favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Thu 2025
Next

Borges và Thú Trung Hoa

19/10/2025 23:52

Với Borges, khác với Nhật Bản, Trung Hoa hiện lên không phải như một thực thể địa lý thông thường, mà là một "Đế quốc Trung tâm" – huyền bí và vĩnh cửu trong trí tưởng tượng của ông. Hình ảnh này được kiến tạo chủ yếu thông qua tác phẩm nền tảng Lịch Sử Văn Học Trung Hoa Herbert Giles, một trong những bộ sách đầu tiên bằng tiếng Anh có hệ thống giới thiệu toàn diện mạch chảy ba nghìn năm văn chương Trung Hoa. Qua lăng kính của Giles, Borges đã nhìn thấy một đất nước gắn liền với sự đồ sộ của lịch sử, quy mô vũ trụ của tư tưởng, và một "tính chất bất khả chiến bại" đến từ sức sống bền bỉ của văn hóa. Trung Hoa trong thế giới Borges, vì thế, là một Trung Hoa tiền hiện đại, một không gian tinh thần thuần khiết tồn tại trước những cuộc đụng độ và can thiệp quy mô lớn từ phương Tây. Đó là vương quốc nơi những huyền thoại, triết lý thâm sâu trong Kinh Dịch, hay cả thế giới ảo mộng ngồn ngộn của Hồng Lâu Mộng vẫn còn nguyên vẹn sức mạnh kỳ diệu (cũng chính vì nhấn mạnh vào tính “kỳ diệu” mà Borges đã bị các học giả của Tào Tuyết Cần phê phán là chưa đọc đúng) chưa bị xâm lấn bởi nhãn quan duy lý của thời hiện đại. Chính sự xa cách về không gian và thời gian này đã biến Trung Hoa thành một kho tàng chất liệu vô tận, một cỗ máy sản sinh sự kỳ ảo hoàn hảo, cho phép Borges thỏa sức diễn xướng những chủ đề yêu thích của ông: sự vô hạn, mê cung, những bản sao của thực tại và sự kỳ quái nảy sinh từ chính trật tự phức tạp.

Xuất phát từ sự mê hoặc đó, phần dưới đây sẽ tổng hợp và phân tích những ghi chép của Borges về một số sinh vật tưởng tượng nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa xuất hiện trong Sách Những Sinh Vật Tưởng Tượng (The Book of Imaginary Beings).

 

1. RỒNG TRUNG HOA

Sáng thế Trung Quốc dạy rằng Càn Khôn hay Các Nguyên mẫu (thế giới) được sinh ra từ sự phối hợp nhịp nhàng của hai nguyên lý vĩnh cửu bổ sung cho nhau: âmdương. Âm ứng với sự tích tụ, bóng tối, thụ động, số chẵn và tiết lạnh. Dương ứng với sự sinh sôi, ánh sáng, hoạt động, số lẻ và hơi ấm. Biểu tượng của âm là phụ nữ, đất, màu da cam, thung lũng, lòng sông và con hổ. Biểu tượng của dương là đàn ông, bầu trời, màu xanh lam, núi non, cột trụ và con rồng.

Rồng Trung Quốc, hay long, là một trong bốn linh thú (ba loài kia là kỳ lân, phượng hoàng và rùa). Ở mức độ cao nhất, rồng Phương Tây gieo rắc kinh hoàng; ở mức độ thấp nhất, nó là hình tượng gây cười. Tuy nhiên, long trong trong thần thoại Trung Quốc luôn là một sinh vật thiêng thánh, vừa được suy tồn như tiên thần, vừa có tướng phách của sư tử. Ta đọc trong Sử ký của Tư Mã Thiên thấy chuyện Khổng Tử đã đến tham vấn Lão Tử, một người quan giữ sách trong thư viện triều đình, sau chuyến ấy thì rằng:

“Chim bay, cá lặn, thú chạy. Loài chạy có thể bắt bằng bẫy, loài lặn có thể bắt bằng lưới và loài bay có thể bắt bằng tên. Nhưng còn có rồng; ta không biết nó cưỡi gió thế nào hay lên tới trời cao ra sao. Hôm nay ta gặp Lão Tử cũng có thể nói rằng đã thấy rồng vậy.”

Chính một con rồng, hay đúng hơn con long mã, đã ngoi lên từ sông Hoàng Hà để tiết lộ cho một vị hoàng đế nọ cái đồ hình nổi tiếng tượng trưng cho sự tương tác lẫn nhau của dươngâm đó. Một vị vua nọ đã nuôi trong chuồng ngựa của mình những con rồng để cưỡi và những con rồng để kéo xe; một hoàng đế khác lại ăn thịt Rồng, và vương quốc của ngài thì thái bình thịnh vượng. Một thi sỹ nổi tiếng, để ẩn ý cho những rủi ro của sự vĩ đại, đã viết: “Rồng, phượng thì bị nấu thành món ăn trong mâm cỗ; Kỳ lân, ngựa quý thị bị buộc vào ách xe.”

Trong Kinh Dịch, rồng tượng trưng cho trí tuệ. Qua nhiều thế kỷ, nó là biểu tượng của bậc đế vương. Ngài vàng của hoàng đế được gọi là long ngai, khuôn mặt ngài là long nhan. Khi bố cáo hoàng đế băng hà, người ta thường sử dụng ẩn dụ rằng ngài đã cưỡi rồng thăng thiên.

Trí tưởng tượng dân gian thì liên kết rồng với mây, với lượng mưa cần thiết cho nông tang và với những con sông lớn. Long địa tương tế là một cách nói dân dã chỉ mưa. Vào khoảng thế kỷ thứ sáu, Trương Tăng Diêu vẽ một bức bích hoạ tứ long. Người xem phàn nàn ông đã quên điểm mắt cho chúng. Bực mình, họ Trương lại cầm bút lên và hoàn thành đôi mắt cho hai trong số những hình vẽ uốn khúc đó. Rồi thì ‘tứ bề không gian đầy sấm và chớp, hai con cự long xé tường mà thăng thiên. Nhưng hai con chưa điểm mắt vẫn ở lại tại chỗ.

Rồng Trung Quốc có sừng, móng vuốt và vảy, cùng một hàng gai nhọn chạy dọc sống lưng. Nó thường được mô tả cùng với một viên ngọc trong tư thế nuốt vào hoặc nhả ra. Sức mạnh của rồng nằm ở viên ngọc này; con rồng sẽ bị thuần phục nếu đoạt được viên ngọc khỏi nó.

Trang Tử kể chuyện một người đàn ông kiên quyết, sau ba năm khổ luyện trong vô vọng đã nắm vững kỹ nghệ giết rồng, nhưng suốt quãng đời còn lại chớ hề có cơ hội nào để đem món nghề ấy ra thực hành.

2. KỲ LÂN TRUNG HOA

Kỳ lân là một trong tứ linh thú cát tường; ba loài còn lại là rồng, phượng hoàng và rùa. Kỳ lân đứng đầu trong số ba trăm sau mươi loài thú sống trên đất liền. Nó có thân hươu, đuôi bò và móng ngựa. Nó có sừng thịt ngắn, mọc ra từ trán; bộ lông trên lưng nó là ngũ sắc pha trộn, trong khi bụng nó có màu nâu hoặc vàng. Nó hiền lành tới mức khi bước đi, nó cẩn thận không giẫm lên sinh vật nhỏ bé nhất và thậm chí không ăn cỏ tươi mà chỉ ăn cỏ khô. Sự xuất hiện của nó báo trước sự ra đời của một bậc minh quân. Làm hại kỳ lân hoặc tình cờ gặp xác chết của nó là một điều xui xẻo. Vòng đời tự nhiên của sinh vật này là một thiên niên kỷ.

Khi mẹ của Khổng Tử mang thai ngài, các tinh linh của ngũ tinh đã mang đến cho bà một con vật “có hình dạng như trâu, vẩy như rồng và một sừng trên trán.” Đây là các Soothill đã tường thuật lại; một dị bản khác do Wilhelm kể lại rằng con vật đã tự xuất hiện và nhả ra một tấm bảng ngọc, trên đó khắc như thế này:

“Dòng dõi tinh hoa của núi (hay phần tú khí của sông), khi triều đại sụp đổ, ngươi sẽ trị vì như một vị vua không ngai.”

Bảy mươi năm sau, một số thợ săn đã giết chết một con kỳ lân mà trên sừng vẫn còn vướng một mảnh băng mà mẹ Khổng Tử đã buộc vàod dó. Khổng Tử đến xem còn kỳ lân và nước mắt lã chã, vì ngài cảm nhận được cái chết của sinh vật huyền bí và vô tội này báo trước điều gì, và bởi vì trong dải băng ấy chính là quá khứ của ngài.

Vào thế kỷ thứ mười ba, một đạo quân trinh sát của Thành Cát Tư Hãn, người đã tiến hành cuộc xâm lược Ấn Độ, đã gặp một sinh vật trong sa mạc “giống hươu nhưng đầu ngựa, trán có sừng và mình có lông xanh,’ nó đã cất lời với họ mà rằng: “Đã đến lúc chủ nhân các ngươi trở về vùng đất của mình.” Một vị quan người Hán của Thành Cát Tư Hãn, sau khi tra vấn đủ đường, đã giải thích với nhàu rằng sinh vật đó là giác đoan (chio-tuan), một biến thể của kỳ lân. “Suốt bốn năm, đại quân đã gây chiến ở các vùng phía tây,” ông nói. “Thiên thượng, nơi ghê tởm sự đổ máu, đã gửi lời cảnh báo thông qua giác đoan. Vì lòng tôn kính Thiên thượng, hãy tha cho Đế chế; sự chừng mực sẽ mang lại niềm vui vô bờ.” Hoàng đế đã từ bỏ kế hoạch chiến tranh của mình.

Hai mưoi hai thế kỷ TCN, một trong những quan thẩm phán của vua Thuấn sở hữu một ‘con dê một sừng’ chỉ húc những kẻ có tội chứ không đời nào động đến kẻ bị hàm oan.

Anthologie raisonné de la littérature chinoise (1948) của Margoulies có thuật lại một câu chuyện ngụ ngôn bí ẩn và nhẹ nhàng, được cho là tác phẩm của một nhà văn văn xuôi sống ở thế kỷ thứ chín:

“Người ta thường cho rằng kỳ lân là một sinh vật siêu nhiên và mang điềm lành; các thi ca, sử biên niên, tiểu sử các bậc hiền nhân và các văn bản chính thống khác đều nói như vậy. Ngay cả những phụ nữ và trẻ em trong làng cũng biết rằng kỳ lân là một dấu hiệu may mắn. Nhưng loài vật này không có trong số các loài gia súc, không phải lúc nào cũng dễ bắt gặp và không phù hợp để phân loại động vật học. Nó cũng không giống ngựa hay bò, sói hay hươu. Vì lẽ đó, chúng ta có thể đã gặp một con kỳ lân mà không biết. Ta đều biết con nào có bờm là ngựa còn con nào có sừng là bò. Nhưng ta không biết kỳ lân trông như thế nào.”

3. TỔ MẪU CỦA LOÀI RÙA

Vào thế kỷ hai mươi TCN, vị hoàng đế Vũ đã đi khắp mọi miền đất nước mà dùng bước chân mình đo đạc Cửu Sơn, Cửu Giang và Cửu Trạch, rồi phân chia lãnh thổ thành Cửu Châu thích hợp cho đức hạnh và nông nghiệp. Bằng cách này, ngài đã chế ngự Đại Hồng Thuỷ đe doạ nhấn chìm Thiên Địa, và để lại cho hậu thế bản ghi chép về những Công trình Thuỷ lợi của mình (theo bản dịch của Legge):

“Trẫm đã cỡi tứ du (xe, thuyền, xe trượt và giày tra đinh) dọc theo các ngọn đồi mà đốn hạ cây rừng, đồng thời, cùng với Bá Ích, dạy cho bách tính cách kiếm thịt để mà ăn. Trẫm đã mở lối cho các dòng chảy xuyên suốt Cửu Châu và dẫn chúng đổ ra biển. Trẫm đã đào sâu các sông ngòi kênh rạch, và dẫn nước vào các dòng sông, đồng thời, cùng Hậu Tắc gieo trồng ngũ cốc và dạy cho muôn dân cách tự lực cánh sinh có thêm lương thực ngoài thịt.”

Các sử gia kể lại rằng, phương pháp ngài dùng để phân chia lãnh thổ là được một con rùa thần hiện ra từ đáy sông tiết lộ cho. Có người cho rằng sinh vật lưỡng cư này, tổ mẫu của các loài rùa, được tạo nên từ thuỷ và hoả; những người khác lại cho rằng nó được cấu thành từ một thứ ít phổ biến hơn: ánh sáng từ các vì sao trong chòm Thiên Xứng. Trên mai của con rùa, người ta có thể đọc được một luận thuyết về vũ trụ có tên là Hồng Phạm (Mẫu Mực của Càn Khôn), hoặc một đồ hình gốm các chấm đen trắng để thể hiện Cửu Trù (Chín Phạm trù) của luận thuyết đó.

Với người Trung Hoa, trời có hình bán cầu và đất có hình vuông, và vì thế, họ tìm thấy ở con rùa với mai trên khum và mai dưới phẳng hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Hơn nữa, loài rùa cũng chia sẻ sự trường thọ của vũ trụ; do đó, thật phù hợp khi chúng được xếp vào hàng các ngũ linh (cùng với kỳ lân, rồng, phượng hoàng và hổ) và các thầy bói có thể đọc tương lai qua các hoạ tiết trên mai của chúng.

Thần Quy là danh xưng của sinh vật đã khai lộ Hồng Phạm cho vị hoàng đế kia.

4. PHƯỢNG HOÀNG TRUNG HOA

Những kinh sách linh thiêng của Trung Hoa có lẽ sẽ khiến bạn đọc thất vọng bởi chúng thiếu vắng yếu tố bi thương mà chúng ta quen thuộc trong Kinh Thánh. Thế nhưng, đôi khi, bất chợt trong những lời luận bàn thật điềm đạm của chúng, ta lại bị xúc động bởi một sự thân tình nào đó. Chẳng hạn như lời này, được ghi chép trong thiên VII, sách Luận ngữ (bản dịch Waley):

Khổng Tử nói: “Mọi sự với ta đã suy tàn đến thế! Đã lâu rồi không nằm mộng Chu Công.”

Hoặc lời sau từ thiên IX:

Khổng Tử nói: “Phượng Hoàng không đến; sông chẳng hiện đồ thư. Đời ta thế thời thôi!”

Đồ thư, hay báo điềm (theo chú giải), ám chỉ một văn tự khắc trên mai một con thần quy. Còn phượng hoàng là một con chim màu sắc sặc sỡ, không khác lắm so với chim trĩ hay chim công. Vào thời tiền sử, nó viếng thăm những khu vườn và cung điện của các bậc minh quân như một dấu hiểu hữu hình về ân điển của thiên thượng. Con trống (gọi là phượng) thì có ba chân, sống dưới ánh sáng mặt trời. Con cái thì gọi là hoàng; chúng đi với nhau thành biểu tượng cho tình yêu vĩnh hằng.

Vào thế kỷ thứ nhất, một kẻ hoài nghi đầy bản lĩnh tên là Vương Sung đã khẳng định phượng hoàng không phải là một giống loài xác định. Ông ta cho rằng, cũng giống như rắn hoá thành cá, chuột hoá thành ràu, những con hươu phát triển đến độ mãn khai sẽ hoá kỳ lân, những con ngỗng sẽ hoá thành phượng hoàng. Ông giải thích những sự biến hoá này bằng thứ ‘chất lỏng lừng danh’ mà, vào khoảng năm 2356 TCN, trong sân của vua Nghiêu – một trong những vị minh quân – đã khiến cỏ mọc lên màu đỏ thẫm. Có thể thấy, thông tin của ông thật thiếu sót, đúng hơn là thừa thãi.

Ở chốn Âm ty, có một kiến trúc hư cấu được biết đến với tên gọi Lầu Phượng Hoàng.

5. HỒ LY TRUNG HOA

Trong động vật học thông thường, hồ ly Trung Hoa không khác biệt mấy so với các loài cáo ở các vùng địa lý khác, nhưng trong thế giới sinh vật huyền bí thì không như thế. Các ghi chép cho rằng chúng có tuổi thọ từ tám trăm cho đến một ngàn năm. Loài vật này được xem là ác điềm, và mỗi phần trên cơ thể chúng đều sở hữu quyền năng đặc biệt. Nó chỉ cần quật đuôi xuống đất là có thể gây hoả hoạn; mắt nó nhìn thấu được tương lai; và nó có thể hoá thành nhiều hình dạng, thường là các lão bà bà, thiếu nữ và nhà nho. Nó xảo quyệt, cảnh giác và đa nghi; thú vui của nó là trêu chọc và gây ra đau khổ cho người khác. Con người khi chết có thể đầu thai dưới thân xác của một con cáo. Chúng hay đào hang ổ ở bãi tha ma. Có hàng ngàn câu chuyện và truyền thuyết về nó; chúng tôi chép lại một câu chuyện của nhà thơ Nghiêu Tiều sống vào thế kỷ thứ chín, khá hài hước:

Vương thấy hai con hồ ly đứng bằng hai chân sau, dựa vào một gốc cây. Một con cầm trên tay một tờ giấy, và chúng cười bỡn với nhau như đang tán chuyện phiếm. Vương ra sức hù doạ nhưng chúng vẫn cứ đứng trơ ra đó, cuối cùng chàng xách tên mà bắn vào con cầm tờ giấy. Con hồ ly trúng tên ngay mắt và Vương giành lấy tờ giấy. Tại một khách điếm, Vương đem chuyện kể lại cho các vị khách nghe. Trong lúc chàng kể, có một văn nhân bịt một con mắt bước vào. Y chăm chú nghe câu chuyện của Vương và xin được xem tờ giấy. Vương toan đưa thì chủ quán nhận thấy vị khách mới tới lòi ra một cái đuôi. “Hắn là hồ ly!” ông ta hét lên, và ngay lập tức vị khách kia hiện nguyên hình hồ ly và cong đuôi bỏ chạy. Lũ hồ ly cố gắng hết lần này đến lần khác lấy lại tờ giấy, thứ viết đầy những ký tự không thể giải mã, nhưng lần nào cũng bất thành. Vương cuối cùng quyết định quay trở về nhà. Trên đường, chàng gặp cả gia đình mình đang trên đường đến kinh đô. Họ bảo chính chàng là người bảo họ làm thế, và mẹ chàng đưa cho chàng xem bức thư, trong đó chàng yêu cầu họ bán hết cơ đồ mà lên đô thành đoàn tụ với chàng. Vương, sau khi xem xét bức thư, thấy tờ giấy trống trơn. Mặc dù không còn nhà cửa, chàng vẫn quả quyết: “Ta hãy về quê.”

Một ngày nọ, người em trai mọi người đinh ninh đã chết từ lâu bỗng thình lình xuất hiện. Anh ta hỏi thăm về những chuyện bất trắc đã xảy ra với gia đình và Vương thuật lại hết sự tình. “À,” người em nói khi Vương kể đến chuyện với lũ hồ ly, “đó chính là nguồn cơn của mọi tai hoạ.” Vương đưa cho anh ta xem tờ giấy trong câu chuyện. Giật phăng tờ giấy khỏi tay Vương, người em nhét nó vào túi và nói, “Cuối cùng ta cũng lấy lại được thứ ta muốn.” Thế rồi anh ta hiện nguyên hình là một con hồ ly và tẩu thoát.

Bùi Gia Bin dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công