớn lên, bên ngoài Tel Aviv. Tên của moshav ấy là Tự do, nghe tiếng Hebrew thì hay hơn, ít gây chú ý hơn, nhưng dù thế nào đó cũng là nơi anh sinh ra và lớn lên. Khi họ đi qua con đường bụi mù uốn lượn giữa những cánh đồng cam, lũ trẻ hét toáng ở ghế sau, anh kể rằng khi cuối cùng anh bắt đầu đi trị liệu ở tuổi bốn hai, anh đã hỏi, gần như nói một mình, theo cái cách người ta thường hỏi những câu không thể có lời đáp khi ở trước mặt những người như thế, “Tôi muốn gì? Thực ra tôi thật sự muốn gì?” Và nhà trị liệu đã đáp: “Điều anh luôn muốn mà thôi: Tự do.”

Hôm ấy là thứ Bảy, họ rời Tel Aviv từ sáng sớm. Rafi nhắn cho cô lúc cô vừa thức dậy, hỏi cô định làm gì với lũ trẻ, và đề xuất tất cả đi đâu đó cùng nhau. Đi đâu? cô nhắn lại. Về cánh đồng tuổi thơ của tôi, anh trả lời. Lũ trẻ, tất cả đều là con trai, đủ hòa hợp để thường tự đi đá bóng hoặc leo trèo đâu đó, để lại cô và Rafi ngồi nói chuyện. Rafi là một vũ công, đã nhảy từ năm ba tuổi, trong phòng tập của mẹ. Với anh, mọi thứ luôn bắt đầu và kết thúc ở thân thể, còn cô thì (ít nhất như cô thấy) đã sống bao nhiêu năm chỉ trong đầu, và chỉ thật sự cảm nhận thân thể mình sau khi sinh đứa con đầu, rồi đứa thứ hai, sau khi hoàn tất mệnh lệnh sinh học - chỉ lúc ấy cô mới thật sự ở trong cơ thể mình, bắt đầu học nhảy ở tuổi ba mươi lăm. Thỉnh thoảng họ nói về điều đó, thỉnh thoảng nói về những mối quan hệ, hay những điều họ vẫn còn muốn từ cuộc đời. Bọn trẻ chạy loạn quanh sân - chính nơi Rafi mất trinh. Anh kể đã làm tình khắp quanh đó - trong tòa nhà từng bỏ hoang, sau chòi gỗ, trên ngọn đồi khô đầy cỏ vàng đằng kia.

Sau đó họ ghé ngôi nhà thời thơ ấu của Rafi, lũ trẻ nhét đầy túi những quả vải đỏ hái từ cây, bị kiến cắn sưng chân; rồi họ lái xe đến ngôi làng Ả Rập bên cạnh ăn trưa, bị ông chủ quán hummus mắng vì cho chó uống nước bằng bát dùng cho khách. Cuối cùng ông mang ra một hộp nhựa đựng nước - con chó chẳng buồn uống.

Giờ họ đang trên cao tốc quay về. Cô nói với Rafi rằng suốt cả tuần, mọi người cứ kể cho cô những chuyện kỳ lạ nhất. Cô chẳng hề chủ động hỏi xin những chuyện riêng tư đến choáng váng ấy, nhưng có lẽ theo cách nào đó, cô đã ngầm xin - có lẽ trông cô giống một người đang cố tìm hiểu một điều gì đó, điều gì đó vừa bao la vừa mong manh, không thể tiếp cận trực tiếp mà chỉ có thể đi vòng, qua những mẩu chuyện nhỏ.

Biển xanh ngọc trôi lững lờ ngoài cửa kính ghế phụ. Lũ trẻ vừa cười vừa cãi nhau.

“Tôi kể cô nghe chuyện con gà dưới gầm xe ở Liban chưa nhỉ?” Rafi hỏi. Chưa, anh chưa kể, cô đáp; nếu rồi thì chắc chắn cô sẽ nhớ.

Rafi là vũ công, nhưng từ năm mười tám đến hai mươi ba tuổi, anh từng ở trong Sayeret Golani, một đơn vị đặc nhiệm tinh nhuệ nổi tiếng vì những thử thách thể chất khắc nghiệt dành cho binh sĩ. Làm đàn ông, ở đất nước anh, là trở thành lính - đó là con đường ai cũng phải qua, dù muốn hay không, để trở thành đàn ông, dù không ai có thể nói chính xác điểm nào trên con đường ấy đánh dấu khoảnh khắc anh không còn là một cậu bé. Lần đầu bóp cò ngắm vào mục tiêu di động? Lần đầu nhìn kẻ thù như một con thú? Hay lần đầu đối xử với hắn như một con thú?

Như mọi chàng trai mười tám tuổi khác, Rafi không có lựa chọn nào ngoài nhập ngũ. Nhưng anh đâu bị buộc phải vượt qua kỳ tuyển chọn khắc nghiệt để được vào đặc nhiệm, hay phải chịu đựng một năm huấn luyện khổ hạnh đến tàn nhẫn sau đó. Cũng chẳng ai bắt anh, sau khi đã hoàn thành ba năm nghĩa vụ bắt buộc, phải ký thêm hai năm nữa để trở thành sĩ quan. Thế nhưng, ngay từ đầu, Rafi đã giao ước với mình rằng anh sẽ phục vụ trong lực lượng đặc nhiệm - trong một đơn vị sẽ đẩy anh đến giới hạn cuối cùng của sức chịu đựng thể xác lẫn tinh thần. Rằng anh sẽ trở thành một con thú, một con thú thuần, vận hành chỉ bằng bản năng, giống như con hổ bay, biểu tượng của Sayeret Golani, mà các lính đặc nhiệm nhận được trong lễ tuyên thệ dưới dạng một ghim kim loại nhỏ.

“Sẽ có một cánh đồng đầy gai,” Rafi kể, “và phải bò qua nó. Muốn làm được thế, tâm trí phải tuyệt đối từ chối cảm nhận nỗi đau. Chỉ được phép nghĩ đến việc sang tới bên kia, nỗi đau không liên quan nữa.” Hoặc như Tuần Đói - suốt bảy ngày, tân binh bị cấm ăn và ngủ. Mỗi tối, các sĩ quan nhóm lửa nướng thịt ngay bên cạnh những người lính đói khát. Họ nướng bít tết, bày cả bàn tiệc rồi nói: “Nào, lại đây ăn cùng chúng tôi.” Và nếu có ai chịu thua cơn đói mà ăn thì thế là xong, anh ta coi như gục ngã, và ngay ngày hôm đó bị trả về đơn vị bộ binh thường. Có lần các sĩ quan phát cho mỗi người một viên sô-cô-la. “Chút quà thôi,” họ nói, “tất cả cùng ăn nhé.” Và khi đếm đến ba, những người lính cắn ngập răng chỉ để phát hiện đó là những viên phân dê.

Tất nhiên, Rafi nói, anh từng sẵn sàng chết vì đất nước. Niềm tin rằng mình có thể chết vì Tổ quốc là điều kiện tối thiểu để được vào vòng tuyển chọn. Nhưng trên con đường đó, có biết bao chàng trai - hay đàn ông - nhận ra rằng họ quá sợ chết, quá sợ đau, rằng họ không thể hòa tan nỗi sợ ấy để nó thấm ra ngoài qua lỗ chân lông như một thứ mùi. Và ngay khi điều đó bị phát hiện, họ lập tức bị loại. Chỉ sau này, sau khi Rafi rời quân ngũ và biết yêu, anh mới nhận ra sự lố bịch và quái gở của việc chết vì Tổ quốc, của việc không chỉ sẵn sàng chết mà còn sẵn sàng giết.

Ở ghế sau, lũ trẻ bỗng im lặng: đứa lớn nhất, đứa duy nhất có điện thoại, đã rút nó ra, và bọn còn lại đang chúi sát vào xem.

2.

Chuyện xảy ra khi anh còn là sĩ quan, trong những năm Israel chiếm đóng miền nam Liban. Đơn vị của anh nhận nhiệm vụ ám sát thủ lĩnh Hezbollah ở vùng đó. Tình báo biết rằng mỗi ngày đúng 6:30 sáng, thủ lĩnh Hezbollah sẽ rời nhà, lên xe, và chỉ thị của họ là gài bom vào động cơ. Có mười lăm người trong đơn vị của Rafi; họ được trực thăng đưa qua biên giới và thả xuống một hang trú ẩn trên núi. Mười giờ tối, họ bắt đầu bò xuống núi, xuyên qua các cánh đồng. Suốt bốn giờ, họ lê lết trên bụng cho đến khi tới được làng. Ở đó có một đoàn xe Liên Hợp Quốc, và những người gìn giữ hòa bình LHQ đang ngồi nói cười, uống rượu, vì hội người LHQ lúc nào cũng phấn khởi, Rafi nói, với họ tất cả chỉ là một bữa tiệc dài. Đơn vị trườn qua lều của LHQ và bao vây căn nhà của thủ lĩnh Hezbollah. Là sĩ quan, Rafi được bố trí gần cửa trước, và chính lúc nằm úp trên bụng, súng ngắm vào cửa - khi chuyên gia xử lý chất nổ chui xuống gầm xe - anh nhìn thấy những đôi dép trẻ con. Ba hay bốn đôi xếp ngay lối vào, những đôi dép cao su nhỏ giống y những gì anh và các anh em từng mang trên moshav, khi họ có mang giày dép. Không ai nói gì về trẻ con. Nhưng tại sao phải nói chứ? Trẻ con không có giá trị trong tính toán của các chiến dịch quân sự hay chiến tranh. Và trong gần năm năm phục vụ, chưa ai từng nói với anh điều gì ngoài những gì anh cần biết, mà anh cũng không hỏi. Về dân thường, câu hỏi duy nhất luôn là: nếu đụng phải một người dân trong lúc làm nhiệm vụ thì phải làm gì? Chỉ có ba lựa chọn: bắt cóc, giết, hay thả đi - không có câu trả lời nào là đúng hay tốt cả. Nhưng việc Rafi không biết về những đứa trẻ và giờ đang nằm cách mấy đôi dép của chúng có mười mét vẫn làm anh bối rối. Chính lúc đó có ai đó vỗ vai anh và khi nhấc mắt khỏi điểm ngắm, anh thấy khuôn mặt chuyên gia xử lý chất nổ, sơn ngụy trang xanh đậm giống hệt mặt anh. Chuyên gia giơ ngón cái lên báo hiệu: bom đã gài, sẽ nổ ngay khi thủ lĩnh Hezbollah đạp ga. Rafi ra hiệu cho đồng đội rút lui, và lại thêm bốn giờ bò về hang trú ẩn trên núi, ở đó họ ngã vật vì kiệt sức.

Gần đến giờ thủ lĩnh Hezbollah thường rời nhà mỗi sáng, họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Một máy bay không người lái lượn phía trên và truyền về hình ảnh mịn, mờ của những gì diễn ra dưới đất. 6:20, cả đơn vị quây quanh màn hình chờ đợi. Trên màn hình là ngôi nhà họ đã rời bốn tiếng trước, tối om và tĩnh lặng. 6:28, rồi 6:30, rồi 6:35 - vẫn im lìm; 6:45, 7:00, 7:15, vẫn chỉ sự im lặng ám ảnh. “Cái quái gì thế?” người ta thốt lên hơn một lần, có thể là nhiều lần. Tình báo khẳng định rằng ngày nào cũng thế, đúng 6:30 sáng, thủ lĩnh Hezbollah sẽ bước ra khỏi nhà và lên xe, thế thì chuyện gì đây? Qua 7:30, vẫn không có gì xảy ra. Rafi gọi radio cho tổng hành dinh Bộ Tư lệnh Phía Bắc. “Boxer gọi Kodkod North, hết. Chuyện gì đang xảy ra?  Kodkod North gọi Boxer” vì “Boxer” luôn là biệt danh radio cho vị trí của Rafi, sĩ quan đơn vị chống khủng bố - “Kodkod North gọi Boxer, chờ lệnh, hết.” Rồi ngay sau 8:00, cửa mở, và cả gia đình bước ra.

Rafi - đang giữ màn hình - thấy người lạnh toát. Trong ảnh mờ, người cha, người mẹ và ba đứa trẻ tiến ra xe, mở cửa, rồi chui vào trong. Quả bom đã được gài sao cho việc vặn chìa vào ổ và khởi động động cơ sẽ kích hoạt nó, nhưng vụ nổ chỉ xảy ra ở mili mét chuyển động đầu tiên của bàn đạp ga. Ở mili mét chuyển động đầu tiên đó, cái xe và tất cả hành khách sẽ nổ tan tành. Cửa xe đóng lại, rồi một khoảnh khắc tĩnh lặng trước khi chìa khoá được xoay và động cơ nổ. “Có đánh lửa,” tiếng xác nhận vang qua radio.

“Mấy giây tiếp theo, tôi vẫn nhớ, là mấy giây dài nhất trong đời tôi,” Rafi nói. “Tôi ngồi nhìn, chờ đợi, trong một sự kinh hoàng tuyệt đối. Một giây, hai giây, năm giây. Rồi sau mười giây, cửa lái mở, và thủ lĩnh Hezbollah bước ra, cúi xuống nhìn gầm xe, rồi kéo ra một con gà.”

Chắc đó là con gà nuôi trong nhà, rất được yêu, đủ để ai đó trên xe hỏi nó đâu trước khi cả nhà đi. Nó đâu rồi - dù tên nó là gì - kìa, nó không ở cùng những con khác!” Hoặc, Con vừa thấy nó chạy xuống gầm xe, nó ghét thấy chúng ta đi, lần nào nó cũng làm thế. Hoặc bất cứ điều gì một trong những đứa trẻ đã thốt ra khi nhảy lên ghế sau ngay trước khoảnh khắc người cha tác lên bàn đạp ga - khoảnh khắc lẽ ra đã thổi bay họ.

“Con gà chạy ra,” Rafi nói, “rồi gã đó cúi xuống nhìn lần nữa, ngẩng dậy, và ra lệnh cho mọi người xuống xe. Tất cả cửa bật mở, lũ trẻ lao ra cùng với người vợ, và cả gia đình quay lại trong nhà. Xung quanh tôi, nhiều binh sĩ giận điên - bao nhiêu công sức đổ xuống sông, nhiệm vụ thất bại, cấp trên loạn cả lên.”

Còn anh thì sao? cô hỏi. Anh cảm thấy thế nào?

“Vấn đề là,” anh nói, “tôi không nhớ nổi. Và càng về sau, tôi càng thấy mình cần biết điều có lẽ sẽ không bao giờ biết được: rằng lúc ấy tôi có cảm thấy nhẹ nhõm không, rằng tôi có hiểu con gà đó cũng vừa cứu tôi hay không, hay tôi đã không còn dù chỉ là một con thú nữa, tôi đã trở thành một cỗ máy.”

3.

Đã xế chiều, và họ đang lái xe xa khỏi Tự do - cả Rafi lẫn cô đều biết thế. Trước khi kết hôn, cô đã có nhiều người yêu nối tiếp, rồi sau một thập kỷ hôn nhân, cô ly dị; sau đó, cô ở bên một người đàn ông trẻ hơn một thời gian dài - cho đến giờ, lần đầu tiên trong hai mươi năm, cô hoàn toàn không gắn bó với bất kỳ ai. Sự thiếu vắng đó ban đầu gây trong cô một nỗi kinh hoàng sâu đến mức cô không thể lần ra nguồn gốc. Đầu giai đoạn ác mộng ấy, cô đã gặp ăn trưa với một người bạn, người nói với cô rằng: “Không có người đàn bà nào, dù được yêu đến đâu, lại không sợ bị bỏ rơi.” Suốt một thời gian dài, cô cố gắng hiểu xem thế nghĩa là gì. Có phải chỉ vì người bạn ấy lớn tuổi hơn nhiều và được khuôn thành trong một thời mà phụ nữ hầu như không có lối đi nào dẫn đến tự lập hay tự chủ nên mới tin như vậy? Còn với cô, nghĩ cho kỹ thì dường như chẳng còn mấy thứ một người đàn ông có thể cho cô mà cô thật sự cần - ngoài tình dục, vốn chẳng khó kiếm. Sau sáu tháng hoảng loạn, mất ngủ triền miên và trầm cảm, nỗi sợ cô độc - nỗi sợ sống mà không có sự trợ sinh mang tên đàn ông - cuối cùng cũng lui dần, nhường chỗ cho một niềm hân hoan lặng lẽ.

Về phần Rafi, một năm trước, anh và vợ đã quyết định để mở quan hệ hôn nhân hai mươi ba năm của họ. Họ có một cuộc hôn nhân tốt đẹp, đầy yêu thương, lửa vẫn còn, nhưng họ vẫn cùng nhau đi đến quyết định ấy - khao khát được trưởng thành, được khám phá những điều mới mẻ. Ban đầu, Rafi không chắc mình có bao giờ muốn một phụ nữ khác hay không. Anh nghĩ mình có thể giống cha - người mà suốt đời, mẹ anh vẫn là trung tâm cuộc sống, đối tượng của mọi sự tận tụy. Nhưng rồi, trong một chương trình nghệ sĩ lưu trú ở nước ngoài, Rafi ngủ với một vũ công trẻ Hàn Quốc mà anh tưởng mình đã thực sự yêu, cho đến khi anh gặp một cô gái khác, người Thái, khiến anh choáng váng. Khi anh trở về nhà, cô gái Thái chia tay anh qua tin nhắn từ Bangkok; sau vài tuần đau khổ, lại đến một cô gái Pháp trẻ măng, rồi hai hay ba người Israel nữa. Trong khi đó, vợ anh - Dana - đưa các con ra biển, và khi bọn trẻ chơi với con chó giữa những cơn sóng, cô gặp và yêu một người đàn ông trẻ hơn mình mười lăm tuổi.

Rafi và Dana không đặt ra quy tắc nào trước khi bắt đầu. Đặt ra quy tắc cho tự do nghe thật mâu thuẫn; hoặc giả, họ quá nôn nóng để tổ chức một hội nghị ngoại giao buồn tẻ nhằm thiết lập những quy tắc đó. Nhưng rất nhanh, họ nhận ra rằng việc không có quy tắc dẫn đến đau đớn khôn lường - tình yêu có thể được chia sẻ, nhưng đau đớn thì chỉ diễn ra trong cô độc tuyệt đối.

Trong giai đoạn hỗn loạn tiếp theo, cả Rafi lẫn Dana đều thường xuyên gọi cho cô để tâm sự. Cô nghe chuyện từ cả hai phía - hay đúng hơn, hai phiên bản của câu chuyện, và qua thời gian, chúng càng ít giống nhau hơn. Cô phải cẩn trọng: không kể lại với Rafi những gì Dana thổ lộ, cũng không nói với Dana những tâm sự của Rafi, chuyện càng lúc càng khó khăn và mệt mỏi khi lời kể của họ bắt đầu mâu thuẫn, và nỗi đau cùng cơn giận từ cả hai phía ứ lên.

Dana ở với người tình trẻ được năm tháng. Những ngày và đêm cô trở về căn hộ sau khi làm tình với anh ta, những giờ miệt mài chờ tin nhắn trở nên gần như không thể chịu đựng nổi với Rafi. Anh ngồi trên ban công hút cần, quanh anh là những chậu cây khô không trụ nổi cái nắng gay gắt của Israel; thỉnh thoảng anh lắng nghe tiếng biển, thỉnh thoảng lại nhận ra mình đang lẩm bẩm một mình. Cậu trai trẻ ấy có thể cho Dana điều gì mà anh không có? Anh, người cả đời là vũ công, tin rằng mọi thứ đều bắt đầu và kết thúc nơi thân thể. Nhưng Dana là diễn viên kiêm nhà viết kịch, và cô chuyển động lưu loát trong ngôn ngữ cũng như trong không gian - anh thì không phải lúc nào cũng chạm được cô ở đó, cõi của các từ. Cậu bạn trai thì có ư? Rafi đã trải đủ khoái cảm từ những thân thể mới để hiểu cơn hứng ấy, anh không cần tưởng tượng. Và dĩ nhiên, anh vẫn không thể ngăn mình tưởng tượng. Anh tự làm mình phát điên bằng tưởng tượng, cho đến khi đau không chịu nổi nữa, anh sụp đổ và cầu xin Dana chấm dứt mối quan hệ với người tình. Nhưng chỉ hai ngày sau, anh lại đổi ý, nhận ra rằng nếu cô kết thúc chỉ vì anh yêu cầu, thì có lẽ toàn bộ thí nghiệm cũng xong luôn, mà anh thì đã không còn là con người trước khi nó bắt đầu nữa. Anh không còn tự hỏi liệu mình có phải là kiểu đàn ông có thể dành trọn đời cho một người phụ nữ hay không. Anh đang khám phá chính mình; cảm nhận của anh về mình đang mở rộng, và anh không muốn đánh mất tự do mới ấy, cho dù thật đau đớn khi phải sống cạnh vợ mình trong khi cô đang tận hưởng phần tự do của cô.

Nhưng đã quá muộn. Trong lúc đó, Dana - người đã cuộn nỗi đau của Rafi vào lòng và không muốn phá hủy cuộc hôn nhân hay gia đình của họ - đã nói với người tình rằng họ phải chấm dứt. Và cậu trai đồng ý: mọi chuyện cũng quá sức chịu đựng đối với anh ta. Anh ta muốn có con, và dù yêu Dana, vẫn mong tìm được một người phụ nữ có thể cùng mình xây dựng cuộc sống, một người cùng lứa, không phải đã có chồng. Dana tan nát, và còn đau đớn hơn khi chẳng bao lâu biết được rằng anh ta đã bắt đầu hẹn hò với một giáo viên yoga. Cô theo dõi hoạt động của anh ta trên WhatsApp kỹ đến mức có thể đoán khi nào anh ta làm điều gì đó lệch khỏi thói quen hằng ngày. Nếu nhắn tin, cô sẽ chờ xem bao lâu thì hai dấu kiểm xanh hiện lên; nếu vẫn xám, cô khổ sở; nếu chuyển xanh - dù anh ta không trả lời - cô biết rằng anh ta vẫn còn nghĩ đến mình. Dana nhớ mọi thứ, nhưng trên hết, cô ám ảnh những cuộc sex với anh ta.

Suốt quãng ấy, Dana kể về kích thước của người tình nhiều đến mức, sau nhiều tuần, nhiều tháng, cô cuối cùng phải bảo với Dana rằng cô không thể nghe thêm nữa. Cô hiểu rằng cái đó đã trở thành một thay thế - một biểu tượng cho những điều mà Dana khao khát hoặc thiếu thốn, nhưng cô vẫn thấy khó đồng cảm với nỗi ám ấy, bởi theo kinh nghiệm của cô, một dương vật quá lớn không phải lúc nào cũng là loại dễ chịu nhất để đưa vào mình, nhất là khi ở nhà đã có một cái vừa vặn tuyệt hảo, đã mang lại bao nhiêu sung sướng suốt hai mươi ba năm, thuộc về người đàn ông mà cô đã trải qua nhiều điều và vẫn còn yêu. Dana đáp rằng những gì cô từng nghĩ là hạnh phúc, giờ nhìn lại dưới ánh sáng của kinh nghiệm mới, hóa ra chẳng hề là hạnh phúc mà chỉ là thứ cô tự nhủ là hạnh phúc - vì chưa từng biết điều gì tốt hơn. Nhưng chúng ta hiếm khi biết điều tốt hơn, cô nhắc Dana, chúng ta chỉ biết điều gì khác, bởi ký ức luôn tự điều chỉnh để khiến câu chuyện có đầu có cuối. Cái đó thì Dana đồng ý, nhưng cũng chẳng ích gì.

Chính vào khoảng thời gian lệnh cấm nhắc đến cái ấy được ban, vào một trong vô số trận cãi vã tồi tệ giữa Rafi và Dana, Dana đã buột miệng nhắc đến nó. Lời đã thốt ra không thể rút lại. Sau đó, Dana kể, cuộc chiến trở nên dữ dội, và lần đầu tiên trong mối quan hệ dài ấy, ảo tưởng về bình đẳng bắt đầu sụp đổ. Tiền bạc - mà Rafi kiếm được còn Dana thì không - từ chỗ chỉ là điều kiện để họ chung sống, trở thành nguồn quyền lực. Giờ Rafi không bỏ lỡ cơ hội nào để nhắc cô rằng cô phụ thuộc vào anh, rằng anh là người đi làm cả ngày còn cô chỉ ở nhà cố viết kịch. Dần dần Dana cảm thấy thí nghiệm mở rộng hôn nhân của họ chỉ mang lại đau đớn và rối loạn, rằng mọi trưởng thành mà họ đạt được chỉ sinh ra khổ sở.

Trong những cuộc chuyện với cô suốt thời gian đó, Rafi chưa bao giờ nhắc đến cơ thể, bạo lực, hay tiền bạc. Điều anh nói là: trong quan hệ với Dana, anh đã luôn là người cho đi nhiều hơn - cho đi sẵn sàng, dễ dàng hơn - và giờ anh đã mệt. Anh muốn một sự trao đổi công bằng. Thế nhưng, trong khi nói về bình đẳng trong cho và nhận, anh chưa bao giờ thôi nói về tự do, dù bình đẳng là chuyện về cách ta được đối xử và nhìn nhận bên trong một hệ thống quan hệ - nơi luôn có thỏa hiệp và giới hạn, còn tự do lại là chuyện phá vỡ hoặc vượt lên trên hệ thống ấy - thoát tới cõi không-người, nơi người ta đứng hoàn toàn trần trụi, chẳng có gì đã hứa, cũng chẳng được hứa điều gì, nhưng trước mắt là một dõi nhìn sáng rỡ, trong veo, kéo mãi tới chân trời.

Anh Hoa dịch

 

[1] Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến; ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công