favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Thu 2025
Next

Borges quanh Flaubert

19/10/2025 23:55

Thế giới của Borges mở thông thống nhưng cùng lúc đấy lại là một trong những thế giới kín nhất: nó tự bảo vệ mình trước các xâm nhập bằng chính sự mở toang của nó.

Borges, ở quanh tuổi 30, viết về Flaubert; hai bài dưới đây vẽ ra một Flaubert riêng, như mọi khi nào Borges viết về bất kỳ ai: Flaubert của Borges.
 

Bảo vệ Bouvard và Pécuchet

Câu chuyện về Bouvard và Pécuchet đơn giản theo lối đánh lừa. Hai viên sao lục (trạc ngũ tuần, giống Alonso Quijano) bạn bè thân thiết với nhau: một khoản thừa kế cho phép họ bỏ việc và về sống ở nông thôn; tại đó, họ thử nghiệm nông học, làm vườn, sản xuất đồ hộp, giải phẫu học, khảo cổ học, lịch sử, kỹ thuật ghi nhớ, văn chương, thủy liệu pháp, tâm linh huyền bí, thể dục, sư phạm, nghệ thuật thú y, triết học và tôn giáo; cái nào trong số những bộ môn thiếu đồng chất ấy cũng khiến họ rơi vào một thất bại; sau hai mươi hay ba mươi năm, vỡ mộng (và chúng ta sẽ thấy rằng "hành động" không diễn ra trong thời gian mà trong vĩnh cửu), họ đặt thợ mộc đóng cho hai cái bàn puy pít cao và khởi sự sao lục, như xưa kia. [chú thích của Borges: Tôi nghĩ mình thấy ở đây một dẫn chiếu nhiều mỉa mai đến số phận của chính Flaubert.]

Flaubert dành sáu năm của cuộc đời mình, những năm cuối cùng, để lên dự đồ và thực hiện cuốn sách đó, rốt cuộc nó vẫn còn dở dang, mà Gosse, vốn dĩ rất mực ngưỡng mộ Madame Bovary, sẽ coi là một lầm lạc, còn Remy de Gourmont thì coi là tác phẩm chính yếu của văn chương Pháp, và gần như là của văn chương.

Émile Faguet ("Faguet xám xịt" như Gerchunoff có lần gọi) năm 1899 cho in một chuyên luận mà công lao là vét cho thật kiệt các lập luận chống lại Bouvard và Pécuchet, điều này làm cho sự xem xét phê phán tác phẩm trở nên rất tiện. Theo Faguet, Flaubert đã mơ tới một anh hùng ca về sự xuẩn ngốc con người và, việc rất thừa, trao cho nó (bị thúc đẩy bởi kỷ niệm về Pangloss và Candide và, có lẽ, về don Quichotte và Sancho) "hai" nhân vật chính vốn dĩ không hoàn chỉnh lẫn nhau, không đối lập với nhau, mà nhị nguyên chẳng là gì khác ngoài một trò xảo ngôn từ. Hai tên ngộ kia đã được tạo ra, hoặc bày ra rồi, thì Flaubert làm họ đọc cả một thư viện, "để họ không hiểu nó". Faguet tố cáo tính cách con nít của trò chơi này cùng những mối nguy của nó, bởi vì Flaubert, nhằm tưởng tượng ra các phản ứng nơi hai thằng ngu của ông, đã đọc năm nghìn một trăm khảo luận nông học, sư phạm, y học, vật lý, siêu hình học, v.v..., với dự định là không hiểu chúng. Và Faguet nêu nhận xét: "Nếu người ta cứ ương bướng mà đọc theo quan điểm của một người đọc nhưng không hiểu, thì rất sớm người ta sẽ sớm chẳng hiểu gì nữa và chính mình bị tù vẹt đi." Sự thể là năm năm cùng tồn tại đã biến Flaubert thành Pécuchet và Bouvard hoặc (vậy thì chính xác hơn) biến Pécuchet và Bouvard thành Flaubert. Ở điểm xuất phát hai người kia là hai tên ngốc, bị tác giả khinh bỉ và đối xử nặng tay, nhưng ở chương VIII xuất hiện cái câu lừng danh: "Thế là một năng lực đáng thương đã phát triển trong tinh thần của họ, năng lực nhìn thấy sự ngu xuẩn và không dung thứ nó nữa." Rồi: "Những thứ chẳng đáng gì làm họ buồn: các quảng cáo trên báo, khuôn mặt nhìn nghiêng của một người bourgeois, một dạng suy tư ngẫu nhiên nghe thấy." Flaubert, ở thời điểm ấy, hòa giải với Bouvard và Pécuchet - Chúa hòa giải với những tạo vật của mình. Có lẽ điều này xảy đến nơi mọi tác phẩm có quảng tính nào đó hoặc chỉ cần sống động mà thôi (Socrates trở thành Plato, Peer Gynt trở thành Ibsen), nhưng ở đây chúng ta bắt chợt được giây phút nơi người nằm mơ, nếu muốn diễn tả bằng một ẩn dụ thích ứng, nhận ra là mình đang mơ và các hình thức nơi giấc mơ của anh ta chính là anh ta.

Ấn bản đầu của Bouvard và Pécuchet có niên đại là tháng Ba năm 1881. Tháng Tư, Henry Céard [nhân vật trong cùng nhóm với Flaubert và anh em Goncourt] mạo hiểm đưa ra định nghĩa sau đây: "Một dạng Faust hai ngôi." Trong ấn bản La Pléiade, Dumesnil xác nhận: "Những từ đầu tiên trong độc thoại của Faust, ở đầu phần thứ nhất, là toàn bộ bản vẽ của Bouvard và Pécuchet." Những từ ấy, nhờ đó Faust than thở vì đã nghiên cứu trong vô vọng triết học, luật học, y học và, hỡi ôi! thần học. Mặt khác, Faguet đã viết: "Bouvard và Pécuchet là câu chuyện về một Faust nhưng là Faust ngu." Chúng ta hãy nhớ lấy cái câu thâm thúy này, theo một cách thức nhất định nó tóm tắt cuộc tranh cãi rối mù kia.

Flaubert tuyên bố rằng một trong những mục đích của ông là kiểm lại tất tật các ý hiện đại; những người chống ông thì đáp trả rằng việc giao phó sự kiểm lại đó cho hai thằng ngu là đã đủ, và đúng vậy, để làm cho nó bị vô hiệu. Suy ra, từ các cuộc phiêu lưu tệ hại của hai thằng hề kia, sự phù phiếm của các tôn giáo, các khoa học và các nghệ thuật, chẳng là gì khác ngoài một thứ quỷ biện hỗn xược hay một lường gạt thô thiển. Những thất bại của Pécuchet không hàm ý một thất bại của Newton.

Để vứt bỏ kết luật này, thông thường người ta từ chối các tiền đề của nó. Cho nên, Digeon và Dumesnil trích một đoạn của Maupassant, người tâm phúc và môn đệ của Flaubert, nơi người ta có thể đọc được rằng Bouvard và Pécuchet là "hai tinh thần khá sáng suốt, tầm thường và đơn giản". Dumesnil nhấn mạnh thuộc từ "sáng suốt", nhưng lời chứng của Maupassant - hoặc của chính Flaubert, nếu người ta có thể có nó - sẽ không bao giờ nhiều sức thuyết phục hơn so với chính văn bản của tác phẩm, nó dường áp đặt từ "mấy thằng ngu".

Tôi xin cả gan gợi ý rằng sự biện minh cho Bouvard và Pécuchet thuộc trật tự của cảm năng và liên quan với không ít hơn bốn dạng cùng mười chín thức của tam đoạn luận. Sự nghiêm ngặt logic là một điều, một điều khác hẳn là truyền thống đã gần như có tính cách bản năng, thứ đặt những lời lẽ nền tảng vào miệng đám người đầu óc đơn giản cùng lũ điên. Chúng ta hãy nhớ sự kính trọng mà Islam dùng để bọc lấy những người đần, bởi người ta hiểu là tâm hồn họ đã bị cướp lên trời; chúng ta hãy nhớ những đoạn trong Thánh Kinh nơi chúng ta đọc thấy Chúa đã chọn trong thế giới người có trí tuệ nghèo nàn để khiến các nhà thông thái phải xấu hổ. Hoặc, nếu thích các ví dụ cụ thể hơn, thì chúng ta hãy nghĩ đến Manalive của Chesterton, vốn dĩ đấy là một ngọn núi rõ rành của sự đơn giản cùng một vực sâu của sự thông thái thần thánh, hoặc đến Jean Scot người từng lập luận rằng cái tên hay nhất của Chúa là Nihilum (Không gì hết) và "chính Người cũng chẳng biết mình là gì vì Người đâu phải là một "mà"...". Hoàng đế Moctezuma bảo là bọn hề dạy được nhiều điều hơn các nhà thông thái, bởi họ dám nói sự thật; Flaubert (người, xét cho đến cùng, không tiến hành một sự chứng minh nghiêm ngặt, một Destructio philosophorum, mà một chế báng) đã hoàn toàn có thể cẩn trọng mà giao những nghi ngờ cuối cùng cùng những e sợ bí mật nhất của ông cho hai kẻ vô trách nhiệm.

Sẽ là phù hợp nếu thoáng thấy một biện minh sâu sắc hơn. Flaubert là một độc giả nồng nhiệt của Spencer; trong First Principles của bậc thầy, người ta đọc được rằng thế giới là không thể biết được, vì lý do rất hay và đủ là việc giải thích một sự vị là dẫn chiếu nó sang một sự vị khác chung hơn, rằng quá trình ấy không có kết cục [chú thích của Borges: Agrippa Người Hoài nghi từng lập luận rằng mọi chứng cứ đều, đến lượt mình, đòi một chứng cứ, và cứ như vậy mãi cho tới vô tận.] hoặc dẫn chúng ta đến một sự thật quá chung, tới nỗi lúc đó chúng ta không thể quy chiếu nó đến bất kỳ sự thật nào khác - tức là giải thích nó. Khoa học là một tầng cầu vô tận lớn lên trong không gian vô tận; mỗi mở rộng mới lại cho phép nó hiểu một vùng lớn hơn của cái không biết, nhưng cái không biết thì chẳng thể nào vét cạn. Flaubert viết: "Chúng ta còn gần như chưa biết gì và chúng ta những muốn đoán cái điều tối hậu kia, thứ sẽ chẳng bao giờ được hé lộ cho chúng ta. Cơn cuồng muốn đến được một kết luận là cái thói tai hại và thiếu sức sinh nở hơn cả." Nghệ thuật nhất thiết phải thao tác bằng phương tiện là các biểu tượng; tầng cầu lớn nhất là một chấm trong vô tận; hai tay chuyên sao lục phi lý có thể trình hiện Flaubert, và cũng cả Schopenhauer hay Newton nữa.

Taine nhắc lại với Flaubert rằng chủ đề cuốn tiểu thuyết của ông đòi hỏi một cây bút của thế kỷ 18, sự súc tích cùng sự "sắc lẻm" của một Jonathan Swift. Có lẽ ông nhắc tới Swift vì ông cảm thấy, trong một chừng mực nhất định, mối tương giao của hai nhà văn buồn vĩ đại. Cả hai đều căm ghét, với một sự dữ tợn đầy tỉ mỉ, nỗi ngu xuẩn con người; cả hai đều thu thập tài liệu cho lòng căm ghét ấy, suốt nhiều năm dài lập thành tuyển tập những câu tầm thường cùng các ý kiến ngẫn; cả hai đều muốn hạ gục các tham vọng của khoa học. Ở phần thứ ba của Gulliver, Swift miêu tả một viện hàn lâm rộng lớn và được trọng vọng, mà những thành viên đề xuất việc loài người không dùng ngôn ngữ nói để khỏi hại phổi. Những người khác thì làm cho đá cẩm thạch mềm nhằm làm ra gối và gối dựa; những người khác khát khao chuyện phổ biến một chủng cừu không len; những người khác nghĩ là mình giải được các bí hiểm của vũ trụ nhờ một bộ áo giáp bằng gỗ được trang bị các tay cầm sắt, nó kết hợp các từ theo lối ngẫu nhiên. Sáng chế này đi ngược lại Ars magna của Raymond Lull...

René Descharmes đã kiểm tra và kết án lịch biểu của Bouvard và Pécuchet. Hành động đòi hỏi cỡ bốn mươi năm; hai nhân vật chính thì sáu mươi tám tuổi khi họ lao vào môn thể dục, cũng đúng cái năm nơi Pécuchet khám phá tình yêu. Ở một cuốn sách phong phú các hoàn cảnh như thế, mà thời gian lại cứ bất động; bên ngoài những thử nghiệm và thất bại của hai Faust (hoặc của Faust hai đầu), không xảy ra chuyện gì hết; thiếu mất các thăng trầm chung cùng định mệnh và sự ngẫu nhĩ. "Mấy kẻ xuất hiện ở chỗ mở nút vẫn là những kẻ ở màn mở đầu; chẳng có ai đi xa, chẳng có ai chết", Claude Digeon nêu nhận xét. Tại một trang khác, ông kết luận: "Sự trung thực trí tuệ của Flaubert đã chơi ông một vố rất tệ: nó lôi kéo ông đến chỗ chất quá đầy lên câu chuyện triết học của mình và lưu giữ cây bút tiểu thuyết gia của ông để viết nó."

Những lơ là, khinh miệt hay tự do của Flaubert cuối cùng đã làm các nhà phê bình rối trí; về phần mình, tôi nghĩ mình trông thấy ở đây một biểu tượng. Người đã rèn ra tiểu thuyết thực tại luận với Madame Bovary lại cũng là người đầu tiên làm nó nổ tung. Chesterton, mới chỉ hôm qua thôi, từng nói: "Tiểu thuyết hoàn toàn có thể chết cùng chúng ta." Bản năng của Flaubert dự cảm được cái chết ấy, giờ đây nó tới - chẳng phải Ulysses, với những sơ đồ, thời gian biểu và các điểm cụ thể của nó, là cơn hấp hối tráng lệ của một thể loại hay sao? -; ở chương thứ năm tác phẩm của mình, ông kết án những cuốn tiểu thuyết "tĩnh hoặc có tính cách dân tộc học" của Balzac và, mở rộng thêm, các tiểu thuyết của Zola. Chính vì thế thời gian của Bouvard và Pécuchet nghiêng về phía vĩnh cửu; chính vì thế hai nhân vật chính không chết và sẽ tiếp tục sao lục, ở gần Caen, "Sottisier" lệch thời của họ, cũng vô tri về năm 1914 cũng như về năm 1870; chính vì thế tác phẩm nhìn, trong quá khứ, về phía các dụ ngôn của Voltaire, của Swift và của những người phương Đông và, trong tương lai, về phía các dụ ngôn của Kafka.

Có lẽ có một chìa khóa khác. Nhằm xô đẩy các khát khao của loài người, Swift đã gán chúng cho những người Pích-mê hay cho lũ khỉ; Flaubert thì cho hai chủ thể thật gớm. Hiển nhiên là, nếu lịch sử phổ quát là câu chuyện của Bouvard và của Pécuchet, thì toàn bộ những gì cấu thành nên nó thảy đều lố bịch và vô hiệu.

 

Flaubert và số phận mẫu mực của ông

Trong một bài báo dành để hủy bỏ hoặc gây nản chí cho sự thờ phụng Flaubert ở Anh, John Middleton Murray nêu nhận xét là có hai Flaubert: người đầu tiên là một người cao lớn hùng vĩ rất vững chãi, đáng mến, khá đơn giản, với dáng dấp cùng tiếng cười của một nông dân, mà cuộc đời là một sự hấp hối trên cuộc vun trồng cường độ lớn khoảng nửa chục quyển sách lủng loẻo; người kia, một khổng lồ không cơ thể, một biểu tượng, một tiếng hét xung trận, một lá cờ. Tôi xin long trọng tuyên bố rằng tôi không hiểu đối lập này; Flaubert đã tự vắt kiệt mình để sản xuất ra một tác phẩm hiếm và quý chính xác là Flaubert của truyền thuyết và (nếu bốn tập sách in thư từ của ông không đánh lừa chúng ta) cũng là người của lịch sử. Và Flaubert này quan trọng hơn so với tầm quan trọng văn chương mà ông đã nghiền ngẫm rồi hiện thực hóa - Flaubert, Adam thứ nhất của một giống mới: giống của văn nhân như là linh mục, như là nhà khổ hạnh và như kẻ tuẫn đạo.

Thời Cổ đại, vì những lý do mà chúng ta sẽ thấy, đã không thể tạo ra được típ này. Người ta đọc thấy ở Io [Plato] rằng nhà thơ "là một thứ nhẹ, có cách và thiêng, kẻ chẳng có thể làm được gì nếu không được truyền cảm hứng, tức là gần như rồ dại". Một học thuyết về tinh thần thổi luồng hơi của nó tới chỗ nào mà nó thích (Jean, III, 8) thì thù địch với một sự tuyên dương giá trị cá nhân của nhà thơ, đã bị hạ bậc xuống chỉ còn là một công cụ thoáng chốc của thần thánh. Ở các thành phố Hy Lạp hay ở Rome, một Flaubert là điều không thể hình dung; người xích lại gần ông hơn cả có lẽ là Pindare, nhà thơ chuyên về thờ cúng, người so sánh các bài ode của mình với những con đường lát đá, với một thủy triều, với các bức tượng vàng và ngà và với các tòa công trình, và người cảm thấy cũng như hiện thân cho phẩm giá của nghề văn chương.

Cho học thuyết "lãng mạn" về cảm hứng mà các nhà cổ điển rao truyền [chú thích của Borges: Đối lập thì có học thuyết "cổ điển" của nhà lãng mạn Poe, người biến công việc của nhà thơ thành một thứ tập luyện trí năng.] sẽ phù hợp nếu thêm vào một sự vị: cảm giác chung theo đó Homer đã vét kiệt toàn bộ thơ hay, dẫu thế nào, ông đã khám phá được hình thức hoàn hảo của thơ, bài thơ anh hùng ca. Alexander xứ Macedonia tối nào cũng đặt dưới gối của mình con dao găm cùng quyển Iliad, và Thomas De Quincey thì thuật chuyện một mục sư người Anh, trên ghế giảng, thề "có sự lớn lao của những đau đớn con người, có sự lớn lao của các khao khát con người, có sự bất tử của những gì con người tạo ra, có Iliad, có Odyssey!" Nỗi tức tối của Achilles và các gian truân nơi cuộc trở về của Ulysses không phải là những chủ đề phổ quát; trên sự định giới hạn ấy, hậu thế đã dựng một hy vọng. Áp đặt cho các ngụ ngôn khác sự triệu tới này thay cho sự triệu tới kia, trận đánh này thay cho trận đánh kia, thứ máy siêu nhiên này thay cho thứ máy siêu nhiên kia, dòng cùng cấu hình của Iliad, ấy từng là dự đồ lớn nhất của các nhà thơ, trong vòng suốt hai mươi thế kỷ. Thật dễ để nhạo báng, nhưng chẳng hề dễ nhạo báng Aeneid, vốn dĩ là hệ quả may mắn của cái đó. (Lemprière rất khôn ngoan đưa Virgil vào tính cho những việc tốt Homer từng làm.) Vào thế kỷ 14, Petrarch, trong sự tận tâm vì vinh quang của Rome, nghĩ mình đã phát hiện được ở các cuộc chiến tranh Punic chất liệu lâu dài cho một anh hùng ca; Tasso, vào thế kỷ 16, thì đã chọn cuộc thập chinh thứ nhất. Ông đã dành cho nó hai tác phẩm, hoặc hai phiên bản của chỉ một tác phẩm; một trong hai rất nổi tiếng, Gerusalemme liberata; tác phẩm còn lại, Conquistata, vốn định đi theo Iliad sát hơn, nhiều nhất thì cũng chỉ là một sự gợi trí tò mò văn chương. Những nhấn nhá quá mạnh của văn bản gốc đã được giảm bớt ở đó, và thao tác này, được thực hành trên một tác phẩm xét về cốt yếu rất nhiều nhấn nhá, đồng nghĩa với một phá hủy. Như là, trong Liberata (VIII,23), chúng ta đọc được, từ một nhân vật bị thương nặng mãi mà không chết nổi:

La vita no, ma la virtú sostenta

quel cadavere indomito e feroce.

Ở phiên bản đã sửa, thậm xưng và sự hiệu quả biến mất:

La vita no, ma la virtú sostenta

il cavaliere indomito e feroce.

Milton, đoạn sau đó, đã sống để xây dựng một bài thơ anh hùng ca. Từ hồi ông còn nhỏ, có lẽ là trước cả khi viết dòng nào, ông đã tự biết mình được hiến cho văn chương. Ông e sợ mình sinh quá muộn cho anh cùng ca (quá xa Homer, quá xa Adam) và là dưới một khí hậu quá lạnh, nhưng ông ra sức tập luyện gieo vần, suốt nhiều năm dài. Ông học tiếng Hebrew, Aramaic, tiếng Ý, tiếng Pháp, Hy Lạp và, rất tự nhiên, Latin. Ông viết những câu thơ mười chân Latin và Hy Lạp rồi những câu mười một chân kiểu Tuscany. Ông tiết độ, bởi ông cảm thấy rằng sự thiếu tiết độ có thể làm hại năng lực thơ của mình. Ông viết, ở tuổi ba mươi ba, rằng nhà thơ phải là một bài thơ, "tức là một cấu tạo và một cổ mẫu cho những điều đẹp hơn cả". Ông biết rằng một cuốn sách mà con người sẽ không để cho chết đi rồi sẽ chui ra từ ngòi bút ông, nhưng chủ đề vẫn chưa được hé lộ cho ông và ông tìm nó trong Matière de Bretagne và trong Cựu Ước cùng Tân Ước. Trên thứ giấy đầu tiên mà ông tìm được (ngày nay đó là Bản thảo Cambridge) ông ghi khoảng một trăm chủ đề khả dĩ. Rốt cuộc, ông chọn sự đọa của các thiên thần và của con người, chủ đề lịch sử vào thời của ông, ngay cả khi giờ đây chúng ta đánh giá nó là có tính cách biểu tượng, hay huyền thoại. [chú thích của Borges: Chúng ta hãy đi theo ba biến tấu của một đặc điểm nơi Homer trong vòng nhiều thế kỷ. Trong Iliad, Helen thành Troy thêu một tấm thảm, và những gì mà nàng thêu, ấy là các trận đánh cùng những bất hạnh của chiến tranh Troy. Trong Aeneid, người anh hùng, một người chạy trốn khỏi chiến tranh Troy, cập bờ tại Carthage, thấy trong một ngôi đền hình vẽ nhiều xen của cuộc chiến đó và, giữa những hình tượng chiến binh khác, thấy cả hình tượng của mình. Ở Jerusalem thứ hai, Godefroy tiếp các sứ thần Ai Cập trong một căn nhà được lịch sử hóa mà những bức tranh vẽ các chiến dịch của chính chàng. Trong số ba phiên bản ấy, phiên bản cuối ít may mắn hơn cả.]

Milton, Tasso và Virgil đã tự hiến mình cho việc thực hiện các bài thơ; Flaubert từng là người đầu tiên tự hiến mình (tôi sử dụng từ này theo nghĩa đầy đủ xét về mặt từ nguyên) cho việc tạo ra một tác phẩm thuần túy cảm năng "bằng văn xuôi". Trong lịch sử các văn chương, văn xuôi đi sau thơ; nghịch lý này đã kích thích tham vọng của Flaubert. "Văn xuôi mới được sinh ra vào hôm qua", ông viết. "Thơ là hình thức của các văn xuôi ngày xưa một cách hoàn hảo. Những kết hợp của vận luận đã bị vét cạn; văn xuôi thì không như vậy." Và ở chỗ khác: "Tiểu thuyết đang đợi Homer của nó."

Bài thơ của Milton bao trùm trời, địa ngục, thế giới và hỗn độn, nhưng đấy vẫn là một Iliad, một Iliad theo kích thước vũ trụ; Flaubert, ngược lại, đã không muốn lặp lại hay vượt qua một mẫu có trước. Ông đã nghĩ rằng điều gì cũng chỉ có thể được nói theo một cách duy nhất và tác giả phải khám phá là bằng cách nào. Các nhà cổ điển và các nhà lãng mạn cãi nhau inh ỏi, còn Flaubert thì bảo rằng những thất bại của họ có thể khác nhau, nhưng những thành công của họ thì giống nhau, bởi cái đẹp lúc nào cũng là những gì chính xác và chuẩn, và một câu thơ hay của Boileau là một câu thơ hay của Hugo. Ông tin vào một hài hòa được thiết lập từ trước của hài âm và của cái chính xác và ngây ngất trước "quan hệ tất yếu giữa từ chuẩn và từ thuộc âm nhạc". Sự mê tín ngôn ngữ này lẽ ra đã khiến bất cứ nhà văn nào khác tạo ra một thứ thổ ngữ nhỏ bé đầy các thói quen cú pháp cùng ngân nga tệ hại; với Flaubert thì không như vậy, sự đứng đắn nền tảng của ông cứu ông khỏi những mối nguy nơi học thuyết của ông. Với một sự trung thực dài ông đã theo đuổi le mot juste, chắc chắn nó không loại trừ sáo ngữ và về sau phải thoái hóa thành mot rare dấm dớ của các nhóm hội tượng trưng.

Lịch sử kể rằng Lão Tử lừng danh muốn sống bí mật và không có tên; cùng ý chí ấy, không được biết, và cùng sự nổi tiếng, đánh dấu số phận của Flaubert. Ông không muốn ở trong những cuốn sách của mình, hoặc nhiều nhất thì cũng chỉ muốn bị giấu đi trong đó, giống Chúa trong các tác phẩm của mình; sự thể là nếu chúng ta không biết từ trước rằng cùng một cây bút đã viết SalammbôMadame Bovary, thì chúng ta sẽ không đoán được điều này. Cũng không kém phần không thể chối cãi, việc nghĩ đến tác phẩm của Flaubert chính là nghĩ đến Flaubert, đến người làm việc bị hành hạ và đầy chuyên cần, đến rất nhiều sự tham khảo của ông và đến đống giấy nháp không tài nào luận nổi của ông. Don Quichotte và Sancho còn thực hơn cái người lính Tây Ban Nha bịa ra họ, nhưng chẳng tạo vật nào của Flaubert thực hơn so với Flaubert. Những ai bảo rằng tác phẩm chính yếu của ông là Thư từ của ông có thể lập luận rằng trong những tập sách đầy nam tính đó có khuôn mặt số phận của ông.

Số phận ấy lại còn mẫu mực nữa, giống số phận của Byron từng như vậy đối với những người lãng mạn. Nhờ một sự bắt chước kỹ thuật Flaubert mà chúng ta có Chuyện các bà vợ giàO primo Basilio; số phận của ông đã được tái tạo, được phóng to lên và biến tấu đi một cách đầy bí hiểm, nơi số phận của Mallarmé (mà cái câu "thế giới được làm ra để dẫn đến một quyển sách đẹp" diễn tả một lòng tin đinh ninh của Flaubert), thành số phận của Moore, của Henry James và số phận của cái người Ai len rối rắm và gần như vô tận, người đã dệt ra Ulysses.

Huỳnh Bất Thức dịch

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công