favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
Prev
Đông 2025
Next

Borges nhận giải thưởng văn chương

02/12/2025 21:58

Borges được nhận không nhiều giải thưởng văn chương lắm: đây là may mắn của Borges, có thể gọi là may mắn thứ hai, sau may mắn của việc không nhìn thấy rõ lắm (đấy là một người không hẳn bị mù): kịp xong xuôi hết trước khi thế giới của chúng ta trở nên một chốn dày đặc các loại giải thưởng; là nhà văn ngày nay nghĩa là nhận hết giải thưởng này đến giải thưởng khác - hoàn toàn có thể đặt ra nghi ngờ, không chỉ độc giả thông thường không còn đọc nữa (cho dù goodreads) mà đến cả các ban giám khảo chuyên trao giải thưởng văn chương cũng không đọc nốt, vì tương tự như làm gì có bức tranh nào đáng giá đến thế, làm gì có nhiều cuốn sách hay mỗi năm để mà nhận nhiều giải thưởng tới vậy - không lẽ loài người thì vẫn như trước, chỉ riêng giới nhà văn thì đã trải qua một đột biến? Một nhà văn ở thời chúng ta giống một viên sĩ quan trên ngực đeo lúc lỉu huy chương, mà chẳng ai còn tò mò xem cái nào là cho merit gì (rất có thể các chiến công đều chỉ nằm trong tưởng tượng). Không chỉ có thế, nhà văn còn giống một nhà quý tộc với vô số tước hiệu; Nietzsche từng nói đến chuyện một bác sĩ vào thời hiện đại phải cáng vai trò của pháp sư, phù thủy của thế giới cũ, không hề khác, các nhà văn của chúng ta buộc phải trở thành vừa là anh hùng đeo huy chương vừa là nhà quý tộc, trong một thế giới không có chiến công và trong một xã hội không có giai cấp.

Tuy nói vậy, Borges vẫn cứ từng nhận giải thưởng. Khi nhận giải Cervantes vào năm 1980 (tức là khi Borges đã rất già), Borges đọc bài diễn văn dưới đây. Sau bài diễn văn ấy là vài bài khác, được Borges viết vào một số nhân dịp.

 

Diễn văn đọc nhân dịp nhận Giải Cervantes

(1980)

Thưa các Bệ hạ, thưa các Bà các Ông,

Số phận của nhà văn thì rất lạ thường, vả lại tất tật các số phận đều vậy cả. Nó đồng nghĩa với việc xử lý các đức hạnh con người vốn dĩ riêng có đối với tất tật, các hấp hối và các ánh sáng; nó đồng nghĩa với cảm thấy ở cường độ lớn mỗi giây phút của cuộc đời, và như Wolser từng muốn, với việc không chỉ là diễn viên mà còn là khán giả của cuộc đời chính mình; nhà văn cũng phải giữ kỷ niệm về quá khứ, anh ta phải đọc các nhà văn cổ điển bởi chẳng ai tự mình làm được gì. Cùng lắm thì chúng ta cũng chỉ có thể biến đổi rất ít truyền thống, và truyền thống của chúng ta, ấy là ngôn ngữ. Nhà văn có một bất lợi, đó là sự thể phải làm việc với các từ, mà các từ, như ai cũng biết, là một thứ vật liệu cứ chăm chăm chạy trốn. Horace đã chẳng hề không biết rằng các từ thay đổi về hàm ý thuộc cảm xúc và về nghĩa; nhưng nhà văn phải chịu nhẫn nhục trước vận hành đó; anh ta phải cảm thấy, rồi mơ và để cho các ngụ ngôn tới. Nhà văn không được can thiệp quá nhiều vào tác phẩm của anh ta; anh ta phải thụ động, anh ta phải biết hiếu khách đối với những gì đến với anh ta và làm việc với chất liệu của các giấc mơ đó. Anh ta phải viết và in, như Alfonso Reyes từng nói, để khỏi phải bỏ cả đời mình ngồi sửa đống giấy nháp. Trong vòng nhiều năm anh ta làm việc và cảm thấy đơn độc. Anh ta sống trong một dạng thế giới của những giấc mơ, nhưng nếu các ngôi sao thuận lợi với anh ta - tôi đang chủ ý dùng một ẩn dụ thuộc chiêm tinh, tuy rất ghét chiêm tinh học - sẽ tới một khoảnh khắc nơi anh ta phát hiện là mình không đơn độc. Vào khoảnh khắc ấy, vào khoảnh khắc này, anh ta phát hiện là mình ở chính giữa một vòng tròn bạn bè rộng lớn, dẫu có quen hay chẳng hề biết, những người từng đọc tác phẩm của anh ta và làm cho nó phong phú thêm, và vào khoảnh khắc này anh ta cảm thấy cuộc đời mình được biện minh. Hôm nay, về phần mình, tôi cảm thấy còn hơn là được biện minh. Giải thưởng này rơi vào tôi, nó mang cái tên rất xuất chúng, Miguel de Cervantes, và tôi nhớ lại lần đầu mình đọc Don Quijote, vào quãng 1907 hay 1908. Tôi nghĩ hồi đó mình đã cảm thấy, mặc cho cái nhan đề nhiều đánh lừa, rằng nhân vật chính không phải don Quijote mà là cái tay hidalgo của Mancha kia, thân hào tỉnh lẻ kia, kẻ, do đọc quá nhiều chất liệu của Bretagne, chất liệu của Pháp hay của Rome Vĩ đại, muốn trở thành một hiệp sĩ, một "amadis" của Gaule hoặc Palmerin. Tay hidalgo ấy, kẻ tự áp đặt cho mình cái việc trở thành don Quijote, kẻ đôi khi thành công được trong điều này, và rốt cuộc khám phá ra rằng mình không phải người đó. Ở đoạn kết kẻ đó quay về làm Alonso Quijano, tức là cái nhân vật chính ấy thực sự tồn tại.

Tôi cũng muốn nói rằng tôi cảm thấy hết sức xúc động. Tôi đã chuẩn bị nhiều câu nhưng giờ thì không thể nhớ nổi chúng, dẫu vậy có một điều mà tôi không muốn quên: tôi rất xúc động được nhận từ tay một vị Vua dấu hiệu vinh dự này, bởi một ông Vua, hoàn toàn giống một Nhà thơ, nhận lấy một số phận, chấp nhận một số phận và đảm trách nó. Ông không tìm kiếm nó, bởi đấy là một điều định mệnh, định mệnh theo lối đáng ngưỡng mộ, và tôi không biết phải nói lòng biết ơn của mình theo cách nào. Tôi chỉ có thể nói với tất tật các vị sự biết ơn vô tận của tôi... Rất cám ơn.

 

Diễn văn của don Jorge Luis Borges khi được nhận vào Viện Hàn lâm Văn chương Argentina

(1962)

Vào nửa sau của thế kỷ 19, hai nhà văn lừng danh một cách hết sức xứng đáng, [Ernest] Renan và Matthew Arnold, đã cống hiến những công trình đầy sức xuyên thấu cho khái niệm hàn lâm viện và cho các văn chương Celtic. Thế nhưng, không ai trong số họ từng chỉ ra mối liên thuộc rất lạ mà hai chủ đề ấy bày ra, và tuy vậy liên thuộc đó tồn tại. Vài người trong số các bạn tôi, trong lúc đọc nhan đề của bài giảng này, chứ không phải bài nói này hay diễn văn ngày hôm nay, tức là Khái niệm hàn lâm viện và những người Celtic, đã tưởng là tôi có một lựa chọn võ đoán, nhưng tôi nghĩ người ta có thể biện minh cho liên thuộc đó và nó rất sâu sắc. Chúng ta hãy bắt đầu bằng phần đầu tiên, nhan đề, chúng ta hãy bắt đầu bằng khái niệm hàn lâm viện. Khái niệm này là gì? Hẳn chúng ta sẽ có thể nghĩ ngay đến cảnh sát của ngôn ngữ, đến các cho phép hay đến các cấm đoán những từ, toàn bộ những cái này khá là vớ vẩn và tất tật chúng ta đều biết điều đó, nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ tới những thành viên đầu tiên của Viện Hàn lâm Pháp từng tổ chức các cuộc họp định kỳ. Ở đây chúng ta nắm được một chủ đề khác: chủ đề về trò chuyện, về đối thoại văn chương, về sự tranh cãi thân thiện, về sự hiểu các sự vị văn chương và về thơ, và khía cạnh khác này của Viện Hàn lâm có lẽ là cái cốt yếu, nghĩa là sự tổ chức, sự lập pháp, sự hiểu văn chương. Và tôi nghĩ đấy là điều quan trọng hơn cả. Luận đề mà tôi sẽ trình bày hôm nay hoặc, nói cách khác, sự vị mà tôi mong muốn báo cáo hôm nay, là liên thuộc tồn tại giữa hai ý ấy, ý về viện hàn lâm và ý về vũ trụ của người Celtic. Trước hết chúng ta hãy nghĩ tới đất nước văn chương par excellence: hiển nhiên đất nước đó là Pháp, và văn chương Pháp hiện diện không chỉ trong những cuốn sách Pháp mà còn trong chính ngôn ngữ, thành thử hẳn chỉ cần lật giở một quyển từ điển thôi là cũng đủ để cảm thấy khuynh hướng văn chương cường độ cao ấy của ngôn ngữ Pháp. Chúng ta hãy lấy một ví dụ: trong tiếng Tây Ban Nha chúng ta nói arco iris, trong tiếng Anh người ta nói rainbow, trong tiếng Đức Regenbogen, tức là cái vòm của mưa. Những từ này là gì đây nếu so sánh chúng với từ arc-en-ciel đầy phi thường trong tiếng Pháp, rộng lớn như một bài thơ của Hugo và cùng lúc ngắn gọn hơn, nó dường nâng một kiến trúc, một cái vòm lên trên trời?

Tôi không biết có phải tại Pháp cuộc sống văn chương tồn tại theo một cách thức có cường độ cao hơn hay chăng - đấy hẳn đã là một cách để đi vào bí ẩn - nhưng ở đó nó được biểu hiện theo một lối nhiều ý thức hơn tại các nước khác. Một trong những tờ tạp chí của nó mang cái tên La Vie littéraire khiến tất cả mọi người quan tâm. Ở đây, ngược lại, các nhà văn chúng ta, chúng ta gần như vô hình; chúng ta viết cho bạn bè của chúng ta những gì có lẽ là một điều hay. Khi nghĩ tới Hàn Lâm viện Pháp, Viện Hàn lâm par excellence, người ta quên mất rằng cuộc sống văn chương tại Pháp tương ứng với một quá trình biện chứng, nghĩa là văn chương được làm ra chiểu theo lịch sử của văn chương. Có Hàn Lâm viện trình hiện truyền thống và, thêm nữa, viện hàn lâm Goncourt cùng các "cénacle", chúng, đến lượt mình, là những viện hàn lâm, thật lạ khi thấy, xét cho đến cùng, rốt cuộc những người cách mạng lại vào Hàn Lâm viện, tức là truyền thống được làm cho giàu có lên theo tất tật các hướng và bằng tất tật các tiến hóa của văn chương. Vào một thời điểm nhất định từng có đối lập giữa Hàn Lâm viện và những người lãng mạn rồi giữa Hàn Lâm viện và những người Thi Sơn và những người tượng trưng, nhưng tất tật cùng nhau, họ thuộc vào truyền thống của Pháp, nó được làm cho giàu có lên như vậy nhờ chuyển động biện chứng đó. Thêm nữa lại có như một sự cân bằng, tức là những nghiêm ngặt của truyền thống được bù trừ bởi các táo bạo của những nhà cách mạng, điều mà cả hai bên đều biết rất rõ; chính vì thế trong văn chương ấy có nhiều quá lời, nhiều kỳ quái hơn so với bất cứ văn chương nào, và có điều này là vì người nào cũng tính tới địch thủ của mình, hoàn toàn giống người đánh cờ tính tới đối thủ của mình, người chơi các quân cờ mang một màu khác. Chuyện là như vậy, tôi sẽ nói rằng không ở bất kỳ phần nào của thế giới cuộc sống văn chương từng được tổ chức theo cách thức nghiêm ngặt như giữa các quốc gia Celtic, và tôi sẽ tìm cách chứng minh, hay nói đúng hơn là nhắc lại.

Tôi từng nói về văn chương của người Celtic. Từ này rất mơ hồ. Thời Cổ đại, người Celtic từng sống tại các lãnh thổ mà một tương lai xa xôi sẽ gọi là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, các đảo thuộc Anh, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Lombardie, Bohemia, Bulgaria và Croatia, không quên Galatia, nằm trên bờ phía Nam của Biển Đen. Những người Giéc-manh và Rome đã dịch chuyển họ đi hoặc bắt họ phải quy phục trong các cuộc chiến tranh dữ dội. Chính vào lúc đó đã xảy ra một sự kiện đáng nói. Hoàn toàn giống văn hóa chân thực của người Giéc-manh biết đến sự bừng nở tối hậu và chói lọi nhất ở Islande - Ultima Thule của vũ trụ luận La Mã - nơi nỗi hoài nhớ của một nhóm nhỏ những người lẩn trốn đã tái lập huyền thoại cũ và mang sự ngời sáng đến cho tu từ học cũ, văn hóa Celtic cũng từng náu mình tại một hòn đảo hẻo lánh khác, Ai len. Chúng ta gần như không thể giả định gì về nghệ thuật và văn chương của người Celtic ở Iberia hay Gaul; các thánh tích có thể sờ nắn được từ văn hóa của họ, nhất là trên bình diện ngôn ngữ và văn chương, phải được tìm nơi lưu trữ cùng thư viện của Ai len và Wales. Renan, người áp dụng một câu lừng danh của Tertilius, viết rằng tâm hồn Celtic, hết sức tự nhiên, có tính cách Ki-tô giáo; điều dị thường và gần như không thể tin nổi, ấy là Ki-tô giáo, mà người Ai len từng cảm thấy và vẫn cảm thấy với rất nhiều nồng nhiệt, đã không xóa đi ở họ ký ức về các huyền thoại ngoại giáo bị chối bỏ cùng các truyền thuyết cổ xưa. Nhờ Caesar, nhờ Pliny, nhờ Diogenes Laerce và nhờ Diodorus ở Sicilia, chúng ta biết rằng người Gaulois từng được điều hành bởi một thần quyền: các druid, những người ban hành và thực thi các luật, tuyên chiến hoặc ban bố hòa bình, đã cắt đặt theo ý muốn của họ các chúa tể, hằng năm phong các quan tòa và nắm giữ trách nhiệm giáo dục thanh niên, tổ chức các nghi thức. Họ thực hành chiêm tinh và dạy rằng linh hồn thì bất tử. Trong Bình luận của mình, Caesar gán cho họ học thuyết có tính cách Pythagoras và Plato về luân hồi. Người ta từng bảo người Gaulois tin, cũng như gần như tất tật các dân tộc, rằng ma thuật có thể biến con người thành thú và Caesar, bị đánh lừa do kỷ niệm những gì đã đọc từ Hy Lạp, đã coi lòng tin mê tín này là học thuyết về thanh tẩy các linh hồn thông qua những hấp hối cùng những hiện thân. Tuy nhiên, ở đoạn sau, chúng ta sẽ thấy một đoạn của Taliesin mà chủ đề không thể chối cãi là luân hồi chứ không phải trò hoang tưởng hóa sói.

Điều quan trọng đối với chúng ta ngày hôm nay là sự thể các druid từng được chia thành sáu hạng trong đó hạng đầu tiên là "barde" và hạng thứ ba, các thầy bói. Nhiều thế kỷ về sau, tôn ti theo kiểu thần quyền này sẽ trở thành hình mẫu xa xôi và vẫn hiện diện cho các viện hàn lâm của Ai len.

Trong thời Trung cổ, việc người Celtic cải sang Ki-tô giáo khiến các druid chỉ còn giữ thứ hạng phù thủy. Một trong những biện pháp của họ là chế báng, được người ta quy cho các quyền lực ma thuật, chẳng hạn, sự xuất hiện những khối u trên mặt những người là đích ngắm cho cái đó. Thế là đã bắt đầu tại Ai len, dưới cái vỏ sự mê tín và nỗi e sợ, thế thượng phong của các văn nhân. Tại những xã hội phong kiến cá nhân nào cũng nắm giữ một vị thế cụ thể. Tầng lớp văn nhân của Ai len tạo dựng một ví dụ vô song về luật đó. Nếu khái niệm viện hàn lâm nằm trong tổ chức và hành xử của văn chương, thì người ta sẽ không phát hiện được trong lịch sử đất nước nào nhiều tính cách hàn lâm viện hơn, kể cả là Pháp hay Trung Quốc.

Sự nghiệp văn chương từng đòi hỏi hơn mười hai năm học hành nghiêm ngặt, bao trùm huyền thoại học, lịch sử thuộc truyền thuyết, tô pô và luật. Chúng ta còn phải thêm vào đó, hết sức hiển nhiên, ngữ phạm và nhiều nhánh đa dạng của tu từ học. Sự dạy dỗ được thực hiện bằng truyền khẩu, như thói quen ở tất tật các môn huyền bí; không có các văn bản viết và sinh viên phải chất vào trí nhớ của mình toàn bộ corpus về văn chương trước đó. Kỳ kiểm tra hằng năm kéo dài nhiều hôm; sinh viên, bị nhốt kín vào một căn hầm tối, có nước uống và đồ ăn, phải đặt vần và ghi nhớ các chủ đề phả hệ cùng huyền thoại theo thể thơ quy định. Mức độ thấp hơn cả, oblaire, ngụ ý là biết bảy câu chuyện; mức cao nhất, ollam, ba trăm sáu mươi, tương ứng với số ngày của năm âm lịch. Những câu chuyện được sắp xếp theo các chủ đề: sự phá hủy các dòng dõi hoặc các pháo đài, các vụ ăn cắp thú vật, tình yêu, trận đánh, đi biển, những cái chết dữ dội, những cuộc điều binh, những vụ bắt cóc và những vụ cháy. Các catalogue khác gồm vào những thị kiến, những cuộc tấn công, càn quét và di cư. Tương ứng với những chủ đề ấy là một số lập luận, một số thể thơ nhất định và một tự vị nhất định, mà nhà thơ phải tự giới hạn mình vào, nếu không thì sẽ bị chê trách; về những chủ đề cao hơn cả, sự gieo vần hết sức phức tạp và chứa đựng trùng âm, vần và điệp phụ âm. Người ta thích một hệ thống rối tung của các ẩn dụ đặt trên huyền thoại hay truyền thuyết, hoặc sáng chế cá nhân, hơn so với sự nêu lên trực tiếp. Một điều tương tự từng diễn ra ở chỗ các nhà thơ Anglo-Saxon và, còn hơn nữa, ở những người Scandinavia; ẩn dụ dị thường và gần như gây ảo giác mảnh vải người, để biểu nghĩa trận đánh, là chung với thơ triều đình của Ai len và Na Uy. Tính từ mức độ thứ chín, các câu thơ trở nên không sao mà giải mã nổi do có quá nhiều từ cổ, nhiều sự nói vòng và các hình ảnh rối rắm; một truyền thống đã giữ sống động cơn giận dữ của một ông vua không có khả năng hiểu ngợi ca tuyệt cùng từ những nhà thơ quá uyên thâm của mình. Sự tối tăm ấy, vốn dĩ cố kết vào với tất tật các thơ bác học đã dẫn đến sự suy tàn rồi rốt cuộc sự tan loãng đi mất của các trường dạy văn chương. Cũng cần nhắc rằng các nhà thơ từng tạo dựng một chi phí nặng nề đối với những vương quốc nhỏ nghèo khổ của Ai len, chúng phải nuôi họ trong sự ăn không ngồi rồi hoặc niềm sung sướng của sáng tạo.

Hẳn người ta có thể nghĩ rằng ngần ấy cảnh giác và nghiêm ngắn rốt cuộc sẽ bóp nghẹt luồng hơi của thơ ca; sự thật không thể tin, ấy là thơ Ai len thật phi thường về độ tươi trẻ và ngây ngất. Ít nhất thì đó cũng là lòng tin đinh ninh mà những mảnh do [Matthew] Arnold trích cùng những bản dịch sang tiếng Anh của nhà bác ngữ học Kuno Meyer từng để lại trong tôi.

Chắc các bạn đều có sẵn trong tâm trí các bài thơ nơi một nhà thơ nhớ lại những hiện thân trước đây của mình. Chúng ta đang có ngay đây bài thơ tráng lệ của Rubén Darío:

Tôi từng là người lính ngủ trên giường

của Cleopatra, nữ hoàng...

Và chúng ta có các ví dụ cổ đại, như ví dụ Pythagoras, người tuyên bố mình từng nhận ra ở một cuộc đời khác cái khiên với đó ông từng đánh nhau tại Troy.

Giờ, hãy xem Taliesin, nhà thơ Wales hồi thế kỷ 6, đã làm gì. Ông gợi lên theo lối đáng ngưỡng mộ việc mình từng là rất nhiều thứ; ông nói với chúng ta: "tôi từng là một con lợn lòi, một thủ lĩnh nơi chiến trận, một thanh gươm trên tay một thủ lĩnh, một cây cầu băng ngang bảy mươi dòng sông, tôi từng ở Carthage, trên bọt nước; tôi từng là một từ trong một quyển sách, tôi từng là một quyển sách ở khởi đầu". Tức là chúng ta đang có hiện diện của một nhà thơ hoàn toàn có ý thức - cứ nói vậy - về những đặc quyền mà típ nghi binh rời rạc kia có thể mang lại. Tôi cho Taliesin hẳn thích mình trở thành tất tật những thứ kia; nhưng ông biết rằng để đẹp được thì một bản danh sách như vậy phải bao gồm các yếu tố không đồng chất; thế là ông nhớ mình từng là một từ trong một quyển sách và một quyển sách ở khởi đầu của nó. Và có nhiều hình ảnh Celtic đẹp khác: chẳng hạn, hình ảnh một cái cây màu lục ở một phía còn phía kia thì cháy đùng đùng, như bụi cây rực cháy, với một thứ lửa không thiêu rụi nó, mà hai phần cùng tồn tại.

Ngoài các thế kỷ anh hùng, các thế kỷ huyền thoại, trong văn chương bác học có một chủ đề khiến chúng ta hết sức quan tâm, đó là chủ đề các cuộc đi biển. Đấy là một trong những chủ đề mà các nhà thơ phải xử lý bởi vì ba trăm bao nhiêu đó truyền thuyết được chia thành các câu chuyện về chinh phục, về sân khấu, về cướp người, về hang hố, về thành phố, về hành hương hay về các chuyến đi.

Chúng ta hãy dừng lại ở chủ đề cuối này. Người Ai len từng tưởng tượng ra các chuyến đi về phía Tây, tức là về phía mặt trời lặn, về phía cái không biết, ngày hôm nay hẳn chúng ta sẽ nói rằng về phía châu Mỹ. Tôi sẽ tự quy chiếu mình tới câu chuyện Conn.

Conn là một ông vua của Ai len. Người ta đặt cho ông cái tên Conn của một trăm trận đánh. Một chiều nọ, khi ông đang ngồi cùng con trai và ngắm cảnh mặt trời lặn từ một ngọn đồi, thì đột nhiên ông nghe thấy con trai mình nói chuyện với cái vô hình và cái không biết. Ông bèn hỏi cậu ta xem cậu ta đang nói chuyện với ai và, đột nhiên, từ không trung trào ra một giọng nói bảo với ông: "Tôi là một phụ nữ có nhan sắc tuyệt trần; tôi từ một hòn đảo hẻo lánh của các biển Tây đến, tại đó người ta không biết tới cả mưa, tuyết, bệnh tật lẫn cái chết hay thời gian; nếu con trai ông, mà tôi đem lòng yêu, đi cùng tôi, thì sẽ chẳng bao giờ cậu ấy biết cái chết và có thể trị vì một mình giữa những người được giải thoát khỏi tất tật các mối lo." Ông vua cho gọi các druid của mình - vì truyền thuyết ấy, dẫu được các Ki-tô hữu lưu giữ, hẳn có trước Ki-tô giáo - và các druid cất tiếng hát nhằm làm người phụ nữ im miệng. Người kia, từ chốn vô hình, ném vào hoàng tử một quả táo, rồi biến mất. Trong vòng một năm, hoàng tử không muốn ăn gì khác ngoài quả táo ăn mãi không hết đó và không thấy đói hay khát, nhưng vẫn tiếp tục nghĩ tới người phụ nữ kia, mà đã chẳng ai nhìn thấy. Khi nàng quay lại, sau một năm, thì anh nhìn thấy nàng, họ lên một con tàu bằng thủy tinh và mất hút đi về phía mặt trời lặn.

Chính ở chỗ này truyền thuyết rẽ ngoặt đi; một trong các phiên bản nói rằng hoàng tử đã không bao giờ quay về; một phiên bản khác thì bảo anh quay về sau nhiều thế kỷ và hé lộ mình là ai; người ta bán tín bán nghi nhìn anh và nói với anh: "Đúng, Conn, con trai của Conn một trăm trận đánh." Một truyền thuyết thuật lại rằng anh bị mất tích trên biển và lúc về lại đất liền trên đất Ai len thì anh rơi thành bụi, bởi thời gian của các vị thần là một chuyện, còn thời gian của con người lại là một chuyện khác.

Chúng ta hãy gợi lại một câu chuyện tương đồng, đấy là câu chuyện về Abraham, con của một ông vua giống tất tật các nhân vật chính của những câu chuyện đó. Trong khi đang đi trên bờ biển, đột nhiên anh nghe thấy có tiếng nhạc ở sau lưng và ngoái đầu lại, nhưng nhạc vẫn cứ ở sau lưng anh. Thứ nhạc ấy rất êm dịu; anh ngủ thiếp đi và, khi tỉnh dậy, anh phát hiện mình đang cầm ở tay một cái cành bằng bạc với những bông hoa hẳn có thể bằng tuyết nhưng trên thực tế lại sống động. Về tới nhà anh thấy một phụ nữ, nàng bảo anh, giống với người con trai của vua khác, rằng nàng yêu anh. Thế là, Abraham bèn đi theo nàng. Cái cành bạc gợi cho chúng ta nhớ đến cành vàng của Aeneid; sau đó, câu chuyện trở thành câu chuyện về các chuyến đi của Abraham. Người ta thuật lại rằng anh đi thuyền trên biển và nom thấy một người đang ông dường như đang đi trên mặt nước, vây quanh là lũ cá, lũ cá hồi. Người kia là một vị thần Celtic và, trong lúc vị thần có cá hồi vây quanh ấy đi trên biển, thì cùng khi ấy ông cũng băng ngang đồng cỏ trên hòn đảo của mình, vây quanh là cừu và hoẵng; tức là có một cái gì đó giống một không gian kép, giống một bình diện kép trong không gian. Ông vua cùng lúc ở trên mặt nước đối với hoàng tử và trên đồng cỏ tại hòn đảo của mình.

Trên các hòn đảo đó, có một thảm động vật rất lạ: các vị thần, chim chóc vốn dĩ là thiên thần, nguyệt quế bạc và hoẵng bằng vàng, và cả một hòn đảo vàng dựng trên bốn cây cột đến lượt chúng lại được dựng trên một bình nguyên bằng bạc, và chúng ta có một thời gian khác. Kỳ quan phi thường hơn cả được biểu lộ vào lúc Abraham, đang băng ngang các biển Tây kia và ngẩng đầu lên thì trông thấy một con sông chảy trong không trung, mà không bị lật và tại đó có cá cùng các con tàu, toàn bộ ở trên trời một cách đầy kính cẩn.

Giờ đây tôi sẽ nói vài lời về nghĩa của phong cảnh trong thơ Celtic.

Trong nghiên cứu đáng ngưỡng mộ của mình về văn chương Celtic, Matthew Arnold tuyên bố rằng ý thức về tự nhiên, vốn dĩ là một trong các đức hạnh của thơ Anh, phát xuất từ người Celtic. Về phần mình hẳn tôi sẽ nói, người Giéc-manh cũng từng cảm thấy tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên, thế giới của họ rất khác, bởi ở thơ Giéc-manh cũ điều người ta cảm thấy trước nhất là nỗi kinh hoàng tự nhiên. Các đầm lầy, các khu rừng và các hoàng hôn đều đầy ắp những con quái vật. Người ta gọi con chằn là Nỗi kinh hoàng của đêm, nỗi kinh hoàng của hoàng hôn bị vấy bẩn. Ngược lại, người Celtic từng coi tự nhiên như một cái gì đó sống, nhưng họ cũng cảm thấy rằng những hiện diện siêu nhiên kia có thể lành; quả thật, thế giới huyễn ảo của người Celtic là một thế giới của các thiên thần và của các con quỷ. Chúng ta đã có thể nói tới thế giới khác; ngữ đoạn hết sức tầm thường ngày hôm nay ấy xuất hiện lần đầu tiên, tôi nghĩ vậy, ở Lucain, người tự quy chiếu mình đến người Celtic.

Tất tật các sự vị mà tôi đã chỉ ra hẳn có thể dùng cho nhiều quan sát. Chẳng hạn, hẳn là chúng giải thích được cho đà bật của Hàn lâm viện tại một nước như Pháp, vốn dĩ là đất nước có các gốc rễ Celtic. Hẳn nó giải thích được cho sự vắng mặt của Hàn lâm viện ở một nước có tính cách cá nhân luận một cách sâu sắc như Anh. Nhưng các bạn có thể từ những kể luận đó lấy được nhiều điều hay hơn tôi. Hôm nay tôi thấy là đủ, việc đã chỉ ra hiện tượng kỳ lạ ấy của một lập pháp của văn chương tại đảo Ai len.

 

Sự bất tử của Unamuno

(1937)

Hẳn một nhà văn không chết mà không ngay tức thì bắt đầu cuộc tranh cãi về hai vấn đề lệ thuộc sau đây: đặt giả thuyết hoặc dự báo, những gì sẽ còn lại từ tác phẩm của anh ta và thấy trước bản án không thể đảo ngược của hậu thế bí hiểm. Vấn đề thứ hai là một vấn đề giả bởi không thể có một hậu thế nhiều tính cách tư pháp cứ đi chăm chăm tuyên các bản án không thể đảo ngược như thế. Vấn đề thứ nhất đầy hào phóng bởi nó định ra sự vĩnh cửu của vài trang vượt quá các sự vị và con người từng tạo ra chúng; nhưng thêm nữa nó thật đáng tởm vì bày ra các hôi thối của sự băng hoại.

Tôi ngờ vấn đề bất tử có bản tính kịch. Hình ảnh chung của chúng ta về con người cứ dai dẳng hoặc giả biến mất. Ở trường hợp Miguel de Unamuno, chắc chắn là có mối nguy hình ảnh con người làm tác phẩm nghèo nàn đi theo cách thức không thể sửa chữa nổi. Tôi không hề nói quá lời về nguy cơ này một chút nào. Người ta chỉ có thể tưởng tượng ra rất ít người xuyên qua được các thế kỷ của văn chương Tây Ban Nha. Người ta có thể tưởng tượng ra Quevedo. Có lẽ không có hai hoàng hôn nào mà tôi không nghĩ đến ông. Nhưng, những người khác thì sao? Một cuộc trò chuyện với Cervantes thì có thể như thế nào? Về phần Góngora, dường như tôi nhìn thấy ông và nghe thấy ông, nhưng những ai biết rõ ông đặt ông vào sát Mallarmé, điều này khiến tôi rối trí. Về phần những gì thuộc về Unanumo, chẳng ai có về ông một hình ảnh sáng sủa một cách hoàn hảo, hình ảnh một người Tây Ban Nha được biết "theo lối trực tiếp" chứ không phải xuyên qua các từ viết ra trên giấy. Mối nguy của hình ảnh ấy được nối trực tiếp vào sự mạnh mẽ của nó và sự dễ dàng của nó. Nó hướng tới chỗ thống trị, thu tác phẩm hết sức phức tạp và phong phú đó về những khả năng thuộc trí năng... Jean Cassou, chẳng hạn, viết điều này: "Miguel de Unamuno, một đấu sĩ vật lộn với chính mình, vì dân tộc ông và với dân tộc ông, một con người của chiến trận, kẻ giết anh em, kẻ thù, tribun không đảng, rao giảng ngoài sa mạc, đầy phù phiếm, nghịch lý, bi quan, bị cuộc đời và cái chết bẻ gãy, bất khả chiến bại và luôn luôn thua cuộc." Nếu người ta nhìn nhận công thức này, hay nói đúng hơn là rhapsody của các công thức này, như một định nghĩa về Unamuno, thì chắc chắn nó sẽ ít có khả năng soi sáng cho độc giả hơn là khiến anh ta bị lúng túng; nếu ngược lại người ta nhìn nhận nó như một trong những bài tập bắt chước kia nơi nhà phê bình mệt mỏi vứt bỏ công việc diễn giải và nhái giọng cùng những cung cách của nhà văn, thì sẽ chẳng ai thấy nó khéo léo. Xét về cốt yếu giá trị của nó nằm ở quan sát theo lý trí của nó. Ngoài vài bỏ qua thực sự đáng kinh ngạc - người ta bỏ qua mất việc so sánh Miguel de Unamuno với don Quijote hoặc với Tây Ban Nha - những dòng ấy là một tóm tắt những gì mà mọi văn nhân lão luyện đều phải biết nói mỗi lần nào anh ta nghe thấy nhắc tới cái tên của Unamuno. Chủ định của tôi không phải là nói ngược lại sự thật của nó hoặc giả bảo chúng sai. Ngược lại tôi khẳng định rằng chúng là một ví dụ hoàn hảo cho một cách thức vô tích sự theo lối lạ thường để nhìn nhận Unamuno, vốn dĩ trước hết là nhà sáng chế những tranh cãi lộng lẫy. Ông đã bàn cãi về bản sinh, về sự bất tử, về sự thờ phụng Cervantes, về niềm tin, về phục sinh, về tự vị cùng cú pháp, về sự quá mức của cá nhân luận và về sự thiếu nhân cách của người Tây Ban Nha, về tâm trạng, về tâm trạng tồi tệ, về đạo đức... Việc ngây ngất trước sự dồi dào vốn dĩ không chỉ có tính cách uyên bác ấy chỉ là một thán từ thuần túy; việc kịch hóa số phận của Unamuno cùng các phức tạp của ông đối với tôi cũng có vẻ không kém phần vô sinh; ấy là mắc vào mối nguy mà tôi đã chỉ ra, mối nguy để cho biểu tượng, hình tượng, che mờ tác phẩm.

Nhà văn số một của ngôn ngữ chúng ta vừa chết; tôi không biết vinh danh nào tốt hơn so với theo đuổi các tranh cãi nhiều sức sinh sôi mà ông đã khởi sự và lột trần những luật bí mật của tâm hồn ông.

favorites
Thêm vào giỏ hàng thành công