favorites
Shopping Cart
Search
Vitanova
La Vita
Next

Bản báo cáo của Brodie

48 trang
42 lượt xem
5 lượt tải

Bản báo cáo của Brodie

Jorge Luis Borges

 

 

Lời tựa cho ấn bản thứ nhất

Những truyện cuối đời của Kipling - giằng xé và ngoắt ngoéo chẳng kém Kafka hay Henry James, thậm chí có lẽ còn vượt trội - hoàn toàn khác loạt truyện ngắn mà vào năm 1885, tại Lahore, Kipling khi ấy còn rất trẻ đã bắt tay viết theo một lối kể thẳng thắn, rồi gom lại thành tập năm năm sau đó. Vài truyện trong số ấy - "Trong nhà của Suddhoo," "Ngoài lằn ranh," "Cánh cổng Trăm Nỗi Sầu" - là những kiệt tác hàm súc. Tôi chợt nghĩ rằng điều một thiên tài trẻ tuổi đã hình dung và thực hiện được, thì một người đứng bên rìa tuổi già, có đôi chút tay nghề, hẳn cũng có thể khiêm nhường thử xem sao. Từ ý nghĩ đó mà tập sách này ra đời, và tôi xin phó nó cho đánh giá của độc giả.

Tôi đã làm hết sức - dù không biết thành công đến đâu - để viết cho thẳng thắn. Tôi không dám cả quyết rằng chúng đơn giản; trên đời này không có một trang hay một từ nào thực sự đơn giản cả, bởi mỗi vật đều hàm chứa cả vũ trụ, mà đặc trưng hiển nhiên nhất là tính phức hợp. Tôi muốn nói rõ rằng tôi không phải - và chưa bao giờ là - kẻ người mà người ta vẫn hay gọi: kẻ rao giảng minh dụ hay tác giả ngụ ngôn, giờ thì được gọi bằng cái tên nhà văn dấn thân. Tôi không có tham vọng trở thành Aesop. Những câu chuyện của tôi, cũng như truyện trong Nghìn Lẻ Một Đêm, chỉ mong đem lại hứng thú hay xúc động, chứ không nhằm thuyết phục. Ý định như vậy không có nghĩa là tôi đã, theo hình ảnh của Solomon, tự giam mình vào tháp ngà. Các xác tín chính trị của tôi ai cũng biết; tôi là thành viên của Đảng Bảo thủ - bản thân điều này đã là một dạng hoài nghi - và chưa từng bị gán cho cái nhãn Cộng sản, quốc gia chủ nghĩa, bài Do Thái, hay là môn đồ của Billy the Kid hoặc độc tài Rosas. Tôi tin rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ xứng đáng để không còn phải có chính phủ. Tôi chưa bao giờ giấu giếm quan điểm của mình, ngay cả trong những thời điểm khó khăn; nhưng tôi cũng chưa bao giờ để cho những quan điểm ấy len vào văn chương, trừ một lần, khi tôi đang quá phấn khích về Chiến tranh Sáu Ngày. Nghệ thuật viết luôn là bí ẩn; còn những quan điểm ta mang theo thì phù du. Tôi thích ý của Plato về Nàng Thơ hơn quan niệm của Poe, người đã suy luận - hay giả vờ suy luận - rằng làm thơ là một thể động trí tuệ. Tôi không ngừng kinh ngạc khi thấy các tác giả cổ điển lại theo lý thuyết lãng mạn về thơ, còn một nhà thơ lãng mạn thì lại theo đuổi lý thuyết cổ điển.

Ngoài văn bản đã cho cuốn sách này nhan đề - hiển nhiên bắt nguồn từ chuyến hải hành cuối cùng của Lemuel Gulliver - các truyện của tôi đều là, dùng thuật ngữ ngày nay, "hiện thực." Chúng tuân theo, tôi tin như vậy, mọi quy ước của trường phái ấy - mà xét cho cùng cũng quy ước như bất kỳ trường phái nào - mà chúng ta rồi sẽ sớm chán ngán, nếu như chưa chán rồi. Chúng tràn đầy những gì trường phái này đòi hỏi: sáng tác ra hoàn cảnh. Ví dụ tuyệt vời của thủ pháp này có thể tìm thấy trong bài ballad tiếng Anh cổ thế kỷ X về trận Maldon, và trong các saga Iceland hậu kỳ. Hai truyện - tôi sẽ không nêu tên - cùng mang trong mình chìa khóa huyễn tưởng. Độc giả tò mò hẳn sẽ nhận ra những tương cận giữa chúng. Những cốt truyện ấy - chỉ vài thôi, đáng tiếc là vậy - đã theo tôi suốt nhiều năm; tôi đúng là đơn điệu không thể chối cãi.

Tôi mắc nợ một giấc mơ của Hugo Rodríguez Moroni công tua đại cương của câu chuyện - có lẽ là hay nhất trong tuyển tập này - mang tên "Phúc Âm theo Marc." Tôi e rằng mình đã làm hỏng nó bởi những thay đổi mà trí tưởng hay lý trí của tôi cho là thích đáng. Nhưng suy cho cùng, viết chẳng là gì ngoài một giấc mơ được dẫn dắt.

Tôi đã từ bỏ những bất ngờ vốn có của phong cách baroque, cũng như những bất ngờ dẫn đến một kết thúc không lường trước. Nói ngắn gọn, tôi đã chọn thỏa mãn mong đợi hơn là gây ra choáng ngợp. Suốt nhiều năm, tôi từng nghĩ mình có thể viết được một trang hay nhờ những biến tấu và mới lạ; nay, khi đã qua tuổi bảy mươi, tôi tin rằng đã tìm được giọng của mình. Chỉnh sửa đôi chút không làm hỏng cũng không làm hay hơn những gì tôi đọc để chép ra, trừ những trường hợp phải làm gọn một câu vụng về hay giảm nhẹ một sự phóng đại. Mỗi ngôn ngữ là một truyền thống, mỗi từ là một biểu tượng chung, và những gì một kẻ cách tân có thể thay đổi là rất nhỏ; ta chỉ cần nhớ đến những tác phẩm lộng lẫy nhưng thường khó đọc của Mallarmé hay Joyce. Có lẽ lập luận quá hợp lý này chỉ là kết quả của sự mệt mỏi. Tuổi tác cao đã dạy tôi biết chấp nhận việc trở thành Borges.

Tôi hoàn toàn hờ hững, hờ hững vô tư, với cả cuốn từ điển của Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha - dont chaque édition fait regretter la précédente, như nhận xét buồn bã của Paul Groussac - lẫn những bộ từ điển nặng nề về phương ngữ Argentina. Tất cả - dù thuộc bên này hay bên kia đại dương - đều có xu hướng nhấn mạnh khác biệt và phân mảnh ngôn ngữ Tây Ban Nha. Liên quan đến điều này, tôi nhớ rằng khi người ta trách tiểu thuyết gia Roberto Arlt không biết tiếng lóng Buenos Aires, ông đáp: "Tôi lớn lên ở Villa Luro, giữa những người nghèo và bọn du côn, và tôi thực sự không có thời gian để học mấy thứ ấy." Thật vậy, tiếng lóng địa phương của chúng ta chỉ là một trò đùa văn chương do các tác giả viết kịch bình dân và viết lời tango bày ra, và những người được cho là sử dụng nó thực ra chẳng biết nó là gì - trừ khi đã được giáo huấn bằng các đĩa hát.

Tôi đặt các câu chuyện của mình cách một quãng - trong thời gian lẫn không gian. Bằng cách ấy, tưởng tượng có thể vận hành với tự do lớn hơn. Ai, vào năm 1970, còn có thể nhớ chính xác xem vào cuối thế kỷ trước, vùng ven Buenos Aires quanh Palermo và Lomas trông thế nào? Nghe khó tin, nhưng vẫn có những kẻ đóng vai cảnh sát, chuyên rình mò những lỗi vụn vặt của nhà văn. Họ nhận xét, chẳng hạn, rằng Martín Fierro hẳn sẽ nói một "bao" chứ không phải một "túi" xương, và họ bắt bẻ - có lẽ không hoàn toàn công bằng - về bộ lông đốm hung của con ngựa nổi tiếng nào đó trong văn chương chúng ta.

Xin Thượng đế bảo vệ ngươi, hỡi độc giả, khỏi những lời tựa dài dòng. Câu ấy là của Quevedo, người - cẩn trọng để không rơi vào một sự lỗi thời mà sớm muộn cũng bị phát hiện - đã không bao giờ đọc những lời tựa của Bernard Shaw.

J. L. B.
Buenos Aires, ngày 19 tháng Tư năm 1970

 

 

 

Tags: Borges
Thêm vào giỏ hàng thành công