Historia universal de la infamia
Historia universal de la infamia
Mào đầu cho ấn bản thứ nhất
Những bài tập văn xuôi tự sự tạo nên cuốn sách này đã được thực hiện từ năm 1933 đến năm 1934. Chúng phát xuất, tôi nghĩ vậy, từ việc tôi đọc lại Stevenson và Chesterton, và thậm chí, từ những bộ phim đầu tiên của von Sternberg và từ một tiểu sử nào đó về Evaristo Carriego. Chúng lạm dụng một số thủ pháp: các liệt kê không đồng chất, các giải pháp đột ngột về tiếp tục, sự thu nhỏ cả cuộc đời một con người về dăm ba xen (phối cảnh thị giác cũng điều hành câu chuyện "Người ở góc phố hồng"). Những bài tập này không, cũng không định, có tính cách tâm lý.
Về phần các ví dụ về ma thuật mà người ta tìm thấy ở cuối sách, tôi không có quyền về chúng nào khác ngoài những quyền của người dịch và người đọc. Đôi khi tôi nghĩ rằng các độc giả giỏi là những con chim hiếm, còn tối tăm và dị thường hơn so với những tác giả giỏi. Sẽ chẳng ai phản đối tôi rằng các mẩu mà Valéry gán cho Edmond Teste còn hơn là hoàn hảo của ông nổi tiếng là kém giá trị hơn những mẩu của vợ ông và bạn bè ông... Đọc là, trước hết, một thể động đi sau thể động viết; nhẫn nhục hơn, lịch thiệp hơn, nhiều trí năng hơn.
J. L. B.
Buenos Aires, ngày 27 tháng Năm 1935.
Mào đầu cho ấn bản năm 1954
Tôi sẽ gọi là "baroque" phong cách đầy chủ ý vét kiệt (hoặc tìm cách vét kiệt) tất tật các khả thể của nó, và lướt sượt qua sự biếm họa chính nó. Chỉ vô vọng, việc Andrew Lang từng muốn bắt chước, vào quãng 1880 gì đó, Odyssey của Pope; tự thân tác phẩm đã là sự nhại chính nó và chuyên gia về nhại chẳng thể thêm gì vào sự quá lời ấy nữa. Baroque (baroco) là tên của một trong các thức của tam đoạn luận: thế kỷ 18 đã áp dụng nó cho một số lạm dụng của kiến trúc và hội họa thế kỷ 17. Về phần mình, tôi sẽ gọi là "baroque" chặng cuối của mọi nghệ thuật khi nó trưng bày và phung phí các phương tiện của mình. Baroque thì có tính trí năng và Bernard Shaw từng tuyên bố rằng mọi công việc trí năng đều có tính cách hài ước. Hài hước ngoài chủ ý trong tác phẩm của Baltasar Gracián; có chủ ý, hoặc được chấp nhận, trong tác phẩm của John Donne.
Nhan đề quá đà của những trang này tuyên bố ngay từ đầu bản tính baroque của chúng. Giảm bớt chúng đi hẳn sẽ là phá hủy chúng mất; chính vì vậy mà tôi thích, lần này, triệu tới câu quod scripsi, scripsi (Jean, XIX, 22) và in lại chúng, hai mươi năm sau, vẫn giữ y nguyên. Chúng là trò chơi thiếu trách nhiệm của một kẻ rụt rè, người không có lòng can đảm để viết các câu chuyện và đã giải trí bằng cách làm giả hoặc biến đổi đi (đôi khi chẳng hề có cái cớ thuộc cảm năng nào để biện minh) những truyện của người khác. Anh ta đã chuyển từ những bài tập oái oăm đó sang việc viết ra, theo lối nặng nhọc, một câu chuyện lấy ra từ nơi đáy sâu của anh ta, "Người ở góc phố hồng" - mà anh ta dùng tên của một người ông của ông bá anh ta, Francisco Bustos, để ký vào - câu chuyện đã nhận được một thành công dị thường, có chút bí hiểm.
Trong văn bản của anh ta, với âm sắc ngoại ô, người ta sẽ để ý thấy là tôi đã nhét một số từ cầu kỳ vào. Đấy là vì tên du thử du thực ấy sẵn lòng tỏ ra mình chất chơi, hoặc giả (lý do này loại bỏ lý do trước, nhưng có lẽ đây mới là lý do thật) vì đám du thử du thực là các cá nhân và không phải lúc nào cũng diễn đạt như du thử du thực ở tư cách hình tượng kiểu Platonic.
Các bậc thầy Ấn dạy rằng cái không là cốt yếu của vũ trụ. Họ hoàn toàn đúng ở những gì liên quan đến cái phần nhỏ li ti của vũ trụ này, tức là cuốn sách này. Bên trong nó có đầy các cướp biển cùng giàn xử giảo và từ "infamia" bùng nổ ở ngay nhan đề. Tuy nhiên, bên dưới những lao xao ồn ã đó, chẳng có gì, không gì hết ngoài một vẻ bề ngoài, một bề mặt thuần túy của các hình ảnh; và chính thông qua đó, có thể cuốn sách làm người ta thích. Cái kẻ đã viết nó từng khá bất hạnh, nhưng hắn được giải khuây nhờ viết nó; mong sao phản chiếu nào đó của niềm sướng ấy tới được độc giả.
Ở phần mang tên "Et caetera", tôi đã cho thêm vào ba văn bản mới.
J. L. B.
